You are on page 1of 3

Trường: THPT Chu Văn An

Lớp 10D2
Họ và tên: Phạm Thùy Duyên
Ngày sinh: 12/01/2000

BÀI DỰ THI CUỘC THI VIẾT “CẢM XÚC TÂY HỒ”


Hồ Tây không chỉ có lịch sử với những câu chuyện truyền thuyết, sự tích hình thành
hồ mà gắn với nó là những danh thắng nổi tiếng đi vào thi ca.

Khoảng giữa thế kỷ 17 (tức là từ thời Lê Trung Hưng trở về sau này), trong các câu ca
cổ và cả những tài liệu lưu giữ trong dân gian đã ghi lại cảnh đẹp của Thăng Long như
những bức tranh sơn thủy hữu tình.

Bên Hồ Hoàn Kiếm và Hồ Tây có rất nhiều cảnh đẹp. Mỗi thi sĩ danh nhân khi đến
nơi này đều có những cảm xúc riêng về cảnh đẹp nơi đây. Khá nhiều câu thơ cổ nói về
những cảnh đẹp này như “Phật đá Cầu Đông, tượng đồng Trấn Võ” trong “Thăng
Long thập vịnh” ra đời vào thế kỷ 18, “Chiều tà núi Khán, ánh sáng Hồ Gươm” trong
“Long thành kỷ thắng” của cụ Nguyễn Chương, một thi sĩ thời vua Minh Mệnh thế kỷ
19 và đặc biệt là “Bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái…” trong tập thơ “Tây Hồ
bát cảnh” xướng họa bằng tiếng Hán của tác giả Lê Vĩnh Hựu thế kỷ 18.

Trong “Tây Hồ bát cảnh” của Lê Vĩnh Hựu, ta có thể cảm nhận thấy xung quanh Hồ
Tây là những vùng danh thắng làm say đắm lòng người. Đó là bến trúc Nghi Tàm,
rừng bàng Yên Thái, đàn thề Đồng Cổ, Phật say làng Thụy, sâm cầm rợp bóng, đồng
bông Nghi Tàm, chợ đêm Khán xuân và tiếng đàn hành cung. Những cảnh đẹp đó là
nguồn sáng tạo vô tận của thi nhân.

Bến trúc Nghi Tàm chính là chỉ làng Nghi Tàm xưa có trồng một thứ trúc vàng có tên
là trúc ngà ở vùng xung quanh làng. Từ xa trông hàng ngàn, hàng vạn cây đứng trước
gió, ánh sáng vàng trông rất đẹp. Chính nơi này chúa Trịnh Giang đã cho mở một bến
tắm, hàng năm mùa hè cùng các cung nữ lên đó tắm mát và nghỉ ngơi.

Cũng trên bờ Hồ Tây thuộc về làng Yên Thái có một núi đất cao 400-500 trăm thước,
rộng chừng một mẫu. Chúa Trịnh Giang cho trồng nhiều cây bàng để lấy bóng râm
nghỉ mát. Từ trên đỉnh nhìn xuống, hàng ngàn, hàng vạn cây, cây nào cũng tỏa ra cành
lá xum xuê, sắc lá theo từng mùa thay đổi. Nhìn từ xa như những chiếc lọng đỏ, lọng
xanh rất đẹp mắt, người dân quanh đó quen gọi là rừng bàng. Sau này bị Lê Chiêu
Thống phá hết và san bằng cả quả núi này.

Đàn thề Đồng Cổ được lập trước cửa đền Đồng Cổ trên bờ hồ thuộc làng Thụy
Chương dưới thời Lý Thái Tông. Đàn được xây hai tầng, tầng trên thờ thần, tầng dưới
vua ngự, mỗi năm hai kỳ xuân thu, nhà vua ra đó làm lễ tế rồi hạ lệnh trăm quan văn
võ đứng trước đàn thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, bất hiếu bất trung,
thần minh giết chết”. Về sau đàn đấy đổi làm nơi công cộng của nhân dân, hàng ngày
có nhiều người đặc biệt là thanh niên nam nữ đến trước đàn thề nguyền, xin thần linh
minh chứng cho lòng chung thủy của mình. Chính vì vậy, đền này trở nên một nơi
hương khói rất thịnh cho tới cuối đời Lê đàn thề mới bị quân Tam phủ phá hủy mới
thôi.

Phía trước làng Thụy Chương, đời Lê Trung Hưng có một ngôi chùa nhỏ ở bên hồ bị
đổ, còn trơ lại một pho tượng Phật, hình tay chống gậy, chân khệnh khạng bước đi
như muốn ngã. Nhân làng Thụy có tiếng là nấu rượu ngon, một hôm Trạng Quỳnh đến
làng mua rượu, vào thăm tượng Phật, có làm đùa mấy câu thơ:

Ông đứng chi mà đứng mãi đây?/ Dập dềnh như tỉnh lại như say?/Vãi nào đã chuốc
cho ông rượu?/Còn có cho vay một nậm đầy.

Vì thế từ đấy người ta gọi là Phật say làng Thụy, mỗi tháng hai kỳ khách thập phương
thi nhau mang rượu đến lễ. Tuy nhiên vì những biến cố cuối thời nhà Lê, tượng Phật
cũng bị mất.

Ở Hồ Tây, cứ vào khoảng tháng Một, tháng Chạp và tháng Giêng lại có từng đàn hàng
trăm, hàng nghìn con chim sâm cầm từ đâu bay đến, bơi lội khắp mặt hồ, người ta cho
rằng đó là loài chim ở phương Bắc hàng năm tránh rét sang nước ta tạo thành cảnh
“sâm cầm rợp bóng”. Chim ấy chỉ ăn sâm nên thịt rất bổ, vì vậy nghề đánh chim đã
trở thành một nghề của mấy làng xung quanh hồ. Đến thời Nguyễn vẫn có lệ cống sâm
cầm nhưng lo sợ sự phản ứng dữ dội của dân Thăng Long trước lệ cống gây sách
nhiễu cho cuộc sống nhân dân nên sau này vua Nguyễn phải bãi bỏ lệ này.

Đồng bông Nghi Tàm là những ruộng trồng hoa. Từ xa xưa, những làng ở dọc bên hồ
đều trồng hoa để bán nhưng chỉ có đồng bông ở trước chùa Kim Liên, làng Nghi Tàm
là nhiều hoa đẹp và thơm nhất đã được chọn làm hoa tiến vào phủ chúa và cung vua.

Khán Xuân là một làng ở bên bờ phía Nam hồ. Đời chúa Trịnh Giang lập một ly cung
và những dãy nhà như quán hàng ở xung quanh, hàng năm mùa hè ra đó nghỉ mát.
Đêm đến, bọn nội thần và cung nữ mở chợ bày hàng mua bán, hát xướng làm vui.
Những đêm mở chợ, làng Khán Xuân lại sáng rực một góc thành vì đèn nến thắp sáng
trưng. Chính vì vậy mà chợ đêm Khán Xuân trở thành một hoạt cảnh đẹp trong kinh
thành Thăng Long.

Tiếng đàn hành cung chính là chỉ hành cung của chúa Trịnh được đặt ngay tại chùa
Trấn Quốc. Về sau do thời cuộc rối ren nên chúa Trịnh không còn ra nghỉ ngơi tại đó
nữa. Tuy nhiên, nơi đây vẫn có một số cung nữ già giữ việc quét tước, trông nom chùa
trong đó có một cung nữ họ Hà có rất nhiều tài nghệ nhất là đánh đàn. Mỗi khi đêm
khuya thanh vắng, nàng lại đem đàn ra gảy, những tiếng đàn mang nặng tâm tư, tình
cảm của nàng đã xúc động lòng người. Trong tiếng đàn, nàng cảm thương cho thân
thế quạnh hiu cô đơn nhưng không biết rằng bên ngoài cũng từng có bao người khách
tri âm, tỏ tình đồng điệu. Tiếng đàn của nàng đã trở thành một nguồn thi ca cho khách
đến vãn cảnh Tây Hồ.
Tám cảnh đẹp vùng Tây Hồ cho ta cảm nhận phần nào về những vùng danh thắng của
Thăng Long xưa. Hồ Tây không chỉ có lịch sử với những câu chuyện truyền thuyết, sự
tích hình thành hồ mà gắn với nó là những danh thắng nổi tiếng đi vào thi ca. Chính
điều này làm cho Hồ Tây thêm gắn bó, có ý nghĩa sâu sắc đối với mảnh đất Thăng
Long – Hà Nội./.

You might also like