You are on page 1of 8

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

NỘI DUNG .................................................................................................................... 1

I) Quan niệm về quyền con người, quyền cơ bản của công dân ................................ 1

1. Quyền con người ....................................................................................................... 1

2. Quyền công dân ......................................................................................................... 2

II) Quan điểm về nhận định: "Việc ghi nhận các quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp là cơ sở để đánh giá mức độ dân chủ của mỗi quốc gia"................... 4

1. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam về quyền con người, quyền công dân. .............. 4

2. Quan điểm về nhận định: "Việc ghi nhận các quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp là cơ sở để đánh giá mức độ dân chủ của mỗi quốc gia"................... 5

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 7

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 7


1
MỞ ĐẦU
Quyền con người là quyền tự nhiên mang tính phổ quát gắn liền với mọi cá
nhân, do đó quy chế pháp lý về quyền con người được ghi nhận trong các điều ước
quốc tế, trong hiến pháp và các đạo luật của quốc gia. Pháp luật về quyền con người
ghi nhận các tư tưởng và lý luận về quyền con người, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển
tự do, nhân phẩm và hạnh phúc của mỗi người, mỗi quốc gia và văn minh nhân loại.
Bên cạnh quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp, điều
chỉnh những quan hệ đặc biệt quan trọng giữa công dân và nhà nước, là cơ sở tồn tại
của cá nhân và hoạt động bình thường của xã hội.Sự ghi nhận các quyền con người và
quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam thể hiện quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước Việt Nam: Quyền con người, quyền công dân vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: "Việc ghi nhận các quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp là cơ sở để đánh giá mức độ dân chủ của mỗi quốc gia". Để hiểu
hơn về vấn đề này, em xin làm rõ đề bài tập học kì sau đây:
NỘI DUNG
I) Quan niệm về quyền con người, quyền cơ bản của công dân
1. Quyền con người
Tư tưởng về quyền con người (human rights, droits de l’home), cũng có thể gọi
là “quyền của con người” - “rights of human person” hình thành cùng với sự xuất
hiện của những nền văn minh cổ đại, quyền con người xuất phát từ các quyền thiêng
liêng, tự nhiên, vốn có của con người, không do chủ thể nào ban phát. Quyền con
người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền con người
không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước như quyền công dân,
mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại, về phạm vi
áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con
người là tất cả các thành viên của “gia đình nhân loại”, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc
tịch,... Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả
2
mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc
vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.
Quyền con người được diễn đạt dưới nhiều giác độ khác nhau, tùy thuộc vào
bối cảnh xã hội, văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo; mục tiêu và định hướng của mỗi thể
chế chính trị, mỗi kiểu nhà nước, quan điểm của từng giai cấp cầm quyền; hoàn cảnh
và nhu cầu của mỗi cá nhân và của từng ngành khoa học như; triết học, chính trị học,
luật học, xã hội học...
Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người luôn được cụ thể
hóa bằng những quyền cơ bản của công dân (do được ghi nhận trong hiến pháp) và
bao giờ cũng được xem là một chế định pháp luật rất quan trọng - đây là một trong
những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối
quan hệ giữa Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thông qua đó,
có thể xác định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội.Vì vậy, những
nhà lập pháp Việt Nam luôn hoàn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản của công
dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền với nghĩa vụ
của công dân.
2. Quyền công dân
Trong Hiến pháp năm 2013, tại điều 17 cũng ghi nhận “Công dân nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”, nên khái niệm công
dân gắn liền với khái niệm quốc tịch. Theo nghĩa, quốc tịch là mối liên hệ giữa một cá
nhân con người với một nhà nước nhất định, nếu là công dân của một nhà nước thì
được hưởng đầy đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật của
nhà nước đó quy định, những người không phải là công dân của nhà nước đó thì
quyền lợi và nghĩa vụ đương nhiên sẽ bị hạn chế.
Khái niệm “công dân” cũng có thể là mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt,
tồn tại cả trong những trường hợp mà công dân Việt Nam đã sinh sống ở nước ngoài
nhưng vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 tại điều 18 cũng quy
định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích
3
và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần
xây dựng quê hương, đất nước”. Như vậy, xuất phát từ mối quan hệ giữa Nhà nước
Việt Nam với công dân nước ngoài và người không có quốc tịch, xuất phát từ nguyên
tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế và căn cứ vào những điều ước đã kí kết giữa Nhà nước
Việt Nam với nước ngoài; mối quan hệ pháp luật đặc biệt đó thông thường phát sinh
từ lúc những người nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt khi họ rời khỏi
lãnh thổ Việt Nam; mối quan hệ đó thường mang tính chất nhất thời, không có sự gắn
bó lâu dài như mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước.
Theo từ điển tiếng Việt thì “quyền công dân” được hiểu là “quyền của người
công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế văn hóa
- xã hội”. Như vậy, theo chúng ta, có thể hiểu “quyền công dân” là quyền con người,
được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình, là tập hợp những
quyền đượcHiến pháp và pháp luật của mỗi Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện.
Theo quan niệm của Mác, quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá
nhân con người, với tư cách là thành viên “xã hội công dân”. Như vậy, khái niệm
“quyền công dân” xuất hiện sau sự xuất hiện của khái niệm “quyền con người” và
được gắn liền với thời điểm ra đời của nhà nước tư sản và duy trì, phát triển đến xã
hội ngày nay. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, khái niệm về quyền con người,
quyền công dân ít khi được đề cập, cho nên có quan niệm quyền con người và quyền
công dân là đồng nhất. Việt Nam cũng vậy, hầu hết trong các bản Hiến pháp đều
không ghi nhận về quyền con người (trừ Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm
2013), chỉ ghi nhận về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp năm
1992, tại Điều 50 ghi nhận về quyền con người: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” -
ở đây vẫn chưa có sự phân định rạch ròi giữa quyền con người và quyền công dân,
quyền công dân như là hình thức pháp lý của quyền con người.
4
II) Quan điểm về nhận định: "Việc ghi nhận các quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp là cơ sở để đánh giá mức độ dân chủ của mỗi quốc gia".
1. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam về quyền con người, quyền công dân.
Sự đấu tranh bảo vệ, giải phóng loài người thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, đi
đến xây dựng xã hội dân sự, thực sự dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu hàng
đầu của hầu hết các dân tộc. Chính vì điều đó, quyền con người, quyền công dân là
yếu tố quan trọng trong mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và
quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản nhất trong mọi
hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với nội
dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.Nhìn ở
góc độ về khái niệm, “quyền con người” không loại trừ và không thay thế được khái
niệm “quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm đặt vị trí của chương
“Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” -Chương II. Có thể nói
đây cũng chính là sự kế thừa “vị trí” của Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, do nhiệm
vụ chính trị của các thời kỳ là khác nhau nên có điều khác biệt, nếu như Hiến pháp
năm 1946 đặt nghĩa vụ của công dân lên trước thì Hiến pháp năm 2013 lại đặt quyền
của công dân lên trước. Một mặt điều này cho thấy quan điểm tôn trọng quyền con
người, quyền công dân, một mặt cho thấy quyền và nghĩa vụ trong tất cả các thời kỳ
là có mối quan hệ mật thiết với nhau, có sự kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so
với Hiến pháp trước.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí” Chương
II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến Điều 82 –
Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 – Hiến pháp năm
2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười lăm điều so với
Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980. Trong đó, có năm
điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42, Điều 43), sửa đổi, bổ
sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20 đến Điều 33, Điều 35
5
đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều (là những điều: Điều 44,
Điều 46, Điều 49)
2. Quan điểm về nhận định: "Việc ghi nhận các quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp là cơ sở để đánh giá mức độ dân chủ của mỗi quốc gia".
Cá nhân em đồng tình với quan điểm: "Việc ghi nhận các quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp là cơ sở để đánh giá mức độ dân chủ của mỗi quốc gia".
Dân chủ là cách nói tắt về chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ.
Chế độ dân chủ là chế độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân dân bầu
ra.
Điều 6 Hiến pháp đã ghi nhận về nguyên tắc dân chủ trực tiếp trong việc thực
hiện quyền lực của nhân dân. Theo đó, “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng
dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. So với Hiến pháp năm 1992 quy định
“Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân” sẽ thấy rằng việc nhân dân có quyền trực tiếp
thực hiện quyền làm chủ của mình là một điểm tiến bộ có ý nghĩa lớn về mặt lý luận,
tư tưởng, thể hiện sự tôn trọng và tạo mọi điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt nhất
quyền làm chủ của mình.
Tại Chương I – Chế độ chính trị, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục thể hiện
xuyên suốt, nhất quán quan điểm về quyền làm chủ của nhân dân “Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức”. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
cụ thể là quyền giám sát của mình đối với các cơ quan nhà nước, Hiến pháp còn quy
định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Như vậy, trong sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước, nhân dân đứng ở vị
6
trí của người giám sát trực tiếp, đảm bảo cho sự kiểm soát được vận hành theo mục
tiêu chung, từ đó đảm bảo hoạt động trơn tru của bộ máy nhà nước. Những cam kết
của nhà nước về quyền làm chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Điều 3 Hiến pháp
rằng “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Một nội dung cụ thể, phản ánh cô đọng và sâu sắc nhất về quyền làm chủ trực
tiếp của nhân dân, đó là quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp. Cụ thể tại Điều 120
Hiến pháp quy định “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.
Đây là một điểm mới quan trọng, thể hiện chủ quyền của Nhân dân. Nhìn ở một góc
độ khái quát nhất, dựa trên điểm chung của các hình thức quy định quyền dân chủ của
nhân dân trên thế giới thì trưng cầu ý dân có thể hiểu là việc lấy ý kiến của nhân dân
nhằm mục đích xác định ý kiến cuối cùng của người nắm giữ quyền làm chủ nhà nước
về một vấn đề trọng đại của đất nước như: Lập hiến, lập pháp, đối nội, đối ngoại,
đường lối phát triển đất nước...Trưng cầu ý dân không phải là một khái niệm mới
trong khoa học pháp lý ở các nước phương Tây. Trưng cầu ý dân là một chế định của
nền dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, việc quy định chế định này phụ thuộc vào chế độ
chính trị của từng nước. Đối với thể chế chính trị ở nước ta, việc quy định nguyên tắc
dân chủ trực tiếp thông qua ý kiến của nhân dân vừa là một sự đột phá trong tư duy
lập pháp, vừa khẳng định mạnh mẽ ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam về
một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng chung vai gánh sức đóng góp, xây dựng đất
nước phồn vinh, hạnh phúc.
7
KẾT LUẬN
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là kết quả của
sự chuẩn bị công phu, nghiêm túc, với sự chắt lọc, tiếp thu ý kiến đóng góp xây dựng
của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia, nhà khoa học; phản ánh được ý chí,
nguyện vọng của nhân dân về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Hiến pháp là bản tuyên ngôn, là cam kết của cả dân tộc Việt Nam quyết tâm
đưa đất nước tiếp tục vững bước tiến lên trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Hiến pháp là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; thể hiện ý
chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Nguyên
tắc dân chủ trực tiếp trong Hiến pháp một lần nữa khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Với phương châm “tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất
nước và quyền làm chủ của nhân dân” đã được thể hiện ngày càng đầy đủ hơn về
những nội dung liên quan quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã chứng minh Việt Nam luôn
quan tâm đến công dân cũng như luôn quan tâm đến việc phát triển con người Việt
Nam. phù hợp với cách tiếp cận của Liên hợp quốc trong việc thực hiện quyền con
người nhằm xây dựng, kết mối quan hệ đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển
bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp, NXB Tư Pháp, 2019;
2. Hiến pháp Việt Nam;
3. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền
con người, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2016.

You might also like