You are on page 1of 21

Câu 1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của LKKTQT.

a. Khái niệm:
- Là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hóa mang tính chất quốc
tế đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế quốc tế.
- Là quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền
kinh tế và thị trường khu vực/thế giới thông qua các biện pháp tự do hoá và
mở cửa thị trường ở các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
- Là quá trình trong đó hai hay nhiều chính phủ ký với nhau các hiệp định để
tạo nên khuôn khổ pháp lý chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ
kinh tế giữa các nước.

b. Đặc trưng:
- Là một hình thức phát triển tất yếu và cao nhất của phân công lao động
quốc tế.
- Là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia thành viên trên cơ sở những
điều khoản đã thỏa thuận trong hiệp định.
- Là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa các nhà nước độc lập có
chủ quyền.

c. Vai trò:
- Môi trường quốc tế thuận lợi cho các quan hệ thương mại quốc tế, tài chính
ngân hàng, đầu tư.
- Giải quyết vấn đề việc làm, tận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng
suất và tiết kiệm thời gian.
- Tạo nên sự ổn định tương đối và phản ứng linh hoạt trong việc phát triển
các quan hệ kinh tế quốc tế, thúc đẩy việc xây dựng các chính sách lâu dài
cho các quan hệ song phương và đa phương.

Câu 2. Các loại hình LKKTQT chủ yếu? Phân biệt các loại hình liên kết này? Việc
nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa gì đối với nước ta hiện nay.

a. Các loại hình LKKTQT và phân biệt


 Căn cứ vào các chủ thể tham gia:
- Liên kết lớn: Liên kết giữa các quốc gia trong đó các chính phủ ký với nhau
các hiệp định để tạo nên khuôn khổ chung cho sự phối hợp và điều chỉnh
quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước thành viên.
- Liên kết nhỏ: Liên kết giữa các công ty hay các tập đoàn với nhau theo từng
giai đoạn của quá trình tái sản xuất.
+ Liên kết trước sản xuất: Nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm;
+ Liên kết trong quá trình sản xuất: Chuyên môn hóa và hợp tác hóa;
+ Liên kết sau sản xuất: tiêu thụ sản phẩm, quảng cáo .v.v.
 Căn cứ theo phương thức điều chỉnh:
- Liên kết giữa các nhà nước: Là loại hình liên kết quốc tế mà các cơ quan
lãnh đạo là đại biểu của các nước thành viên tham gia với những quyền hạn
hạn chế.
+ Các quyết định của liên kết chỉ có tính tham khảo đối với Chính phủ của
các nước thành viên.
+ Các quyết định cuối cùng là tùy thuộc vào quan điểm của mỗi chính phủ
(ASEM; APEC-Liên kết phi thể chế).
- Liên kết siêu nhà nước: Là loại hình liên kết quốc tế mà cơ quan lãnh đạo
chung là đại biểu của các nước thành viên có quyền hạn rộng lớn hơn so
với liên kết giữa các nhà nước.
+ Các quyết định của liên kết có tính chất bắt buộc đối với các nước thành
viên theo nguyên tắc đa số (ASEAN, EU-Liên kết thể chế).
 Căn cứ vào đối tượng và mục đích của liên kết:
- Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do (free trade area hay trade
zone) (Ví dụ: ASEAN, NAFTA, EFTA ).
+ Giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng
đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.
+ Tiến tới tạo lập một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ.
+ Mỗi thành viên vẫn có chính sách thương mại riêng với các quốc gia
không phải là thành viên.
- Liên minh thuế quan (Custom Union)
+ Là một khu vực mậu dịch tự do.
+ Các quốc gia thành viên áp dụng chính sách thuế quan chung với các
quốc gia không phải là thành viên. Ví dụ: EEC-European Economic
Community trước năm 1992.
- Thị trường chung (Common Market)
+ Là một liên minh thuế quan;
+ Cho phép di chuyển tự do các yếu tố sản xuất (lao động và vốn) trong nội
bộ khối. Ví dụ: EEC được coi là một thị trường chung từ 1992.
- Liên minh tiền tệ (monetary union)
+ Xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách ngoại thương
chung;
+ Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền dân tộc
của các quốc gia thành viên;
+ Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ;
+ Xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương
của các nước thành viên;
+ Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng đối với các nước ngoài
liên minh và các tổ chức tài chính quốc tế.
- Liên minh kinh tế (Economic Union)
+ Là một thị trường chung (hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn được di
chuyển tự do, các nước có biểu thuế quan chung đối với các nước không
phải là thành viên);
+ Thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính và tiền tệ, phối hợp điều
chỉnh cán cân thanh toán. Ví dụ: EU từ năm 1994 được coi là liên minh
Kinh tế; liên minh kinh tế Benelux (được thành lập năm 1960 bao gồm Bỉ,
Hà Lan và Luých Xăm Bua).
- Liên kết thương mại BTA:
Được ký giữa các nước khác về khu vực dành cho nhau những ưu đãi hơn
hẳn so với khu vực và đa phương; FBTA: Nâng cấp từ BTA. Tính đến cuối
năm 2005, số lượng FTA trên thế giới đã ký kết hoặc đang được đàm phán
đã lên đến 300 hiệp định (theo Sách trắng về thương mại của Tổ chức xúc
tiến thương mại Nhật Bản - JETRO).
- Liên kết đầu tư:
Trước đây, liên kết trong lĩnh vực đầu tư thường được các nước đưa vào
một nội dung (đầu tư tự do) trong các hợp đồng thương mại tự do song
phương và khu vực. Nay, các nước đã ký với nhau hợp đồng riêng về đầu
tư. (Ví dụ: Trong khuôn khổ ASEAN, các nước thành viên đã nhất trí thành
lập khu vực đầu tư ASEAN (AIA), và Hiệp định khung về Khu vực đầu tư
ASEAN đã được ký kết vào tháng 10/1998).

b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu về liên kết kinh tế quốc tế đối với Việt Nam hiện nay:

Trước hết, liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục được thúc đẩy sâu rộng. Nổi bật là việc ký và
thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA); thúc đẩy thương lượng, ký hiệp định về
những vấn đề mới như kinh tế số, thương mại điện tử…; xây dựng và thông qua những
định hướng hợp tác dài hạn. Thứ hai, nội hàm hợp tác và liên kết kinh tế được điều chỉnh
sâu sắc, gắn với phát triển bền vững, bao trùm và quá trình số hóa. Thứ ba, xu hướng điều
chỉnh các chuỗi cung ứng, dịch chuyển các hoạt động đầu tư, kinh doanh được đẩy mạnh
hơn song không đơn giản và dễ dàng. Tình hình này tác động nhiều chiều đến Việt Nam,
nhất là khi nước ta bước vào giai đoạn hội nhập và liên kết sâu rộng. Chủ động, tích cực
tham gia hiệu quả các liên kết kinh tế quốc tế tạo cơ hội giúp chúng ta tiếp tục đa dạng
hóa thị trường, đối tác, thu hút nguồn lực để phát triển, tranh thủ các xu hướng lớn hiện
nay, nhất là tại châu Á - Thái Bình Dương, nhằm phục hồi và tăng trưởng nhanh, bền
vững. Việc đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Ðông - Nam Á (ASEAN)
năm 2020, Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 giúp chúng ta phát
huy tiếng nói trong các khuôn khổ đa phương, cùng các đối tác tham gia quá trình định
hình các cấu trúc, xây dựng luật lệ kinh tế - thương mại phù hợp lợi ích chung. Năm
2020, nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, đạt nhiều thành tựu về phát
triển và đối ngoại, được bạn bè quốc tế ca ngợi. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế có
những bước tiến quan trọng, đưa nước ta trở thành một trong những nước đi đầu tại khu
vực trong thúc đẩy và tham gia các liên kết kinh tế quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để phục vụ phát triển đất nước. Chúng ta đã tích cực vận động, phối hợp Liên hiệp
châu Âu (EU) hoàn thành phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU
(EVFTA); đưa EVFTA vào thực thi từ ngày 1-8-2020. Chúng ta cũng ký biên bản kết
thúc đàm phán hiệp định FTA với Anh, nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương
mại, đầu tư giữa hai nước. Là Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam đã phối hợp các
thành viên ASEAN và các đối tác thúc đẩy ký Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện khu
vực (RCEP), khẳng định quyết tâm giữ đà hợp tác và liên kết, củng cố niềm tin và tạo
động lực cho phục hồi kinh tế khu vực. Chúng ta cũng chủ động thúc đẩy thông qua Tầm
nhìn Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đến năm 2040 và nhiều
sáng kiến quan trọng về ứng phó dịch Covid-19, phục hồi chuỗi cung ứng khu vực...

Câu 3. Phân tích tác động của liên minh thuế quan trong trường hợp tạo lập mậu
dịch và chuyển hướng mậu dịch? Rút ra những nhận xét?

a. Liên minh thuế quan với việc tạo lập thương mại (Trade Creation)
- Khái niệm: Là trường hợp một phần sản xuất nội địa với chi phí cao của một
nước thành viên được thay thế bởi nhập khẩu với chi phí thấp hơn từ một nước
thành viên khác.
- Tác động:
+ Hàng hóa trao đổi giữa các nước thành viên tăng lên về cả số lượng và phạm vi
=> cải thiện cán cân thanh toán.
+ Người tiêu dùng được lợi do giá cả thấp hơn.
+ Sản xuất có hiệu quả hơn.
+ Sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn.
+ Chính phủ giảm, mất nguồn thu thuế.

b. Liên minh thuế quan với việc chuyển hướng thương mại:
- Khái niệm: Là trường hợp khi nhập khẩu với chi phí thấp của một nước
thành viên từ phần còn lại của thế giới được thay thế bởi nhập khẩu với chi
phí cao từ một nước thành viên khác.

 Kết luận:
 Tiết kiệm chi phí giao dịch, vận chuyển, chi phí thuế quan trong quan hệ
thương mại giữa các nước thành viên (phần lớn các khối liên kết gần nhau về
địa lý);
 Tạo nên sự ổn định tương đối về thị trường xuất nhập khẩu giữa các nước
thành viên;
 Tăng cường chuyên môn hóa quốc tế và hợp tác hóa sản xuất;
 Các liên minh thuế quan sẽ có được điều kiện thuận lợi hơn trong các đàm
phán thương mại quốc tế với phần còn lại của thế giới;
 Nếu một liên minh thuế quan mà loại trừ được hàng rào thương mại giữa các
quốc gia thành viên mà không làm tăng hàng rào thương mại đối với phần còn
lại của thế giới là một hành động hướng tới thương mại tự do và như vậy làm
tăng phúc lợi của các quốc gia thành viên và không phải là thành viên.

Câu 4. Trình bày một số LKKTQT tiêu biểu trong nền kinh tế thế giới.

 Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific
Economic Cooperation, viết tắt làAPEC) là tổ chức quốc tế của các quốc gia
nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối
quan hệ về kinh tế và chính trị. Trụ sở chính: Singapore Quốc gia thành viên:
21 Ngày thành lập: 11-1989 Diễn đàn tổ chức các kỳ họp thường niên lần lượt
tại mỗi quốc gia thành viên, cũng có những uỷ ban thường trực chuyên trách
nhiều lãnh vực khác nhau từ truyền thông đến ngư nghiệp. Cho đến nay, hầu
hết các nước nằm bên bờ Thái Bình Dương đều gia nhập tổ chức này, ngoại
trừ: Colombiathuộc khu vực Nam Mỹ; Guatemala, Salvador,
Nicaragua,Honduras, Costa Rica và Panama thuộc khu vựcTrung Mỹ;
Campuchia và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên ở châu Á; các đảo quốc
Thái Bình Dương Fiji, Tonga và Samoa. Người đứng đầu chính phủ của tất cả
thành viên APEC gặp nhau mỗi năm một lần trong một kỳ họp thượng đỉnh
được gọi là "Hội nghị Lãnh đạo APEC", được tổ chức lần lượt tại mỗi nền kinh
tế thành viên APEC. APEC nổi tiếng với truyền thống yêu cầu các nhà lãnh
đạo xuất hiện trước công chúng trong quốc phục của nước chủ nhà. APEC
được thành lập vào tháng 11 năm 1989 với 12 thành viên sáng lập: Australia,
Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei,
Indonesia, New Zealand, Canada và Hoa Kỳ. Hiện nay, APEC gồm 21 thành
viên, ngoài 12 thành viên sáng lập, các thành viên khác bao gồm: Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông, Đài Loan, Mexico, Papua New Guinea,
Chile, Peru, Nga và Việt Nam. Trong bối cảnh quá trình liên kết và hợp tác
kinh tế ở các khu vực và trên phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hóa kinh
tế, thương mại và đầu tư trở thành xu hướng bao trùm, APEC ra đời như một
sự đáp ứng đúng lúc đối với yêu cầu và lợi ích của các nền kinh tế ở châu Á-
Thái Bình Dương vốn đang ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau hơn. Từ chỗ ban đầu
hoạt động như là một nhóm đối thoại không chính thức, APEC đã dần dần trở
thành một thực thể khu vực đi đầu trong việc thúc đẩy tự do hóa mậu dịch, đầu
tư và hợp tác kinh tế. Ngày nay, APEC bao gồm tất cả các nền kinh tế lớn
trong khu vực và các nền kinh tế năng động nhất, tăng trưởng nhanh nhất trên
thế giới. Các nền kinh tế của các thành viên APEC cho thấy sự đa dạng, phong
phú của khu vực cũng như các trình độ và phương thức phát triển khác nhau.
Mặc dù giữa các nền kinh tế trong khu vực có nhiều điểm khác biệt nhưng việc
họ hợp tác được với nhau trong một diễn đàn đã phản ánh mục đích và quyết
tâm chính trị chung là thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững
trong khu vực và trên thế giới. Mục đích chung của APEC đã được xác định
ngay từ Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất ở Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia năm
1989. Mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của khu vực đòi hỏi phải thúc
đẩy hệ thống thương mại đa phương mở, tập trung giải quyết những vấn đề
kinh tế nhằm tăng cường lợi ích chung thông qua việc khuyến khích các luồng
hàng hoá, dịch vụ, vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ giữa các thành viên.
 Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (tiếng Anh: Food and
Agriculture Organization of the United Nations - FAO) được thành lập ngày 16
tháng 10 năm 1945 tại Canada với vai trò là một cơ quan chuyên môn của Liên
Hiệp Quốc (UN). Năm 1951, trụ sở chính tại Washington D.C, Mỹ được
chuyển về Roma, Ý. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc
(FAO) là một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc (UN) dẫn đầu những
nỗ lực quốc tế để đẩy lùi nạn đói trên phạm vi toàn cầu. FAO phục vụ cả các
nước phát triển và đang phát triển. FAO đóng vai trò như một diễn đàn trung
lập, nơi mà tất cả các quốc gia đưa ra các đàm phán về các hiệp định và chính
sách mang tính nhân đạo phục vụ cho toàn cầu. FAO cũng là một nguồn cung
cấp kiến thức và thông tin, và giúp các nước đang phát triển và các quốc gia
trong quá trình chuyển đổi hiện đại hóa và cải thiện nông nghiệp, lâm nghiệp
và nuôi trồng thủy sản, đảm bảo dinh dưỡng tốt và an ninh lương thực cho tất
cả mọi người. Phương châm của FAO theo tiếng Latin “fiat panis”, dịch sang
tiếng Anh là "để có được bánh". Ngày 08/8/2008, FAO có 191 quốc gia thành
viên cùng với Liên minh Châu Âu, Quần đảo Faroe và Tokelau là 2 thành viên
liên kết. FAO cũng là một thành viên của Tập đoàn Phát triển Liên Hiệp Quốc.
Chương trình ngân sách thường xuyên của FAO được tài trợ bởi các thành
viên, thông qua đóng góp tại Hội nghị FAO. Ngân sách này chi cho các công
việc cốt lõi về kỹ thuật, hợp tác và quan hệ đối tác bao gồm Chương trình hợp
tác kỹ thuật, trao đổi kiến thức, chính sách và vận động chính sách, chỉ đạo,
điều hành, quản trị và an ninh. Ngân sách thường xuyên của FAO cho hai năm
2012 -2013 là 1.005,6 triệu USD. Các đóng góp tự nguyện được cung cấp bởi
các thành viên và các đối tác khác hỗ trợ và trong các trường hợp khẩn cấp
(bao gồm phục hồi chức năng) hỗ trợ cho các chính phủ cho các mục đích
được xác định rõ ràng liên kết với khung kết quả, cũng như hỗ trợ trực tiếp đến
công việc cốt lõi của FAO. Sự đóng góp tự nguyện được dự kiến sẽ đạt khoảng
1,4 tỷ USD trong giai đoạn 2012 - 2013. Ngân sách tổng thể này bao gồm
những công việc kỹ thuật cốt lõi, hợp tác và quan hệ đối tác. Trong đó đầu tư
cho Nông nghiệp 71%, các chức năng cốt lõi 11%; Quản trị Mạng Văn phòng
Quốc gia 5%; Chi tiêu bảo mật 2%, Chi tiêu phát triển 6%; Chi tiêu kỹ thuật và
Chương trình hợp tác 5%.

Câu 5. Vai trò của Tổ chức ASEAN và AFTA? Điều kiện và giải pháp để Việt Nam
tham gia có hiệu quả vào AFTA.

a. Vai trò của ASEAN và AFTA:


 ASEAN:

- ASEAN bao gồm một diện tích đất 4,46 triệu km2, chiếm 3% tổng diện tích
đất của Trái đất, và có một dân số khoảng 600 triệu người, chiếm 8,8% dân
số thế giới. Vùng biển của ASEAN là ba lần lớn hơn so với đất. Trong năm
2013, kết hợp GDP danh nghĩa tại ASEAN đã đạt 1,8 nghìn tỷ USD. Nếu
ASEAN là một thực thể duy nhất, quốc gia đó sẽ xếp hạng trong các nền
kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn độ,
Đức, Nga, Pháp, Canada, Tây Ban Nha, Brazil, Anh và Ý.

- Theo Hiến chương và mục tiêu xây dựng Cộng đồng, ASEAN đến năm
2015 vẫn là một tổ chức liên Chính phủ và bình đẳng chủ quyền giữa các
nước thành viên, chứ không phải là một tổ chức siêu quốc gia như EU. Tính
chất liên Chính phủ của ASEAn là nền tảng và nhân tố quyết định nhiều
vấn đề cơ bản của hợp tác ASEAN. Đáng chú ý nhất là nguyên tắc ra quyết
định trên cơ sở “đồng thuận”, theo đó, ASEAN luôn phải phấn đấu bảo
đảm “sự thống nhất trong đa dạng” trên cơ sở gia tăng những lợi ích cơ bản
chung.

- ASEAN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong ổn định và phát triển khu
vực châu Á- Thái Bình Dương và trên thế giới. Vai trò của ASEAN thể
hiện:

- ASEAN khởi xướng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) để tạo khuôn
khổ thích hợp cho ASEAN và các đối tác bên ngoài tiến hành đối thoại và
hợp tác về các vấn đề chính trị an ninh ở Châu Á- Thái Bình Dương.
ASEAN cũng tích cực đẩy mạnh hợp tác với nhau và với các đối tác bên
ngoài thông qua nhiều khuôn khổ, hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm
đối phó với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như
khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai…

- ASEAN có vai trò to lớn trong giải quyết tranh chấp Biển đông, ổn định
tình hình chính trị khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, giảm căng thẳng và
đối đầu giữa các lớn như Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện gần đây khi xảy ra
tranh chấp trên biển Hoa Đông và Biển Đông, ASEAN đã thể hiện rõ lập
trường và cách thức giải quyết xung đột theo những thoả thuận mà ASEAN
và Trung Quốc đã cam kết.

- Thúc đẩy tăng trưởng và bền vững kinh tế khu vực và thế giới: Hợp tác vì
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững là một trong những định hướng ưu tiên
của ASEAN. Đến nay, ASEAN đã cơ bản hoàn tất các cam kết về hình
thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA), với hầu hết các
dòng thuế đã được giảm xuống mức
- 0-5%. Tiếp đó, ASEAN đã xác định 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập sớm để
đẩy mạnh hơn nữa thương mại nội khối. Kim ngạch thương mại nội khối
hiện đạt khoảng 300 tỷ USD và chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương
mại của ASEAN.

- Việc thực hiện các thoả thuận về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đạt những
tiến triển quan trọng. Hợp tác ASEAN cũng được đẩy mạnh và mở rộng
trong nhiều lĩnh vực kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, giao
thông vận tải, hải quan, thông tin viễn thông, tiêu chuẩn đo lường chất
lượng…Đồng thời, ASEAN cũng tích cực tăng cường hợp tác kinh tế-
thương mại với các đối tác bên ngoài, nhất là việc thiết lập các khu vực
mậu dịch tự do (FTA) với hầu hết các nước đối thoại của ASEAN, như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốt-xtrâylia và Niu Di Lân…
ASEAN cũng coi trọng đẩy mạnh thực hiện mục tiêu thu hẹp khoảng cách
phát triển trong ASEAN, nhất là thông qua việc triển khai Sáng kiến liên
kết ASEAN (IAI) về hỗ trợ các nước thành viên mới (Campuchia, Lào,
Mianma và Việt nam) hội nhập khu vực.

- Sự phát triển nhanh chóng và năng động của ASEAN trong 2 thập niên gần
đây có những đóng góp thiết thực vào ổn định và tăng trưởng kinh tế thế
giới. Hiện nay, ASEAN là đối tác kinh tế quan trọng của hầu hết các quốc
gia và khối kinh tế trên thế giới.

- Hợp tác về sự gắn kết cộng đồng và lợi ích cho người dân: Hợp tác trong
lĩnh vực văn hoá- xã hội ngày càng được mở rộng với rất nhiều chương
trình/dự án khác nhau trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục- đào tạo, khoa
học- công nghệ, môi trường, y tế, phòng chống ma tuý, buôn bán phụ nữ và
trẻ em, HIV/AIDS, bệnh dịch…Các hoạt động hợp tác này đã hỗ trợ cho
các nước thành viên nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề liên quan,
đồng thời giúp tạp dựng thói quen hợp tác khu vực, nâng cao nhận thức và
ý thức cộng đồng ASEAN. ASEAN đang phấn đấu xây dựng một cộng
đồng các dân tộc hài hoà đoàn kết, sống đùm bọc và chia sẻ. Đảm bảo sự
“thống nhất trong đa dạng” trở thành một đặc thù riêng có của ASEAN,
một bản sắc khu vực mà các nước ASEAN luôn trân trọng giữ gìn.

- Mở rộng quan hệ đối ngoại: Quan hệ đối ngoại của ASEAN phát triển
mạnh, thông qua đó ASEAN đã tranh thủ được sự hợp tác và hỗ trợ thiết
thực từ các đối tác bên ngoài, phục vụ mục tiêu an ninh và phát triển của
Hiệp hội, đồng thời góp phần quan trọng thúc đẩy và kết nối các mối liên
kết khu vực với nhiều tầng nấc khác nhau ở Châu Á- Thái Bình Dương.

- ASEAN đã tạo dựng được quan hệ hợp tác nhiều mặt với nhiều đối tác
quan trọng trên thế giới thông qua khuôn khổ ASEAN+1 với 12 đối tác
quan trọng bên ngoài, đồng thời khởi xướng thành công và giữ vai trò chủ
đạo trong một số khuôn khổ hợp tác khu vực ở Châu Á- Thái Bình Dương
như ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN
(ARF). Ngoài ra, ASEAN còn là nhân tố quan trọng của các khuôn khổ hợp
tác khu vực và liên khu vực khác như Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á-
Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Á-Âu (ASEM) và Diễn đàn Hợp tác
Đông Á- Mỹ La Tinh (FEALAC).

- Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được đến nay, ASEAN vẫn là
một hiệp hội chưa chặt chẽ, tính liên kết khu vực còn thấp; sự đa dạng vẫn
còn lớn, nhất là về chế độ chính trị- xã hội và trình độ phát triển giữa các
nước thành viên. ASEAN đề ra nhiều chương trình và kế hoạch hợp tác
nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế; tổ chức bộ máy và phương thức hoạt
động cồng kềnh, kém hiệu quả, nhất là việc tổ chức và giám sát thực hiện
cam kết.

- Bối cảnh địa chiến lược ở khu vực đang thay đổi nhanh chóng, với nhiều
diễn biến phức tạp ảnh hưởng sâu sắc tới môi trường hoà bình, an ninh, ổn
định và phát triển ở khu vực. ASEAN đang ở trong giai đoạn bản lề hướng
tới sự hình thành Cộng đồng ASEAN, các nước lớn can dự ngày càng sâu
rộng hơn vào hợp tác ở khu vực với sự thay đổi và điều chỉnh trong chiến
lược và trong tương tác giữa các nước lớn với nhau và với ASEAN, đặt ra
không chỉ cơ hội mà còn nhiều thách thức cho việc duy trì vai trò trung tâm
của ASEAN.

- Trong bối cảnh đó, các nước nhấn mạnh ASEAN càng cần củng cố và giữ
vững vai trò trung tâm của mình ở khu vực, đặc biệt trên các khía cạnh.

- Thứ nhất, dành quyết tâm và nỗ lực cao nhất cho thành công của tiến trình
xây dựng Cộng đồng ASEAN bởi thành công của tiến trình này gắn liền với
uy tín và vị thế của ASEAN. Một Cộng đồng ASEAN đoàn kết và vững
mạnh kà điều kiện tiên quyết để các nước thành viên tin tưởng và gắn kết
hơn với nhau và với ASEAN, dành chọn tâm huyết vì sự phát triển của
Hiệp hội và lợi ích chung của khu vực.

- Thứ hai, củng cố và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN ở các phương
tiện và quy mô khác nhau. ASEAN cần tiếp tục đề cao các chuẩn mực và
quy tắc ứng xử của ASEAN như Hiến chương ASEAN, TAC, SEANFWZ,
DOC…làm cơ sở tiến tới xây dựng bộ quy tắc ứng xử chung cho toàn khu
vực, thúc đẩy xây dựng một cấu trúc khu vực đa tầng nấc do ASEAN giữ
vai trò chủ đạo; đồng thời xây dựng nội lực kinh tế mạnh làm cơ sở tăng
cường liên kết kinh tế trong và ngoài khu vực.
- Thứ ba, củng cố các cơ chế hợp tác nội khối cũng như với các đối tác nhằm
ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi
truyền thống, nhất là các tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, thiên tai, dịch bệnh,
môi trường. Bên cạnh đó, cùng với sự phụ thuộc ngày càng cao giữa các
quốc gia, ASEAN cần một bộ máy tổ chức hiệu quả hơn với sự kết nối
thông suốt và nhịp nhàng giữa các cơ quan.

- Thứ tư, xây dựng một Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015 trên cơ
sở tiếp nối và phát huy các thành tựu mà ASEAN đã đạt được trong suốt
gần nửa thế kỷ qua. Xây dựng Cộng đồng ASEAN là một quá trình tiếp
diễn mà năm 2015 chỉ là mốc đánh dấu ASEAN chuyển sang một giai đoạn
phát triển cao hơn của hợp tác khu vực, hướng tới nền hoà bình bền vững
hơn, liên kết và hội nhập kinh tế sâu sắc hơn và phấn đấu vì lợi ích thiết
thực hơn cho người dân.

- Bên cạnh đó, việc duy trì đoàn kết và thống nhất ASEAN cũng như vai trò
chủ đạo của Hiệp hội ở khu vực thường gặp không ít khó khăn và thách
thức, do tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Tình hình nội bộ của một số
nước cũng như quan hệ giữa các nước thành viên với nhau thường này sinh
những vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến đoàn kết, hợp tác và uy tín của
ASEAN.

 AFTA:

- AFTA có vai trò quan trọng như là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới
với định hướng đối ngoại mạnh".

- AFTA sẽ tiếp tục bảo đảm cơ hội tốt nhất cho ASEAN thúc đẩy phát triển
kinh tế trên một cơ sở bền vững và tác động một cách tích cực đến nền kinh
tế của mỗi một thành viên.

- AFTA đóng vai trò quan trọng như một công cụ tăng cường khả năng
thương lượng của các thành viên và giúp phối hợp tốt hơn các hoạt động
kinh tế của các thành viên.

- Các nước thành viên có thể sử dụng AFTA như một cây cầu nối họ với nền
kinh tế toàn cầu.

- AFTA có thể được xem như một diễn đàn điều chỉnh hữu ích ở cấp độ khu
vực nhằm đáp ứng các mục tiêu của WTO.
- Là điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH, phấn đấu để Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp vào năm 2002.

- Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá sang các
nước Asean - Thị trường tiêu dùng được mở rộng ra là một yếu tố giúp VN
huy động tiềm năng lao động, tài nguyên dồi dào của mình và tăng xuất
khẩu.

- Làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.

=> Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hình thành mở rộng hơn
nữa các mối quan hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với khuôn khổ nền kinh tế
chung của khu vực và thế giới.

b. Điều kiện và giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào AFTA.

Việc chúng ta góp mặt trong AFTA khiến ta phải chịu nhiều loại thuế khác nhau được
quy định. Nhiều sản phẩm hàng hóa sản xuất ra những không tiêu thụ được. Bởi người
dân có nhiều sự lựa chọn từ hàng hóa nước ngoài.

Nhiều nước trong khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh hơn Việt Nam nên sự cạnh
tranh cũng khiến nước ta thường chịu lép vế. Bên cạnh đó giá cả thị trường liên tục leo
thang để có sức cạnh tranh với nhiều sản phẩm khác. Đó đều là những thách thức mà
nước ta cần phải vượt qua được.

 Giải pháp:

 Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo các vấn đề về hội nhập kinh tế quốc
tế

Các bộ, ngành và cơ quan liên quan tập trung nghiên cứu các vấn đề mang tính chiến
lược về hội nhập kinh tế quốc tế để làm cơ sở tham mưu, tư vấn cho Chính phủ trong quá
trình hoạch định chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế như tác động của việc tham gia
các FTA thế hệ mới, xu hướng bảo hộ và nguy cơ chiến tranh thương mại tác động đến
kinh tế nước ta, xu hướng chuyển dịch trọng tâm hợp tác trong các khuôn khổ khu vực và
thế giới như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, tác động của tình hình kinh tế, chính trị thế
giới tới tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và tham mưu chính sách về hội nhập quốc tế và hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có tác
động đến Việt Nam, các xu thế phát triển, các sáng kiến mới, chính sách và kinh nghiệm
của các nước thực thi hiệu quả cam kết hội nhập.

Nghiên cứu, đánh giá tác động của việc xóa bỏ thuế quan theo lộ trình cam kết trong
ASEAN đối với các mặt hàng nhạy cảm của nước ta như ô tô, đường, xăng dầu…, dự báo
tác động của việc thực thi cam kết trong Hiệp định CPTPP, FTA Việt Nam - EU để có
các khuyến nghị chính sách phù hợp khi các hiệp định này được phê chuẩn và đi vào thực
hiện;...

Tăng cường nghiên cứu, cảnh báo, phổ biến về các biện pháp kỹ thuật của các nước cho
các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có liên quan để chủ động đối phó với các rào
cản kỹ thuật; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xem xét xây dựng
các biện pháp kỹ thuật của Việt Nam phù hợp với các cam kết về hàng rào kỹ thuật trong
thương mại của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới.

 Tổ chức thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế

Phát huy vai trò của Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế trong việc phối hợp liên
ngành, tăng cường hơn nữa việc kết nối, điều phối, điều hành tập trung, thống nhất giữa
hoạch định chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế với triển khai đàm phán và thực thi các
cam kết hội nhập. Đôn đốc và giám sát các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực thi hiệu
quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện và khai thác hiệu quả các FTA đã có
hiệu lực. Tiến hành rà soát, hoàn thiện cơ chế điều phối thực thi cam kết FTA đối với các
lĩnh vực cụ thể theo hướng thiết thực và hiệu quả hơn; bảo đảm lợi ích quốc gia và việc
thực thi nghiêm túc các FTA; đánh giá kịp thời các vấn đề phát sinh và kiến nghị giải
pháp tháo gỡ. Xây dựng và thực thi nghiêm túc các cam kết trong hội nhập tài chính về
thuế, hải quan, dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, kế toán - kiểm toán và các dịch vụ khác;
triển khai Hiệp định thuận lợi hóa thương mại của WTO, Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ
chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại.

 Mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam

Tăng cường phối hợp các bộ, ngành, cơ quan liên quan xử lý những vấn đề còn tồn tại để
sớm tiến tới ký và phê chuẩn FTA Việt Nam - EU; phối hợp, thúc đẩy việc hoàn thành
thủ tục phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) và các hiệp định đã ký kết khác nhằm sớm đưa các hiệp định đi vào thực thi
mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người dân. Xây dựng phương án hợp lý để hoàn
thiện việc đàm phán và ký kết các FTA đang triển khai, chủ động nghiên cứu, đánh giá
khả năng tham gia các FTA với các đối tác mới nhằm tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường
cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam.

 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, hỗ trợ
doanh nghiệp
Trong hội nhập, doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, trong đó khu vực doanh nghiệp tư
nhân có vai trò quan trọng, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ngày càng
phát triển. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với hiệu quả
của hội nhập. Các bộ, ngành, địa phương cần triển khai các biện pháp đồng hành và hỗ
trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết về hội nhập kinh tế
quốc tế, kịp thời lắng nghe ý kiến và phản hồi của các doanh nghiệp về các vấn đề chính
sách, vướng mắc trong hội nhập kinh tế quốc tế và trong quá trình đàm phán, thực thi các
Hiệp định thương mại tự do (FTA); Chủ động đề xuất các định hướng, biện pháp cụ thể
để cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; Tận dụng các cơ hội do hội nhập quốc tế
mang lại một cách hiệu quả, phù hợp với các quy định, luật lệ, chuẩn mực quốc tế và các
thể chế đa phương để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan để góp phần cải thiện môi trường
đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện nghiên cứu, chuyển giao,
đổi mới, hoàn thiện công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản
phẩm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo để hỗ trợ cho quá trình
đổi mới công nghệ quốc gia.

Câu 6. Trình bày vai trò và các hoạt động của WTO? Để gia nhập WTO trong
tương lai, Việt Nam cần phải giải quyết những vấn đề gì?

a. Vai trò và các hoạt động của WTO:

WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới. Cụ thể
WTO có 3 mục tiêu sau:
Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát
triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế, bảo đảm cho các
nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những
lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển
kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn
vào nền kinh tế thế giới;
Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm
các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
WTO thực hiện 5 chức năng sau:
Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa phương và
nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực
hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong
khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và
giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương và nhiều bên.
Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện
mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định
thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung
đối với tất cả các thành viên.
Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và
Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu
hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
Đàm phán gia nhập WTO diễn ra trên 2 kênh: Kênh đa phương (đàm phán việc tuân thủ
các hiệp định của WTO) và kênh song phương (đàm phán mở cửa thị trường hàng hóa và
dịch vụ). Đàm phán đa phương: Việt Nam nộp đơn gia nhập và được công nhận là quan
sát viên của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT-tiền thân của WTO)
vào tháng 6 năm 1994. Ngày 4 tháng 1 năm 1995, ngay trong ngày đầu mở cửa của mình,
WTO đã tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam. Kể từ đó, Việt Nam đã chủ động tiến
hành những bước đi cần thiết để gia nhập tổ chức này. Ban Công tác về việc gia nhập
WTO của Việt Nam (gọi tắt là Ban Công tác) được thành lập ngày 30 tháng 1 năm 1995.
Đến tháng 6 năm 2004, Ban Công tác đã họp được 8 Phiên. Mục đích chủ yếu của các
Phiên họp là minh bạch hoá chính sách kinh tế - thương mại của Việt Nam và đàm phán
để điều chỉnh hệ thống chính sách cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Để phục vụ
cho các cuộc đàm phán đa phương, ngày 26 tháng 8 năm 1996, Việt Nam nộp bản Bị
vong lục về chế độ Ngoại thương. Bản Bị vong lục được trình bày theo mẫu chung do
Ban Thư ký WTO hướng dẫn. Sau 8 Phiên đàm phán đa phương, Việt Nam đã trả lời
khoảng 2000 câu hỏi của các thành viên Ban Công tác về chính sách kinh tế, thương mại
của Việt Nam, đã cơ bản hoàn thành giai đoạn minh bạch hóa chính sách. Việt Nam đã
đưa ra các chương trình hành động thực hiện các hiệp định liên quan của WTO như Hiệp
định về Xác định Trị giá Hải quan, Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến Thương
mại của Quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định về Kiểm dịch động, thực vật và Hiệp định về các
Hàng rào kỹ thuật đối với Thương mại. Việt Nam cũng đã đưa ra chương trình xây dựng
pháp luật nhằm điều chỉnh chính sách cho phù hợp với qui định của WTO. Căn cứ vào
các câu trả lời của Việt Nam cũng như các tài liệu do ta cung cấp, Ban Thư ký WTO đã
đưa ra tài liệu tổng hợp về hiện trạng chính sách thương mại của Việt Nam (Factual
Summary). Đến Phiên họp 7, Ban Thư ký đã chuyển tài liệu này thành bản “Những nội
dung cơ bản của Dự thảo Báo cáo gia nhập WTO của Việt Nam”. Theo kết luận của Ông
Chủ tịch Ban Công tác tại Phiên 8, từ Phiên 9 sẽ chuyển sang thảo luận Dự thảo báo cáo
của Ban Công tác, tức là đi vào giai đoạn đàm phán cuối về các cam kết đa phương của
Việt Nam khi gia nhập WTO. Phiên họp thứ 9 diễn ra vào tháng 12/2004 là phiên đánh
dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình đàm phán gia nhập của Việt Nam bởi đây là
lần đầu tiên Dự thảo Báo cáo của Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam đã
được đưa ra thảo luận, nghĩa là Việt Nam bắt đầu đi vào giai đoạn cuối về đàm phán các
cam kết đa phương. Hiện nay, Việt Nam đang gấp rút chuẩn bị cho Phiên 10 sắp tới:
Chuẩn bị các câu trả lời cho hơn 300 câu hỏi của các thành viên WTO gửi từ sau Phiên 9
và đang trong quá trình hoàn thiện Dự thảo Báo cáo của Ban Công tác. Bên cạnh đó, kể
từ sau Phiên 9 đến nay, các cuộc đàm phán song phương với các đối tác cũng vẫn đang
tiếp tục diễn ra trên tinh thần cố gắng thu hẹp khoảng cách đàm phán tiến tới sớm kết
thúc đàm phán song phương với các đối tác. Đàm phán song phương: Cho tới nay có 27
đối tác đặt yêu cầu đàm phán song phương với ta trong cả lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ.
b.Để gia nhập WTO trong tương lai, Việt Nam cần phải giải quyết những vấn đề sau:
Hợp tác thương mại toàn cầu bao gồm cả hợp tác thương mại song phương, hợp tác
thương mại khu vực và hợp tác thương mại đa phương. Có thể đánh giá lợi ích của hợp
tác thương mại toàn cầu dựa trên quan điểm của kinh tế học quốc tế và dựa trên thực tế
thương mại quốc tế. Lợi ích đó có thể được khái quát ở những điểm sau:
- Hưởng những đối xử ưu đãi mà các đối tác thương mại dành cho nhau, nhờ đó mở rộng
thị trường cho việc xuất khẩu các sản phẩm sản xuất trong nước. Việc mở rộng thị trường
thông qua thương mại quốc tế giúp các ngành có thể tăng hiệu suất theo qui mô, giảm chi
phí sản xuất bình quân, nhờ đó tăng hiệu quả sản xuất và kinh doanh. Trong hợp tác
thương mại khu vực ASEAN, việc thực hiện Chương trình Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực
Chung (CEPT) đã dẫn tới tạo ra khu vực thương mại tự do ASEAN. Về lý thuyết, tham
gia khu vực thương mại tự do có thể dẫn đến hiệu ứng tạo lập thương mại cho các nước
thành viên, mở rộng thị trường trong khu vực. Việc ký kết Hiệp định Thương mại song
phương với Hoa Kỳ rõ ràng đã giúp mở rộng đáng kể thị trường xuất khẩu của Việt Nam
như được nói tới ở phần trên. Trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng
những đối xử ưu đãi của các Thành viên theo nguyên tắc tối huệ quốc. Dự kiến điều đó sẽ
dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
- Thương mại quốc tế giúp nền kinh tế Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất sâu hơn, tận
dụng được lợi thế so sánh. Nhờ hợp tác thương mại toàn cầu, Việt Nam đã, đang và sẽ
khai thác có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên, lao động và đất đai. Hiện nay, khu vực
sản xuất hướng về xuất khẩu của Việt Nam đã tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao
động. Nếu không có thương mại quốc tế, Việt Nam không thể đạt được sản lượng cao
như hiện nay ở các ngành sản xuất lúa gạo, cà phê, cao su, may mặc, giày da v.v… Hợp
tác thương mại, do vậy, giúp tăng thu nhập quốc dân cũng như thu nhập của người dân,
góp phần xoá đói giảm nghèo, biến đổi bộ mặt của đất nước.
- Hợp tác thương mại toàn cầu hướng tới thương mại tự do và nỗ lực giảm thiểu các rào
cản thương mại. Điều đó sẽ cho phép các nền kinh tế Thành viên giảm chi phí sản xuất,
giảm giá bán đối với bán thành phẩm và thành phẩm dùng cho sản xuất và dịch vụ, giảm
giá hàng tiêu dùng, do vậy giảm được chi phí sinh hoạt. Nhờ thương mại quốc tế những
người tiêu dùng cũng như các nhà sản xuất sẽ có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ
cho tiêu dùng cũng như các sản phẩm đầu vào và dịch vụ phục vụ cho sản xuất. Điều đó
được minh chứng qua thực tiễn của Việt Nam trong suốt hai thập kỷ qua, mặc dù Việt
Nam mới chỉ là Thành viên chính thức của WTO từ tháng 01/2007.
- Thương mại quốc tế là một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Trong số các nhân tố góp phần vào tăng trưởng kinh tế như cầu tiêu dùng, đầu tư, xuất
khẩu thì đối với Việt Nam cũng như Trung Quốc, xuất khẩu có vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong suốt những thập niên gần đây, tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam luôn lớn hơn
tốc độ tăng GDP. Đóng góp của thương mại đối với tăng trưởng kinh tế có được thông
qua việc thương mại đã góp phần mở rộng qui mô sản xuất, ứng dụng công nghệ tiên
tiến, tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài v.v…
- Được đối xử bình đẳng hơn trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Trong hợp tác
thương mại đa phương, các hiệp định của WTO đã đưa ra nguyên tắc bình đẳng trong
thương mại quốc tế và các qui tắc giải quyết tranh chấp. WTO còn lập ra các Cơ quan
Giải quyết tranh chấp với những quy định ưu đãi dành cho các Thành viên đang phát
triển. Nguyên tắc có đi có lại hay hai bên cùng có lợi và cả nguyên tắc đối xử tối huệ
quốc cũng được lấy làm nền tảng của hợp tác thương mại song phương hay khu vực. Giải
quyết tranh chấp trong loại hình hợp tác này tuy được dựa trên các điều luật quốc tế
nhưng những điều luật đó đều phù hợp và phần lớn đều dựa trên các nguyên tắc và Hiệp
định của WTO. Do vậy hợp tác thương mại toàn cầu sẽ cho phép Việt Nam hưởng sự đối
xử bình đẳng trong giải quyết tranh chấp.
- Hợp tác thương mại toàn cầu giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế cả
về mặt kinh tế lẫn chính trị. Trong hợp tác thương mại đa phương, với vị trí là Thành viên
của WTO, Việt Nam có thể có tiếng nói của mình trong các diễn đàn cũng như các cuộc
đàm phán thương mại đa phương để hoạch định chính sách thương mại quốc tế. Trong
hợp tác thương mại khu vực, Việt Nam có điều kiện để khẳng định vai trò và bảo vệ các
lợi ích của mình trong khu vực. Hợp tác song phương góp phần tạo ra mối quan hệ bình
đẳng giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới.
- Thúc đẩy cải cách kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh. Bộ trưởng Bộ Thương mại
Trương Đình Tuyển nói: “Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới tạo ra nhiều cơ hội. Cơ
hội lớn nhất là bằng cải cách hệ thống luật pháp và thể chế kinh tế, chúng ta đã tạo ra môi
trường kinh doanh, đầu tư tốt hơn… khuyến khích mọi người dân vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, giải phóng năng lực của chính họ”
- Khi tham gia hợp tác thương mại khu vực và song phương, đặc biệt khi là Thành viên
của WTO, Việt Nam phải cải cách thể chế kinh tế cho phù hợp với các qui tắc chung
cũng như các cam kết trong khối hoặc song phương. Nhờ đó môi trường kinh doanh trở
nên minh bạch, có thể dự đoán và hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp trong nước cũng
như nước ngoài. Với trách nhiệm thực thi các qui tắc của WTO và các cam kết với tổ
chức này, Việt Nam sẽ không thể trì hoãn mà phải đẩy mạnh các cải cách một cách toàn
diện. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh sẽ phải đẩy nhanh hơn, các
thành phần kinh tế phải được đối xử một cách bình đẳng v.v… Những cải cách kinh tế sẽ
kéo theo các cải cách và sự hoạt động có hiệu quả hơn của các cơ quan chính quyền các
cấp. Thực hiện nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO sẽ góp phần
chống tham nhũng một cách có hiệu quả.
- Tham gia hợp tác thương mại đa phương cũng như khu vực Việt Nam sẽ được hưởng
lợi từ kết quả đàm phán chung. Trong khuôn khổ WTO, nếu Vòng đàm phán Doha kết
thúc thành công, Việt Nam sẽ thu được lợi ích từ các cam kết mở cửa thị trường, đặc biệt
là từ việc giảm thuế và cắt giảm trợ cấp đối với hàng nông sản của các nước công nghiệp.

Câu 7. Phân tích tính cần thiết và vai trò mới của các tổ chức kinh tế quốc tế?

Nếu coi hội nhập quốc tế là động lực phát triển kinh tế - xã hội, việc khai thác được lợi
ích đến đâu và hạn chế các bất lợi thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt
quan trọng là năng lực quốc gia, mà trước hết là chiến lược, chính sách, biện pháp và việc
tổ chức thực hiện hội nhập cũng như cải cách trong nước. Có thể dự đoán rằng, tiến trình
hội nhập toàn cầu sẽ dần chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi cấu trúc hệ
thống ở tất cả các cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia, cũng như chi phối bản thân các
chủ thể và mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hội nhập.
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, đồng thời cũng là chủ thể chính
của quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, còn có các chủ thể khác cũng tham gia vào quá trình
hội nhập quốc tế, trong đó bao gồm các tổ chức hội, mà theo quan điểm của LHQ, là bất
cứ nhóm nào của các cá nhân và/hoặc các thực thể pháp lý tụ họp với nhau để cùng hành
động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung
Cùng với tự do hội họp hòa bình, tự do hiệp hội có tác dụng bảo vệ khả năng của người
dân tập hợp với nhau để cùng hành động vì những điều tốt đẹp , bởi tự do hiệp hội là
phương tiện để thực thi nhiều quyền dân sự, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội khác Chính
vì tầm quan trọng của tự do hiệp hội mà các văn kiện pháp lý quan trọng về nhân quyền
đều ghi nhận và bảo vệ quyền này, cụ thể như: Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới (Điều
20), CƯQT về các Quyền dân sự và chính trị (Điều 22), CƯQT về các Quyền kinh tế, văn
hóa và xã hội (Điều 8), Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc
(Điều 5, ix), Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Điều
7), Công ước về Quyền trẻ em (Điều 15), CƯQT về Bảo vệ các quyền của tất cả người
lao động di trú và các thành viên gia đình họ (Điều 26), Công ước về Bảo vệ tất cả mọi
người không bị đưa đi mất tích (Điều 24), Công ước về Quyền của người khuyết tật
(Điều 29), Tuyên ngôn về những Người bảo vệ nhân quyền (Điều 5), Công ước ILO số
87 về Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền được tổ chức (các điều 1-11), Công ước ILO số 98
về Quyền tổ chức và đàm phán tập thể (các điều 1-6), Công ước ILO số 135 về những
Đại diện của người lao động, v.v.. Ngoài ra, tự do hiệp hội còn được quy định trong các
văn kiện pháp lý nhân quyền khu vực Trong số các văn bản nêu trên, tự do hiệp hội được
quy định trực tiếp nhất trong CƯQT về các Quyền dân sự chính trị. Một trong những nội
dung của Công ước là yêu cầu Nhà nước phải thực hiện các nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo
nhân quyền cho tất cả mọi người trong thẩm quyền tài phán của nước mình, trong đó có
quyền tự do hiệp hội (quyền thành lập hội, quyền gia nhập hội, quyền tham gia, điều hành
hoạt động của hội); nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do hiệp hội (đòi hỏi nhà nước không
được tùy tiện tước bỏ, hạn chế, hay can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc thụ hưởng
các quyền con người); nghĩa vụ bảo vệ quyền tự do hiệp hội (đòi hỏi nhà nước phải ngăn
chặn, xử lý sự vi phạm nhân quyền của mọi chủ thể, bao gồm các cơ quan và nhân viên
nhà nước); nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền tự do hiệp hội (đòi hỏi nhà nước phải có
những biện pháp nhằm hỗ trợ các cá nhân và các nhóm trong việc thực hiện các quyền
con người trên thực tế).
Mặc dù luật nhân quyền quốc tế thừa nhận tự do hiệp hội không phải là một quyền tuyệt
đối, song đồng thời yêu cầu, khi hạn chế quyền tự do hiệp hội, Nhà nước phải theo những
nguyên tắc và phải chịu sự kiểm soát nhất định. Cụ thể, theo quy định tại Điều 29 Tuyên
ngôn Nhân quyền thế giới và khoản 2 Điều 22 CƯQT về các Quyền dân sự chính trị,
quyền tự do hiệp hội chỉ có thể bị hạn chế bằng pháp luật khi cần thiết trong một xã hội
dân chủ, và bởi 4 lý do sau đây: 1) vì lợi ích an ninh quốc gia, 2) an toàn và trật tự công
cộng, 3) bảo vệ sức khỏe công chúng và đạo đức xã hội, 4) bảo vệ quyền và tự do của
người khác.

Câu 8. Sự tham gia của Việt Nam trong các LKKTQT?

Thống kê cho thấy, đến nay Việt Nam đã tham gia ký kết 13 Hiệp định thương mại tự do
(FTA) gồm 7 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN và 6 FTA ký kết với tư cách
là một bên độc lập và hiện đang đàm phán 3 FTA gồm Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực (RCEP), FTA với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA), FTA Việt
Nam-Israel.

Chia sẻ về quá trình tham gia hội nhập, ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính
sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết gia nhập ASEAN từ năm 1995, Việt
Nam đã chính thức mở cửa hội nhập và bắt đầu tham gia các FTA. Tuy nhiên, ban đầu
mới chỉ tham gia FTA với tư cách là thành viên khối ASEAN.

Hơn nữa, giai đoạn này chủ yếu Việt Nam tham gia là các FTA thế hệ cũ, tập trung biện
pháp ở biên giới, ít đi sâu vào quy định trong khuôn khổ chính sách quốc gia.

Không những thế, Việt Nam tham gia vào các FTA này đều ở góc độ bị động bởi tất cả
quy định của ASEAN đều có sẵn, Việt Nam không được đàm phán bất kỳ quy định nào
và lợi ích khi đó hầu như không có, bởi các đối tác trên đều là đối tượng cạnh tranh sát
sườn.

Thế nhưng, với chủ trương đúng đắn của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị,
đến nay Việt Nam tham gia ở thế chủ động hơn trong việc lựa chọn đối tác.

Năm 2018 khép lại với những chuyển biến nhanh và đa chiều trong cục diện kinh tế-
thương mại toàn cầu. Kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng phục hồi song sự nổi lên của chủ
nghĩa bảo hộ, dân túy và nguy cơ chiến tranh thương mại lan rộng khiến Quỹ Tiền Tệ
quốc tế (IMF) vừa qua hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2018 từ mức 3,9%
xuống còn 3,7%.

Những chuyển biến của cục diện kinh tế - thương mại khu vực và toàn cầu có tác động
nhiều mặt tới Việt Nam. Một mặt, chúng ta đứng trước cơ hội mở rộng và đa dạng hóa thị
trường xuất khẩu, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy, làm sâu
sắc quan hệ hợp tác với các nước lớn và các đối tác quan trọng của Việt Nam. Mặt khác,
Việt Nam đứng trước nguy cơ chịu ảnh hưởng từ cọ xát kinh tế - thương mại nước lớn,
biến động của môi trường bên ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, tài chính -
tiền tệ, biến đổi khí hậu, căng thẳng địa chính trị…

Nâng cao hiệu quả hội nhập, liên kết kinh tế trong thời gian tới

Giai đoạn 2019-2020 đánh dấu việc Việt Nam chính thức triển khai các Hiệp định
Thương mại tự do thế hệ mới, trong đó Hiệp định CPTPP có hiệu lực với nước ta từ ngày
14/1/2019. Đây cũng là giai đoạn nước ta hoàn thành các cam kết trong nhiều khuôn khổ
hợp tác kinh tế quan trọng như Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA) và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hong Kong (AKFTA); hoàn tất các
mục tiêu Bogor và thông qua tầm nhìn APEC sau 2020; đảm nhiệm cương vị nước Chủ
tịch ASEAN năm 2020. Việc triển khai hiệu quả công tác hội nhập, liên kết kinh tế tiếp
tục đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực đồng bộ của các cấp, các ngành và toàn xã hội trong đó
lưu ý một số vấn đề sau:

Một là, phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động đóng
góp, tích cực tham gia xây dựng, định hình các thể chế đa phương, các diễn đàn kinh tế
có tầm quan trọng, phù hợp khả năng và điều kiện cụ thể của chúng ta, trong đó cần chú
trọng nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn kinh tế tại châu Á - Thái Bình Dương.

Hai là, hoàn thiện chính sách, khung khổ pháp lý đồng bộ và toàn diện với tầm nhìn dài
hạn nhằm triển khai hiệu quả các cam kết quốc tế của Việt Nam. Trong đó, chú trọng sửa
đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản, quy định pháp luật liên quan đến các cam kết
của Việt Nam trong các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định CPTPP,
bao gồm các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, môi trường, lao động...
Ba là, nâng cao năng lực hội nhập và liên kết kinh tế, chú trọng thực thi các nhóm giải
pháp nêu trong Chỉ thị số 38/CT-TTg ngày 19/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường thực hiện và khai thác hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do đã có hiệu lực,
Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 4/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn. Trước mắt, các bộ, ban, ngành, địa
phương, doanh nghiệp cần có phương án, giải pháp khai thác tối đa lợi thế của các Hiệp
định Thương mại tự do, hướng tới mở rộng thị phần tại những ngành hàng xuất khẩu Việt
Nam có thế mạnh, đem lại giá trị gia tăng cao và xác lập chỗ đứng vững chắc trong các
chuỗi cung ứng, mạng sản xuất khu vực và toàn cầu.

Bốn là, đẩy mạnh phổ biến thông tin về thuận lợi và thách thức, nội dung các cam kết có
tác động trực tiếp đến các địa phương và doanh nghiệp trong các Hiệp định Thương mại
tự do thế hệ mới liên quan đến mở cửa thị trường, sở hữu trí tuệ, lao động… Các bộ,
ngành hữu quan cần làm tốt vai trò thông tin, cảnh báo sớm cho địa phương và doanh
nghiệp về các điều chỉnh chính sách của các nước có khả năng tác động tiêu cực tới các
lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam.

Năm là, nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và phòng vệ
thương mại. Các cơ quan hữu quan cần theo sát tiến trình cải tổ Tổ chức Thương mại thế
giới, nhất là liên quan đến hoạt động của cơ chế giải quyết tranh chấp, để kịp thời có
tiếng nói bảo đảm lợi ích của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại thế giới.

Những dấu ấn nổi bật của công tác hội nhập, liên kết kinh tế đã tô điểm cho bức tranh
tươi sáng về hội nhập và đối ngoại đa phương của đất nước trong năm 2018. Với quyết
tâm, nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, chúng ta tin tưởng tiến trình hội nhập, liên kết
kinh tế sẽ tiếp tục đem lại những hiệu ứng tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các mục
tiêu phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước.

Câu 9. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia LKKTQT
a. Cơ hội:

 Với triển vọng hoàn tất đàm phán và triển khai Hiệp định FTA trong giai đoạn
đến năm 2020, lần đầu tiên nước ta sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của mạng lưới
liên kết kinh tế rất rộng lớn với tất cả các trung tâm và các nền kinh tế hàng đầu thế
giới. Các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những thuận lợi
lớn chưa từng có để mở rộng thị trường xuất khẩu, với tư cách là một đối tác bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử, theo mức thuế ưu đãi, thậm chí là 0%, với 56 đối tác
mà ta có hiệp định FTA. Ðây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản
xuất hàng hóa, dịch vụ của nước ta, tạo thêm việc làm, góp phần tăng cường ổn định
kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
 Hội nhập quốc tế sâu rộng, tạo động lực mới để thúc đẩy đổi mới, hoàn thiện
môi trường pháp lý, thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, chính sách kinh tế,
cơ chế quản lý trong nước ngày càng minh bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu
tư, kinh doanh trong nước, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài
chính lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến.

b. Thách thức:
 Với xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước tham gia FTA, thách thức đối
với các cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội, người lao động trong nước là sức ép về trình
độ, tri thức và tay nghề, nguy cơ tranh chấp quốc tế (các FTA mới có quy định cao về
giải quyết tranh chấp)… Trong khi lực lượng lao động nước ta chưa qua đào tạo còn
chiếm tỉ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu; Đội
ngũ cán bộ, công chức nước ta thiếu và hạn chế về năng lực hội nhập; thiếu đội ngũ
luật sư giỏi để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp.
 Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, những biến động trên thị trường tài chính, tiền
tệ, thị trường hàng hóa quốc tế, xung đột, tranh chấp sẽ tác động nhanh hơn, mạnh hơn
đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của
ta; thách thức về bảo đảm an ninh, giữ gìn bản sắc dân tộc, sự phát triển không đều…
 Những yếu kém, bất cập trong nước bộc lộ rõ hơn và nếu không được xử lý kịp
thời và thỏa đáng thì sẽ làm gia tăng nguy cơ tụt hậu của nước ta. Chuyển biến trong tư
duy trong nước chưa kịp với tình hình quốc tế và tốc độ hội nhập quốc tế của nước ta.
Khu vực tư nhân còn manh mún, quy mô nhỏ, thiếu nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng
quản trị… Các hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp hiểu và tham gia hội nhập rất hạn
chế, thụ động. Cơ chế điều phối còn bất cập.

You might also like