You are on page 1of 92

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP

MÔN: TRIẾT HỌC


Đối tượng: Sau đại học

Nguồn Sưu Tầm


 Tập thể lớp Cao học LTXS & TKTH K21
 Tập thể lớp Cao học Toán giải tích K21
 Nguyễn Hữu Cần (Toán Giải tích K21)
 Mai Hoàn Hảo (Phương pháp dạy học môn Toán K21)

Tổng hợp và Trình bày: Nguyễn Hữu Cần


Liên hệ: nguyenhuucan@gmail.com – www.nhcan.WordPress.com

2016
Chú ý:
Để sử dụng tốt nguồn tài liệu này, bạn đọc nên mang theo các tài liệu sau vì có
những câu có sẵn trong tài liệu sau đây sẽ không soạn lại trong tài liệu này mà chỉ ghi số
trang rồi bạn đọc tự tra cứu.
1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không
chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc Quyên.
3. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin (2010) của thầy
Nguyễn Viết Thông.

Chia sẻ một số kinh nghiệm:


 Chuẩn bị đầy đủ tài liệu (giấy), mặc dù là đề mở nhưng học viên không được phép
mang laptop và điện thoại (đã có rất nhiều người chủ quan đề mở nên không mang tài
liệu mà chỉ mang laptop chứa file này – do tiết kiệm chi phí in ).

 Tranh thủ đọc hết tất cả các câu hỏi để khi đọc đề xong tìm nhanh hơn.
 Ghi nhanh và rõ nhất có thể (tôi dám chắc vừa tra cứu, vừa ghi thì bạn sẽ không kịp
giờ nếu chủ quan).

 Điều cuối cùng: Đây là tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo. Khóa sau hãy bỏ chút
thời gian ra để bổ sung thêm vào tài liệu này được đầy đủ hơn.
Chúc mọi người đạt kết quả cao.
Nguyễn Hữu Cần

MỤC LỤC

Phần I: Thầy Quyên 3 câu .......................................................................................... 1


Câu 1: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam. ...............................................................1
Câu 2: Phân tích quan điểm triết học Phật giáo về nhân sinh của phật giáo. Ý nghĩa
về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo............................................................................................3
Câu 3: Phân tích tư tưởng triết học Mạnh tử trong lịch sử triết học trung hoa cổ?......5
Câu 4: Nội dung quan điểm triết học duy vật của Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN) ...........6
Phần II: Thầy Triết 9 câu ........................................................................................... 8
Câu 1: Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và nêu ý nghĩa của quy luật? Trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn thì bản chất anh chị vận dụng ý nghĩa đó như thế nào? 8
Câu 2: Trình bày nội dung, ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập? .............................................................................................................................................10
Câu 3: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của phương
pháp luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay? ............................................................................................. 12
Câu 4: Phân tích nội dung của nguyên tắc toàn diện. Cho biết trong thực tiển , anh
/chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ? .......................................................................... 14
Câu 5: Phân tích nội dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn,
anh /chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ? ................................................................. 14
Câu 6. Phân tích nội dung của nguyên tắc phát triển ............................................................. 18
Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức,
thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra cơ sở lý luận không phân tích
nội dung) .................................................................................................................................................. 19
Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và
hoạt động thực tiển. ............................................................................................................................. 21
Câu 9: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm (toàn diện/ lịch sử cụ thể/ phát triển)
trong hoạt động nhận thức, thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra
cơ sở lý luận không phân tích nội dung)..................................................................................... 22
Phần III: Thầy Sơn 5 câu ......................................................................................... 24
Câu 1: Trình bày sự vận dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. ................................................ 24
Câu 2: Nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì? . 25
Câu 3: Trình bày mối quan hệ giai cấp và dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đấu
tranh giai cấp với phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.27
Câu 4: So sánh sự giống và khác nhau giữa nhà nước pháp quyền Tư sản và nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa................................................................................................ 31
Câu 5: Trình bày vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
(bản chất, điều kiện lịch sử hình thành, mục tiêu, đặc trưng, xây dựng con người). 31
Phần IV: Sưu Tầm Các Đề Thi Khóa Trước .......................................................... 35
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học Phật giáo về thế giới
trong lịch sử triết học Ấn Độ Cổ - Trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt
Nam? .......................................................................................................................................................... 35
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích điểm khác nhau giữa triết học siêu hình và triết học
duy vật biện chứng khi xem xét “nguyên tắc về sự phát triển”. ........................................ 35
Câu 3: Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ
giữa nhận định trên của Đảng và vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta giai đoạn hiện
nay. ............................................................................................................................................................. 36
Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học duy vật của Đê-mô-crít trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên? ......................................... 36
Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể trong
phép biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh
(chị) vận dụng quan điểm đó như thế nào? ................................................................................36
Câu 6: Trình bày bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
giai đoạn hiện nay. Từ đó, hãy chỉ rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của người Việt
Nam? ..........................................................................................................................................................38
Câu 7: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học của Democrit (460 - 370
trcn). ...........................................................................................................................................................38
Câu 8: Anh (chị) phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về
sự phát triển.............................................................................................................................................38
Câu 9: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta giai đoạn hiện nay....................................................................................................40
Câu 10: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học của Mạnh Tử trong lịch sử triết
học Trung Hoa cổ, trung đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên? Anh (chị) rút ra ý
nghĩa gì từ phân tích vấn đề trên? ..................................................................................................42
Phần V: Sưu Tầm Một Số Câu Hỏi Khác ............................................................... 43
Câu 1: Phân tích những điều kiện ra đời của triết học Mác và nêu những giai đoạn
chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác – Lenin. ........................ 43
Câu 2: Khái niệm thế giới quan, các hình thức thế giới quan, bản chất và những
nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng
chúng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?. ..................................................... 46
Câu 3: Trình bày lịch sử của phép biện chứng, những nội dung cơ bản của phép biện
chứng và sự vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay .......................................................................................... 48
Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển? Vận
dụng quan điểm toàn diện và phát triển như thế nào trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay? ............................................................. 49
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa
của phương pháp luận cảu quy luật này trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở
nước ta hiện nay? ......................................................................................................... 50
Câu 7: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay? ...................................................... 52
Câu 8: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc ở nước ta hiện nay? ......................................................................................... 53
Câu 9: Quan niệm của triết học Mác – Lênin về thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm này trong việc đổi
mới tư duy lý luận và nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta? ........ 54
Câu 10. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về lý luận và thực tiễn, quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn? Đảng ta vận dụng quan hệ này vào việc đổi mới tư duy lý luận như
thế nào?........................................................................................................................ 54
Câu 11: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất? Luận chứng
cho thấy, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp? .................... 55
Câu 13 :Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ? Vận dụng quy luật này luận chứng tính tất yếu
của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay ? ................................................................................................................. 56
Câu 15: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng XH? Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải
cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay? ..................................................... 59
Câu 16: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng XH để phân tích vai trò của nhà nước đối với sự phát triển XH ở nước ta hiện
nay?1. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT 61
Câu 17: Phân tích luận điểm của Mác: “Tôi coi sự phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN hiện nay? ............................................. 62
Câu 18: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - XH của Mác. Phân tích tính tất yếu của
việc định hướng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ? ............ 63
Câu 19 : Phân tích nội dung những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam................................................................................. 64
Câu 20: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp,
dân tộc, nhân loại và sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng hiện nay? ............................................................................................................ 65
Câu 21: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về nguồn gốc và bản chất của nhà
nước? Bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN? những đặc trưng của nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay? .................................................................. 66
Câu 23: Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng con
người? Ý nghĩa của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay? ........................................................................................ 68
Phần VI: Đề Và Đáp Án Trong Một Số Kì Thi ...................................................... 70
Phần I: Thầy Quyên 3 câu

Câu 1: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam.

* Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca


Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào thế kỉ VI – TCN. Người sáng lập Phật
giáo là thái tử Tất Đạt Đa, họ Gôtama. Phật sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 TCN, nhưng theo
truyền thống Phật lịch là ngày rằm tháng tư (15/4) gọi là ngày Phật Đản. Ông là con vua
Tịnh Phạn, trị vì một xứ nhỏ ở trung lưu song Hằng là Ca tỳ la vệ. Cuộc sống nơi cung đình
đã tạo cơ hội cho ông chăm lo việc học hành, lễ bái, yến tiệc và giải trí. Vì vậy, ông không
hay biết những gì đen tối, cực nhọc, nỗi bất hạnh diễn ra ngoài xã hội. Năm 17 tuổi, ông
cưới vợ và sinh được một người con trai đặt tên là La Hầu La. Sau bốn lần trực tiếp ra ngoài
thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của kiếp người, ông quyết noi theo các đạo sĩ tu theo
lối sống khổ hạnh.
Năm 29 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn sĩ. Sau 6 năm tu khổ hạnh, ông chợt
nhận thấy rằng, lối tu đó cũng không giải thoát con người khỏi nỗi đau sinh, lão, bệnh, tử.
Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như
nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ông đã phát hiện ra con đường “trung
đạo”, một con đường có thể dẫn con người đến sự giải thoát. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày
chìm đắm trong những tư duy sâu thẳm, ông tuyên bố đã đạt đến chân lí, đã hiểu được bản
chất sự tồn tại của nhân sinh, Từ đó, ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni – tức người giác ngộ
chân lí đầu tiên có họ là Thích Ca. Ông bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu nạp đệ
tử, thành lập các tang đoàn Phật giáo. Vào năm 483 TCN, ông tạ thế.
Xét về mặt triết học, Phật giáo được coi là triết lí thăng trầm về vũ trụ và con người.
Với mục đích giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con
người. Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần
chúng lao động. Nó trở thành biểu tượng của lòng từ bi bát ái trong đạo đức truyền thống
của các dân tộc châu Á.
Kinh điển của Phật giáo rất đồ sộ, bao gồm 3 bộ phận gọi là Tam tạng kinh, đó là: Tạng
kinh (ghi lại những lời dạy của Phật Thích Ca, Tạng luật (những điều quy định mà giáo
đoàn Phật giáo phải tuân theo), Tạng luận (các tác phẩm luận giải về Phật giáo của các học
giả cao tăng về sau).
* Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù là: vô ngã, vô thường và duyên.
- Quan điểm “vô ngã” (không có cái “ta”, cái “tôi” chân thực): Phật giáo cho rằng thế
giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần sáng tạo ra mà được cấu
thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố vật chất và tinh thần. Vật chất gọi là “sắc”, là cái có thể
cảm giác được, nó bao gồm đất, nước, lửa, không khí. Tinh thần là “danh”, không có hình
chất mà chỉ có tên gọi, bao gồm thụ (cảm thụ), tưởng (sự suy nghĩ, tư tưởng), hành (ý muốn
thúc đẩy hành động), thức (sự nhận thức). Chính cái “danh” và cái “sắc” đó kết hợp với
nhau tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự
tồn tại chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó,
không có cái “bản ngã” hay cái tôi chân thực.
- Quan điểm “vô thường” (vận động biến đổi không ngừng): qua điểm này cho rằng
thế giới là dòng biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận: sinh, trụ, dị, diệt.

1
- Quan điểm “duyên” (điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả): Phật giáo cho rằng,
mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của
luật nhân duyên. Trong đó, duyên là điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả, kết quả ấy
lại nhờ có duyên mà trở thành nguyên nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành kết
quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật. Ví dụ: Hạt lúa là
nguyên nhân, nhờ có duyên (đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, …) mà có kết quả là cây lúa.
Trong thực tế, quá trình nhân – quả là vô tận. Quá trình trước là cơ sở, nguyên nhân cho
quá trình sau. Ví dụ: Tốt nghiệp lớp 12 là kết quả của 12 năm học tập, đồng thời là nguyên
nhân cho vào đại học. Tuy nhiên, tốt nghiệp 12 đồng thời cũng là nguyên nhân cho việc học
cao học …
Như vậy, thong qua phạm trù vô ngã, vô thường và duyên, triết học Phật giáo đã bác bỏ
qua điểm duy tâm cho rằng Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng
con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế
giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế
giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
* Quan điểm của triết học Phật giáo về nhân sinh
Nội dung triết lí nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu
đế” tức là bốn chân lí tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Khổ đế: Cuộc đời của mỗi con người là một bể khổ, ít nhất có tám nỗi khổ (bát khổ),
đó là sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt (thương nhau mà phải xa nhau), oán tang hội (ghét nhau
mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu
tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng khổ.
- Nhân đế (tập đế): Giải thích nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ của
con người là có nguyên nhân, có 12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị nhân
duyên”.
1. Vô minh: Không sáng suốt.
2. Duyên hành: Ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: Quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan.
6. Duyên xúc: Sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7. Duyên thụ: Sự cảm thụ, nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
8. Duyên ái: Sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên
ngoài.
9. Duyên thủ: Do yêu thích mà muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10. Duyên hữu: Sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: Sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: Già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nỗi đau
nhân loại.
- Diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt được trạng
thái Niết bàn.
- Đạo đế: Con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con đường giải
thoát khỏi nỗi khổ để đạt đến hạnh phúc. Phật giáo đưa ra 8 con đường chân chính gọi là
“bát chính đạo”.
1. Chính kiến: Hiểu đúng đắn tứ diệu đế.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.
3. Chính ngữ: Nói năng đúng đắn.
2
4. Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn.
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6. Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng.
7. Chính niệm: Tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
8. Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô
ngã, vô thường.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ được vô minh, đạt tới
sự giải thoát, nhập vào Niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử
luân hồi.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi
người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là bất sát
(không được sát sinh), bất dâm (không được dâm dục), bất vọng ngữ (không được nói năng
thô tục, bậy bạ), bất ẩm tửu (không được rượu trà), bất đạo (không được trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo là một trào lưu triết học lớn của Ấn Độ trung đại. Ở giai đoạn đầu,
học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng về thế giới.
Phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất
công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời, nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con
người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bát ái,
góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên, triết lí nhân sinh của Phật giáo vẫn còn
mang nặng bi quan không tưởng và duy tâm về mặt xã hội.
* Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Với bản chất từ bi, bát
ái, hỷ xả, Phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên
mảnh đất này. Phật giáo truyền vào nước ta bằng 2 con đường: từ Trung Hoa và từ phía
Nam. Do phù hợp với truyền thống, đạo đức của người Việt Nam nên Phật giáo thâm nhập
vào VN một cách tự nhiên.
Từ khi vào VN đến nay, PG đã tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống VN. PG
đã trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, góp phần kiến lập và bảo vệ chế
độ phong kiến vững mạnh, giữ vững độc lập dân tộc.
Trước đây, PG có công trong việc đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc. Trong đó có
nhiều vị thiền sư, quốc sư có đức độ và tài năng giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu,
Pháp Nhuận, Vạn Hạnh, Viên Thiếu, Không Lộ, … Bản chất từ bi hỷ xả ngày càng thấm
sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và vua quan vào con đường thiện
nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân vì nước.
Vào thời cực thịnh, PG là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị,
văn hóa, khoa học, giáo dục, …Nhiều tác phẩm văn học có giá trị, nhiều công trình kiến trúc
độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tầm quốc tế của VN được xây dựng vào thời kì này.
Từ cuối tk XIII cho đến nay, PG không còn là quốc giáo nữa nhưng những giá trị tư tưởng
tích cực của nó vẫn còn là nhu cầu, sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.

Câu 2: Phân tích quan điểm triết học Phật giáo về nhân sinh của phật giáo. Ý nghĩa
về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo
1. Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca:
Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI tr.CN.
Người sáng lập ra phật giáo là Tất Đạt Đa (Siddharta), họ là Gôtama, dòng họ này thuộc bộ
tộc Sakya. Ông là thái tử của vua Tịnh Phạn, vua một nước nhỏ ở Bắc Ấn Độ lúc đó (nay
thuộc đất Nêpan) sáng lập.

3
Về năm sinh của phật hiện nay có nhiều tài liệu khác nhau nhưng nhìn chung nhiều ý
kiến cho rằng phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông sinh ngày 8/4 năm 563 tr.CN nhưng theo
truyền thống phật lịch thì tính là ngày 15/4 ( rằm tháng tư ) gọi là ngày phật đản.
Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc dòng dõi Đế Vương, nhưng trước bối cảnh xã
hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực của con người trước những khó khăn của
cuộc đời và xã hội đã khiến ông sớm có ý định từ bỏ cuộc đời giàu sang phú quý để đi tìm
đạo lí cứu đời. Vì vậy năm 29 tuổi người đã rời bỏ hoàng cung xuất gia tu đạo, đến năm 35
tuổi người đã đắc dạo tìm ra chân lí. Ông trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới gọi là
phật giáo.
Từ đó người đi khắp nơi để truyền bá đạo lí của mình, sau này ông được suy tôn với
nhiều danh hiệu khác nhau: đức phật (Buddha), Người giác ngộ hay Thích Ca - mâu ni
(sakyamuni), Thánh thích ca (vị thánh dòng họ thích ca ). Xét về mặt triết học, phật giáo
được coi là triết lí thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người.
Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống
đức độ của con người, phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông
đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức
truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi
là Tam tạng kinh bao gồm:Tạng kinh: ghi lại những lời dạy của phật thích ca; Tạng luật:
những điều quy định mà giáo đoàn phật giáo phải tuân theo; Tạng luận: các tác phẩm luận
giải về phật giáo của các học giả cao tăng về sau.
2. Quan điểm về triết lý nhân sinh của phật giáo:
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
diệu đế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời và con người là bể khổ, ít nhất có tám nỗi
khổ. Đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau mà phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không
được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng
khổ.
- Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng
nỗi khổ của con người là có nguyên nhân, phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân của sự khổ gọi
là thuyết “thập nhị nhân duyên”.
1) Vô minh: Là không sáng suốt.
2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan.
6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
8) Duyên ái: Là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới
bên ngoài.
9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nỗi khổ
đau nhân loại.

4
– Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt tới
trạng thái niết bàn.
– Bốn là đạo đế: Là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con
đường giải thoát khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh phúc. Phật giáo đưa ra tám con đường chân
chính gọi là (bát chính đạo).
1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ diệu đế.
2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm việc
thiện.
5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng, không biết mệt mỏi.
7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về
vô ngã, vô thường.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi
người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là: bất sát
(không được sát sinh); bất dâm (không được dâm dục); bất vọng ngữ (không được nói năng
thô tục, bậy bạ); bất ẩm tửu (không được rượu trà); bất đạo (không được trộm cướp).
3. Ý nghĩa về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo
- Về mặt tích cực: phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc
nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do bình đẳng xã hội. đồng thời nêu lên khát vọng giải
thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, làm cho con người không ngừng tu dưỡng
phẩm chất, đạo đức cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: trong triết lý nhân sinh của phật giáo vẫn mang nặng tính bi quan
không tưởng và duy tâm về xã hội.

Câu 3: Phân tích tư tưởng triết học Mạnh tử trong lịch sử triết học trung hoa cổ?

Mạnh Tử (327-289 trước Công Nguyên) tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh ra tại nước Lỗ,
nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là người kế thừa xuất sắc tư tưởng trường phái
Nho gia, thực chất là kế thừa quan điểm và tư tưởng của nhà triết gia Khổng Tử. Ông đã hệ
thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử thể hiện ở ba nội dung:
a. Quan điểm về thế giới quan
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng tử và đẩy thế giới quan ấy đến
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không có mệnh
trời, mình nên tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó Mạnh Tử đưa ra học
thuyết “vạn vật đều có đủ trong ta nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả” nghĩa là
không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả.
b. Quan điểm về bản chất con người
Ông là người đi sâu vào việc lý giải bản chất con người, ông cho rằng con người khi
sinh ra vốn là thiện “nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Tính thiện đó là do thiên phú mà có chứ
không phải là do con người chọn, nếu như con người biết nuôi dưỡng, giữ gìn thì làm cho
tính thiện ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu như không biết nuôi dưỡng, giữ gìn thì làm cho
tính thiện ngày càng mai một đi, con người trở nên xấu xa, nhỏ nhen, ti tiện không khác gì
loài cầm thú.

5
Từ đó Mạnh Tử kết luận rằng bản chất con người là thiện nhưng trong hiện thực thì
con người có thể là ác. Đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn.Cho nên để
thiết lập quốc gia thái bình, thịnh trị thì phải lại con người tính thiện bằng đường lối chính
trị lấy con người làm gốc.
c. Quan điểm về chính trị xã hội
Trong học thuyết, quan điểm về chính trị - xã hội Mạnh Tử có nhiều tiến bộ, đặc biệt là tư
tưởng của ông về dân quyền, tức là quan điểm về quần chúng nhân dân. Ông là người đầu
tiên đề cao vai trò của người dân, ông cho rằng: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”.
Với tinh thần ấy, Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ “bảo dân, dưỡng dân” – bảo vệ
cho dân, nuôi dưỡng, chăm lo cho dân, phải tạo cho dân có nhà cửa ruộng vườn. Vì vậy, ông
chủ trương khôi phục lại chế độ “đinh điền” để chia ruộng đất cho dân, để cho dân có tài
sản, ông cho rằng dân có hằng sản thì mới hằng tâm. Đồng thời ông khuyên các bậc vua
chúa phải tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức
mới mẻ và tiến bộ của ông, khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của Nho gia
hàng loạt vấn đề mới mẻ, toát lên tinh thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.

Câu 4: Nội dung quan điểm triết học duy vật của Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN)
Đêmôcrit là một trong những nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế giới cổ đại. Ông
sinh ra ở Apđe, một thành phố thương mại lớn nhất vùng Tơ – ra – xơ trong một gia đình
giàu có, có điều kiện để học tập và đi du lịch nhiều nơi, do vậy ông có tầm hiểu biết rộng,
nắm được hầu hết những kiến thức đương thời như: Triết học, Logic học, Toán học, Vũ trụ
học, Vật lý học, Sinh vật học, Tâm lý học, Đạo đức học, Mỹ học, Ngôn ngữ học, … Vì vậy,
ông được coi là người có bộ óc bách khoa đầu tiên của Hy Lạp. Quan điểm duy vật của ông
được thể hiện ở những nội dung sau:
Quan điểm về thế giới
Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi vật là nguyên tử. Nguyên tử là
phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được nữa, không nhìn thấy được, không âm thanh,
không màu sắc, không mùi vị và tồn tại vĩnh viễn.
Theo quan điểm của Đêmôcrit, sự vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo
nên. Tính đa dạng của các nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên
tử tự vận động nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới
chuyển động không ngừng. Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit nêu lên khái niệm không
gian là khoảng trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với nhau. Ông là người đã
thấy mối liên hệ giữa vật chất, vận động và không gian. Ở đây, Đêmôcrit đã thể hiện lập
trường duy vật về tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của ông là tư tưởng quyết định luận, nghĩa là ông
giải thích mọi hiện tượng biến đổi theo quy luật nhân quả. Theo ông vũ trụ do vô số thế giới
tạo nên. Do những sự vật kết hợp khác nhau (tập trung và phân tán) của những nguyên tử
luôn vận động trong không gian và tuân theo quy luật của tự nhiên đã tạo nên sự xuất hiện
và diệt vong của vô số thế giới, hợp thành vũ trụ. Ông cho rằng sự sống là kết quả của quá
trình biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi trường
nước là bùn, dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới nước, sau đó dần dần xuất
hiện sinh vật có vú sống trên cạn, cuối cùng là con người trên quả đất.
Sự thừa nhận tính quy luật, tính nhân quả trong triết học của Đêmôcrit là thành quả
có giá trị của triết học duy vật cổ đại Hy Lạp. Song, ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên và cho
rằng trong cuộc sống nếu chỉ dựa vào ngẫu nhiên thì chỉ làm cho con người thêm lười biếng
mà thôi. Ông bác bỏ quan điểm duy tâm, xem linh hồn là bản nguyên của thế giới. Ông cho

6
rằng linh hồn cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu nó cũng chết cùng với cái chết
của cơ thể.
Về lý luận nhận thức
Đêmôcrit là người có công đặt nền móng cho sự hình thành lý luận nhận thức chủ
nghĩa duy vật. Ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người về thế giới. Ông chia nhận
thức ra làm hai dạng: Nhân thức cảm tính do các giác quan đem lại gọi là nhận thức mờ tối,
thực chất là trực quan sinh động và dạng nhận thức chân lý thông qua phán đoán logic, thực
chất là giai đoạn tư duy trừu tượng. Ông cho rằng dạng nhận thức chân lý phản ánh được
bản chất của sự vật và hai dạng nhận thức này có liên hệ chặt chẽ với nhau và đều có vai trò
quan trọng nhưng dạng nhận thức chân lý đáng tin cậy hơn vì có khả năng phản ánh được
bản chất của sự vật.
Đêmôcrit còn là người đặt nền móng cho sự ra đời của logic học với tư cách là khoa
học của tư duy. Ông là người đầu tiên trong lịch sử viết tác phẩm “Bàn về logic học”. Ông
coi logic học là một công cụ để nhận thức các hiện tượng của tự nhiên.
Ví dụ:
Từ những đặc điểm riêng – đến đặc điểm chung – đến khái niệm
+ Cây lúa có đặc điểm: Lá hình mác, thân thảo, rễ chùm. Cây xoài có đặc điểm: Lá
hình bầu dục, thân gỗ, rễ cọc. Cây mít có đặc điểm: Lá hình bầu dục, thân gỗ, rễ cọc. Các
cây này đều có đặc điểm chung là đều có lá, thân, rễ - Khái niệm “Cái cây”.
+ Từ các đặc điểm: Động vật biết chế tạo công cụ lao động và có ý thức – Khái niệm
“Con người” vừa là thực thể sinh vật vừa là thực thể xã hội.
+ Từ các đặc điểm chung và các dạng vật chất vô cơ, vật chất hữu cơ, vật chất xã hội
là đều tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người – Khái niệm “Vật
chất”.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội
Đêmôcrit phê phán mạnh mẽ tôn giáo. Ông cho rằng những thần thánh của tôn giáo
Hy Lạp chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự nhiên hay thuộc tính của con
người. Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ chống lại bọn
chủ nô quý tộc.
Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Theo ông, phẩm chất con
người không phải ở lời nói mà ở việc làm. Con người cần hành động có đạo đức, còn hạnh
phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, ở khả năng tinh thần nói chung và đỉnh cao hạnh
phúc là trở thành nhà thông thái, trở thành công dân của thế giới.
Tóm lại, những quan điểm, tư tưởng triết học của Đêmôcrit còn mang tính chất phát, mộc
mạc, trực quan, song nó đã đưa triết học duy vật Hy Lạp cổ đại lên bước tiến mới, đóng góp
cho kho tàng triết học của nhân loại những thành quả vô giá.

7
Phần II: Thầy Triết 9 câu

Câu 1: Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và nêu ý nghĩa của quy luật? Trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn thì bản chất anh chị vận dụng ý nghĩa đó như thế nào?

 Khái niệm
- Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các
thuộc tính, các đặc trưng để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
- Lượng là tính quy định bên trong vốn có của sự vật biểu hiện bằng con số của các
thuộc tính, tổng số những đại lượng, trình độ và quy mô phát triển của nó.
 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Chất và lượng của sự vật hiện tượng là 2 mặt thống nhất quy định lẫn nhau. Sự thống
nhất phụ thuộc lẫn nhau giữa chất và lượng được thể hiện trong quan hệ nhất định và trong
quan hệ đó chất và lượng cùng quy định sự tồn tại của sự vật thì quan hệ đó gọi là độ của sự
vật. Vậy, độ là giới hạn và trong giới hạn độ của mình sự vật còn là nó chưa biến thành sự
vật hiện tượng.
- Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng liên hệ tác động lẫn nhau làm
cho sự vật vận động biến đổi, sự vận động biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự
thay đổi vượt quá giới hạn độ dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất gọi là bước
nhảy và ở thời điểm xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
- Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn trong
quá trình vận động liên tục của sự vật nhưng nó không chấm dứt sự vận động nói chung mà
chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật
 Ý nghĩa
- Quy luật lượng chất giúp ta hiểu được bước nhảy làm cho chất mới ra đời thay thế
chất cũ. Và chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn độ. Do đó trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để có sự thay đổi về chất phải quan tâm đến quá trình tích lũy
về lượng và khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn độ thì phải thực hiện bước nhảy. Đó là yêu
cầu khách quan của sự vận động phát triển của sự vật.
- Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy: quy
luật của tự nhiên và quy luật của quy luật của đời sống xã hội đều có tính khách quan. Song
sự khác nhau giữa quy luật của giới tự nhiên và quy luật của đời sống XH là ở chổ: quy luật
trong giới tự nhiên diễn ra tự phát, còn quy luật của đời sống XH chỉ được giải quyết thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, trong hoạt động thực tiễn chẳng những
chúng ta phải xác định được quy mô và nhịp điệu bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi,
chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời cơ thực hiện kịp thời các bước nhảy khi điều
kiện cho phép.
 Vận dụng
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bản thân em vận dụng ý nghĩa đó
vào trong học tập như sau:
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về
thể xác, tinh thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để
phục vụ cho bản thân. Ti thức tồn tài dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy
con người có thể tiếp thu nó bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh
nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều
kiện,… của mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy

8
luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ
làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến
đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong phú, ở ví dụ này chúng
tôi chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông qua quá trình học tập và rèn luyện
của học sinh, sinh viên và học viên.
Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông kéo dài
trong suốt 12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị
những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những
hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của
mỗi học sinh là một quá trình dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà
còn chính tử sự nỗ lực và khả năng của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể hiện ở
chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một lượng kiến thức nhất định qua từng bài học
trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua
các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng
kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và chuyển sang 1 giai đoạn mới. Như
vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập
tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là
bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự
thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến
thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu
bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học.
Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi
đại học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã
có sự tích lũy đây đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của
lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì SV cũng phải tích lũy
đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại học có sự khác
biệt về chất so với học phổ thông, sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên ko chỉ tiếp thu kiến
thức một cách đơn thuần mà phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà
giảng viên đã cung cấp. Nói cách khác, ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn
về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa
dạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ
sự thay đổi về chất do sự tích lũy về lượng trước đó (ở bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới
cũng tác động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của
sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh lên tầm tri thức cao hơn.
Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy các học phần của sinh viên
chính là độ, các kì thi chính là điêmt nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy,
trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp. Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại
đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với giai đoạn trước. Quá trình
đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính
bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã hội.
Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có
ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân người học mà còn rất có ý nghĩa
với công tác quản lý và đào tạo. Thực tế trong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải
nhiều sai lầm trong tư duy quản lý cũng như trong hoạt động đào tạo thực tiễn. Việc chạy
theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của ngành giáo dục bởi vì mặc dù sẹ
tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện
9
“thành công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết
quả là trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những lớp người không “lượng”
mà cũng chẳng có “chất”.
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực
hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành
tích trong giáo dục ở bậc phổ thông và đào tạo đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế
sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được học vượt tiến độ chính là việc áp dụng
đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người.

Câu 2: Trình bày nội dung, ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập?

Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng, nói lên nguồn gốc động lực của
sự phát triển. Lê-nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, nghĩa là nắm bắt
được quy luật này sẽ là cơ sở để hiểu các quy luật khác và hiểu được nguồn gốc vận động,
phát triển của mọi hiện tượng.
1. Nội dung của quy luật
1.1 Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến
- Phép siêu hình: phủ nhận mâu thuẫn bên trong bản thân của sự vật, hiện tượng, cho
rằng chỉ có sự khác nhau giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và trong xã
hội nếu có mâu thuẫn sẽ làm cho xã hội tan rã còn trong tư duy nếu có mâu thuẫn thì đó là
sự suy nghĩ sai lầm.
- Phép biện chứng duy vật:
+ Khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều có mâu thuẫn bên trong và mỗi sự vật, hiện
tượng là thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Các
mặt đối lập liên hệ bài trừ, gạt bỏ lẫn nhau thì tạo nên mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó có mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh
với nhau.
+ Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn phổ biến, mâu thuẫn tồn
tại một cách khách quan ở mọi sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình của sự vật và không
có sự vật, hiện tượng nào không có mâu thuẫn, nếu không có mâu thuẫn này cũng sẽ có mâu
thuẫn khác, mâu thuẫn có trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy.
* Một số loại mâu thuẫn:
a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
- Mâu thuẫn bên trong: là mâu thuẫn xảy ra ngay bên trong bản thân của sự vật, hiện
tượng.
- Mâu thuẫn bên ngoài: là do sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
- Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quyết định bản chất của sự vật, gắn liền với sự vật
và khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Mâu thuẫn không cơ bản: chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản, không giữ vai trò
quyết định bản chất của sự vật và hiện tượng nhưng nó cũng giữ một vai trò nhất định đối
với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
- Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định
của quá trình phát triển của sự vật. Nó có tác dụng quyết định đối với những mâu thuẫn
khác trong cùng một giai đoạn của quá trình phát triển của sự vật.

10
- Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định.
d) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
- Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hòa được và đi đến
đấu tranh một mất một còn.
- Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người, những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, còn mâu thuẫn chỉ tạm
thời cục bộ.
1.2 Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau tạo nên thế cân bằng
nhưng liên hệ phụ thuộc ràng buộc tác động lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn
tại cho mình và ngược lại nếu thiếu một trong hai mặt đối lập thì sự vật sẽ không tồn tại.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự phủ định bài trừ gạt bỏ lẫn nhau.
1.3 Đấu tranh của sự đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển
- Phép biện chứng duy vật chỉ ra là muốn tìm nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển thì phải tìm ngay bên trong bản thân của sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện
tượng là thể thống nhất trong các mặt đối lập, trong đó có 2 mặt đối lập cơ bản. Các mặt đối
lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Chừng nào sự vật chưa mất đi thì đấu tranh của
các mặt đối lập còn diễn ra và đấu tranh của các mặt đối lập làm cho thể thống nhất cũ mất
đi, thể thống nhất mới cao hơn ra đời.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình diễn ra phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã
hội, quá trình này có thể chia ra nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng thông
thường khi mới xuất hiện thì có 2 mặt đối lập chưa thể hiện sự xung đột gay gắt và trong
quá trình phát triển của mâu thuẫn thì đấu tranh của các mặt đối lập ngày càng trở nên quyết
liệt khi hội đủ những điều kiện cần thiết thì dẫn đến sự chuyển hóa lẫn nhau, lúc đó mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật mới là thể thống nhất của
những mặt đối lập mới và đấu tranh của các mặt đối lập lại diễn ra làm cho mâu thuẫn được
giải quyết, sự vật cũ lại mất đi, sự vật mới cao hơn ra đời và quá trình này được lặp đi lặp lại
không ngừng làm cho con đường phát triển diễn ra liên tục ngày càng cao. Điều đó chứng
minh đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
2. Ý nghĩa
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải phát hiện sớm mâu thuẫn để
giải quyết kịp thời, phải phân loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết thích hợp và giải
quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh, mục đích của đấu tranh là thúc đẩy sự vật phát triển.
- Đối với nhận thức: mâu thuẫn là khách quan phổ biến nên việc nhận thức mâu thuẫn
của sự vật là cực kỳ quan trọng. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt
đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó, phải phân biệt được các loại
mâu thuẫn để giải quyết kịp thời đưa sự vật phát triển tiến lên.
- Đối với hoạt động thực tiễn:
+ Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải
quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta
không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện, cũng không
để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, chủ động thúc đẩy sự chín muồi
của mâu thuẫn.

11
+ Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức cụ thể
rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau cần có phương pháp giải quyết khác nhau.
Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.

Câu 3: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của phương
pháp luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc ở nước ta hiện nay?

- Vị trí của quy luật: Đây là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
phản ánh về khuynh hướng chung của sự vận động phát triển và tiến lên thông qua 1 chu kì
phủ định biện chứng thì sự vật hiện tượng mới sẽ ra đời thay thế cho sự vật hiện tượng cũ
nhưng ở trình độ cao hơn cái cũ.
- Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng.
Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của
quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Mọi quá trình vận động và phát
triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự thay thế, trong đó
có sự thay thế chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề
cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho qúa trình
phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng.
- Tính chất của phủ định.
Tính khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu
tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo kả năng ra đời cái mới
thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự
thân thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội
dung tích cực.
Nội dung quy luật Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái
phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái
mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi
phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu kỳ phủ định
lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này
đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu
nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Ý nghĩa quy luật phủ định của phủ định
Quá trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có niềm
tin vào xu hướng của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác động của
các nhân tố chủ quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính
năng động sáng tạo, phát hiện những cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.

12
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những yếu
tố tích cực. Kế thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại. Loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo thủ.
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà
nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển
cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn
đề và đã có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà
chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ
của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy
luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như
vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Vận dụng quy luật
VD: Hạt thóc Cây mạ Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là
nhiều hạt). Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ
sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ
định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố
tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định
tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung
toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ
nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng
là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng
chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng
phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát
triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường
xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát
triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới
lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa trong quá trình đổi mới ở nước ta
* Đặc điểm của phủ định trong đời sống xã hội:
- Phủ định trong xã hội là hình thức và kết quả hoạt động của con người do vậy ngoài những
đặ trưng mà mọi phủ định biện chứng đều có thì phủ định biện chứng trong xã hội có 2 đặc
điểm riêng:
+ Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phủ định:
> Quan điểm siêu hình về phủ định trong xã hội xuất hiện khi xác định không đúng đối
tượng, thời điểm, phương thức phủ định.
13
> Tuyệt đối hoá mặt loại bỏ hoặc mặt giữ lại.
+Phủ định xã hội diễn ra bằng cơ chế khác căn bản với phủ định trong tự nhiên.
* Vì vậy, phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa:
- Cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời của các mới, cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những
mặt tích cực của cái cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách trơn.
- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng lọc giữ lấy những cái tích cực có giá trị
của cái cũ.
- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản trở bước tiến của lịch sử

Câu 4: Phân tích nội dung của nguyên tắc toàn diện. Cho biết trong thực tiển , anh
/chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ?

(TRANG 340)
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. cơ sở
lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện
đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn
tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính
chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng đó
với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và
phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp
tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của sự
vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng trong một chỉnh
thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối quan
hệ của chúng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần
xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngữ ngụy biện.

Câu 5: Phân tích nội dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn,
anh /chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ?

 Phân tích nội dung:


Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của
nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong
điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch
sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong không
gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì các
mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không
chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian,
thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau đó.

14
Theo triết học Mác - Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới
khách quan trong quá trình lịch sử - cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự
vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của
sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong
của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát
triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và theo thời gian
khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển,
chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên
gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ
thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn
cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt dộng
thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ
thể. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mỗi vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào,
hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm
của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên
tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong
sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy,
sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước
quanh co, những gián đoạn, theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của
nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình
thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh
được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự
vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm
cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của
vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã
trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những
thuộc tính, những mối liên hệ tất yêu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật,
hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra
trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu
cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới
thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ đỉnh, sự vật, hiện
tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật,hiện tượng cũ trong dạng
đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm
được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình
thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự
tồn tại và chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển
khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác, hay thành các mặt
đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của
nó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các
15
mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện
tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận
thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hưóng đúng cho hoạt
động thực tiễn của con ngưòi. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch
sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển
của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.
Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử - cụ thể nói riêng và đối
với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử - cụ thể không kết hợp các sự
kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự
kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng để tạo nên bức
tranh khoa học về các quá trình lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên
hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác
nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng
giáo điều chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh
hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động,
biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa
thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
 Vận dụng của bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải
tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta
cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với học
viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương
pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước
ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống:
Chúng ta hiện nay đều là những tân học viên, khi mới nhập học hầu như là không quen
biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy, chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng đầu tiên
về ngoại hình, tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã
đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt, dễ tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến
diện, chủ quan trái với quan điểm toàn diện.Điều có thể làm cho chúng ta có những quyết
định sai lầm . Chẳng hạn như khi nhìn thấy một người có gương mặt ưa nhìn, ăn nói nhỏ
nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và muốn làm bạn, còn khi nhìn thấy một người ít nói,
không hay cười thì cho là khó tính không muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới
nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ.
Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè. Ấn tượng đầu tiên chỉ
quyết định đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem
xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện, mọi mặt của
vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề
ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất
cả, có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì
vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận họ trên mọi
phương diện, ở từng thời điểm,từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông,bà,bố,mẹ, thầy cô… thì
chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động,
16
thái độ thoải mái, tự nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không
gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan
hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa anh ta là người
xấu, tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã
sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa, chúng ta cần nhìn nhận
anh ta khác đi, có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp, kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem
xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt .
Khi ta học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười
học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu, thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết
quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp định
hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan
của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một
cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi,
bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại, học
để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời
gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù hợp
vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt năng suất,
khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý thực là lí thuyết
hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác
hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu : “học”
là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết
trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước.
“Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình,
không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm
chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng
dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất
chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất, nó không thể tách
rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã
nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng
trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan…
Lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như thế nào?
Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên do dẫn đến
việc “học” mà không “hành” được là do học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà
trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt
động.
17
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc
kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại,
thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến
thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực
tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ
thông đã khiến các học viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi.
Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để...
thi đỗ đại học

Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học sinh, học viên
đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau
khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường chọn ngành của
mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục
vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi với hành” càng trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện cả
về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác nhau
nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô
dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì
cũng trở thành vô giá trị. Con người ta không thể sống một mình, không thể tách rời khỏi
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét
chính bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người không có đức là
người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng chỉ vun vén để có
lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích của tập thể thì
chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại mang
đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát vọng
hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì những ý
định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu quả. Thiếu
tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ ràng là giá trị con
người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở
nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những học viên, là những người đang trong quá trình phát
triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này
phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả
đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội
chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục
trong tương lai.

Câu 6. Phân tích nội dung của nguyên tắc phát triển

Như chúng ta đã biết, mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và
phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân thì bên cạnh nguyên tắc toàn diện
18
và nguyên tắc lịch sử - cụ thể, chúng ta phải có nguyên tắc phát triển. Điều đó có nghĩa là
khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát
triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật,
mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là
phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biển đổi chính của sự vật. Để xem
xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển; để phát hiện ra các quy luật quy định
sự chuyển hóa về chất của nó; để xem xét sự vật, hiện tượng trong giai đoạn phát triển này
sang giai đoạn phát triển khác, cần phải chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu
thuẩn. Điều quan trọng là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt
đối lập; phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa
những khuynh hướng ấy.
Xem xét sự vật theo nguyên tắc phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật ấy thành những giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình
thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra phương pháp nhận thức và
cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát
triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Nguyên tắc phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hóa nhận
thức, nhất là nhận thức khoa học, về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính
vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hóa
nguyên tắc phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của
chúng ta và của toàn xã hội. Chúng ta phải sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp
quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ. Sự thay thế cái cũ bằng cái
mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
Trong quá trình đó, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường
phát triển quanh co, phức tạp. Nhận thức được như vậy sẽ vững tin ở cái mới, tìm mọi cách
vượt qua cản trở trên con đường phát triển, tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
Trong quá trình thay thể cái cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo những yếu tố
tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị) vận dụng quan điểm của
nguyên tắc như thế nào? Tùy cơ ứng biến

Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức,
thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra cơ sở lý luận không phân tích
nội dung)

a/ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện: là nội dung nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến.
MLHPB là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong
mọi lĩnh vực hiện thực.
MLHPB mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quá sự tồn tại , vận
động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng. Nó được nhận thức trong các cặp phạm trù (mặt đối lập- mặt đối lập;

19
chất-lượng; cái cũ-cái mới; cái riêng-cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung-hình thức;
bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng- hiện thực.
Cơ sở lý luận:
Mối liên hệ và MLH phổ biến:
- Mối liên hệ là sự tác động ràng buộc, thâm nhập… lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay quá trình (vạn vật) mà trong đó sự thay đổi của cái này mà tất yếu kéo theo sự
thay đổi của các kia. Đối lập với mối liên hệ là sự khác biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động
qua lại giữa các sự vật, hiện tượng hay quá trình nhưng sự thay đổi của cái này sẽ ko tất yếu
kéo theo sự thay đổi của cái kia. Do vậy mà vạn vật trong thế giới đều luôn tác động lẫn
nhau, nhưng có một số tác động dẫn đến sự thay đổi, tức còn nằm trong trạng thái ổn định.
Vạn vật vừa tách biệt vừa liên hệ, vừa là nó vừa ko là nó. Thế giới vật chất là một hệ thống
thống nhất mọi yếu tố, bộ phận của nó. Chính nhờ sự thống nhất vật chất mà vạn vật luôn
tác động qua lại lẫn nhau.
+ Mối liên hệ mang tính khách quan, tính phổ biến.
+ Mối liên hệ mang tính đa dạng. Nó có thể được chia ra thành: MLH bên trong và
MLH bên ngoài; MLH trong tự nhiên, MLH trong xã hội và MLH trong tư duy; MLH riêng,
MLH chung và MLH phổ biến;… Vai trò các MLH khác nhau là ko giống nhau.
- MLH phổ biến là MLH giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật,
trong mọi lĩnh vực hiện thực.
+ MLH phổ biến cũng mang tính khách quan và bổ biến. Nó chi phối tổng quát sự tồn
tại, vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng.
+ MLH phổ biến được nhận thức trong các (cặp) phạm trù biện chứng như MLH giữa:
mặt đối lập - mặt đối lập; chất - lượng; cái cũ – cái mới; cái riêng – cái chung; nguyên nhân
- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất - hiện tượng; tất nhiên - ngẫu nhiên; khả năng -
hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
- Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn
vàn MLH ràng buộc lẫn nhau. MLH tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
- Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của chúng có những MLH phổ biế. MLH
phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
b/ Những yêu cầu về Phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
 Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt.
 Phân loại để xác định quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) nào
là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ nào là bên ngoài, ko cơ
bản, ngẫu nhiên.
 Dựa trên các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) bên
trong đế lý giải các MLH, quan hệ còn lại. Qua đó, xây dựng hình ảnh về SV như sự thống
nhất các MLH; phát hiện ra đặc điểm, tính chất, quy luật (bản chất) của nó.
- Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải:
o Đánh giá đúng vai trò của từng MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố…) chi phối SV.
o Thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp thích hợp để biến đổi
những MLH, đặc biệt là những MLH bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…
o Nắm vững sự chuyển hóa các MLH, kịp thời đưa ra các biện pháp bổ sung để
phát huy / hạn chế sự tác động của chúng, lái SV theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
20
c/ Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn:
 Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tác toàn diện sẽ khắc phục được chủ nghĩa
phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện, ...trong hoạt động thực tiễn và nhận
thức của chính mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện: là cách xem xét chỉ thấy ở một mặt, một mối quan hệ, một
tính chất hay từ một phương diện nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
nhiều tính chất cúa sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung: là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
nhưng ko rút ra được bản chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết
hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện
+ Chủ nghĩa ngụy biện: Cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ
bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của
mình một cách tinh vi.
- Trong đời sống XH, nguyên tắc toàn diện có vai trò cục kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi
chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực
tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể khác nhau trong xã hội và biết phân
biệt đâu là lợi ích cơ bản và lợi ích ko cơ bản.

Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và
hoạt động thực tiển.
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật chúng
ta phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh
ra tồn tại và phát triển.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn
cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cảu nội dung nguyên tắc lịch sử -
cụ thể.
- Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chổ: trong quá trình nhận thức sự vật, hiện
tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát
triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó.
- Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể: là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng
kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự
không gian và thời gian.
- Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể: là mô tả sự kiện cụ thể theo trình
tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng.
- Giá trị của nguyên tắc này ở chổ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch
sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua
đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là
phương thức tồn tại của vật chất. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức
những thay đổi diễn ra trong sự vật hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay
thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiên tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự
vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sợ vật, hiện tượng trong các
mối liên hệ cụ thể của chúng. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch

21
sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển
của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không kết hợp các sự kiện riêng rẻ, mô tả các sự kiện, mà
tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật
và phân tích ý nghĩa và vai trò của chung để tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình
lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên
hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong không gian tồn tại khác nhau của
mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều,
chung chung, trừu tượng không cụ thể. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động và hoạt
động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện
tượng là điều tất yếu.
Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào thực tiễn nước ta
Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng
nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến độ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế
xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh.
Ngày nay tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn hết sức mới mẽ cần được giải quyết. Nắm vững phép biện chứng duy vật
và mai sắc tư duy biện chứng, vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện
chức duy vật giúp nhận thức được tính biện chứng của thế giới, tính tất yếu cảu công cuộc
đổi mới ở VN hiện nay. Thực tiễn cho thấy con đường đi lên CNXH không tuân theo những
nguyên tắc có sẵn, hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn.
Con đường cách mạng VN được xác định là “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước VN theo con đường XHCN trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Leenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh” là con đường duy nhất đúng, thể hiện sự nhận thức và vận dụng sáng
tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin nói chung, các nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật nói riêng, của Đảng Cộng sản VN.

Câu 9: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm (toàn diện/ lịch sử cụ thể/ phát triển)
trong hoạt động nhận thức, thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra cơ
sở lý luận không phân tích nội dung).
Quan điểm phát triển là một trong những nguyên tắc quan trọng của phương pháp biện
chứng Mác Xít. Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi nhận thức sự vật phải xem xét nó
trong sự vận động, biến đối, phải phân tích các sự vận động phức tạp của sự vật, tìm ra
khuynh hướng phát triển cơ bản của chúng để cải biên sự vật phục vụ nhu cầu của con
người.
Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển chính là nguyên lý về sự phát triển của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nguyên lý đó nói rằng phát triển là khuynh
hướng tất yếu khách quan của tất cả các sự vật hiện tượng. Phát triển được diễn ra theo 3
hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.

22
Mỗi sự vật đều có quá trình ra đời, biến đổi, phát triển và mất đi. Nhưng khuynh
hướng chung của thế giới vật chất là luôn phát triển theo hướng hiện đại, cái mới thay thế
cái cũ, cái sau tiến bộ hơn cái trước. Do đó để nhận thức và phản ánh chính xác sự vật hiện
tượng ta phải có quan điểm phát triển.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển là phương pháp khoa học giúp cho chúng ta hiểu được bản chất
thực sự của sự vật, tự do ta tìm được biện pháp cải tạo sự vật theo đúng quy luật phát triển
của chúng.
Giúp ta tránh được tư tưởng hoang mang, dao động bi quan trước những bước thụt
lùi tạm thời đi xuống của sự vật, xây dựng niềm tin vào cái mới nhất định thắng lợi.
Tránh tư tưởng ảo tưởng (vì sự phát triển của sự vật rất phức tạp), tránh tư tưởng bi
quan chán nản vì cái mới hợp quy luật thắng lợi là tất yếu, cái cũ, cái lạc hậu tồn tại chỉ là
tạm thời, nó nhất định sẽ mất đi.

23
Phần III: Thầy Sơn 5 câu

Câu 1: Trình bày sự vận dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù chỉ một kiểu hệ thống xã hội ở một giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định, có tính xác định về chất, là sự thống nhất của tất cả các yếu tố,
một cơ cấu hoàn chỉnh luôn luôn vận động thông qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội, học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội đã
vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội; tìm ra quy luật khách quan
chi phối sự vận động phát triển của xã hội loài người. Đó là cơ sở khoa học cho việc nghiên
cứu xã hội và chống lại các quan điểm duy tâm về lịch sử.
Đối với nước ta, lý luận hình thái kinh tế xã hội là cơ sở cho đường lối chiến lược cách
mạng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và cho công cuộc đổi mới hiện
nay. Ngày nay trong quá trình đổi mới, Đảng ta khẳng định chúng ta vẫn giữ vững mục tiêu
xã hội chủ nghĩa vì đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và phù hợp
với điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta.
Do tính đặc thù của cách mạng nước ta là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế
phổ biến là sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, do đó để tạo ra những tiền đề cần
thiết cho chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây dựng trên tất cả các mặt: Từ lực lượng sản xuất
mới đến quan hệ sản xuất mới, từ cơ sở hạ tầng mới đến kiến trúc thượng tầng mới. Vì vậy
để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, trước hết chúng ta phải tập trung phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất bằng cách đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.
Cùng với việc phát triển lực lượng sản xuất, hiện đại hóa đất nước, phải xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta và cũng là động lực thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Cùng với đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta chủ trương phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nhằm nâng cao vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
làm cho nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân vì đân.
Đồng thời nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh của khối
đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với sự phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa nhằm xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần
của nhân dân. Phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài giải quyết tốt các nhu cầu xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tóm lại: xây dựng chủ nghĩa ở nước ta là quá trình kết hợp ngay từ đầu xây, dựng cả
lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả kinh tế lẫn chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội nhằm từng bước tạo ra tất cả các tiền đề cần thiết cho sự ra đời một hình thái
kinh tế xã hội mới, xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

24
Câu 2: Nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa. Với điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội rất thấp, quá trình đó
tất yếu phải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường.
Tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011) và 25 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng nêu rõ: Xã hội, xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: "Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh”.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI toàn đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu
xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Để đạt được những mục tiêu trên cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau
đây:
Một là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu, tất yếu phải tiến hành công nghiệp
hoá. Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hoá phải kết
hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá, đồng thời phải bảo vệ tài nguyên, môi trường. Như vậy
mới đảm bảo cho việc phát triển nhanh, bền vững, môi trường sống tốt hơn.
Hai là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng kinh tế thị trường được thể hiện qua
4 đặc trưng cơ bản sau:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", giải
phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao chất lượng đời sống
nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng…
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, y tế… giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, cùng các nguồn lực khác,
thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Văn hoá hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Đại
hội XI tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

25
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, tiếp
thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ công bằng, văn minh.
Bốn là: Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước". Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo
đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: An ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư
tưởng văn hoá, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không phải chỉ bảo vệ lãnh thổ,
biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn phải bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân, bảo vệ kinh tế, văn hoá, sự nghiệp đổi mới…
Năm là: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển, chủ động tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chủ
động về đường lối chính sách và bước đi trong hội nhập, tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ
hơn vào quá trình toàn cầu hoá vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.
Sáu là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc.
Thực hiện có hiệu quả các hình thức thực hành dân chủ: Dân chủ đại diện, dân chủ trực
tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là
nguồn lực chủ yếu, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Bảy là: Xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước Pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là
bảo đảm quyền tối cao của Pháp luật. Nhà nước Pháp quyền của nước ta là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà
nước, thông qua Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước Pháp quyền hiện nay là
xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền, đổi mới lập pháp, hành pháp
và tư pháp; kiên quyết phòng ngừa, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tám là: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều
kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là "nhiệm vụ then
chốt" có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng nước ta. Thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản.

26
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Trên đây là hệ thống quan điểm, lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta mà
bước đầu chúng ta đã xác định được. Tuy nhiên trong nội dung những quan điểm đó, còn
nhiều vấn đề cụ thể chưa phải đã thật rõ. Hơn nữa bên cạnh đó, có nhiều vấn đề mới đặt ra.
Sự phát triển của thực tiễn và sự nâng cao không ngừng năng lực tư duy lý luận của Đảng,
trình độ nhận thức của xã hội, nhất là giới lý luận sẽ từng bước góp phần làm sáng tỏ và
đem lại lời giải đầy đủ, thấu đáo hơn những vấn đề đó.Trên tinh thần của đổi mới, nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, chúng ta cần thẳng thắn nhận rõ rằng, lý luận về CNXH
và con đường đi lên CNXH như hiện nay của chúng ta vẫn chưa ngang tầm những đòi hỏi
của thực tiễn cách mạng, của yêu cầu phát triển và hiện đại hóa xã hội. Thành tựu của đổi
mới còn có thể to lớn hơn nữa, nếu lý luận đổi mới theo định hướng XHCN có những bước
tiến đột phá, đủ sức tạo ra một xung lực tinh thần thúc đẩy thực tiễn phát triển. ./.

Câu 3: Trình bày mối quan hệ giai cấp và dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đấu
tranh giai cấp với phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

3.1. Mối quan hệ giai cấp và dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Trong thời đại hiện nay vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc có nhiều biểu hiện phức
tạp.

27
Trang 462-463
(Giáo trình TRIẾT HỌC(Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học) – NXB CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH)

3.2. Đấu tranh giai cấp với phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai
đoạn hiện nay
C.Mác và Ăngghen tiếp cận giai cấp và đấu tranh giai cấp dưới góc độ kinh tế nghĩa là
gắn với một phương thức sản xuất nhất định, hiện tượng kinh tế xã hội nhất định.
Định nghĩa giai cấp: giai cấp là những tập đoàn người khác về địa vị trong một
phương thức sản xuất nhất định cụ thể thể hiện ở ba ý:
- Khác về địa vị đối với sở hữu tư liệu sản xuất.
- Khác về địa vị tổ chức lao động sản xuất.
- Khác về địa vị phân phối của cải của xã hội.
Thực chất của quan hệ giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột là giai cấp của tập này
bóc lột giai cấp của tập đoàn kia.
Định nghĩa đấu tranh giai cấp: đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa giai cấp này với
giai cấp khác do khác về địa vị, có lợi ích khác nhau của một tập đoàn người. Đấu tranh giai
cấp là đấu trạnh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau trong cùng một hình thái
kinh tế xã hội nhất định.
Ví dụ: tầng lớp nô lệ mâu thuẫn với chủ nô, giai cấp nông dân mâu thuẫn với địa chủ.
Nội dung đấu tranh giai cấp với kết hợp sức mạnh của đại đoàn kết đại dân tôc trong
giai đoạn hiện nay:
Do kết cấu giai cấp và quan hệ giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam thay đổi, nên
nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp cũng không giống như trước đây khi giai cấp công
nhân và nhân dân lao động chưa giành được chính quyền. Chính vì vậy, Đảng ta đã chủ
trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì:
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta.
Đây cũng chính là tư tưởng cốt lõi, cơ bản, chiến lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng đã vươn cao ngọn cờ đại đoàn kết dân
tộc, lực lượng cách mạng là toàn dân.
28
- Đường lối Đảng Cộng sản trong giai đoạn hiện nay là đấu tranh nhằm thực hiện mục
tiêu cách mạng, xây dựng nước ta thành nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, mà cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa và truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
chống lại các thế lực thù địch âm mưu phá hoại độc lập và chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xây
dựng vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Để thực thực hiện được nó đòi hỏi phải xem cái mục tiêu ấy, con đường ấy là mẫu số
chung, điều tương đồng là cơ sở khách quan cho phép phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc để thể hiện chính mục tiêu ấy. Đường lối đó đặt ra yêu cầu khách quan tập hợp sức
mạnh toàn dân, xem nó là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề giai cấp và đấu tranh gia cấp cần phải được hiểu cho đúng, đây là
một vấn đề kinh tế xã hội khách quan không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ giai cấp nào, dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào thì nó cũng tồn tại; đấu tranh giai cấp của nước ta trong giai
đoạn hiện nay trong những điều kiện mới, nội dung mới và hình thức mới. Nếu nhận thức
đúng thì nó sẽ phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thống nhất với nhau mà không có
mâu thuẫn. ./.

<<Tham khảo thêm: Quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và phát huy khối đại đoàn kết
toàn dân tộc

Đại đoàn kết toàn dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống quý báu của
dân tộc ta. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới có thành công hay không phụ
thuộc vào nhiều nhân tố nhưng trước hết là phụ thuộc vào việc phát huy được hay không vai
trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại một cách khách quan các
giai cấp và đấu tranh giai cấp, không thể xóa nhòa ranh giới giữa các giai cấp, không thể
phủ nhận đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, lợi ích cơ bản lâu dài của
các giai cấp thống nhất vói lợi ích dân tộc, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con
đường vẫn còn nhưng gắn với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn lạc
hậu, khắc phục tình trạng đói nghèo, chậm phát triển.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giữa giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, nhất là trong quan hệ lợi ích kinh tế, có một số vấn đề nảy
sinh, ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tình
trạng mâu thuẫn, tranh chấp ở những lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt, dẫn đến thái độ thiếu
hợp tác, nhất trí trong sản xuất và các hoạt động xã hội chung. Tuy nhiên, trong điều kiện
của thời kỳ quá độ ở nước ta, do có Nhà nước chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của
Đảng nên mâu thuẫn giữa công nhân và tầng lớp tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Ở nước ta tầng lớp tư sản không có công cụ để thực hiện sự thống trị về chính trị và kinh tế.
Giai cấp công nhân dù làm việc trong doanh nghiệp tư bản tư nhân nhưng được sự bảo vệ
của Nhà nước chuyên chính vô sản. Tầng lớp tư sản có vai trò tích cực trong sự phát triển
kinh tế, có khả năng tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như
vậy, quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa
đấu tranh vừa hợp tác. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ là đấu tranh nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để đạt được mục tiêu
đó, đòi hỏi phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa kiên
quyết, bao gồm cả giáo dục tuyên truyền, vận động, cả hành chính lẫn những biện pháp bạo
lực trấn áp. Phải tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động và các lực lượng xã
29
hội ủng hộ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mặt trận dân tộc thống nhất, phải phát
huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng chống lại
các thế lực thù địch và phát triển đất nước.
Trong những năm qua, sự đoàn kết, thống nhất giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đại hội IX, Đảng ta ít nói đến giai cấp và đấu tranh
giai cấp mà nói nhiều đến sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội IX của
Đảng khẳng định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh
tế, của toàn xã hội”. Trên tinh thần ấy, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội XI tiếp tục nhấn
mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng vì mục tiêu
chung của dân tộc chứ không nhằm phục vụ cho lợi ích của riêng một giai cấp, tầng lớp nào.
Đối tượng đoàn kết rất rộng rãi, bao gồm tất cả những người Việt Nam tán thành mục tiêu
chung, nguyện vọng, ý chí của dân tộc, củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp
công dân, nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giữa giai cấp công dân,
nông dân và đội ngũ trí thức có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau và thống nhất với lợi ích
của toàn dân tộc. Do vậy, sự vững chắc của liên minh này là cơ sở của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị. Trên cơ sở liên minh này, Đảng ta đề ra nhiệm vụ
quan tâm giáo dục, đào tạo bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
lượng; xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân; xây dựng đội ngũ trí thức lớn
mạnh, có chất lượng cao; tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh,
có đạo đức và trách nhiệm xã hội cao,...
Mặc khác, thực hiện đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở những điểm tương đồng của các
giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
toàn dân tộc, Đảng ta cho rằng cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra mẫu
số chung của tất cả các giai cấp, tầng lớp; quy tụ sức mạnh của tất cả các bộ phận cấu thành
dân tộc ta. Trong thời kỳ hiện nay, đại đoàn kết toàn dân tộc “lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ,
thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân
tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung,… để tập hợp, đoàn kết
mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”. Đây chính là điểm tương
đồng, cơ sở khách quan cho phép chúng ta phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn
kết toàn dân không có nghĩa là loại trừ đấu tranh gai cấp, mà cần đấu tranh giai cấp đúng qui
luật, phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Chính mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đáp ứng lợi ích chung của mọi tầng lớp,
mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta không mâu thuận

30
với đại đòan kết toàn dân, không những thế còn cũng cố vững chắc hơn khối đại đoàn kết
toàn dân. >>

Câu 4: So sánh sự giống và khác nhau giữa nhà nước pháp quyền Tư sản và nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1. Giống nhau:
- Nhà nước pháp quyền chỉ có từ thời kỳ chủ nghĩa tư bản trở đi tức là tư sản và xã hội
chủ nghĩa mới có nhà nước pháp quyền. Vì vây, cả hai giống nhau ở chổ đều là nhà nước
pháp quyền.
- Cả hai đều quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, cho nên phải xây dựng
một hệ thống pháp luật.
- Pháp luật phải nhiễm tính xã hội, trong nhà nước pháp quyền thì pháp luật mới được
tôn trọng.
- Pháp luật phải ở vị trí tối thượng: Đảng phải thực hiện, nhà nước, đoàn thể và toàn
dân đều phải thực hiện theo đúng pháp luật.
- Phải xây dựng mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, đó là nhà nước phải có trách
nhiệm và nghĩa vụ với công dân và công dân cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ với nàh
nước. Mối quan hệ hai chiều như vậy gọi là xây dựng một xã hội dân sự.

2. Khác nhau: thể hiện ở hai điểm


Nhà nước pháp quyền tư sản Nhà nước pháp quyền
XHCN
- Thực hiện mục tiêu, lý tưởng của giai cấp tư sản. - Hoàn toàn có khả năng
Mang lại lợi ích cho số ít. hiện thực. Mang lại lợi ích
cho số đông.
- Nguyên tắc tổ chức: tổ chức theo nguyên tắc tam - Nguyên tắc tổ chức: tổ
quyền phân lập (phân quyền), phân chia quyền lực chức theo nguyên tắc thống
thành hành pháp - lập pháp - tư pháp. Phân chia quyền nhất quyền lực nhưng có
lực là vì tất cả phải thực hiện theo ý chí, mục tiêu của phối hợp, phân công rành
giai cấp tư sản. Trong giai cấp tư sản do chế độ chiếm mạch giữa các cơ quan nhà
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất cho nước trong việc hành pháp -
nên có nhiều tập đoàn tư bản phân chia với nhau nếu tập lập pháp - tư pháp.
đoàn nào chưa có thì phải phân chia lại cho tập đoàn tư
bản đó.

Câu 5: Trình bày vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay (bản chất, điều kiện lịch sử hình thành, mục tiêu, đặc trưng, xây dựng con
người).

1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất của con người
Định nghĩa: con người là một sinh thể tự nhiên có tính người cho nên con người trước
hết là sản phẩm của tự nhiên có nguồn gốc từ động vật. Nó thống nhất giữa các yếu tố sinh
vật và các yếu tố xã hội.
- Con người là một thực thể của sinh vật: vì dù phát triển đến đâu thì con người cũng
là một động vật. Giống như những động vật khác, con người là một bộ phận của tự nhiên có
31
thể nói “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, đời sống thể xác và tinh thần của con
người gắn liền với giới tự nhiên”, nhưng con người khác với động vật vì con người còn là
một thực thể xã hội.
- Con người là một thực thể xã hội: vì các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng
nhất là hoạt động lao động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con người với đúng
nghĩa của nó. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái
thuần túy là loài vật”.
Như vậy, con người là một thực thể tự nhiên có tính người vì khi sống trong môi
trường xã hội đã tạo ra tính người ấy, không có con người xã hội. Trong 2 mặt sinh vật và
xã hội thì mặt xã hội là mặt nổi trội của con người.
- Con người là chủ thể của lịch sử: con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư
cách là sản phẩm quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, mà con người còn là chủ thể của
lịch sử.
C.Mác còn khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội”. Nó đặt ra hai vấn đề:
- Muốn biết bản chất của con người phải xem xét tất cả các mối quan hệ xã hội mà con
người đó sinh sống và học tập.
- Đưa con người vào trong những mối quan hệ xã hội cụ thể, trong những điều kiện cụ
thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc lộ rỏ ra ở
những mức độ cụ thể, từ đó xây dựng một môi trường xã hội văn minh.
2. Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam
Con người Việt Nam hình thành dưới sự tác động đa dạng của các điều kiện tự nhiên
và xã hội như sự tác động của môi trường địa lý, đời sống kinh tế, lịch sử giữ nước, sự tác
động của môi trường văn hóa.
- Sự tác động của môi trường địa lý: tổ tiên người Việt nhiều nghìn năm sống trên
vùng đất mới được bồi đắp, nằm giữa một bên là núi và một bên là biển nên phù sa của sông
ngòi, nắng lắm, mưa nhiều vừa là điều kiện lý tưởng cho trồng trọt và chăn nuôi vừa là thử
thách đối với con người qua dông, bão, lũ, lụt. Về địa lý, Việt Nam nằm ở Đông Nam Á
châu Á - khu vực vừa có vị trí chiến lược, vừa là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa nên
người Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau.
- Đời sống kinh tế: nền kinh tế tiểu nông với những đơn vị sản xuất gia đình và cộng
đồng làng xã để hợp lực chống thiên tai, giúp đỡ lẫn nhau. Nền kinh tế tiểu nông và kết cấu
kinh tế, tổ chức làng xã đã hình thành ở người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng
lực, quan điểm, quan niệm và tầm nhìn tương ứng.
- Lịch sử giữ nước: Việt Nam là một trong những quốc gia bị nhiều thế lực lớn, mạnh
hơn về tiềm lực kinh tế và quân sự xâm chiếm, đô hộ. Vì vậy, lịch sử dân tộc Việt Nam đã
hình thành nên những phẩm chất và năng lực của những con người thường xuyên phải chiến
đấu trong thế trận không cân sức để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và sự sống của mình.
- Môi trường văn hóa: chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa thế giới như Trung
Quốc, Ấn Độ, Pháp, các hệ tư tưởng như Nho giáo, Phật giáo. Đầu thế kỷ XX, qua hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin và khi
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập thì nó đã trở thành hệ tư tưởng định hướng cho cách
mạng Việt Nam.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách
mạng
Khi nói về vị trí của con người trong cách mạng cụ thể đó là mục tiêu của sự nghiệp
giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh quan niệm cuộc sống của nhân dân là mục tiêu của mọi
hoạt động cách mạng, lợi ích phải là của dân, hạnh phúc phải là của dân. Quan điểm này
32
còn cho thấy độc lập, tự do chưa đủ mà còn xây dựng một xã hội một nhà nước của dân, vì
dân. Như vậy, xác định nhân dân lao động là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và hướng
tới toàn bộ hoạt động của mình nhằm đạt đến mục tiêu đó là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh
giá vừa ở góc độ chính trị, tư tưởng, vừa ở góc độ đạo đức đối với đời sống của mỗi cá
nhân, mỗi tổ chức xã hội.
Con người là động lực của cách mạng, phát triển của xã hội đo đó Bác Hồ nêu phải
đào tạo thế hệ nối tiếp cho đời sau. Khi xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giải
phóng con người bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có những con người chủ nghĩa xã hội”. Nói tóm lại, phải
tin về con người; hiểu về con người; quan tâm đến con người; công bằng đối với con người.
Có thể nói tư tưởng “con người vừa là mục tiêu của cách mạng” là tư tưởng sự nghiệp
cách mạng, thành quả cách mạng của dân, do dân và vì dân.
4. Đặc trưng của con người Việt Nam trong lịch sử (mặt tích cực và hạn chế)
Phẩm chất và năng lực của người Việt Nam hình thành trong môi trường tự nhiên,
những điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nên có
nhiều mặt tích cực và hạn chế.
- Những mặt tích cực của con người Việt Nam trong lịch sử được coi là một phần bản
sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng các dân tộc
Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là: lòng
yêu nước nòng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa, tình, đạo lý; đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
- Những mặt hạn chế của con người Việt Nam trong lịch sử bộc lộ qua:
+ Những hạn chế của truyền thống dân chủ làng xã: do cuộc sống tiểu nông tự cung, tự
cấp tạo ra cùng với tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Điều này thường dẫn đến tư
tưởng bình quân chủ nghĩa, can thiệp vào cuộc sống riêng tư và quá trình phát triển của từng
cá thể; thiếu tinh thần tự giác, coi thường luật pháp,...
+ Tập quán sản xuất tiểu nông: là tập quán của nền sản xuất tiểu nông tồn tại lâu dài
nên dẫn đến khả năng hạch toán kinh tế kém, nặng về lợi ích trước mắt, thiếu kỹ thuật,...
+ Đề cao thoái hóa kinh nghiệm: xem kinh nghiệm là sản phẩm của nền sản xuất nông
nghiệp lúa nước, đặc biệt là nền sản xuất nhỏ, manh mún. Điều này dẫn đến xem thường lý
luận, xem thường tuổi trẻ, quyền lực thuộc về những người lâu năm, nhiều tuổi,...
+ Tính hai mặt của một số truyền thống: sống giản dị, ghét cầu kỳ, xa hoa là phẩm chất
tốt, song dễ dẫn đến sự hạ thấp nhu cầu trong khi nhu cầu là một động lực phát triển của xã
hội; truyền thống giỏi chịu đựng gian khổ cũng là phẩm chất tốt nhưng cũng dẫn đến sự cam
khổ, thỏa mãn, bằng lòng với các hiện có,...
5. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng của giai đoạn cách mạng hiện nay
Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hóa, biến chất, xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoan hiện nay là hình thành và phát triển ở con người những đức tính
cơ bản sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế
giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn
trọng kỹ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao
vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
33
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và
thể lực.
Để đạt được điều này người Việt Nam đã và đang tập trung đầu tư vào những
lĩnh vực chủ yếu nhất của xã hội như:
- Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trên lĩnh vực chính trị: khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
của chủ nghĩa nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
- Trên lĩnh vực xã hội: giải phóng con người ra khỏi xã hội lỗi thời, kế thừa truyền
thống tốt đẹp, xây dựng hệ thống những chuẩn mực quan hệ mới.
- Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ: coi đây là “quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, “là nền tảng và động lực
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Trên lĩnh vực văn hóa: “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được
coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động của văn
hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn
trọng nghĩa tình, quan hệ hoài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”.

34
Phần IV: Sưu Tầm Các Đề Thi Khóa Trước

Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học Phật giáo về thế giới
trong lịch sử triết học Ấn Độ Cổ - Trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt
Nam?
tr 15 – 16 giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc Quyên.
Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam (theo file powerpoint của thầy
Quyên)
Phật giáo truyền vào nước ta từ những năm đầu công nguyên, với bản chất từ bi, bác
ái, phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên mảnh đất
này.
Từ khi vào Việt Nam đến nay phật giáo tồn tại và phát triển phù hợp với truyền
thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần, góp phần
bảo vệ chế độ phong kiến Việt Nam giữ vững nền độc lập dân tộc.
Phật giáo có công đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc trong đó có nhiều vị thiền sư,
quốc sư đức độ tài cao giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Pháp Nhuận…
Vào các thời kì hưng thịnh, phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như
kinh tế ,chính trị ,văn hóa ,giáo dục, kiến trúc,hội họa…Và đã để lại những giá trị mang đậm
đà bản sắc dân tộc.Từ cuối thế kỉ XIII đến nay phật giáo không phải là quốc giáo nữa.
Nhưng tư tưởng tích cực của nó vẫn là nhu cầu, là sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.

Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích điểm khác nhau giữa triết học siêu hình và triết học
duy vật biện chứng khi xem xét “nguyên tắc về sự phát triển”.
tr 186 – 188 giáo trình Triết học Mác – Lênin (2006) của thầy Nguyễn Ngọc
Long.
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau: quan
điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về
mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất
định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự
sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự
phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm,
phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một
quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự
ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát
triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí
có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi
chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn
gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát
triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Quá trình
giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng là quá trình tự thân phát
triển của mọi sự vật.

35
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực,
quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ
quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái
quát xu hướng chung của sự vận động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra
đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.
Trong quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới
cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức
năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.

Câu 3: Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa
nhận định trên của Đảng và vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta giai đoạn hiện nay.
tr 476 – 477 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn giai cấp và còn đấu tranh giai cấp. Đó là điều tất yếu.
Vấn đề là đấu tranh giai cấp hiện nay ở nước ta là như thế nào; nó có liên quan như thế nào
với đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối nhất quán của Đảng ta,
cũng nhất quán với tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính đoàn kết tạo nên sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Tư tưởng này cũng được khẳng định trong Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và tiềm lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội". Đây là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của
giai cấp công nhân về vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được vận dụng cụ thể ở Việt Nam.
Quan điểm này không đối lập đấu tranh giai cấp với đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn
dân không có nghĩa loại trừ đấu tranh giai cấp, mà cần thực hiện đấu tranh giai cấp đúng
quy luật, phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Chính mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đáp ứng lợi ích chung của mọi tầng lớp,
mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta sẽ không mâu
thuẫn với đại đoàn kết toàn dân tộc, không những thế còn củng cố vững chắc hơn khối đoàn
kết toàn dân tộc. Nhưng muốn xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc trước hết phải củng cố
vững chắc khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Khối liên minh này được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được củng cố vững chắc sẽ là nền tảng cho đoàn
kết toàn dân tộc.

Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học duy vật của Đê-mô-crít trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên?

tr 45 – 47 giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc Quyên.

Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể trong
phép biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị)
vận dụng quan điểm đó như thế nào?

Cơ sở lý luận: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến


36
tr 69 – 72 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến
của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các
mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng
và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng. v.v… Như
vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn
tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những
mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên
hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ
biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính
thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái
vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có
thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào
tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những
yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng
là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương
tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính khách
quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các
mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí,
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò
khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên
hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối
liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ
yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v…
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm
về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù

37
trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và
thời gian cụ thể.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề
của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu
hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I. Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp" của sự vật đó".
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết
hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức
và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình
mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Vận dụng:
Dựa vào ý nghĩa phương pháp luận
Vận dụng của chính bản thân chúng ta
- trong nghề nghiệp
- trong cuộc sống

Câu 6: Trình bày bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai
đoạn hiện nay. Từ đó, hãy chỉ rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của người Việt Nam?
Bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay:
tr 549 – 551 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Mặt tích cực và mặt hạn chế của người Việt Nam:
tr 547 – 549 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Câu 7: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học của Democrit (460 - 370
trcn).
Giải: Tr 45 – 47 giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc Quyên.

Câu 8: Anh (chị) phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về
sự phát triển.
Giải: tr 72 – 75 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin (2010) của
thầy Nguyễn Viết Thông.
38
Nguyên lý về sự phát triển
a) Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát
triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để
chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ
cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất
với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến
đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao
hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của
sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân
tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b) Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.
-Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết
mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
-Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá
trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
-Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực
hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không
gian và thời gian khác nhau sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể
dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác… Đó đều là những biểu hiện của
tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải
có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin. "… lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong
sự phát triển, trong sự tự vận động"… trong sự biến đổi của nó".
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối
lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực
tiễn. một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác,
con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy
mâu thuẫn, vì vậy, đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện
tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong
nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng,
phức tạp của nó.
39
Câu 9: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Cơ sở thực tiễn: tr 421 – 423 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên
cứu sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Cơ sở lý luận: lý luận về hình thái kinh tế xã hội: tr 152 – 158 giáo trình Những nguyên lý
cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.
1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng để phân tích đời sống xã hội, tiến hành trừu tượng hóa các quan hệ xã hội và phân
tách ra những quan hệ sản xuất, tức là những quan hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan
tất yếu không phụ thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu” những quan hệ đó. Đồng
thời, phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ phụ thuộc của nó với thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất hiện thực. Phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ với
toàn bộ những quan hệ xã hội khác, tức với những quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng
chính trị - xã hội, từ đó cho thấy rõ xã hội là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản
tạo thành. Đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội)
và hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong đó, quan hệ sản xuất vừa tồn tại với tư
cách là hình thức kinh tế của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa tồn tại với tư cách là cái
hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội mà trên đó dựng lên một hệ thống kiến trúc thượng tầng
chính trị, pháp luật, tôn giáo,… Trong lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cấu trúc đó
được gọi là hình thái kinh tế - xã hội (hoặc “hình thái xã hội”).
Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù hình thái
kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Với quan niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc "hình thái" như vậy đã đem lại một
phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép
phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra những mối quan hệ biện chứng giữa
các lĩnh vực cơ bản của nó; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một quá trình
lịch sử - tự nhiên. Đây là một trong những phát hiện to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin về
phương pháp luận khoa học để phân tích đời sống xã hội và lịch sử vận động, phát triển của
nó.
2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình thái kinh
tế - xã hội, C.Mác đã cho rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc
hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học,… mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với
cơ sở hạ tầng.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại,
của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân

40
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó. V.I.Lênin từng
nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về xã hội là: "Chỉ có đem quy
những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào
trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên".
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển của lịch sử
xã hội loài người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai
trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy
luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế
tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ phong kiến, tư bản chủ nghĩa
và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự
vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của
các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi
cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa
lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa
của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát
triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, v.v… Chính do sự tác động của các nhân tố
này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường,
hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch
sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua" một hay một vài hình thái kinh tế - xã
hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói
riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân
tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Từ đó, lịch sử phát
triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong
tính thống nhất của nó.
3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Trước C.Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự
ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân của nó là lý luận hình thái kinh tế -
xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã
hội.
Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của
đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do
đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung.
Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải
thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát
triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của
xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương diện
của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các
quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì
vậy, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa
khoa học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành
41
phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học…) của đời
sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu
quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát
triển của xã hội. V.I.Lênin từng nhấn mạnh rằng: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển
không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó, cho
phép có thể lấy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn
nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu
thành một hình thái xã hội nhất định, và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và
phát triển của hình thái xã hội đó".
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là những giá trị
về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại,
lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong
các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V.I.Lênin từng dạy rằng: lý
luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một
phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.

Câu 10: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học của Mạnh Tử trong lịch sử triết
học Trung Hoa cổ, trung đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên? Anh (chị) rút ra ý
nghĩa gì từ phân tích vấn đề trên?
Tư tưởng triết học của Mạnh Tử (theo file powerpoint của thầy Quyên)
Mạnh Tử (327-289 TCN), tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh tại nước Lỗ, nay
thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Ông là người kế thừa và phát triển tư tưởng của trường
phái Nho Gia. Quan điểm triết học của Mạnh tử thể hiện ở 3 nội dung:
* Quan điểm của Mạnh Tử về thế giới:
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không do mệnh
trời, mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học
thuyết “ vạn vật đều có đủ trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả ” nghĩa là
không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả.
* Quan điểm về bản chất con người:
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên phú chứ
không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày
càng mạnh thêm, nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một đi thì con người
càng thêm nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có
thể là ác. Đó là do xh rối loạn, luân thường đạo lí bị đảo lộn. Cho nên để thiết lập quốc gia
thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy nhân
nghĩa làm gốc
* Quan điểm về chính trị xã hội:
Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng của ông về “Dân quyền”, tức đề cao
vai trò của quần chúng nhân dân.
Ông cho rằng trong một QG quí nhất là dân rồi mới tới vua, đến của cải xã tắc “ dân
vi quí, quân vi khinh, xã tắc thứ chi ”.

42
Với tinh thần ấy Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ bảo dân, dưỡng dân tức
là phải chăm lo, bảo vệ nhân dân, ông yêu cầu người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân,
phải tạo cho dân có nhà cửa, ruộng vườn, tài sản bởi vì họ “ hằng sản mới hằng tâm”.
Ông là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân. Ông khuyên
các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm
hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của
trường phái Nho Gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên tinh thần nhân bản theo con đường
lấy dân làm gốc.
Ý nghĩa triết học:
Triết học của Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất là quan điểm của
ông về tự nhiên, về lịch sử xã hội, cũng như về luân lý, đạo đức (thực chất đó là sự phản ánh
lợi ích của giai cấp quý tộc thống trị đương thời), nhưng trong học thuyết về chính trị xã hội
với tư tưởng “nhân chính”, “bảo dân”… Có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế
phát triển của lịch sử xã hội. Vì thế, Mạnh tử xứng đáng được hậu thế phong ông là bậc Á
thánh.
Ý nghĩa đối với bản thân:
Gợi ý:
+ Ai cũng có lòng yêu thương nên lấy nhân mà cảm hóa; ai cũng có lòng yêu ghét
nên lấy nghĩa mà điều chỉnh; ai cũng có lòng cương kính nên lấy lễ mà giáo hóa; ai cũng có
lúc thị phi nên lấy trí mà phân biệt đúng sai, nói cách khác, trong cuộc sống, bản thân tôi
nhận thấy không nên dùng bạo lực để giải quyết vấn đề mà phải dùng đức.
+…

Phần V: Sưu Tầm Một Số Câu Hỏi Khác

Câu 1: Phân tích những điều kiện ra đời của triết học Mác và nêu những giai đoạn
chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác – Lenin.

Những điều kiện ra đời của triết học Mác


Triết học Mác, cũng như các hệ thống triết học trước đó, đều ra đời dựa trên những điều
kiện kinh tế-xã hội nhất định:
1. Điều kiện về kinh tế-xã hội, Chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn mới
- Triết học Mác ra đời trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác
động của cách mạng công nghiệp, đã tạo ra một lực lượng sản xuất vô cùng to lớn so với
các thời kỳ trước đó.
- Mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc
lộ ngày càng gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra, đi từ thấp đến cao, từ tự phát
đến tự giác, từ dân sinh đến dân chủ; giai cấp tư sản không còn là giai cấp cách mạng, giai
cấp vô sản trở thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng
nhất.
- Triết học Mác ra đời là tất yếu khách quan

43
Từ thực tiển xã hội, nhất là từ thực tiển cách mạng của giai cấp vô sản đã nảy sinh một yêu
cầu mang tính khách quan là phải được soi sáng bằng một lý luận khoa học. Sự ra đời của
Triết học Mác, là một tất yếu khách quan, là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời
đại đang đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản.
2. Điều kiện về mặt lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
- Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học
- Sự ra đời của Triết học Mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại; là sự kế
thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại, nó được
Mác và Anghen sáng tạo ra và được Lênin phát triển một cách xuất sắc.
- Xây dựng học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống
nhất với nhau một cách hữu cơ.
- Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết
học Heghen, của Phơbach, cải tạo chúng và xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ; đó là chủ nghĩa
duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
- Triết học Mác ra đời trong sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và cải tạo học
thuyết kinh tế chính trị Anh và lý luận về Chủ nghĩa xã hội.
- Vai trò quan trọng của những thành tựu khoa học tự nhiên
- Những thành tựu khoa học tự nhiên có vai trò rất quan trọng trong sự ra đời của triết học
Mác; những phát minh lớn của khoa học tự nhiên, như: định luật bảo toàn năng lượng,
thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đacuyn làm bộc lộ rõ tính hạn chế và bất lực của
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở khoa
học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử,
không những vì nó là sự phản ảnh thực tiển xã hội, nhất là thực tiển cách mạng của giai cấp
vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
1.2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác
1. Giai đoạn Mác-Ăngghen
a) Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
- Bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen.
- Một số tác phẩm chủ yếu:
* Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya.
(C.Mác).
* Những bức thư từ vesphali (bài báo của Ph.Ăngghen).
* Sêlinh và sự linh báo (Ph.Ăngghtn)
- Sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen.
- C.Mác làm biên tập viên cho Báo Sông Ranh (từ 1842 – 1843).
- Một số tác phẩm chủ yếu:
* Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hê ghen, lời nói đầu (C.Mác, 1943).
* Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị (Ph. Ăngghen, 1844).
b) Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

44
- Đây là thời kỳ từ 1844 đến 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng bước xây dựng những
nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Một số tácphẩm tiêu biểu của giai đoạn này:
* Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 (C.Mác).
* Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh (Ph.Ăngghen, 1845).
* Gia đình thần thánh (C.Mác – Ph.Ăngghen, 1845).
* Luận cương về Phoi ơ bắc (C.Mác, 1945)
* Hệ tư tưởng Đức (C.Mác – Ph.Ăngghen, 1846).
* Sự khốn cùng của triết học (C.Mác, 1847).
* Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (C.Mác – Ph.Ăngghen, 1848).
c) Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan điểm triết học.
- Đây là giai đoạn đoạn từ 1848 – 1886, C.Mác và Ph.Ăngghen đã hoàn chỉnh những tư
tưởng triết học của mình.
- Một số tác phẩm chủ yếu của giai đoạn này:
* Đấu tranh giai cấp ở Pháp (C.Mác, 1850).
* Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (Ph.Ăngghen, 1852).
* Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapactơ (C.Mác, 1852).
* Tư bản (C.Mác, 1867).
* Phê phán cương lĩnh Gôta (C.Mác, 1875).
* Chống Đuy rinh (Ph.Ăngghen, 1878).
* Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (Ph.Ăngghen, 1884).
* Biện chứng của tự nhiên (Ph.Ăngghen, 1886).
* Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (Ph.Ăngghen, 1886).
2. V.I. Lênin phát triển triết học Mác.
a) Hoàn cảnh lịch sử
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
- Những thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
- Có nhiều khuynh hướng triết học đối lập với triết học Mác.
b) Nội dung cơ bản của quá trình Lênin phát triển triết học Mác.
- Giai đoạn 1893 – 1907.
+ Một số tác phẩm chủ yếu:
* Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra
sao (1894).
* Làm gì (1902)
* Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ (1905).
- Giai đoạn từ 1907 đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga 1917.
Một số tác phẩm chủ yếu của thời kỳ này:
* Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909).
* Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác (1913).
* Bút ký triết học (1916).
* Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916).
* Nhà nước và cách mạng (1917).
* Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản (1920).
* Về chính sách kinh tế mới (1921).
* Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922).
3. Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện, Lênin
phát triển.
a) Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
b) Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
45
c) Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
d) Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng.
e) Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể.
4. Triết học Mác-Lênin trong thời đại hiện nay.
a) Những biến đổi của thời đại.
b) Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác-Lênin trong thời đại hiện
nay.

Câu 2: Khái niệm thế giới quan, các hình thức thế giới quan, bản chất và những
nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng
chúng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?.

1. Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng thế giới quan DVBC là thế giới quan
mà cơ sở của nó là duy vật và cách tiếp cận là biện chứng
Là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các phương pháp
nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều chỉnh các
hành vi trong hoạt động của mình. Nó là khoa học về các quy luật chung nhất của sự vận
động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy luật hệ thống.
2. Hình thức thế giới quan duy vật biện chứng (Nội dung)
Nội dung = Hình thức? Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý
(nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định) và 6 cặp phạm trù
với tính cách là những quy luật không cơ bản (cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức;
nguyên nhân và kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện
thực) .
3. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn
vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới
quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiễn cách
mạng của nó.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Ở đây mối quan hệ này
được hiểu là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Bằng việc đưa quan điểm thực tiễn vào
hoạt động nhận thức, đặc biệt việc thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất
đối với sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục được
hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thoả đáng các vấn đề cơ bản của triết
học.
- Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản bị tách rời nhau. Chủ
nghĩa duy vật tuy có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng nhìn chung
phương pháp siêu hình giữ vai trò giữ vai trò thống trị đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật thế
kỷ XVII – XVIII.
Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến đỉnh cao ở chủ nghĩa duy tâm với quan
niệm về sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học cổ điển Đức. Việc tách rời giữa
thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả
46
các nhà duy vật trước Mác không hiểu về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và nối tiếp
nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất.
Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với việc tổng
kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C. Mac và Ăngghen đã giải thoát thế giới
quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí
để hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan
duy vật với phép biện chứng.
- Quan niệm duy vật triệt để (duy vật cả về mặt xã hội)
Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Khẳng định sản
xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh
hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi
sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ.
- Tính thực tiễn - cách mạng
Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết thể hiện ở:
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế
giới.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế
giới.
4. Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng
Nguyên tắc luận được rút ra để định hướng cho hoạt động của con người là: Trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức, con người phải tôn trọng khách quan đồng thời phải phát
huy tính năng động chủ quan của mình.
4.1. Tôn trọng khách quan: Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật
chất. Điều này đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế
khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện cho hành động của mình.
- Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan:
+ Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ
quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời
sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể.
+ Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng
là: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”.
- Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được lực lượng vật chất để
thực hiện nó.
4.2. Phát huy tính năng động chủ quan: Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy
tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò của nhân tố con người
trong việc vật chất hoá những tính chất ấy.
- Một số biểu hiện cơ bản của nó là:
Phải tôn trọng tri thức khoa học, phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức
khoa học vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng
hành động.
Như vậy, tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa là những ý
nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động
thực tiễn.
5. Vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng vào sự nghiệp đổi mới của đất
nước ta hiện nay

47
- Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những
thành tựu đạt được chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách
quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất nên đã phạm một số sai lầm trong việc xác định mục tiêu,
xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế.
- Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chúng ta xác
định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành kinh tế và
của toàn xã hội” cũng chính là tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới.
- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh phức tạp của thế
giới hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta khẳng định “giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Việc đầu tư có trọng điểm
trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, việc chủ trương xã hội hoá giáo dục để “cả
nước trở thành một xã hội học tập”

Câu 3: Trình bày lịch sử của phép biện chứng, những nội dung cơ bản của phép biện
chứng và sự vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay

Phương pháp biện chứng là phương pháp:


+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc
nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung
là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của
sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận
trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái "hoặc là... hoặc là..." còn có cả cái "vừa
là... vừa là..." nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó;
thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư
duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thứcvà cải tạo thế giới.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba giai
đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó: phép biện
chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
+ Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả
phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh
thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện
chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực
nghiệm khoa học.
+ Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể
hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức
đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện
chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới
48
hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện
chứng duy tâm.
+ Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện
trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác
và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện
chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên
hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển?
Vận dụng quan điểm toàn diện và phát triển như thế nào trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay?

1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn


- Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ
sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc
toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta phải xem
xét sự tồn tại củ nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện
tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một chiều.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và
phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp
tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của sự
vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng trong một chỉnh
thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối quan
hệ của chúng.
- Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần
xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng.
- Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngữ nguỵ biện.
2. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và nhận thức
- Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản,
quan trọng của hoạt động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là
nguyên lý về sự phát triển của phép biện chựng duy vật. Theo đó, sự phát triển là vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ
nảy sinh những tính quy định quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ
chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày
càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng chúng ta phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về
chất trong quá trình phát triển, phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là
tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn, phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật
hiện tượng mới.

49
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng
thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng
thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải
phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều
giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau.
- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện
cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ …Sự thay
thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ,
chiến thắng cái cũ.
- Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Câu 6: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý
nghĩa của phương pháp luận cảu quy luật này trong việc phát hiện và phân tích
mâu thuẫn ở nước ta hiện nay?

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là hạt
nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự
vật hiện tượng.
1. Khái niệm
a. Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính, những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên
hệ tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của
các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác
động qua lại và đấu tranh lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các mặt
đối lập.
2. Nội dung quy luật
Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, những
khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển,
dẫn tới sự mất đi của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới.
3. Phân tích nội dung quy luật
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc của
sự vận động và phát triển
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự
vật hiện tượng, chỉ thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự vật hiện
tượng với nhau, nhưng không cho đó là có tính quy luật.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn
tại mâu thuẫn bên trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt, các
thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc
nhau nên nó tạo thành mâu thuẫn.

50
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến; mâu
thuẫn tồn tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại phổ
biến chẳng những ở mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến trong suốt quá trình vận động
và phát triển của chúng; mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành.
b. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập liên hệ
nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và
phát triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản
chủ nghĩa)
Khái niện “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm “đồng
nhất”, đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau trong tất cả các
hiện tượng, các quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy; song “đồng nhất” còn có ý nghĩa
khác, đó là sự chuyễn hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như vậy sự “đồng nhất” là
không tách rời với sự khác nhau và đối lập, (ví dụ liên hệ: một vật vừa là nó vừa không phải
là nó; quan điểm này hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, phiến diện, xem sự vật
mang tính đồng nhất thuần túy không có đối lập, không có sự chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự đấu tranh bài
trừ nhau, phủ định nhau giữa chúng; hình thức đấu tranh được thể hiện trong thế giới vật
chất là rất đa dạng, từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự nhiên
chỉ là những tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là những xung đột gay gắt, quyết
liệt bằng bạo lực cách mạng mới có thể giải quyết căn bản các mâu thuẫn)
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với
những đặc điểm riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự
khác nhau của 2 mặt có khuynh hướng trái ngược nhau; trong quá trình phát triển của mâu
thuẫn, sự khác nhau đó biến thành sự đối lập, khi 2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu
có điều kiện chín muồi sẽ chuyễn hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết; kết quả là sự
thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ bị phá hũy, sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới được hình
thành cùng mới mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời
tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng; còn
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn
đến sự chuyển hóa về chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật chất luôn vận động và
phát triển.
3. Các loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn trong tự nhiên, xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng; tính đa dạng được quy
định bởi đặc điểm của các mặt đối lập, điều kiện thực hiện sự tác động qua lại giữa các mặt
đối lập, bởi trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài; trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các
mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật hiện tượng; mâu thuẫn bên ngoài là
mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác (ví dụ: đồng hóa-dị hóa:
bên trong; cơ thể-môi trường: bên ngoài); cách phân loại này chỉ mang tính tương đối, các
mâu thuẫn tác động lẫn nhau và mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định trực tiếp đến sự
vận động và phát triển của sự vật hiện tượng (ví dụ: chính sách đối nội-đối ngoại).
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật hiện tượng, người ta
phân loại thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn quy định bản chất của sự vật hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn
của sự vật hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật hiện tượng; mâu
thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy
51
định sự vận động và phát triển một mặt nào đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn giữa lực
lượcng sản xuất với quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu;
mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật hiện tượng, giải quyết nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu; phân
biệt mâu thuẫn chủ yếu với mâu thuẫn thứ yếu chỉ mang tính tương đối, trong cùng một sự
vật trong điều kiện này là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều kiện khác lại là mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia thành mâu thuẫn
đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng; mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những
giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (ví
dụ); mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những khuynh hướng
xã hội có đối lập về lợi ích những mang tính cục bộ, tạm thời (ví dụ: mâu thuẫn trong các bộ
phận công nhân, giữa thành thị-nông thôn). Phân biệt được các loại mâu thuẫn trên sẽ góp
phần xác định chính xác phương pháp giải quyết phù hợp: bằng bạo lực cách mạng hay
bằng giáo dục thuyết phục.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải biết
phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn, nắm được bản chất của sự vật, khuynh hướng vận
động và phát triển của chúng.
Hoạt động thực tiển nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó,
muốn vậy phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn; không nên giải quyết mâu
thuẫn một cách vội vàng khi chưa đủ điều kiện.
Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới nhiều hình thức khác
nhau, tuỳ loại mâu thuẫn mà có phương pháp giải quyết cụ thể.

Câu 7: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?

1. Nội dung cơ bản của quy luật lượng-chất:


- Vị trí quy luật: là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật nói lên
cách thức của quá trình vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
- Khái niệm cơ bản:
+ Chất: là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật hiện tượng, là sự
thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, đặc trưng làm cho nó là nó và khác với những cái
khác.
> Chất của sự vật bộc lộ ra thông qua các thuộc tính về chất của nó, cả chất và thuộc
tính về chất đều là khách quan vốn có của sự vật nhưng bộc lộ ra thông qua mối quan hệ qua
lại.
> Chất của hệ thống có liên quan nội tại với chất của các bộ phận cấu thành và phương
thức liên kết giữa chúng.
+ Lượng: là khái niệm dùng để chỉ tính qui đinh vốn có của các sự vật về lượng, nó
biểu thị quy mô tồn tại của sự vật, quảng tính của sự vật, số lượng các bộ phận, thuộc tính
của sự vật.
> Lượng là mặt khách quan vốn có của sự vật.

52
> Lượng của sự vật bộc lộ ra thông qua các thuộc tính về lượng, thuộc tính về lượng
cũng bộc lộ ra thông qua mối quan hệ.
- Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất:
+ Lượng đổi dẫn đến chất đổi
> Mọi sự vật đều có mặt chất và mặt lượng của nó, khi sự vật vận động và phát triển,
cả hai mặt chất và lượng đều biến đổi theo. Sự thay đổi lượng có thể diễn ra trong một
khoảng nhất định mà chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
> Độ: là khái niệm dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, đó là khoảng thưòi
gian giới hạn mà trong giới hạn đó lượng thay đổi nhưng chất chưa thay đổi về cơ bản.
> Điểm nút: là điểm giới hạn trong sự thay đổi về lượng mà sự thay đổi về lượng đạt
tới đó sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật.
> Nhảy vọt: là khái niệm dùng để chỉ 1 giai đoạn trong qúa trình vận động và phát
triển ở đó sự thay đổi về lượng đang dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của sự vật.
+ Chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi về lượng: làm thay đổi quy mô tồn tại của
sự vật, thay đổi nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật đó.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nhận thức: để có tri thức đầy đủ về sự vật, phải có nhận thức cả mặt lượng và mặt chất
của nó, khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa lượng và chất ta sẽ có tri thức hoàn chỉnh
về sự vật đó.
- Thực tiễn: cần chống hai chủ quan sai lầm là tuyệt đối hoá qúa trình thay đổi về chất hay
tuyệt đối hoá quá trình thay đổi về lượng.

Câu 8: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương
pháp luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay?

1. Nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định:
- Phủ định: là khái niệm dùng để chỉ sự mất đi của sự vật này và ra đời sự vật khác.
- Phủ định biện chứng: Là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực
đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật hiện tượng
mới cao hơn tiến bộ hơn. (là loại phủ định tạo ra điều kiện và tiền đề cho sự phát triển).
- Đặc điểm của phủ định biện chứng:
+ Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính khách quan:
> Sự phủ định ấy do mâu thuẫn nội tại của sự vật ấy tự quy định.
> Nhân tố phủ định là sản phẩm phát triển của chính sự vật, do đó quá trình phủ định biện
chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển.
> Phương thức phủ định sự vật do bản thân sự vật tự quy định.
+ Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính kế thừa.
- Phủ định của phủ định – hình thức xoáy chôn ốc của quá trình phát triển: Sự phát triển
biện chứng là sự thống nhất giữa tiến lên và lặp lại do đó nó không quy trở lại đúng điểm
xuất phát mà quay trở lại trên một cơ sở mới cao hơn.
2. Ý nghĩa trong quá trình đổi mới ở nước ta
* Đặc điểm của phủ định trong đời sống xã hội:
- Phủ định trong xã hội là hình thức và kết quả hoạt động của con người do vậy ngoài những
đặ trưng mà mọi phủ định biện chứng đều có thì phủ định biện chứng trong xã hội có 2 đặc
điểm riêng:
+ Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phủ định:
53
> Quan điểm siêu hình về phủ định trong xã hội xuất hiện khi xác định không đúng
đối tượng, thời điểm, phương thức phủ định.
> Tuyệt đối hoá mặt loại bỏ hoặc mặt giữ lại.
+ Phủ định xã hội diễn ra bằng cơ chế khác căn bản với phủ định trong tự nhiên.
* Vì vậy, phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa:
- Cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời của các mới, cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những
mặt tích cực của cái cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách trơn.
- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng lọc giữ lấy những cái tích cực có giá trị
của cái cũ.
- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản trở bước tiến của lịch sử

Câu 9: Quan niệm của triết học Mác – Lênin về thực tiễn, nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm này trong
việc đổi mới tư duy lý luận và nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta?

Câu 10. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về lý luận và thực tiễn, quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn? Đảng ta vận dụng quan hệ này vào việc đổi mới tư duy
lý luận như thế nào?

1. Thực tiễn là gì?


Là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động của vật chất - cảm tính có tính chất lịch sử
- xã hội của con người nhằm mục đích biến đổi tự nhiên và xã hội.
* Thực tiễn có những đặc trưng sau:
- Là hoạt động vật chất chứ không phải là hoạt động tinh thần. Hoạt động vật chất là
hoạt động mà con người dùng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào đối tượng
vật chất để làm biến đổi chúng.
- Thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội
- Thực tiễn có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và XH
* Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản: Sản xuất vật chất; hoạt động cải tạo (biến đổi)
chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học - kỹ thuật. Trong đó, sản xuất vật chất
là có sớm nhất, quan trọng nhất, quyết định hình thức kia. Hai hình thức kia có ảnh hưởng
quan trọng tới sản xuất vật chất.
2. Lý luận là gì?
- Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn phản ánh
những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy
luật…
- Cơ sở của lý luận là thực tiễn
- Lý luận có tính khái quát cao, thể hiện phản ánh vản chất sự vật, hiện tượng
- Lý luận có tính hệ thống
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:

54
- Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận:
> Thực tiễn là nguồn gốc, động lực, mục đích của nhận thức, lý luận.
> Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng sai của lý luận: tuyệt đối, tương đối.
- Sự tác động trở lại của lý luận đến thực tiễn:
> Góp phần nâng cao hoặc giảm hiệu quả của hoạt động thực tiễn.
> Các yếu tố qui định hiệu quả tác động của lý luận đến thực tiễn: Mức độ đúng đắn
hay sai lầm của lý luận, khả năng thâm nhập của lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn
trên cơ sở lý luận đó.
4. Đường lối phát triển nước ta:
- Phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn.
- Không được rơi vào tuyệt đối hoá thực tiễn coi thường lý luận để rơi vào bệnh kinh
nghiệm đồng thời không được tuyệt đối hóa lý luận coi thường lý luận mà rơi vào giáo điều

Câu 11: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất?
Luận chứng cho thấy, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp?

1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Khái niệm
- Lực lượng sản xuất: là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức, kỹ
năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động nhất định và tư
liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con
người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực lượng sản
xuất.
- Quan hệ sản xuất: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản
xuất ra.
- Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
+ Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX: Trong quá trình hoạt động sản xuất,
LLSX không ngừng được hoàn thiện và phát triển mà trước hết là phát triển công cụ sản
xuất. Đến một trình độ nhất định, tính chất của LLSX thay đổi về cơ bản khi đó QHSX cũ
lỗi thời trở thành vật cản đối với sự phát triển của LLSX. Đến một mức độ nhất định QHSX
ấy bị phá vỡ để xác lập một kiểu QHSX mới cao hơn từ đó một phương thức sản xuất mới
ra đời, một hình thái kinh tế xã hội mới xuất hiện.
+ Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:
> Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó góp phần thúc đẩy
LLSX phát triển.
> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm LLSX: QHSX đã lỗi thời trước trình độ phát triển
của LLSX, QHSX xác lập một cách duy ý chí đi quá xa so với LLSX.
2. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất?
- Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là trạng thái mà trong đó, quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển”
của lực lượng sản xuất.
55
- Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định lại làm cho
quan hệ từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi đó quan hệ sản xuất trở thành trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm
lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất
tất yếu sẽ dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản
xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
+ LLSX quyết định QHSX, vì:
- LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá trình sản xuất, còn
QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã hội của sản xuất nên có tính chất
tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của LLSX.
- LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù hợp với nó. Sự
phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX phát triển.
- Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ
bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này
được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
3. Luận chứng cho thấy, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp?
- Theo quy luật thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển cửa lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử, sự phát triển của lực lượng sản xuất là quá trình không ngừng đổi mới
và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ người lao động, là
quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã hội, chuyển từ lực lượng sản xuất có
tính chất cá nhân lên lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày
nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ ngày
càng đóng vai trò to lớn, lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế, quá trình chuyển biến đó
ngày một rõ ràng hơn.

Câu 13 :Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ? Vận dụng quy luật này luận chứng
tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ?

*Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất:
1. Lực lượng sản xuất:
a. Định nghĩa: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá
trình sản xuất tạo ra của cải vật chất, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người
- Lực lượng sản xuất là thước đo quan trọng nhất của sự tiến bộ xã hội
b. Kết cấu của LLSX
- LLSX là sự thống nhất của hai yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất.
+ Người lao động (sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư
liệu lao động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ
xảo, thói quen, kết hợp với các yếu tố đạo đức, tâm lý, khoa học … biết sử dụng TLSX để
tạo ra của cải vật chất.
Lênin nói “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”
+ Tư liệu sản xuất: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao gồm
đối tượng lao động và tư liệu lao động

56
· Đối tượng lao động: không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận của
giới tự nhiên được con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Đối tượng lao động
gồm 2 dạng: dạng tự nhiên sẵn có và dạng nhân tạo
· Tư liệu lao động: là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối
tượng lao động. Tư liệu lao động gồm 2 bộ phận: công cụ lao động và phương tiện lao động
§ Công cụ lao động là vật nối trung gian giữa người và tư liệu lao động. Theo Ănghen
“Công cụ lao động là khí quan của bộ óc người, là tri thức được vật thể hóa có tác dụng nối
dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ cho con người”
§ Phương tiện lao động (xe, nhà kho)
Tóm lại:
Trong các yếu tố này không thể thiếu người lao động, người lao động là nhân tố chủ
quan hàng đầu của LLSX. Hơn thế nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao
động có trí tuệ và lao động trí tuệ.
Khi con người tiến hành lao động SX thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất,
động nhất và cách mạng nhất. Tóm lại, trình độ của công cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người
* Khoa học công nghệ (chỉ ngày nay mới có)
- Vai trò của Khoa học công nghệ theo quan điểm của triết học Mác:
+ Khoa học có vai trò nâng cao trình độ người lao động
+ Khoa học có vai trò nâng cao công cụ lao động
+ Khoa học có vai trò kết hợp người lao động với công cụ lao động, tao nên năng suất
lao động cao và đây là cái đích cuối cùng của Khoa học.
2. Quan hệ sản xuất:
a. Khái niệm: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất.
- Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan
- Mỗi loại QHSX đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội
b. Kết cấu quan hệ sản xuất:
- Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
=> 3 mặt của QHSX có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó quan hệ
sở hữu đối với TLSX là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ
khác. Mác nói “Trong mối quan hệ này thì quan hệ sản xuất là quan trọng nhất nhưng QH
sở hữu này không phải đơn giản mà có được”
3. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:
· Tính chất của LLSX: là tính chất của TLSX và của người lao động. Nền SX đó bằng thủ
công cá thể hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự đòi hỏi phân công lao động trong nên
sản xuất.
· Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình độ tổ chức
lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất + kinh nghiệm, kỹ năng lao động
của con người + trình độ phân công lao động.
a. QHSX được hình thành và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX:
- LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất nhưng trong đó LLSX là mặt động
thường xuyên biến đổi, còn QHSX mang tính bảo thủ, trì trệ hơn, thể hiện con người luôn
cải tiến công cụ để giảm nhẹ lao động, thời gian lao động, tạo nên năng suất lao động hiệu
quả cao. Vì vậy công cụ lao động là yếu tốt động nhất trong LLSX cho nên cộng cụ lao

57
động thay đổi dẫn đến QHSX thay đổi theo và thể hiện SX ngày càng mang tính chất xã hội
hóa cao.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Nội dung là cái quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo.
- Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định nhất đối với sự phát triển của QHSX. Trong
lực lượng SX còn nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất đối với việc hình thành và phát
triển của quan hệ sản xuất là do tính chất và trình độ của LLSX quyết định quan hệ chặt chẽ
như thế nào giữa người lao động với người lao động chứ không phải do phương pháp của
đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác chứng minh, Mác nói “Trong
PTSX kiếm sống của mình mà con người làm thay đổi các quan hệ xã hội của mình, các cối
xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa phong kiếm, cái cối xay chạy bằng hơi nước
đẹm lại xã hội có nhà TBCN”.
- Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được QHSX. Cho
nên dẫn đến mâu thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
- LLSX phát triển được là nhờ nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn cảnh địa lý, trình
độ phát triển của khoa học, còn QHSX chỉ giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
LLSX.
- QHSX là sự phản ánh LLSX nhưng chính nó lại quy định mục đích của SX, khuynh hướng
phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống quản lý sản
xuất và quản lý xã hội. Bởi vậy nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX thì nó sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Còn nếu QHSX không phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó sẽ cản trở LLSX.
- Sự tác động của QHSX đối với LLSX: chỉ khi xem xét QHSX trong một tình huống đầy
đủ với ba mặt của nó, đồng thời chịu sự chi phối của yếu tố chung:
+ Các quy luật kinh tế cơ bản
+ phụ thuộc vào trình độ của người lao động
+ Tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, công nghệ
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì khi LLSX phát triển tới mức QHSX cản trở sự phát
triển của nó thì CMXH là bước cuối cùng để thay đổi QHSX hiện có.
Như vậy, ta có thể khẳng định:
- Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình độ của LLSX là quy luật chung cho
toàn xã hội loài người, chính sự tác động của quy luật này làm cho xã hội loài người phát
triển từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.
- Quy luật này là cơ sở lý để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển của
lịch sử.
- Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đường lối của Đảng, phê phán các
chủ trương sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất mới.
- Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của nhân
loại.
* Vận dụng quy luật:
Ở Việt Nam, sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975)
chúng ta đã tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Vào buổi đầu, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, chúng ta đã xây dựng CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung.
Trong điều kiện chiến tranh, mô hình đó đã đóng vai trò tích cực nhưng trong điều kiện hoà
bình, mô hình đó dần dần bộc lộ những hạn chế và dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về
kinh tế - xã hội.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của ĐCSVN
đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà
58
là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên CNXH ở nước ta. ĐCSVN đã định ra
đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển
của LLSX của nước ta trong điều kiện hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực
sản xuất trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước, và gắn phân công
lao động trong nước với quốc tế và khu vực, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng. Những
thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong 20 năm đổi mới đã chính minh tính đúng đắn của
đường lối đó.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa LLSX, phát
huy nguồn lực toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi ngành kinh tế, phát triển, phát triển
khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn
lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XH CN, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế trí thức, định hướng tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác phát triển.
Với sự phát triển của LLSX, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Xu
hướng tất yếu là không dừng ở CNTB mà tiến lên CNCS. Việt Nam đang trong quá trình
quá độ lên CNXH, vì thế chúng ta cần hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chính trị và cơ cấu
chính trị.

Câu 15: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng XH? Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu
của việc cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?

Khái niệm CSHT và KTTT


* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một
hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh
tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những QHSX thống trị,
những QHSX là tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau.
Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao
giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó
quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chugn của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX
thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay
trong CSHT.
* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những
thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định.
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống
trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp
mới ra đời; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định.
Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị tiêu
biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của
giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.

59
1. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT:
- CSHT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX đang tồn tại trong một giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội tạo thành cơ cấu nền tảng kinh tế của xã hội đó.
+ 3 khả năng tồn tại của CSHT trong xã hội:
> CSHT đồng nhất với 1 kiểu QHSX.
> CSHT đồng nhất với 2 kiểu QHSX.
> CSHT có số lượng QHSX lớn hơn 2.
+ Số lượng QHSX lớn hơn 1 đặc trưng cho CSHT của xã hội đó là kiểu QHSX thuộc về
phương thức SX chiếm sự thống trị trong xã hội đó.
- KTTT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và các thiết chế
tương ứng phản ánh CSHT của xã hội đó.
+ 2 bộ phận:
> Tư tưởng, tinh thần
> Thiết chế tổ chức
- Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
+ Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT:
> CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT.
> Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT do vậy để giải
quyết triệt để mâu thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết mâu thuẫn trong CSHT làm
nhân tố quyết định.
+ KTTT tác động trở lại đối với CSHT:
> Khi KTTT phù hợp với CSHT sẽ góp phần thúc đẩy CSHT phát triển.
> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT.
2. Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải cách nền
hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?
- CSHT nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo nên KTTT phải xây dựng, củng cố, đối mới phù hợp.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết phải đa nguyên chính trị tuy nhiên yêu
cầu khách quan đặt ra là KTTT nước ta phải đổi mới phát triển theo hướng nâng cao chất
lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình.
- Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu
“xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại
hóa, hoạt động có hiệu quả”. Trong một số năm gần đây, cải cách hành chính (CCHC) đã
được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính
công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
- Tuy nhiên, tốc độ CCHC còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp. Nền hành chính có
chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu cầu cải cách của nền hành chính hiện đại
và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng chung là nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ công chức
ngại thực hiện cơ chế một cửa, do ngại bị bó buộc, ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục
bộ… Mặt khác, trình độ công chức, cán bộ ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn nhiều bất
cập, tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều nơi chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế, tuy là “một cửa” nhưng
vẫn còn nhiều “ổ khóa” do không ít cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên
người dân chưa hết phiền hà. Trong khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên
quyết và nhất quán ở các cấp, các ngành; tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời
sống của cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thảo luận các giải pháp đẩy mạnh CCHC
giai đoạn 2, từ 2006-2010.
- Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến
nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải
cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước
60
thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể
hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước.

Câu 16: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng XH để phân tích vai trò của nhà nước đối với sự phát triển XH ở
nước ta hiện nay?1. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa
CSHT và KTTT

- CSHT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX đang tồn tại trong một giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội tạo thành cơ cấu nền tảng kinh tế của xã hội đó.
+ 3 khả năng tồn tại của CSHT trong xã hội:
> CSHT đồng nhất với 1 kiểu QHSX.
> CSHT đồng nhất với 2 kiểu QHSX.
> CSHT có số lượng QHSX lớn hơn 2.

+ Số lượng QHSX lớn hơn 1 đặc trưng cho CSHT của xã hội đó là kiểu QHSX thuộc về
phương thức SX chiếm sự thống trị trong xã hội đó.
- KTTT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và các thiết chế
tương ứng phản ánh CSHT của xã hội đó.
+ 2 bộ phận:
> Tư tưởng, tinh thần
> Thiết chế tổ chức
- Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
+ Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT:
> CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT.
> Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT do vậy để giải
quyết triệt để mâu thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết mâu thuẫn trong CSHT làm
nhân tố quyết định.
+ KTTT tác động trở lại đối với CSHT:
> Khi KTTT phù hợp với CSHT sẽ góp phần thúc đẩy CSHT phát triển.
> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT.

2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XH
để phân tích vai trò của nhà nước đối với sự phát triển XH ở nước ta hiện nay

- Nhà nước với tư cách là một yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng, luôn có tác động
toàn diện tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế XH.
- Không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, nâng cao vai trò
của tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Phát triển văn hoá, xây dựng văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân……..

61
Câu 17: Phân tích luận điểm của Mác: “Tôi coi sự phát triển các hình thái kinh
tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc
nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN hiện nay?

1. Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội:


Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với LLSX ở một trình độ
nhất định và với một KTTT được xây dựng lên trên những QHSX đó.
Phân tích: Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội có các đặc trưng: là một chỉnh thể sống, vận
động, có cơ cấu phức tạp. Trong đó có 3 mặt cơ bản, phổ biến nhất là: LLSX, QHSX và
KTTT. Các mặt đó gắn bó, tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận
động, phát triển xã hội.
+ Trong các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế – xã hội thì LLSX là nền tảng
vật chất kỹ thuật của mọi hình thái kinh tế – xã hội, QHSX là cơ sở kinh tế, CSHT của xã
hội là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội với xã hội khác. KTTT có chức năng, vai
trò duy trì, bảo vệ, phát triển CSHT và các mặt của đời sống xã hội.
* Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên,
vì:
+ Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo
quy luật khách quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong
một hoàn cảnh khách quan nhất định mà họ hải tích ứng.
+ Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét
đến cùng là quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của
LLSX.
+ Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là
quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT.
+ Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm
sự phát triển tuần tự theo xu hướng tổng quát chung, vừa bao hàm khả năng một quốc gia
này hay một quốc gia khác trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này
để lên một chế độ xã hội khác cao hơn (lấy ví dụ đối với lịch sử thế giới và Việt Nam).

2. Sự vận dụng của Đảng ta:


+ Lý luận về hình thái kinh tế – xã hội nói chung và nguyên lý về sự phát triển các hình thái
kinh tế, là một quá trình lịch sử tự nhiên giúp chúng ta có một cơ sở khoa học để đi sâu nhận
thức xã hội, quy luật phát triển của nó, chống CNDT, CNDV máy móc về xã hội.
+ Đảng ta nhất quán cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga, việc Việt Nam đi từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự chọn đúng đắn, phù
hợp với sự phát triển lịch sử nhân loại và đất nước ta (Phân tích những khó khăn, thuận lợi
và bài học của 10 năm đổi mới ở nước ta).
+ Để tiến lên một xã hội mới – xã hội XHCN, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ
LLSX, tiến hành CNH-HĐH, từng bước thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX và củng cố, hoàn thiện KTTT XHCN.
Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế – xã hội ở Việt Nam
hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, phải
làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế
62
quốc dân. Xây dựng KTTT XHCN, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.

Câu 18: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - XH của Mác. Phân tích tính tất yếu
của việc định hướng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?

1. Luận chứng khoa học và vai trò phương pháp của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
của Mác
- Sự ra đời lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một bước chuyển biến cách mạng trong
nhận thức về đời sống xã hội.
- Lý luận đó đưa ra quan điểm duy vật về xã hội, chỉ ra sản xuất là là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói
chung.
- Lý luận đó cũng chỉ ra xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt, các
lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng.
- Lý luận đó đã mang lại một phương pháp luận thật sự khoa học cho nhận thức và
hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
* Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống
xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung.
- Thứ hai: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, xã hội không phải là sự kết hợp một cách
ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất
chặt chẽ với nhau.
- Thứ ba: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng, sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là diễn ra theo quy luật khách quan
chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
- Thứ tư: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của
nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử - cụ thể mà con đường phát triển
riêng, đặc thù.
2. Tính tất yếu
Việt Nam chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, song với điều kiện lịch sử nhất định,
có thể quá độ lên CNXH, không qua giai đoạn TBCN. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy
luật lịch sử tự nhiên.
- Trong chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt, luận cương của đảng đã khẳng định:
“Con đường của Cách mạng Việt Nam nhất định phải đi tới CNXH, bỏ qua thời kỳ TBCN”.
- Qua các thời kỳ cách mạng, từ khi thành lập Đảng ta luôn luôn khẳng định chân lý:
“Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường tất yếu khách quan phù hợp với ý chí
nguyện vọng của nhân dân ta”. Sau thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước
ta có đủ điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, đó là:
+ Phương thức sản xuất cũ (TBCN) đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Phương thức sản xuất
mới (CSCN) tiến bộ đã xuất hiện. Hơn nữa, thực tiễn cách mạng VN đã làm cho nhân dân ta
hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân (Pháp) và chủ nghĩa đế quốc (Mỹ) đã củng cố việc
lựa chọn con đường gắn độc lập dân tộc và CNXH.

63
+ Chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Chính vì vậy, mục tiêu tiếp theo của cách mạng nước ta tất yếu phải là
CNXH, do đó, phải bước vào thời kỳ quá độ để đi lên CNXH.
- ĐH Đảng IX tiếp tục khẳng định “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN”.
Đại hội Đảng IX chỉ rõ: ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
QHSX phù hợp theo định hướng XHCN.
Xuất phát từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ. Lao động thủ công đi lên CNXH mà
chưa có nền đại công nghiệp, do đó phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây
dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ tiến lên
CNXH.
- Đảng ta chỉ rõ quan hệ giữa phát triển kinh tế, xã hội với phát triển KH, công nghệ vì sự
phát triển KHCN sẽ tạo ra sự phát triển nhanh của LLSX nhằm nâng cao năng suất lao
động, nâng cao sức mạnh nội lực để hội nhập kinh tế thế giới
Công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa mà hướng trước hết vào các ngành công
nghệ cao do đó “coi giáo dục và đào tạo, KH và CN là nền tảng, động lực của sự nghiệp
CNH – HĐH đất nước.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta với thế và lực trong nước và điều kiện quốc tế có
nhiều thuận lợi nên không thể chỉ thực hiện các bước đi tuần tự mà cần và có thể rút ngắn
thời gian, vừa có bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
- Đại hội Đảng đã xác nhận “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Do đó chúng ta có thể và cần phải lựa chọn tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Câu 19 : Phân tích nội dung những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời từ sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười vĩ đại. Chủ nghĩa
xã hội lúc đó được xây dựng theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình đó đã phát huy
tác dụng trong một thời gian nhất định, nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, với
nhiều nguyên nhân đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng và sâu sắc, dẫn đến sự sụp đổ của
Liên Xô và Đông Âu. Chính sự khủng hoảng đó giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ
nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Đảng
ta và Hồ Chủ Tịch đã khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau.
Đó là sự lựa chọn phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Đảng ta
đã xác định những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
* Đó là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
* Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
* Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
* Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân.
* Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
* Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Từ một điểm xuất phát thấp chúng ta khẳng định con đường đi lên của Việt Nam là phát
64
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp nên phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Mục tiêu của chúng ta là “Xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .
Trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cần hiểu: “bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội”, tức là:
Bỏ qua hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, bỏ qua chế độ bóc lột cuối cùng
trong lịch sử. Bỏ qua nhưng phải tôn trọng tính lịch sử, tự nhiên, tính tuần tự không chủ
quan nóng vội. Bỏ qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ nhưng không bỏ qua
nền sản xuất hàng hoá. Bỏ qua nhưng phải kế thừa, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước với
tư cách là một thành phần kinh tế. Bỏ qua lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng không
lặp lại quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mà rút ngắn quá trình ấy tức là kết hợp vừa tuần
tự vừa nhảy vọt.
Bỏ qua quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách nó giữ vai trò thống trị xã hội
chứ không xoá sạch các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội

Câu 20: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai
cấp, dân tộc, nhân loại và sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng hiện nay?

. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – LêNin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc
nhận loại
+ Giai cấp: những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.(khác về: đối với tlsx ; vai trò
trong tổ chức lao động ; cách hưởng thụ )
+ Đấu tranh g/c : là cuộc đấu tranh giữa các g/c có lợi ích cơ bản đối lập nhau và
không thể điều hoà được. Đỉnh cao của đấu tranh g/c là CM xã hội.
Đấu tranh g/c nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và không điều hoà được của các g/c
có địa vị khác nhau trong hệ thống SX xã hội nhất định. Thông qua đấu tranh g/c mà mâu
thuẫn llsx và qhsx được giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển.
Dân tộc: là khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người trong lịch sử.
Quan hệ giai cấp - dân tộc:
- Vai trò g/c đối với dân tộc:
+ Quan hệ g/c xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng, bản chất xá hội
, tính chất quan hệ giữa các dân tộc.
+ Áp bức g/c là cơ sở , nguyên nhân của áp bức dân tộc.
+ Nhân tố g/c là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.
- Vai trò dân tộc đối với g/c:
+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cmvs.
+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bứcg/c, nuôi dưỡng áp bức g/c, làm sâu sắc
thêm áp bức g/c.
+ Đấu tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh g/c.
+ Dân tộc là cơ sở của g/c, nuôi dưỡng đấu tranh g/c, tạo cơ sở sức mạnh g/c.
Quan hệ g/c - nhân loại :
Nhân loại là khái niệm chỉ toàn thể công đồng người sống trên trái đất, không phân
biệt dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, g/c.

65
+ Các nhà tư tưởng trước Mác họ chư được tính lịch sửcủa khái niệm nhân loại, mà chỉ
thấy mặt tự nhiên, mặt sinh vật của tính thống nhất nhân loại.
+ CNM cho rằng con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là cộng
đồng của những thực thể xã hội.
+ Trong XH có g/c, vấn đề g/c không phải vấn đề riêng của 1 g/c, 1 tầng lớp nào đó,
mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu trnh giải phóng g/c, giải phóng dân tộc bị áp bứclà nội
dung cơ bản của quá trình giả phóng con người, đưa nhân loại tiến lên. Do vây, không thể
tách rời vấn đề g/c với vấn đề nhân loại.
+ GCCN-sản phẩm của phương thức SX tbcn, đại diện cho llsx tiên tiến, có tính chất
xã hội hoá cao-do vậy gccn có bản chất cm và có tính chất quốc tế. Lợi ích của gccn phù
hợp với lợi ích nhân loại.
2. Sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay
- Nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang đó là ĐCSVN đứng
đầu là HCM đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại trong
từng điều kiện lịch sử cụ thể. Nét đặc biệt nhất của việc giải quyết mối quan hệ đó là gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mối liên hệ này xuyên suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam, chi phối các mặt khác của cuộc cách mạng.
- Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên,
vấn đế quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở Việt Nam cần đảm bảo những nội dung sau:
+ Giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc.
+ Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với đoàn
kết dân tộc
+ Giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại.

Câu 21: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về nguồn gốc và bản chất của nhà
nước? Bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN? những đặc trưng của nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay?

1. Nguồn gốc
+ Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước. Đó là thời kỳ cộng sản
nguyên thuỷ. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia g/c
+ Nguồn gốc sâu xa của nhà nước chính là do sự phát triển của llsx, trước hết là công
cụ lao động. LLSX phát triển đã làm cho chế độ sở hữu tư nhân ra đời, các g/c bóc lột và bị
bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ-hai g/c đối kháng đầu tiên trong lịch
sử-dẫn đến nguy cơ huỷ diệt luôn cả xã hội. Để điều này không xảy ra, một cơ quan quyền
lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
+ Nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước chính là mâu thuẫn g/c gay gắt không điều
hoà được.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một yếu tố khách quan để làm cho mâu thuẫn g/c
diễn ra trong vòng “trật tự” có thể duy trì chế độ kinh tế -xã hội và g/c thống trị mới.
2. Bản chất
+ Là nền chuyên chế của g/c này đối với g/c khác và đối với toàn xã hội. Nói khác đi,
nhà nước là tổ chức trính trị của g/c thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành phù
hợp với lợ ích của mình và đàn áp sự phản kháng của các g/c khác.

66
+ Trong xã hội có g/c đối kháng, g/c nào thống trị về kinh tế sẽ nắm chính quyền nhà
nước trong tay vì chỉ có g/c ấy mới có khả năng vật chất, để tổ chức, duy trì bộ máy nhà
nước. G/c bị trị xét về bản chất không có nhà nước.
+ Xét về bản chất, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một g/c, không có nhà
nước đứng trên g/c, đứng ngoài g/c, là công cụ bảo vệ lợi ích của g/c thống trị về kinh tế
nhằm trấn áp các g/c khác và toàn xã hội.

3. Nhà nước pháp quyền:


a/ Nhà nước pháp quyền: “Nhà nước pháp quyền là một hình thức tỏ chức nhà nước
đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật với nội dung thực hiện quyền lực
thuộc về nhân dân.
b/ Những đặc điểm tiêu biểu:
- Ngự trị cao nhất của pháp luật, ko ai được đứng trên luật pháp.
- Quyền lực nhà nước thể hiện lợi ích và ý chí đại đa số nhân dân
- Bảo đảm thực tế quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:

a/ Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:


Là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng, đó
là Đảng cộng sản VN; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa g/c cn với g/c ndân và đội ngũ trí
thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập
XHCN theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
b/ Xây dựng hoàn thiện nhà nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường… Tính chất xã
hội dân sự yêu cầu tự do và sáng tạo của từng cá nhân, là cạnh tranh thực hiện lợi ích kinh tế
nên các khế ước các hợp đồng phải được tôn trọng.. Tuy nhiên, sự phân hoá giai cấp giầu
nghèo ko thể tránh vì vậy phải có sự giải quyết thích hợp.
4. Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước pháp quyền nói chung; quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng về nhà nuớc pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có 5 đặc trưng chủ yếu sau:

- Một, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- Hai, trong Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nuớc là thống
nhất, nhưng có sự phân công rành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nuớc là
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Ba, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đuợc tổ chức và hoạt động trên cơ
sở hiến pháp, pháp luật. Ở đó hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thợng trong việc điều
chỉnh các quan hệ trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
- Bốn, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nuớc và công dân, thực hành
dân chủ đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
- Năm, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận.
5 đặc trưng trên là kết luận đã được rút ra từ việc thực hiện Chuơng trình “Tổng kết
20 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
67
Câu 23: Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng
con người? Ý nghĩa của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?

1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người:
Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà
triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới
quan của CNDVBC, Mác khẳng định: “ Bản chất con người không phải là một cái trìu
tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”.
Quan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong
bản chất con người là: mặt sinh học và mặt xã hội.
+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải
chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển của
nó.
+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả
phát triển lâu dài của thế giới vật chất.
+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang
tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng
với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt
động và giao tiếp xã hội.
+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao
tiếp trong đời sống xã hội.
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về giải phóng con người

- Triết học Mác nói chung, của triết học về con người trong triết học Mác – Lênin nói
riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng những con người cụ thể sẽ tiến đến giải
phóng nhân loại.
- Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là giải
thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau
trong một thế giới khác ngoài tự nhiên - Chỉ là giải phóng ảo tưởng.
- Triết học Mác – Lênin xác định ‘bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó
trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người là giải
phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa’.
- Giải phóng con người là xoá bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở
về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình.
- Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai
trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.
3. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới:
+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:
+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các
công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người.
+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải
biến thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất,
cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành
chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử.
68
+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm
nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau:
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách,
biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng
cao tay nghề.
- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích
của cả cộng đồng.
- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất
với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài
hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ bản nhất
của sự nghiệp CNH-HĐH.(coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội).

69
Phần VI: Đề Và Đáp Án Trong Một Số Kì Thi

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ĐỀ THI: Triết học Mác – Lênin
BAN TRIẾT HỌC Khối Khoa học tự nhiên
---------- Thời gian làm bài: 120 phút

NỘI DUNG ĐỀ
Câu 1. Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học của Democrit (460 - 370
trcn).
Giải: tr 45 – 47 giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc
Quyên.
Câu 2. Anh (chị) phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về
sự phát triển.
Giải: tr 72 – 75 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.
Nguyên lý về sự phát triển
a) Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát
triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để
chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ
cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất
với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến
đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao
hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của
sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân
tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b) Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.
-Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết

70
mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
-Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá
trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
-Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực
hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không
gian và thời gian khác nhau sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể
dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác… Đó đều là những biểu hiện của
tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải
có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin. "… lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong
sự phát triển, trong sự tự vận động"… trong sự biến đổi của nó".
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối
lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực
tiễn. một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác,
con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy
mâu thuẫn, vì vậy, đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện
tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong
nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng,
phức tạp của nó.
Câu 3. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Giải:
Cơ sở thực tiễn:
tr 421 – 423 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và
Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Cơ sở lý luận: lý luận về hình thái kinh tế xã hội:
tr 152 – 158 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.

71
1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng để phân tích đời sống xã hội, tiến hành trừu tượng hóa các quan hệ xã hội và phân
tách ra những quan hệ sản xuất, tức là những quan hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan
tất yếu không phụ thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu” những quan hệ đó. Đồng
thời, phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ phụ thuộc của nó với thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất hiện thực. Phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ với
toàn bộ những quan hệ xã hội khác, tức với những quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng
chính trị - xã hội, từ đó cho thấy rõ xã hội là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản
tạo thành. Đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội)
và hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong đó, quan hệ sản xuất vừa tồn tại với tư
cách là hình thức kinh tế của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa tồn tại với tư cách là cái
hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội mà trên đó dựng lên một hệ thống kiến trúc thượng tầng
chính trị, pháp luật, tôn giáo,… Trong lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cấu trúc đó
được gọi là hình thái kinh tế - xã hội (hoặc “hình thái xã hội”).
Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù hình thái
kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Với quan niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc "hình thái" như vậy đã đem lại một
phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép
phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra những mối quan hệ biện chứng giữa
các lĩnh vực cơ bản của nó; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một quá trình
lịch sử - tự nhiên. Đây là một trong những phát hiện to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin về
phương pháp luận khoa học để phân tích đời sống xã hội và lịch sử vận động, phát triển của
nó.
2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình thái kinh
tế - xã hội, C.Mác đã cho rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc
hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học,… mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với
cơ sở hạ tầng.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại,
của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó. V.I.Lênin từng
nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về xã hội là: "Chỉ có đem quy

72
những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào
trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên".
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển của lịch sử
xã hội loài người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai
trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy
luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế
tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ phong kiến, tư bản chủ nghĩa
và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự
vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của
các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi
cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa
lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa
của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát
triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, v.v… Chính do sự tác động của các nhân tố
này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường,
hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch
sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua" một hay một vài hình thái kinh tế - xã
hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói
riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân
tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Từ đó, lịch sử phát
triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong
tính thống nhất của nó.
3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Trước C.Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự
ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân của nó là lý luận hình thái kinh tế -
xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã
hội.
Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của
đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do
đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung.
Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải
thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát
triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của
xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương diện
của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các
73
quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì
vậy, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa
khoa học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành
phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học…) của đời
sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu
quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát
triển của xã hội. V.I.Lênin từng nhấn mạnh rằng: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển
không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó, cho
phép có thể lấy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn
nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu
thành một hình thái xã hội nhất định, và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và
phát triển của hình thái xã hội đó".
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là những giá trị
về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại,
lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong
các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V.I.Lênin từng dạy rằng: lý
luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một
phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.
-----------------------
Ghi chú: Học viên được sử dụng tài liệu khi làm bài thi.
* Chú ý: Đề thi này không biết của khóa nào, có lẽ là K18.

74
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ĐỀ THI: Triết học Mác – Lênin
BAN TRIẾT HỌC Khối: Khoa học tự nhiên
---------- Thời gian làm bài: 120 phút
Đề 1
NỘI DUNG ĐỀ
Câu 1. Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học duy vật của Đê-mô-crít trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên?
Giải: như trên.
Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong phép
biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị) vận dụng
quan điểm đó như thế nào?
Giải:
Cơ sở lý luận: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
tr 69 – 72 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến
của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các
mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng
và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng. v.v… Như
vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn
tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những
mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên
hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ
biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính
thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau

75
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái
vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có
thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào
tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những
yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng
là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương
tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính khách
quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các
mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí,
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò
khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên
hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối
liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ
yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v…
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm
về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù
trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và
thời gian cụ thể.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề
của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu
hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I. Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp" của sự vật đó".
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết
hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

76
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức
và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình
mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Vận dụng:
Dựa vào ý nghĩa phương pháp luận
Vận dụng của chính bản thân chúng ta
- trong nghề nghiệp
- trong cuộc sống

Câu 3. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Giải: như trên.
-----------------------
Ghi chú: Học viên được sử dụng tài liệu khi làm bài thi.

* Chú ý: Đề thi này có lẽ của K19.


(vì có ghi “Đề 1” nghĩa là có bốc thăm chọn một trong ba đề).
________________________________________________________________________

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ĐỀ THI: Triết học Mác – Lênin
BAN TRIẾT HỌC Khối khoa học tự nhiên
---------- Thời gian làm bài: 120 phút

NỘI DUNG ĐỀ

Câu 1. Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học của Mạnh Tử trong lịch sử triết học
Trung Hoa cổ, trung đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên?
Anh (chị) rút ra ý nghĩa gì từ phân tích vấn đề trên?
Giải:
77
Tư tưởng triết học của Mạnh Tử (theo file powerpoint của thầy Quyên)
Mạnh Tử (327-289 TCN), tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh tại nước Lỗ, nay
thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Ông là người kế thừa và phát triển tư tưởng của trường
phái Nho Gia. Quan điểm triết học của Mạnh tử thể hiện ở 3 nội dung:
* Quan điểm của Mạnh Tử về thế giới:
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không do mệnh
trời, mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học
thuyết “ vạn vật đều có đủ trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả ” nghĩa là
không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả.
* Quan điểm về bản chất con người:
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên phú chứ
không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày
càng mạnh thêm, nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một đi thì con người
càng thêm nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có
thể là ác. Đó là do xh rối loạn, luân thường đạo lí bị đảo lộn. Cho nên để thiết lập quốc gia
thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy nhân
nghĩa làm gốc
* Quan điểm về chính trị xã hội:
Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng của ông về “Dân quyền”, tức đề cao
vai trò của quần chúng nhân dân.
Ông cho rằng trong một QG quí nhất là dân rồi mới tới vua, đến của cải xã tắc “ dân
vi quí,quân vi khinh, xã tắc thứ chi ”.
Với tinh thần ấy Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ bảo dân, dưỡng dân tức
là phải chăm lo, bảo vệ nhân dân, ông yêu cầu người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân,
phải tạo cho dân có nhà cửa, ruộng vườn, tài sản bởi vì họ “ hằng sản mới hằng tâm”.
Ông là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân. Ông khuyên
các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm
hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của
trường phái Nho Gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên tinh thần nhân bản theo con đường
lấy dân làm gốc.
Ý nghĩa triết học:
Triết học của Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất là quan điểm của
ông về tự nhiên, về lịch sử xã hội, cũng như về luân lý, đạo đức (thực chất đó là sự phản ánh
lợi ích của giai cấp quý tộc thống trị đương thời), nhưng trong học thuyết về chính trị xã hội
với tư tưởng “nhân chính”, “bảo dân”… Có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế
phát triển của lịch sử xã hội. Vì thế, Mạnh tử xứng đáng được hậu thế phong ông là bậc Á
thánh.

78
Ý nghĩa đối với bản thân:
Gợi ý:
+ Ai cũng có lòng yêu thương nên lấy nhân mà cảm hóa; ai cũng có lòng yêu ghét
nên lấy nghĩa mà điều chỉnh; ai cũng có lòng cương kính nên lấy lễ mà giáo hóa; ai cũng có
lúc thị phi nên lấy trí mà phân biệt đúng sai, nói cách khác, trong cuộc sống, bản thân tôi
nhận thấy không nên dùng bạo lực để giải quyết vấn đề mà phải dùng đức.
+…
Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong phép
biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị) vận dụng
quan điểm đó như thế nào?
Giải: như trên.
Câu 3. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta giai đoạn hiện nay?
Giải: như trên.
-----------------------
Ghi chú: Học viên được sử dụng tài liệu khi làm bài thi.

* Chú ý: Đề thi này của K21 đợt 1.

79
Nhóm 4 tín chỉ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ĐỀ THI: Triết học Mác – Lênin
BAN TRIẾT HỌC Khối Khoa học xã hội
---------- Thời gian làm bài: 120 phút

NỘI DUNG ĐỀ

Câu 1. Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học Phật giáo về thế giới
trong lịch sử triết học Ấn Độ Cổ - Trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam?
Giải:
tr 15 – 16 giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc Quyên.
Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam (theo file powerpoint của thầy
Quyên)
Phật giáo truyền vào nước ta từ những năm đầu công nguyên, với bản chất từ bi, bác
ái, phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên mảnh đất
này.
Từ khi vào Việt Nam đến nay phật giáo tồn tại và phát triển phù hợp với truyền
thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần, góp phần
bảo vệ chế độ phong kiến Việt Nam giữ vững nền độc lập dân tộc.
Phật giáo có công đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc trong đó có nhiều vị thiền sư,
quốc sư đức độ tài cao giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Pháp Nhuận…
Vào các thời kì hưng thịnh, phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như
kinh tế ,chính trị ,văn hóa ,giáo dục, kiến trúc,hội họa…Và đã để lại những giá trị mang đậm
đà bản sắc dân tộc.Từ cuối thế kỉ XIII đến nay phật giáo không phải là quốc giáo nữa.
Nhưng tư tưởng tích cực của nó vẫn là nhu cầu, là sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.

Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích điểm khác nhau giữa triết học siêu hình và triết học
duy vật biện chứng khi xem xét “nguyên tắc về sự phát triển”.
Giải:
tr 186 – 188 giáo trình Triết học Mác – Lênin (2006) của thầy Nguyễn Ngọc Long.
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau: quan
điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về
mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất
định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự

80
sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự
phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm,
phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một
quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự
ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát
triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí
có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi
chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn
gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát
triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Quá trình
giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng là quá trình tự thân phát
triển của mọi sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực,
quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ
quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó
chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật
mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận
động. Trong quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy
định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận
động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.

Câu 3. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa nhận
định trên của Đảng và vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Giải:
tr 476 – 477 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn giai cấp và còn đấu tranh giai cấp. Đó là điều tất
yếu. Vấn đề là đấu tranh giai cấp hiện nay ở nước ta là như thế nào; nó có liên quan như thế
nào với đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối nhất quán của
Đảng ta, cũng nhất quán với tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính đoàn kết tạo nên sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Tư tưởng này cũng được khẳng định trong
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo,
kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và tiềm lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội". Đây là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
81
điểm của giai cấp công nhân về vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được vận dụng cụ thể ở
Việt Nam. Quan điểm này không đối lập đấu tranh giai cấp với đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn
kết toàn dân không có nghĩa loại trừ đấu tranh giai cấp, mà cần thực hiện đấu tranh giai cấp
đúng quy luật, phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân
dân. Chính mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đáp ứng lợi ích chung của mọi tầng
lớp, mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta sẽ không mâu
thuẫn với đại đoàn kết toàn dân tộc, không những thế còn củng cố vững chắc hơn khối đoàn
kết toàn dân tộc. Nhưng muốn xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc trước hết phải củng cố
vững chắc khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Khối liên minh này được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được củng cố vững chắc sẽ là nền tảng cho đoàn
kết toàn dân tộc.
----------
Ghi chú: Học viên được sử dụng tài liệu khi làm bài thi.

Cần Thơ, ngày 12 tháng 3 năm 2012

Lê Ngọc Triết

* Chú ý: Đề thi này của K18.


_______________________________________________________________________

82
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ĐỀ THI: Triết học Mác – Lênin
BAN TRIẾT HỌC Khối:Khoa học xã hội và nhân văn
---------- Thời gian làm bài: 120 phút

Đề 3
NỘI DUNG ĐỀ
Câu 1. Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học duy vật của Đê-mô-crít trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên?
Giải: tr 45 – 47 giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc
Quyên.
Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể trong
phép biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị) vận
dụng quan điểm đó như thế nào?
Cơ sở lý luận: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
tr 69 – 72 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến
của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các
mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng
và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng. v.v… Như
vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn
tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những
mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên
hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ
biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính
thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ

83
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái
vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có
thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào
tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những
yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng
là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương
tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính khách
quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các
mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí,
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò
khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên
hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối
liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ
yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v…
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm
về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù
trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và
thời gian cụ thể.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề
của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu
hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I. Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp" của sự vật đó".
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết
hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
84
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức
và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình
mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Vận dụng:
Dựa vào ý nghĩa phương pháp luận
Vận dụng của chính bản thân chúng ta
- trong nghề nghiệp
- trong cuộc sống
Câu 3. Từ Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm: phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, nhấn mạnh động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân. Anh
(chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vấn đề này với vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta giai
đoạn hiện nay?
Giải: như trên.
----------
Ghi chú: Học viên được sử dụng tài liệu khi làm bài thi.

* Chú ý: Đề thi này của K20.


________________________________________________________________________

85
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ĐỀ THI: Triết học Mác – Lênin
BAN TRIẾT HỌC Khối khoa học xã hội và nhân văn
---------- Thời gian làm bài: 120 phút
NỘI DUNG ĐỀ
Câu 1. Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng “thế giới quan” của triết học Phật giáo trong
lịch sử triết học Ấn Độ cổ, trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam?
Giải: như trên.
Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong phép
biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị) vận dụng
quan điểm đó như thế nào?
Giải:
Cơ sở lý luận: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
tr 69 – 72 giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin (2010) của thầy Nguyễn Viết Thông.
Như trên.
Câu 3. Trình bày bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai
đoạn hiện nay. Từ đó, hãy chỉ rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của người Việt Nam?
Giải:
Bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay:
tr 549 – 551 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Mặt tích cực và mặt hạn chế của người Việt Nam:
tr 547 – 549 giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
----------
Ghi chú: Học viên được sử dụng tài liệu khi làm bài thi.

* Chú ý: Đề thi này của K21 đợt 1.


_______________________________________________________________________

86

You might also like