You are on page 1of 7

TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN

Câu 9: Phân tích nội dung vật chất và phương thức tồn tại của vật chất theo quan
điểm triết học Mác – Lênin

 Nội dung vật chất theo quan điểm triết học Mác - Lênin

Theo Ph.Ăngghen, để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự
phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học, một sáng
tạo, một công trình trí óc của tư duy con người trong quá trình phản ánh hiện thực
chứ không phải là sản phẩm chủ quan của tư duy. Đồng thời Ph.Ăngghen cũng chỉ
ra rằng , bản thân phạm trù vật chất cũng không phải là sự sáng tạo tùy tiện của tư
duy con người, mà trái lại là kết quả của con đường trừu tượng hóa của tư duy con
người về các sự vật, hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác quan. Các sự
vật, hiện tượng của thế giới, dù là rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một
đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất – tính tồn tại độc lập không lệ thuộc
vào ý thức.

Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện
những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa hoài nghi, duy tâm, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật biện
chứng về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy vật. Theo Lênin, vật chất thuộc
loại khái niệm rộng nhất, rộng đến cùng cực, cho nên không thể có một khái niệm
nào rộng hơn nữa. Do đó, phải dùng một phương pháp đặc biệt – định nghĩa nó
thông qua khái niệm đối lập với nó trên phương diện nhận thức luận cơ bản, nghĩa
là phải định nghĩa vật chất thông qua ý thức. V.I.Lênin đã đưa ra khẳng định về
vật chất: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
đucợ đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta ghép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cẩm giác.” Đây là một định
nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến nay được các nhà khoa học hiện đại coi là
một định nghĩa kinh điển.

 Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.

- Đối lập với những quan niệm duy tâm chủ nghĩa về phạm trù này, V.I. Lênin
nhấn mạnh: Đặc tính duy nhất của vật chất – mà chủ nghĩa duy vật triết học
gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này – là cái đặc tính tồn tại với tư cách
là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức của chúng ta.

- Nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự, bên
ngoài ý thức của con người. Vật chất là hiện thực chứ không phải hư vô và hiện
thực này là khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan (tức ý thức). Mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới, dù có “kỳ lạ” đến đâu, nhưng đã tồn tại với tính
cách là hiện thực khách quan thì đều là các dạng khác nhau của vật chất. V.I.
Lênin đã chỉ ra được một “đặc tính duy nhất của vật chất” thỏa mãn được mọi
vấn đề – đặc trưng cho mọi dạng vật chất, phân biệt được sự khác nhau giữa vật
chất và ý thức, đồng thời chỉ rõ tính thứ nhất của vật chất so với ý thức – đó
chính là đặc tính tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan.

 Thứ hai, vật chất là tất cả sự vật, hiện tượng, quá trình mà khi tác động vào
các giác quan thì cho ta cảm giác.

Vật chất luôn biểu hiện đặc tính “hiện thực khách quan” của mình thông qua
sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là thông qua các thực thể.
Nói đến vật chất là nói đến thực thể, đến tính thực thể của nó. Tính chất thực
thể là một trong những đặc trưng chung của các sự vật, hiện tượng vật chất
trong sự khác biệt với các hiện tượng ý thức. Đồng thời, do tồn tại dưới dạng
các thực thể nên khi tác động vào các giác quan của con người theo một
cách nào đó (trực tiếp hoặc gián tiếp), các sự vật, hiện tượng vật chất mới
được đem lại cho con người trong cảm giác. Chính theo phương thức đó,
con người có thể nhận thức được thế giới vật chất nói chung.

 Thứ ba, vật chất – cái mà ý thức của con người có được là hình ảnh của nó
do phản ánh mang lại.

Các loại hiện tượng vật chất tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan,
không lệ thuộc vào hiện tượng tinh thần. Chỉ có một thế giới duy nhất và
thống nhất nên các hiện tượng tinh thần tất yếu phải có nguồn gốc từ các
hiện tượng vật chất và xét về thực chất chúng chỉ là sự chép lại, chụp lại,
phản ánh lại các hiện tượng vật chất. Nói cách khác, vật chất là cái cấu thành
nội dung của ý thức hay ý thức chẳng qua chỉ là hình ảnh đã được cải biến
của thế giới vật chất trong đầu óc con người.
 Ý nghĩa:Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử, thông qua một định nghĩa
khoa học về vật chất, V.I. Lênin đã giải quyết được trọn vẹn cả hai mặt của
vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật triệt để.
Qua đó, vừa chống được những quan điểm duy tâm, thuyết bất khả tri, vừa
khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm
trù vật chất. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin không những góp phần đưa
chủ nghĩa duy vật lên một tầm cao mới, góp phần vào việc làm rõ quan niệm
về vật chất trong lĩnh vực xã hội, mà còn góp phần khắc phục sự khủng
hoảng về mặt thế giới quan trong đội ngũ các nhà triết học và khoa học tự
nhiên, qua đó thúc đẩy họ tiếp tục đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, củng cố
thêm mối liên minh chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật
triết học.

 Phương thức tồn tại của vật chất theo quan điểm Mác – Lênin

 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất , là thuộc tính cố hữu của vật
chất, có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động, thông qua vận động để biểu
hiện sự tồn tại của mình. Khi chúng ta nhận thức được sự vận động của vật
chất là lúc chúng ta biết được bản chất của ý thức.

 Vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó tồn tại vĩnh
viễn. Điều này có được là do vật chất là vô tận, vô hạn, không sinh ra không
mất đi và vận động là một thuộc tính không thể tách rời vật chất. Nó được
thể hiện bằnh định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng năng lượng trong
vật lý.

 Nguồn gốc của vận động là do bản than sự vật hiện tượng quy định hay tự
thân vận động. Sự tự thân vận động đó được tạo nên bởi sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa các nhân tố nội tại của bản thân vật chất.

 Sau đây chúng ta sẽ điểm qua một số hình thức vận động:

+ Vận động cơ học: là sự di chuyển vị trí các vật thể trong không gian

+ Vận động vật lý: là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động
điện tử,...
+ Vận động hoá học: là vận động của các nguyên tử, các quá trình hoà hợp
và phân giải các chất.

+ Vận động sinh học: là quá trình trao đổi chất của cơ thể sống với con
người.

+ Vận động xã hội: là sự thay đổi, thay thếcác quá trình xã hội của các hình
thái kinh tế xã hội.

 Giữa các hình thái vận động có trình độ cao thấp khác nhau, chúng ta không
thể mang hình thức vận động cao để giải thích cho hình thức vận động thấp
hơn. Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở của hình thức vận
động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Mỗi sự
vật luôn luôn có nhiều hình thức vận động khác nhau nhưng nó chỉ được đặc
trưng bởi một hình thức vận động cơ bản mà thôi.

 Cuối cùng chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa phương pháp luận

+ Qua sự phân loại các hình thức vận động nó đã đặt cơ sở cho sự phân loại
các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng.

+ Tư tưởng về sự khác nhau về chất và thống nhất của các hình thức vận
động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận
thức là quy hình thức vận động cao và hình thức vận động thấp và ngược lại.

Câu 10: Phân tích nguồn gốc của ý thức:

1. Nguồn gốc tự nhiên:

Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần
kinh, các nhà duy vật biện chứng cho rằng, nguồn gốc tự nhiên của ý thức có
hai yếu tố không thể tách rời nhau là bộ óc con người và thế giới bên ngoài
tác động lên óc người.

1.1. Bộ óc người:

- Đây là một dạng vật chất sống đặc biệt, có tổ chức cao, trải qua quá trình
tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của riêng dạng
vật chất này.Tức là, chỉ con người mới có ý thức. Không một kết cấu vật
chất nào khác, kể cả những con vật thông minh nhất có năng lực này.
- Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn thương
thì hoạt động ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.

- Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác
động vào bộ óc, thì cũng không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần
có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài.

1.2. Sự tác động của thế giới bên ngoài (thế giới khách quan) lên bộ óc
người:

- Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt
nước, cái gương…) đều có thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự
tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Nói một cách dễ hiểu,
phản ánh chính là sự chép lại, chụp lại, kể lại một cái gì đó. Chép lại lời nói
ra giấy là sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng là sự phản ánh. Để có quá
trình phản ánh xảy ra, cần có vật tác động và vật nhận tác động.

- Đương nhiên, bộ óc người cũng có thuộc tính phản ánh. Nhưng phản ánh
của bộ óc con người có trình độ cao hơn, phức tạp hơn so với các dạng vật
chất khác.

- Sau quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con người trở thành sản phẩm
cao nhất, thì thuộc tính phản ánh của óc người cũng hoàn mỹ nhất so với
mọi đối tượng khác trong tự nhiên.Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính
phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý thức”. Đó là sự
phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con người.

2. Nguồn gốc xã hội:

Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu
được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho
sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao động, tức
là thực tiễn xã hội và ngôn ngữ.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông
qua lao động, ngôn ngữ và các cơ quan xã hội. Theo Ph. Ăng-ghen, lao động
và ngôn ngữ là hai sức kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ não
người, biến tâm lý động vật thành ý thức con người.

2.1. Lao động:

- Trong tự nhiên, con vật tồn tại nhờ những vật phẩm có sẵn như trái cây,
côn trùng hoặc loài vật yếu hơn nó… Nhưng đối với con người thì khác.
Con người có khả năng và bắt buộc phải sản xuất ra những sản phẩm mới
(bàn, ghế, quần áo, ti vi, tủ lạnh…), khác với những sản phẩm có sẵn. Tức
là, con người phải lao động mới đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của mình.

- Chính thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động thực tiễn, nhằm cải
tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được, biết được
nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế giới này.

- Nhưng ở đây, không phải bỗng nhiên mà thế giới khách quan tác động vào
bộ óc con người để con người có ý thức. Ý thức có được chủ yếu là do con
người chủ động tác động vào thế giới khách quan để cải tạo, biến đổi nó
nhằm tạo ra những sản phẩm mới.

- Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan, con người bắt những đối
tượng trong hiện thực (núi, rừng, sông, mỏ than, sắt, đồng…) phải bộc lộ
những thuộc tính, kết cấu, quy luật của mình. Những bộc lộ này tác động
vào bộ óc người để hình thành ý thức của con người.

2.2. Ngôn ngữ:

- Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm, tư tưởng với nhau, tức là nhu cầu nói chuyện được với nhau. Chính
nhu cầu này đòi hỏi sự ra đời của ngôn ngữ, trước hết là tiếng nói, sau đó là
chữ viết.

- Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu
này, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.

- Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp
của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Ngôn ngữ
vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn
ngữ, con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, tức là diễn đạt
những khái niệm, phạm trù, để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính.

- Cũng nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của con người được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác.

You might also like