You are on page 1of 18

Bài 7.

SINH LÝ HỆ TIÊU HÓA


Mục tiêu học tập
1. Mô tả được các hoạt động cơ học của từng đoạn ống tiêu hóa.
2. Trình bày được thành phần, tác dụng và cơ chế điều hòa tiết các loại dịch tiêu
hóa.
3. Giải thích được cơ chế hấp thu các chất ở ruột non.
4. Vận dụng những kiến thức đã học để giải thích một số triệu chứng trên lâm
sàng
1. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO BỘ MÁY TIÊU HÓA
Bộ máy tiêu hóa gồm có hai phần:
- Ống tiêu hóa.
- Các tuyến tiêu hóa.
1.1. Ống tiêu hóa
Là một ống dài đi từ miệng đến hậu môn, có thể chia làm 5 đoạn chính: miệng, thực quản,
dạ dày, ruột non và ruột già.
Trên mặt cắt ngang, ống tiêu hóa có cấu tạo gồm 8 lớp từ trong ra ngoài: niêm mạc, cơ
niêm, lớp dưới niêm mạc, đám rối thần kinh Meissner, cơ vòng, đám rối thần kinh Auerbach, cơ
dọc và thanh mạc. Trong lớp niêm mạc và dưới niêm mạc, có các tuyến tiêu hóa (hình 9-1).

Hình 7.1: Cấu trúc các lớp thành ống tiêu hóa
( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
1.2. Các tuyến tiêu hóa
Có 2 loại:
1.2.1. Các tuyến nằm ngoài ống tiêu hóa
- Tuyến nước bọt: gồm tuyến mang tai, tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi.
- Tuyến tụy.
- Gan mật.

58
1.2.2. Các tuyến nằm ngay trên thành ống tiêu hóa
- Tuyến dạ dày.
- Tuyến ruột.
- Vài tuyến nước bọt nhỏ khác như tuyến má, tuyến lưỡi...
2. TIÊU HÓA Ở MIỆNG VÀ THỰC QUẢN
Miệng và thực quản là 2 đoạn đầu tiên của ống tiêu hóa, chúng có các chức năng tiêu hóa
sau:
- Tiếp nhận và nghiền xé thức ăn thành từng mảnh nhỏ.
- Đưa thức ăn từ miệng xuống đoạn cuối của thực quản sát ngay phía trên tâm vị của dạ
dày.
- Phân giải một phần tinh bột.
2.1. Hoạt động cơ học của miệng và thực quản
2.1.1. Nhai
Nhai là hoạt động cơ học của miệng, có tác dụng nghiền xé thức ăn và trộn đều thức ăn với
nước bọt. Nhai rất quan trọng đối với sự tiêu hóa vì các enzyme chỉ tác dụng trên bề mặt của các
phần tử thức ăn. Tác dụng nghiền thức ăn thành những phần tử nhỏ rồi trộn lẫn với nước bọt vừa
làm tăng diện tích tiếp xúc của thức ăn với enzyme vừa làm cho thức ăn được vận chuyển dễ
dàng mà không làm tổn thương ống tiêu hóa.
Nhai là một động tác nửa tự động, có thể thực hiện tự động hoặc chủ động.
2.1.1.1. Nhai tự động
Khi ăn uống bình thường, đó là một phản xạ không điều kiện do thức ăn kích thích vào
niêm mạc miệng tạo nên, trung tâm chi phối nằm ở hành não.
2.1.1.2. Nhai chủ động
Khi gặp thức ăn cứng khó nhai hoặc trong ăn uống giao tiếp, động tác này có sự chi phối
của vỏ não.
2.1.2. Nuốt
Nuốt là hoạt động cơ học phối hợp giữa miệng và thực quản có tác dụng đẩy thức ăn đi từ
miệng xuống đoạn cuối của thực quản, sát ngay phía trên tâm vị dạ dày.
Động tác nuốt được chia làm 3 giai đoạn:
2.1.2.1. Giai đoạn đầu
Là một động tác nửa tự động, được thực hiện như sau:
- Miệng ngậm lại.
- Lưỡi nâng lên ép vào vòm miệng đẩy thức ăn rơi vào họng.
2.1.2.2. Giai đoạn họng
Khi thức ăn rơi vào họng thì động tác nuốt chuyển sang giai đoạn hai và từ đây nuốt là
một phản xạ không điều kiện được gọi là phản xạ ruột.

59
Phản xạ ruột là một phản xạ đặc biệt của ống tiêu hóa, thể hiện như sau: khi thức ăn kích
thích vào một đoạn nào đó của ống tiêu hóa thì đoạn đó và đoạn ở trên sẽ co lại trong khi đoạn
dưới giãn ra. Như vậy phản xạ ruột có tác dụng đẩy thức ăn đi trong ống tiêu hóa theo chiều từ
trên xuống dưới.
Nhờ phản xạ ruột nên khi thức ăn rơi vào họng, họng sẽ co lại, họng trước (họng miệng) và
họng trên (họng mũi) cũng co lại, nắp thanh quản đậy kín thanh quản, trong khi phần đầu thực quản
giãn ra, kết quả là thức ăn bị đẩy từ họng vào đoạn đầu của thực quản.
2.1.3. Giai đoạn thực quản
Khi thức ăn đi vào thực quản, nó sẽ kích thích gây ra sóng nhu động theo quy luật ruột để
đẩy thức ăn tiếp tục đi xuống dưới.
Như vậy, nuốt là một phản xạ khá phức tạp, vì vậy có một trung tâm thần kinh chỉ huy là
trung tâm nuốt nằm ở hành não. Nhờ có trung tâm này, nên khi thức ăn rơi vào họng, một ngã tư
đường, nó vẫn được đẩy đúng vào thực quản.
Khi hành não bị tổn thương, trung tâm nuốt mất chức năng, phản xạ nuốt bị rối loạn, thức
ăn có thể đi lạc vào đường hô hấp.
2.2. Hoạt động tiết nước bọt
Nước bọt là dịch tiêu hóa của miệng được tiết từ 3 cặp tuyến nước bọt lớn là tuyến mang
tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi. Ngoài ra, có một số tuyến nhỏ khác như tuyến má, tuyến
lưỡi còn gọi là tuyến miệng.
Nước bọt là dịch tiết hỗn hợp của các tuyến trên.
Lượng nước bọt tiết ra khoảng 0,8-1 lít/24 giờ.
2.2.1. Thành phần và tác dụng của nước bọt
Nước bọt là một chất lỏng, quánh, có nhiều bọt, pH gần trung tính (khoảng 6-7) gồm các
thành phần chính sau đây:
2.2.1.1. α-amylase nước bọt (Ptyalin)
Là enzyme tiêu hóa glucide, được tiết chủ yếu bởi tuyến mang tai, hoạt động trong môi
trường trung tính, có tác dụng phân giải tinh bột thành đường đôi maltose và các đa đường chứa
3-9 phân tử glucose (oligosaccaride).
2.2.1.2. Chất nhầy
Có tác dụng làm các mảnh thức ăn dính vào nhau, trơn và dễ nuốt đồng thời bảo vệ niêm
mạc miệng chống lại các tác nhân có hại trong thức ăn.
2.2.1.3. Các ion
Có nhiều loại: Na+, K+, Ca2+, Cl-, HCO3-... Trong đó, chỉ có Cl- có tác dụng tiêu hóa thông
qua cơ chế làm tăng hoạt tính của amylase nước bọt.
2.2.1.4. Một vài thành phần đặc biệt
- Nước bọt còn có các lysozyme, bạch cầu và kháng thể, vì vậy nó có tác dụng chống
nhiễm trùng.
- Kháng nguyên nhóm máu ABO cũng được bài tiết trong nước bọt.
60
- Các virus gây ra bệnh viêm gan, bệnh AIDS… cũng được tìm thấy trong nước bọt ở
những bệnh nhân mắc các bệnh này.
2.3. Cơ chế điều hòa tiết nước bọt
Do hệ thần kinh tự động mà chủ yếu là hệ phó giao cảm, đó là các dây VII’ và dây IX
(hình 9-2).
Bình thường, nước bọt cũng được tiết một lượng nhỏ, trừ khi ngủ tiết rất ít.
Nhưng trong bữa ăn, nước bọt tăng tiết do dây phó giao cảm bị kích thích bởi 2 loại phản
xạ:
2.3.1. Phản xạ không điều kiện
Do thức ăn kích thích vào niêm mạc miệng tạo nên. Ngoài thức ăn, một vài tác nhân khác
cũng có thể kích thích niêm mạc miệng gây tiết nước bọt theo phản xạ không điều kiện, ví dụ
tăng tiết nước bọt ở người viêm răng miệng, ở trẻ mọc răng...
Ngoài ra, kích thích ở một số nơi khác như ruột, tử cung... cũng tăng tiết nước bọt theo
phản xạ không điều kiện, ví dụ tăng tiết nước bọt ở phụ nữ có thai, ở những người bị nhiễm
giun…

Hình 7.2: Cơ chế điều hòa tiết nước bọt


( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
2.3.2. Phản xạ có điều kiện
Do các tác nhân có liên quan đến bữa ăn gây ra:
- Giờ giấc ăn.
- Mùi vị và hình dáng của thức ăn.
- Những tiếng động, lời nói, ý nghĩ có liên quan đến ăn uống…
Do dây phó giao cảm chi phối tiết nước bọt nên khi thần kinh phó giao cảm bị ức chế
(dùng atropine chẳng hạn), nước bọt sẽ giảm tiết.
3. TIÊU HÓA Ở DẠ DÀY
Dạ dày là đoạn giữa và phần phình to nhất của ống tiêu hóa, phía trên thông với thực quản
61
qua tâm vị, phía dưới thông với tá tràng qua môn vị. Về giải phẫu, dạ dày được chia làm 3 phần
từ trên xuống là đáy vị, thân vị và hang vị (hình 9-3).

Hình 7.3: Cấu tạo dạ dày (trái) và tâm vị


( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
Dạ dày có 2 chức năng tiêu hóa:
- Chứa đựng thức ăn.
- Tiếp tục tiêu hóa sơ bộ thức ăn.
3.1. Chức năng chứa đựng thức ăn
Do dạ dày là phần phình to nhất của ống tiêu hóa và thành cấu tạo bởi 3 lớp cơ rất đàn hồi
nên dạ dày có khả năng chứa đựng rất lớn (hình 9-3).
Lúc đói, không có thức ăn, dạ dày có những cơn co thắt rất mạnh gọi là cơn co thắt đói, có
thể gây ra cảm giác đau gọi là cơn đau đói. Khi động tác nuốt đưa một viên thức ăn đến đoạn
cuối thực quản, nó sẽ kích thích gây ra phản xạ ruột làm giãn cơ vòng dưới thực quản đồng thời
phần đầu dạ dày cũng giãn ra và thức ăn dễ dàng đi vào dạ dày. Sau khi đi vào dạ dày, thức ăn sẽ
làm căng dạ dày gây ra phản xạ làm thành dạ dày giảm trương lực và giãn ra thêm để chứa thức
ăn, lượng thức ăn có thể chứa đến 1,5 lít mà không làm tăng áp suất trong lòng dạ dày.
Thức ăn càng vào, cơ dạ dày càng giãn ra và khi cơ đã giãn ra hết mức thì áp suất trong dạ
dày đột ngột tăng lên gây ra cảm giác no.
Khi bị viêm dạ dày, trương lực cơ dạ dày tăng lên, sức chứa đựng của dạ dày giảm, bệnh
nhân ăn mau no và chán ăn.
Đến cuối bữa ăn, thức ăn được chứa ở phần đầu dạ dày thành vòng tròn
đồng tâm:
- Thức ăn vào trước nằm ở xung quanh tiếp xúc với niêm mạc dạ dày.
- Thức ăn vào sau nằm ở giữa, gần với tâm vị.
Do cách sắp xếp như vậy, nên giai đoạn đầu sau khi ăn, trong dạ dày có 2 quá trình tiêu
hóa thức ăn:
- Thức ăn nằm xung quanh đã ngấm dịch vị và được dịch vị tiêu hóa.
- Thức ăn ở giữa chưa ngấm dịch vị, pH còn trung tính nên amylase nước bọt còn tiếp tục

62
phân giải tinh bột chín thêm một thời gian nữa cho đến khi thức ăn ngấm dịch vị thì amylase
nước bọt mới bị bất hoạt.
3.2. Hoạt động cơ học của dạ dày
3.2.1. Mở đóng tâm vị
Mặc dù tâm vị không có cơ thắt riêng, nhưng ở phần cuối thực quản, cơ vòng dày lên và
bên ngoài có lỗ cơ hoành chèn vào nên tâm vị có thể đóng mở được (hình 9-3). Bình thường,
tâm vị đóng kín để tránh sự trào ngược thức ăn, khi động tác nuốt đưa một viên thức ăn xuống
sát ngay trên tâm vị, thức ăn sẽ kích thích gây ra phản xạ ruột làm tâm vị mở ra và thức ăn đi
vào dạ dày. Sau khi thức ăn đi vào dạ dày, phản xạ ruột sẽ làm tâm vị đóng lại.
Tuy nhiên, khi thức ăn trong dạ dày quá acid, tâm vị rất dễ mở ra dù trong thực quản không
có thức ăn, gây ra triệu chứng ợ hơi, ợ chua ở một số bệnh nhân loét dạ dày.
3.2.2. Nhu động của dạ dày
Khi đã có thức ăn, từ phần giữa thân dạ dày xuất hiện các làn sóng co thắt nhu động
chuyển dọc theo thành dạ dày về phía hang vị, khoảng 15-20 giây một lần, càng đến hang vị, nhu
động càng trở nên mạnh hơn.
Nhu động dạ dày có 2 tác dụng:
- Nghiền nhỏ thức ăn và trộn đều thức ăn với dịch vị để tạo thành nhũ trấp.
- Đẩy nhũ trấp từ dạ dày đi qua môn vị để xuống tá tràng.
3.2.3. Mở đóng môn vị
Bình thường, môn vị hơi hé mở đủ để nước và chất lỏng đi qua nhưng thức ăn sẽ bị ngăn
lại.
Mỗi lần có một sóng nhu động đủ mạnh đi từ hang vị về phía môn vị, nó đào sâu vào khối thức
ăn ở vùng hang và tạo một lực đẩy rất lớn lên khối thức ăn về phía môn vị, lực đẩy này làm môn vị mở
ra và một vài mililít nhũ trấp được đẩy xuống tá tràng, do nhũ trấp acid có pH khoảng 3,5-4 nên kích
thích tá tràng gây ra phản xạ ruột làm môn vị đóng lại.
4. Hoạt động tiết dịch vị
Dịch vị là dịch tiêu hóa của dạ dày do các tuyến niêm mạc dạ dày tiết ra. Tùy thành phần
dịch tiết, có thể chia các tuyến này ra làm 2 nhóm:
- Tuyến môn vị: nằm ở vùng hang vị, chủ yếu tiết chất nhầy.
- Tuyến ở vùng thân vị và đáy vị là tuyến tiêu hóa chính của dạ dày, tuyến gồm 3 loại tế
bào:
 Tế bào chính: tiết enzyme.
 Tế bào viền: tiết acid chlohydric và yếu tố nội.
 Tế bào cổ tuyến: tiết chất nhầy.
Ngoài ra, toàn bộ niêm mạc dạ dày đều tiết chất nhầy và HCO3-.
Dịch vị là hỗn hợp các dịch tiết từ các vùng trên.
Lượng dịch vị tiết ra khoảng 2-2,5 lít/24 giờ.
4.1. Thành phần và tác dụng của dịch vị
63
Dịch vị là một chất lỏng, trong suốt và quánh, pH rất acid, trung bình khoảng 2-3 và khi
acid nhất pH có thể bằng 0,8.
Dịch vị gồm các thành phần sau:
4.1.1. Nhóm enzyme tiêu hóa
4.1.1.1. Pepsin
Là enzyme tiêu hóa protide được tiết dưới dạng chưa hoạt động là pepsinogen, trong môi
trường pH < 5, pepsinogen được hoạt hóa thành pepsin hoạt động, có pH tối thuận khoảng 1,8-
3,5.
Pepsin có tác dụng cắt các liên kết peptide (-CO-NH-) thuộc về các amino acid có nhân
thơm (tyrosin, phenylalanin) bên trong phân tử protein. Vì vậy, nó chỉ thủy phân protein thành
từng chuỗi polypeptide dài ngắn khác nhau:
- Chuỗi ngắn gọi là pepton
- Chuỗi dài gọi là proteose
- Chuỗi dài hơn gọi là polypeptide
Chỉ khoảng 10 đến 20% protein trong thức ăn được pepsin tiêu hóa.
4.1.1.2. Lipase dịch vị
Vai trò không quan trọng, có tác dụng thủy phân các triglyceride đã được nhũ tương hóa
sẵn trong thức ăn thành acid béo và monoglyceride.
4.1.1.3. Men sữa (chymosin, rennin, presur, lab-ferment)
Là enzyme tiêu hóa sữa, có vai trò quan trọng ở những trẻ còn bú mẹ. Nó có tác dụng
phân giải một loại protein đặc biệt trong sữa là caseinogen thành casein làm sữa đông vón lại,
casein sẽ được giữ lại trong dạ dày để pepsin tiêu hóa còn các phần khác trong sữa gọi là nhũ
thanh được đưa nhanh xuống ruột, nhờ vậy mà dạ dày trẻ tuy nhỏ nhưng trong một lần bú nó có
thể thu nhận một lượng sữa lớn hơn thể tích dạ dày rất nhiều.
4.1.2. Acid chlohydric
Không phải là enzyme tiêu hóa nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tiêu hóa
vì nó có các tác dụng sau:
- Làm tăng hoạt tính của pepsin thông qua các cơ chế:
 Hoạt hóa pepsinogen thành pepsin.
 Tạo môi trường pH thích hợp cho pepsin hoạt động.
 Phá vỡ collagen, một thành phần trong mô liên kết bọc quanh các khối cơ để pepsin
phân giải phần protide của thịt. Sự phối hợp giữa acid chlohydric và pepsin có tác dụng tiêu hóa
protide rất mạnh.
- Sát khuẩn: tiêu diệt các vi khuẩn từ ngoài đi vào dạ dày theo thức ăn để tránh nhiễm
trùng qua đường tiêu hóa.
- Thủy phân cellulose của rau non.
- Góp phần vào cơ chế đóng mở tâm vị và môn vị.
Tuy nhiên, acid chlohydric là con dao 2 lưỡi, khi sự tiết của nó tăng lên hoặc trong trường
64
hợp sức đề kháng của niêm mạc dạ dày giảm thì acid chlohydric sẽ phối hợp với pepsin phá hủy
niêm mạc dạ dày và gây ra loét dạ dày.
Acid chlohydric được tiết ra bởi tế bào viền theo cơ chế như sau:
Tế bào viền tiết acid chlohydric dưới dạng H + và Cl-. H+ được vận chuyển chủ động từ
trong tế bào viền đi vào dịch vị để trao đổi với K + từ dịch vị đi vào dưới tác dụng của enzyme
H+-K+-ATPase, enzyme này còn được gọi là bơm proton.
Vì vậy, một trong những nguyên tắc điều trị loét dạ dày tốt nhất hiện nay là dùng các loại thuốc
ức chế enzyme H+-K+-ATPase để làm giảm sự tiết acid chlohydric của tế bào viền. Nhóm thuốc này
được gọi là thuốc ức chế bơm proton (omeprazole, lanzoprazole...).
4.1.3. Yếu tố nội
Do tế bào viền tiết ra, là một protein cần thiết cho sự hấp thu vitamin B 12 ở trong ruột non.
Khi B12 đi vào dạ dày, nó sẽ được yếu tố nội bọc lấy tạo thành phức hợp B 12-yếu tố nội, bảo vệ
vitamin B12 khỏi bị enzyme và vi khuẩn trong ruột non phân hủy để đi đến hồi tràng và khi
xuống đến hồi tràng, phức hợp này sẽ được một receptor đặc hiệu tiếp nhận và vitamin B 12 được
hấp thu vào máu.
Do B12 là một vitamin tham gia vào quá trình sản sinh hồng cầu nên yếu tố này còn được
gọi là yếu tố nội chống thiếu máu.
Khi thiếu yếu tố nội (cắt dạ dày, teo niêm mạc dạ dày…) bệnh nhân sẽ bị bệnh thiếu máu
hồng cầu to (bệnh Biermer).
4.1.4. HCO3-
Do niêm mạc dạ dày tiết ra, có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày thông qua 2 cơ chế:
- Trung hòa bớt một phần acid chlohydric trong dịch vị khi acid tăng tiết.
- Liên kết với chất nhầy tạo thành hàng rào bảo vệ niêm mạc dạ dày.
4.1.5. Chất nhầy
Có bản chất là glycoprotein do các tế bào nhầy trên bề mặt niêm mạc dạ dày và các tuyến
của dạ dày tiết ra.
Chất nhầy kết hợp với HCO3- tạo nên một lớp màng bền vững dày khoảng 1-1,5 mm che
phủ toàn bộ niêm mạc dạ dày tạo thành hàng rào nhầy-bicarbonate bảo vệ niêm mạc dạ dày
chống lại sự tấn công của H+ và pepsin.
Khi có sự tăng tiết bất thường của acid chlohydric và pepsin hoặc có tình trạng giảm tiết
chất nhầy và HCO3- thì H+ và pepsin sẽ xâm nhập vào lớp niêm mạc dạ dày làm tổn thương và
gây nên loét dạ dày.
Vì vậy, các tác nhân làm tổn thương hàng rào nhầy-bicarbonate như: rượu, chất cay, chất
chua, muối mật, các thuốc giảm đau chống viêm... có thể gây ra bệnh loét dạ dày. Ngược lại, các
yếu tố làm tăng sức bền của hàng rào này sẽ được sử dụng để điều trị loét dạ dày gọi là nhóm
thuốc băng niêm mạc.
4.2. Điều hòa tiết dịch vị
Dịch vị được điều hòa do cơ chế thần kinh và thể dịch. Tùy vào đường đi của thức ăn trong
ống tiêu hóa, 2 cơ chế này cùng phối hợp để tiết dịch vị phù hợp với tính chất và số lượng của

65
thức ăn.
4.2.1. Cơ chế thần kinh
Có 2 hệ thần kinh điều hòa tiết dịch vị:
- Thần kinh nội tại: là các đám rối Meissner nằm ngay dưới niêm mạc dạ dày, đám rối này
làm tiết dịch vị dưới tác dụng kích thích của thức ăn trong dạ dày hoặc từ những kích thích của
thần kinh tự động.
- Hệ thần kinh tự động: là dây thần kinh số X, dây X làm tiết dịch vị dưới tác dụng kích
thích của 2 loại phản xạ:
 Phản xạ không điều kiện: do thức ăn kích thích vào niêm mạc miệng, niêm mạc thực
quản, dạ dày và ruột non gây ra.
 Phản xạ có điều kiện: tác nhân kích thích tương tự như trong cơ chế điều hòa tiết nước
bọt.
Dưới tác dụng của 2 phản xạ đó, dây X sẽ kích thích làm tăng tiết dịch vị.
Vì vậy, trong nguyên tắc điều trị loét dạ dày, ta có thể dùng các phương pháp để ức chế tác
dụng của dây X nhằm giảm tiết acid chlohydric:
- Ngoại khoa: cắt dây X.
- Nội khoa: dùng các thuốc ức chế dây X, còn gọi là thuốc kháng cholin như atropine,
pirenzepine.
4.2.2. Cơ chế thể dịch
Do một số hormon, đặc biệt là các hormon tiêu hóa:
4.2.2.1. Gastrin
Là một hormon polypeptide do tế bào G ở các tuyến môn vị tiết ra dưới tác dụng kích thích
của dây X hoặc của các sản phẩm tiêu hóa protide trong dạ dày (pepton, proteose). Ngoài ra, khi
sức căng của thành dạ dày tăng lên cũng kích thích tiết gastrin.
Sau khi tiết ra, gastrin đi đến vùng thân dạ dày, kích thích các tuyến tiết acid chlohydric và
pepsinogen.
Trong điều trị ngoại khoa bệnh loét dạ dày, người ta thường cắt kèm thêm vùng hang (nơi
tiết gastrin), để làm giảm tiết acid chlohydric.
4.2.2.2. Gastrin-like
Là hormon do niêm mạc tá tràng và tụy nội tiết tiết ra, tác dụng tương tự gastrin nhưng
bình thường không quan trọng
Tuy nhiên, khi bệnh nhân bị u tụy, các tế bào khối u tăng cường tiết gastrin-like dẫn đến
tăng tiết acid chlohydric và pepsinogen gây ra loét dạ dày-tá tràng ở nhiều chỗ (Hội chứng
Zollinger-Ellison). Để điều trị, phải cắt bỏ khối u.
4.2.2.3. Histamin
Là một hormon của tế bào niêm mạc dạ dày. Histamine kích thích các thụ thể H 2 của tế bào
viền (H2-receptor) làm tăng tiết acid chlohydric.

66
Vì vậy, trong điều trị loét dạ dày, người ta sử dụng các loại thuốc ức chế H 2-receptor để
làm giảm tác dụng tiết acid chlohydric của histamine (ví dụ: cimetidine, ranitidine,
famotidine...).
4.2.2.4. Glucocorticoid
Là hormon của vỏ thượng thận, có tác dụng kích thích tiết acid chlohydric và pepsinogen
đồng thời ức chế tiết chất nhầy.
Vì vậy, ở những người có tình trạng căng thẳng thần kinh kéo dài (stress tâm lý) do có tình
trạng tăng tiết glucocorticoid nên thường bị loét dạ dày.
Trong điều trị, chống chỉ định dùng các thuốc thuộc nhóm glucocorticoid (dexamethazone,
prednisolone…) cho những bệnh nhân bị loét dạ dày hoặc có tiền sử loét dạ dày.
4.2.2.5. Prostaglandin E2
Là một hormon của tế bào niêm mạc dạ dày có tác dụng ức chế tiết acid chlohydric và
pepsinogen, kích thích tiết chất nhầy, nó được xem là một yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày. Vì
vậy, trong điều trị loét dạ dày, người ta sử dụng các loại thuốc dẫn xuất từ prostaglandin
(cytotec) hoặc các thuốc có tác dụng làm tăng tiết prostaglandin E2 của dạ dày (colloidal bismuth
subcitrate)
Ngược lại, các tác nhân ức chế tiết prostaglandin sẽ gây ra loét dạ dày, đó là các thuốc
giảm đau, kháng viêm như aspirin, voltaren, piroxicam, ibuprofen... Các thuốc này chống
viêm mạnh thông qua cơ chế giảm tổng hợp prostaglandin là một tác nhân gây viêm tại ổ
viêm nhưng cũng làm giảm tiết prostaglandin E 2 tại dạ dày gây ra loét dạ dày. Các thuốc này
phải chống chỉ định ở những bệnh nhân loét dạ dày.
Ruột non có chức năng hoàn tất quá trình tiêu hóa thức ăn, vì vậy nó đóng vai trò tiêu hóa
quan trọng nhất.
5. Đặc điểm cấu tạo của ruột non
Ruột non có cấu tạo rất thuận lợi cho quá trình tiêu hóa:
- Là đoạn dài nhất của ống tiêu hóa, niêm mạc có nhiều nếp gấp tạo thành các nhung mao
và vi nhung mao làm diện tiếp xúc của niêm mạc ruột non với nhũ trấp tăng lên đạt
khoảng 250-300 m2 (hình 10-1).

67
- Có nhiều loại dịch tiêu hóa đổ vào, hệ thống enzyme rất phong phú có khả năng phân giải
tất cả thức ăn thành dạng có thể hấp thu được.

Hình 7.4: Cấu tạo niêm mạc ruột non


( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
6. Hoạt động cơ học của ruột non
Có hai hình thức chính là co bóp trộn và co bóp đẩy, hai hoạt động này không riêng biệt
mà chúng thường phối hợp đồng bộ với nhau. Ngoài ra, ruột non còn có một hoạt động cơ học
đặc biệt khác, đó là sự chuyển động của các nhung mao.
7. Hoạt động tiết dịch ở ruột non
Dịch tiêu hóa ở ruột non rất phong phú vì được tiết từ 3 nơi là tụy, mật và ruột non.
7.1. Dịch tụy
Dịch tụy là sản phẩm của tụy ngoại tiết. Sau khi tiết, dịch tụy theo ống tụy chính (Wirsung)
đổ vào tá tràng qua bóng Vater, ngoài ra có một lượng nhỏ dịch tụy đổ theo ống tụy phụ
(Santorini). Tại vị trí ống Wirsung đổ dịch tụy vào tá tràng, ống mật chủ cũng đổ dịch mật chung
vào qua cơ vòng Oddi.
Lượng dịch tụy tiết ra khoảng 1-1,5 lít/24 giờ.
7.1.1. Thành phần và tác dụng của dịch tụy
Dịch tụy là chất lỏng trong suốt, không màu, có pH kiềm nhất trong các dịch tiêu hóa
(khoảng 7,8-8,5). Dịch tụy là dịch tiêu hóa hoàn chỉnh nhất, chứa đầy đủ các enzyme tiêu hóa cả
3 loại thức ăn protid, glucid và lipid.
7.1.1.1. Nhóm enzyme tiêu hóa protid: gồm có 3 enzyme

- Chymotrypsin: được tiết ra dưới dạng chưa hoạt động là chymotrypsinogen (tiền
68
enzyme) và được hoạt hóa nhờ trypsin. Chymotrypsin có tác dụng cắt các liên kết peptid (-CO-
NH-) bên trong phân tử protein tạo thành các chuỗi peptid.
- Carboxypolypeptidase: được tiết ra dưới dạng chưa hoạt động là
procarboxypolypeptidase và được trypsin hoạt hóa thành carboxypolypeptidase hoạt động, có tác
dụng cắt rời các amino acid đứng ở đầu C của chuỗi polypeptid thành từng amino acid riêng lẻ.
- Trypsin: có 2 tác dụng:
 Tác dụng cắt các liên kết peptid (-CO-NH-) bên trong phân tử protein tạo thành các
chuỗi peptid.
 Hoạt hóa chymotrypsinogen và procarboxypeptidase thành dạng hoạt động. Ngoài ra,
trypsin còn hoạt hóa ngay chính tiền enzyme của nó.
Lúc đầu, trypsin được tiết ra dưới dạng chưa hoạt động là trypsinogen và sẽ chuyển
thành trypsin hoạt động dưới tác dụng của các cơ chế sau:
 Do enterokinase của dịch ruột hoạt hóa, đây là cơ chế đầu tiên khởi động quá trình
hoạt hóa các enzyme tiêu hóa protid của dịch tụy ở trong ruột non.
 Do trypsin vừa mới hình thành hoạt hóa.
7.1.1.2. Nhóm enzyme tiêu hóa lipid: gồm 3 enzyme
- Lipase dịch tụy: có tác dụng phân giải các tryglycerid đã được nhũ tương hóa thành acid
béo và monoglycerid. Tác dụng này được sự hỗ trợ quan trọng của muối mật.
- Phospholipase: cắt rời các acid béo ra khỏi phân tử phospholipid.
- Cholesterol esterase: thủy phân cholesterol ester thành cholesterol và acid béo.
7.1.1.3. Enzyme tiêu hóa glucid
- α-amylase dịch tụy: Phân giải tinh bột thành đường đôi maltose. So với α-amylase nước
bọt, α-amylase tụy hoạt động mạnh gấp nhiều lần, vì vậy sau khi xuống đến ruột non, hầu hết
tinh bột được tiêu hóa chỉ trong vòng 15-30 phút.
Một lượng nhỏ amylase tụy được hấp thu vào máu. Khi viêm tụy cấp, amylase máu tăng
lên. Vì vậy, định lượng amylase máu có giá trị để chẩn đoán viêm tụy cấp.
7.1.1.4. HCO3-
Không phải là enzyme tiêu hóa nhưng đóng vai trò rất quan trọng:
- Tạo môi trường pH thuận lợi cho các enzyme trong ruột non hoạt động (pH: 7-8).
- Trung hòa acid chlohydric của dịch vị để bảo vệ niêm mạc ruột.
- Góp phần vào cơ chế đóng mở môn vị.
7.1.2. Điều hòa tiết dịch tụy
Dịch tụy được tiết ra do bởi 2 cơ chế thần kinh và thể dịch.
6.1.2.1. Cơ chế thần kinh
Do dây X dưới tác dụng kích thích của 2 loại phản xạ tương tự cơ chế tiết nước bọt và dịch
vị.
6.1.2.2. Cơ chế thể dịch

69
Do 2 hormon của tế bào niêm mạc đoạn đầu ruột non tiết ra là secretin và pancreozymin.
- Secretin: kích thích tiết dịch tụy chứa nhiều nước và HCO3-.
- Pancreozymin: kích thích tiết dịch tụy chứa nhiều enzyme.
7.2. Dịch mật
Mật là sản phẩm tiết của tế bào gan. Sau khi tiết ra, mật được đưa xuống dự trữ ở túi mật.
Khi thức ăn từ dạ dày đi xuống ruột, nó sẽ kích thích túi mật co bóp để tống mật xuống tá tràng.
Mật là chất lỏng trong suốt, màu xanh hoặc vàng, pH hơi kiềm (khoảng 7-7,7), thành
phần chính là muối mật, đây là yếu tố duy nhất trong dịch mật có tác dụng tiêu hóa:
 Nhũ tương hóa lipid để lipase trong ruột non có thể phân giải tất cả các triglycerid
trong thức ăn.
 Giúp hấp thu các sản phẩm tiêu hóa của lipid: acid béo, monoglycerid, cholesterol.
Qua đó, cũng giúp hấp thu các vitamin tan trong lipid: A, D, E và K. Khi thiếu
muối mật, sự hấp thu các chất này giảm.
7.3. Dịch ruột non
Do các tế bào niêm mạc ruột và các tuyến nằm ngay trên thành ruột tiết ra.
Lượng dịch ruột non tiết ra khoảng 2-3 lít/24 giờ.
7.3.1. Thành phần và tác dụng của dịch ruột
7.3.1.1. Nhóm enzyme tiêu hóa protid
- Aminopeptidase: có tác dụng cắt rời từng amino acid một đứng ở đầu N của chuỗi
polypeptid.
- Dipeptidase, Tripeptidase: phân giải các di-tripeptid thành từng amino acid riêng lẻ.
7.3.1.2. Nhóm enzyme tiêu hóa glucid
Ruột non có 4 enzyme thủy phân glucid (hình 10-2):
- α-dextrinase (isomaltase): phân giải các đa đường chứa 3-9 phân tử glucose
(oligosaccarid) thành glucose
- Maltase: phân giải đường maltose thành glucose
- Sucrase: phân giải đường sucrose (đường mía) thành đường glucose và fructose
- Lactase: phân giải đường lactose (đường sữa) thành đường glucose và galactose

Hình 7.5: Tiêu hóa glucid trong ruột non


( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)

70
7.3.1.3. Lipase dịch ruột
Phân giải các triglycerid đã nhũ tương hóa thành monoglycerid và acid béo. Tuy nhiên, vai
trò không quan trọng.
8. Hấp thu ở ruột non
Quá trình hấp thu ở ruột non đóng vai trò rất quan trọng. Hầu hết các chất cần thiết cho cơ
thể (sản phẩm tiêu hóa, nước, điện giải, thuốc…) đều được đưa từ lòng ống tiêu hóa vào máu qua
ruột non. Sở dĩ như vậy là nhờ ruột non có những đặc điểm cấu tạo rất thuận lợi cho sự hấp thu:
- Niêm mạc có nhiều nếp gấp, nhiều nhung mao và vi nhung mao tạo nên diềm bàn chải
có diện tích tiếp xúc rất lớn, khoảng 250-300 m 2. Bên trong nhung mao có hệ thống mạch máu,
bạch huyết và thần kinh rất thuận lợi cho sự hấp thu (hình 10-1).
- Tế bào niêm mạc ruột non chứa nhiều yếu tố cần thiết cho sự hấp thu vật chất qua màng
như: enzyme, protein mang, năng lượng.
- Tất cả thức ăn khi xuống đến ruột non đều được phân giải thành những sản phẩm có thể
hấp thu được.
Quá trình hấp thu được thực hiện theo cơ chế thụ động (không cần cung cấp năng lượng)
hoặc chủ động (cần cung cấp năng lượng).
Sau khi được hấp thu vào tế bào niêm mạc ruột, các sản phẩm tiêu hóa sẽ đi vào dịch kẽ rồi
theo mạch máu hoặc bạch huyết để đi vào tuần hoàn chung.
8.1. Hấp thu protid
Sản phẩm tiêu hóa protid được hấp thu ở ruột non gồm có amino acid, di-tripeptid và một
ít protein (hình 10-3). Tá tràng là nơi hấp thu mạnh nhất, kế đến là hỗng tràng và thấp nhất ở hồi
tràng. Amino acid được hấp thu theo cơ chế vận chuyển chủ động thứ phát cùng với Na+.

71
Hình 7.6: Cơ chế hấp thu protid ở ruột non
( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
Các di-tripeptid cũng được hấp thu theo cơ chế chủ động.
Ngoài ra, ở trẻ bú mẹ, ruột non có khả năng hấp thu một số protein chưa phân giải theo cơ
chế ẩm bào. Nhờ khả năng này mà trẻ em có thể hấp thu các loại kháng thể trong sữa mẹ để giúp
trẻ chống nhiễm trùng.
8.2. Hấp thu glucid
Sản phẩm tiêu hóa glucid trong ruột non chủ yếu là glucose chiếm khoảng 80%, 20% còn
lại là galactose và fructose. Fructose được hấp thu theo cơ chế khuếch tán nhờ protein mang, còn
glucose và galactose hấp thu theo cơ chế vận chuyển chủ động thứ phát cùng với Na + tương tự
amino acid như sau (hình 10-4):
Ở bờ bàn chải của tế bào niêm mạc ruột, Na + được vận chuyển theo cơ chế khuếch tán nhờ
protein mang xuôi chiều bậc thang điện-hóa từ lòng ruột vào trong tế bào, protein mang gắn với
Na+ nhưng đồng thời nó cũng gắn với glucose (hoặc galactose) và vận chuyển đồng thời cả 2
chất đi qua bờ bàn chải vào bên trong tế bào. Năng lượng vận chuyển glucose sinh ra từ cơ chế
vận chuyển xuôi chiều bậc thang nồng độ của Na+ dưới dạng động năng. Nhờ đó, glucose được
vận chuyển ngược bậc thang nồng độ vào trong tế bào, cơ chế vận chuyển này còn gọi là cơ chế
đồng vận. Ở trong tế bào, glucose sẽ đi vào dịch kẽ theo cơ chế khuếch tán nhờ protein mang.

Hình 7.7: Cơ chế hấp thu đường đơn ở ruột non


( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
8.3. Hấp thu lipid
Sản phẩm tiêu hóa của lipid được hấp thu chủ yếu dưới dạng acid béo, monoglycerid và
cholesterol. Các chất này muốn được hấp thu cần phải có muối mật theo cơ chế như sau:
Muối mật tương tác với acid béo, monoglycerid và cholesterol tạo ra các hạt micelle có
hình cầu, mặt ngoài của hình cầu này có tính ưa nước cho nên các micelle tan được trong nước
và dễ dàng đến tiếp xúc với bờ bàn chải của tế bào niêm mạc ruột. Tại đây, acid béo,
monoglycerid và cholesterol khuếch tán đơn thuần vào trong tế bào còn muối mật quay lại lòng
ruột để tiếp tục tạo ra hạt micelle mới.
Ở trong tế bào niêm mạc, các acid béo mạch ngắn ( 10 carbon) đi thẳng vào dịch kẽ rồi

72
vào mạch máu còn các acid béo mạch dài (> 10 carbon) sẽ được tổng hợp lại thành triglycerid và
cùng với cholesterol đi vào bạch huyết.
Khi thiếu muối mật, hấp thu lipid giảm rõ rệt, trong phân có nhiều acid béo và
monoglycerid (phân mỡ).
8.4. Hấp thu vitamin
Phần lớn vitamin được hấp thu ở đoạn đầu của ruột non trừ vitamin B 12 được hấp thu ở hồi
tràng.
Các vitamin tan trong lipid (A, D, E, K) được hấp thu theo cơ chế khuếch tán đơn thuần
cùng lipid. Khi hấp thu lipid giảm (thiếu muối mật, thiếu lipase tụy), các vitamin này giảm hấp
thu. Vì vậy, bệnh nhân bị tắc mật nặng có thể bị xuất huyết do thiếu vitamin K.
Các vitamin tan trong nước (C, PP, nhóm B) được hấp thu đồng vận với Na + trừ B12 và B9
(acid folic). Riêng hấp thu vitamin B12 cần phải có yếu tố nội của dạ dày.
8.5. Hấp thu các ion
8.5.1. Hấp thu Na+
Na+ được hấp thu trong suốt chiều dài ruột non theo cơ chế như (hình 10-5):

Hình 7.8: Cơ chế hấp thu Na+và các chất khác ở ruột non
( Nguồn: Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, 13 th 2016-medbookvn.com)
Ở bờ bên và bờ đáy của tế bào niêm mạc ruột non, Na + được vận chuyển theo cơ chế chủ
động nguyên phát vào dịch kẽ nhờ bơm Na+-K+, điều này dẫn đến 2 hiện tượng:
- Nồng độ Na+ bên trong tế bào giảm xuống so với dịch trong lòng ruột.
- Do nồng độ Na+ trong tế bào giảm xuống nên điện thế trong tế bào cũng giảm xuống thấp
hơn điện thế của dịch trong lòng ruột.
Như vậy, giữa tế bào niêm mạc ruột và dịch lòng ruột xuất hiện một bậc thang điện-hóa.
Nhờ đó, ở phía bờ bàn chải, Na + được vận chuyển từ lòng ruột vào trong tế bào niêm mạc xuôi
chiều bậc thang điện-hóa theo cơ chế khuếch tán nhờ protein mang nằm trên bờ bàn chải.
73
Sự hấp thu Na+ giúp hấp thu đồng vận nhiều chất đặc biệt là glucose. Do Na+ và glucose có
cùng protein mang chung, protein mang này sẽ vận chuyển tốt hơn khi có mặt đồng thời cả 2
chất nên glucose và Na+ có sự hỗ trợ hấp thu lẫn nhau, điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc điều trị tiêu chảy bằng dung dịch ORS.
8.5.2. Hấp thu Cl-
Được hấp thu thụ động theo Na+ để bảo đảm cân bằng điện tích.
8.5.3. Hấp thu Ca2+
Khoảng 30-80% Ca2+ trong thức ăn được hấp thu tùy theo nhu cầu của cơ thể ở đoạn đầu
ruột non. Khi lượng Ca2+ trong lòng ruột cao, Ca2+ khuếch tán đơn giản vào dịch kẽ qua khoảng
gian bào, dạng hấp thu này ít, thường khoảng 10-20%.
Ngược lại, khi Ca2+ trong lòng ruột thấp, Ca2+ được hấp thu chủ động qua màng tế bào nhờ
Ca2+-ATPase, dạng hấp thu này thường là chủ yếu, chiếm 80-90%. Hấp thu Ca 2+ được sự hỗ trợ
của 2 yếu tố:
- 1,25-dihydroxycholecalciferol: là chất chuyển hóa của vitamin D sinh ra ở thận có tác
dụng làm tăng protein mang của Ca2+.
- Parahormon: là hormon của tuyến cận giáp có tác dụng chuyển
25-hydroxycholecalciferol thành 1,25-dihydroxycholecalciferol ở thận.
Khi thiếu vitamin D hoặc suy tuyến cận giáp, hấp thu Ca2+ giảm, trẻ sẽ bị còi xương.
8.5.4. Hấp thu Fe2+
Sắt được hấp thu chủ yếu ở tá tràng theo cơ chế chủ động, dễ hấp thu khi ở dạng ferrous
(Fe ) và đây là dạng cơ thể sử dụng. Tuy nhiên, sắt trong thức ăn thường ở dạng ferric (Fe 3+), vì
2+

vậy các yếu tố như acid chlohydric, vitamin C chuyển Fe3+ thành Fe2+ nên có tác dụng làm tăng
hấp thu sắt. Do đó, những bệnh nhân cắt dạ dày thường dễ bị thiếu máu do thiếu sắt và khi sử
dụng sắt cần phải cho thêm vitamin C.
8.6. Hấp thu nước
Quá trình hấp thu nước ở ruột non đóng vai trò rất quan trọng. Mỗi ngày ruột non thu
nhận khoảng 10 lít nước, trong đó 2 lít do ăn uống còn 8 lít từ các dịch tiêu hóa, nhiều nhất là
dịch ruột. Lượng nước này phải được hấp thu gần hết, khoảng 98%.
Quá trình hấp thu và bài tiết nước ở ruột non tạo thành một dòng chảy 2 chiều trong đó bao
giờ hấp thu cũng mạnh hơn bài tiết. Vì lý do bệnh lý nào đó mà hấp thu ít hơn bài tiết sẽ gây ra
tiêu chảy.
Nước được hấp thu thụ động theo cơ chế thẩm thấu để cân bằng áp suất thẩm thấu. Khi các
chất hòa tan được hấp thu, áp lực thẩm thấu trong tế bào niêm mạc và trong dịch kẽ tăng lên,
nước sẽ được hấp thu theo 2 đường: qua màng tế bào và qua khoảng gian bào. Na+ và glucose
đóng vai trò quan trọng đối với sự hấp thu nước, hai chất này có sự hỗ trợ hấp thu lẫn nhau và sự
hấp thu của chúng kéo theo nước. Vì vậy, khi có mặt của Na + và glucose, sự hấp thu nước tăng
lên rất mạnh, đây là cơ sở quan trọng cho việc bù nước và điện giải bằng ORS để điều trị tiêu
chảy mất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

74
1. Bộ môn Sinh lý học, Trường Đại học Y Dược Huế (2017), Bài giảng Sinh lý học, Nhà
xuất bản Đại học Huế, trang 119-158
2. Bộ môn Sinh lý học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh (2018), Sinh lý học Y
khoa, Nhà xuất bản Y học, chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, trang 232-276.
3. John E. Hall (2016), Guyton and Hall Texbook of Medical physiology, (13th ed), Elsevier
Inc, Philadelphia, Chapter XII: Gastrointestinal physiology, p. 760-805.

75

You might also like