You are on page 1of 9

Mấy nét đă ̣c trưng về thời đại Lý – Trần

Với ý ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với tinh thần đô ̣c lâ ̣p tự chủ, tự cường của cô ̣ng đồng

người Viê ̣t phương Nam nên trong hơn mô ̣t nghìn năm nô lê ̣ phương Bắc, nhân dân ta hễ

có cơ hô ̣i thì vùng dâ ̣y kết đoàn để đánh đuổi giă ̣c ngoại xâm và đã có lúc giành lại nền

đô ̣c lâ ̣p tự chủ dù tuy còn ngắn ngủi. Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938, bằng

mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa dân

tô ̣c ta bước sang mô ̣t kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này,

đất nước ta chuyển sang mô ̣t thời đại mới: Thời trung đại. Đây là thời kỳ nhà nước phong

kiến đô ̣c lâ ̣p được xây dựng ngày càng hùng mạnh và phát triển mọi mă ̣t qua các triều đại:

Ngô (938-967), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1025), Trần (1225-1400),

Hồ (1400-1407), và mấy năm đầu của cuô ̣c kháng chiến chống giă ̣c Minh vào thời hâ ̣u

Trần (1407-1413). Mô ̣t giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành

tựu tổng hợp của sáu triều đại, trong đó hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn

cả về nhiều phương diê ̣n nên GS Nguyễn Huê ̣ Chi trong phần Khảo luận văn bản của bô ̣

hợp tuyển Thơ văn Lý – Trần đã gọi tên chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý –

Trần ([i]). Có thể nói thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh liê ̣t, rực rỡ, và đẹp đẽ

nhất, còn là thời đại hoàng kim của lịch sử chế đô ̣ phong kiến Viê ̣t Nam. Đă ̣c trưng cơ bản

của thời đại này có thể nêu lên những nét lớn như sau:

Trước hết, thời đại Lý – Trần là thời đại đôc̣ lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất

cộng đồng.

Đấu tranh chống kẻ thù xâm lược; đấu tranh chống mọi sự chia rẽ nô ̣i bô ̣ nhằm sớm đạt

được mô ̣t sự thống nhất, đoàn kết các lực lượng dân tô ̣c để tạo nên mô ̣t sức mạnh hùng

hâ ̣u là yêu cầu bức xúc của thời đại, là yêu cầu sống còn của dân tô ̣c. Với chiến thắng của
Ngô Quyền, đất nước ta thâ ̣t sự trở thành mô ̣t đất nước đô ̣c lâ ̣p, thống nhất, có chủ quyền.

Chiến thắng đó đã đánh bại mưu đồ xâm lược thống trị và ý đồ đồng hoá diê ̣t chủng của

bọn phong kiến Trung Quốc, đồng thời khẳng định sự tồn tại vững chắc của mô ̣t đất nước

cần thống nhất và nâng cao thêm ý thức đô ̣c lâ ̣p, làm chủ của dân tô ̣c. Viê ̣c Ngô Quyền tự

xưng vương và xây dựng mô ̣t vương triều phong kiến đô ̣c lâ ̣p với những nghi lễ riêng đã

biểu thị ý chí quyết tâm giữ gìn nền đô ̣c lâ ̣p vừa giành được sau hơn mười thế kỷ bền bỉ

đấu tranh. Đáng tiếc là, công cuô ̣c xây dựng đất nước chưa hoàn thiê ̣n thì ông mất (944).

Tiếp theo là triều đình biến loạn, chính quyền trung ương còn non trẻ giờ suy yếu, các thế

lực phong kiến cát cứ nổi dâ ̣y, đất nước bị chia xẻ bởi loạn Mười hai sứ quân. Đây là mô ̣t

hiểm hoạ lớn cho dân tô ̣c. Nền đô ̣c lâ ̣p của đất nước, sự sống còn của dân tô ̣c đòi hỏi cần

phải giữ gìn khối đoàn kết thống nhất, phải chấm dứt ngay nạn cát cứ phân quyền. Yêu

cầu cấp thiết của lịch sử này đã được Đinh Bô ̣ Lĩnh đáp ứng. Ông đã giương cao ngọn cờ

thống nhất quốc gia, dẹp tan loạn lạc, đem lại hoà bình cho nhân dân, thống nhất cho đất

nước. “Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng

lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân ta ([ii])”. Xuất phát từ nhu

cầu thống nhất đất nước, đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c, thống nhất cô ̣ng đồng mà các vương triều phong

kiến tiếp theo đã lãnh đạo nhân dân chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm đến từ phía Nam,

phía Bắc: Lê Hoàn phá tan quân Tống (981); Lý Thường Kiê ̣t bình định giă ̣c Chiêm Thành

(1069) và nhiều lần chiến thắng quân Tống (1075-1077), mà vang dô ̣i nhất là chiến thắng

quân giă ̣c trên sông Cầu; và trước đó, người anh hùng này còn đem quân sang đánh trên

đất Trung Quốc như Châu Ung, Châu Khâm, làm cho nhà Tống khiếp sợ, phải công nhâ ̣n

Đại Viê ̣t là mô ̣t vương quốc đô ̣c lâ ̣p và từ đó về sau, trong khoảng hai trăm năm không

dám xâm phạm nước ta. Ngay cả cách đă ̣t tên nước Đại Viê ̣t cũng đã biểu lô ̣ ý chí đô ̣c lâ ̣p,

bình đẳng với vương triều Trung Quốc. Cũng nhờ yêu cầu đoàn kết thống nhất cô ̣ng đồng,
thống nhất các lực lượng dân tô ̣c mà các triều vua Lý bằng chính sách khoan hoà, nhân thứ

đã thu phục các thủ lĩnh dân tô ̣c thiểu số miền núi phía Bắc, phía Đông Bắc; đã đô ̣ng viên

họ cùng với nhân dân Đại Viê ̣t chiến đấu và bảo vê ̣ biên cương Tổ quốc. Sự thâ ̣t là họ đã

có những cống hiến lớn trong sự nghiê ̣p chống ngoại xâm, giữ gìn non sông. Cũng nhờ

yêu cầu đoàn kết thống nhất, ý thức đô ̣c lâ ̣p mà đời Trần mới có mô ̣t Hô ̣i nghị Bình Than

(1282), Hô ̣i nghị Diên Hồng (1285) với tiếng hô đồng thanh “đánh” đầy quyết tâm, vang

dô ̣i non sông, để làm nên những chiến công lừng lẫy năm châu, chấn đô ̣ng địa cầu bằng ba

lần đánh tan tác đạo quân xâm lược Nguyên Mông hung hãn và hùng mạnh nhất thế giới

vào các năm 1258, 1285, 1288. Hào khí Đông A muôn đời bất diê ̣t có được là nhờ âm

hưởng của những chiến thắng trên và thắng lợi này là thành quả tất yếu của cuô ̣c chiến

tranh nhân dân.

Thứ đến, thời đại Lý Trần là thời đại phục hưng dân tô ̣c.

Từ trong hoang tàn đổ nát sau chiến tranh, từ nền kinh tế què quă ̣t với cơ sở vâ ̣t chất yếu

kém, tài nguyên bị khánh kiê ̣t bởi ngoại bang vơ vét, nên khi nước nhà vừa đô ̣c lâ ̣p, trong

điều kiê ̣n vừa hoà bình, nhân dân ta liền bước vào công cuô ̣c xây dựng và kiến thiết đất

nước. Nếu dưới triều Ngô, Đinh, công cuô ̣c xây dựng này chưa đạt thành tựu là bao thì

sang triều Lê, công cuô ̣c xây dựng đó bước đầu được phục hồi, ít nhiều có sự phát triển.

Từ triều Lý trở đi (1009 -1225), nhất là thế kỷ XI, công cuô ̣c xây dựng đó thâ ̣t sự có quy

mô lớn, đă ̣t nền tảng cho sự phát triển toàn diê ̣n và vững chắc. Viê ̣c vua Lý Thái Tổ dời đô

từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La và đổi tên Thăng Long là mô ̣t sự kiê ̣n quan trọng, có ý

nghĩa lớn với mục đích “đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiê ̣p lớn, tính kế muôn đời
([iii])
cho con cháu” (Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế ). Vì Thăng Long

dưới cái nhìn của  vị vua anh minh, nhân từ là nơi có đủ điều kiê ̣n để thoả mãn mục đích
trên “ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi (…) Xem khắp nước

Viê ̣t ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước;

cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời” (Trạch thiên địa khu vực chi trung;

đắc long bàn hổ cứ chi thế (…) Biến lãm Viê ̣t bang, tư vi thắng địa, Thành tứ phương bức
([iv])
thấu chi yếu hô ̣i; vi vạn thế đế vương chi thượng đô ). Nhờ vâ ̣y mà kinh tế dưới triều

Lý được phát triển: nông nghiê ̣p được chú trọng; viê ̣c khẩn hoang và xây dựng những

công trình thuỷ lợi phục vụ nông nghiê ̣p với quy mô lớn đã được chú ý nhiều. Các ngành

nghề thủ công như dê ̣t, gốm, luyê ̣n kim, mỹ nghê ̣, chạm khắc, đúc đồng đã đạt đến trình

đô ̣ cao về kỹ thuâ ̣t lẫn nghê ̣ thuâ ̣t. Giao thông, thương mại không chỉ phát triển trong nước

mà còn mở rô ̣ng sang các nước lân câ ̣n trong khu vực. Nhờ thành quả kinh tế mà tạo nên

những điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Viê ̣c học tâ ̣p thi cử đào tạo

nhân tài, xây dựng đất nước được các vua nhà Lý chăm lo. Nếu trước đó, theo lê ̣ bảo cử và

tiến cử người làm quan thì từ đời vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông về sau, bên cạnh các

lê ̣ trên còn có kỳ thi tuyển chọn nhân tài. Vua nhà Lý đã xây dựng Văn Miếu (1070), mở

khoa thi tam giáo đầu tiên trong lịch sử giáo dục khoa cử nước ta (1075) rồi thành lâ ̣p

Quốc tử giám (1076) chính là cắm cái mốc cho sự nghiê ̣p đại phục hưng đó. Nghê ̣ thuâ ̣t

chạm trổ, điêu khắc trên gỗ, trên đá, trên gốm thời này đã thể hiê ̣n mô ̣t phong cách đă ̣c sắc

và đạt trình đô ̣ kỹ thuâ ̣t cao. Đă ̣c biê ̣t hình tượng con rồng thời này – mô ̣t vâ ̣t linh của

người Viê ̣t, với dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển  là mô ̣t hình tượng nghê ̣ thuâ ̣t đô ̣c đáo,

phải chăng hình tượng này đã được nghê ̣ nhân tài hoa thổi vào đó cái cốt lõi tinh thần, cái

hồn của thời đại? Như vâ ̣y, về phương diê ̣n văn hoá, đời Lý đã đă ̣t nền tảng cho giai đoạn

phát triển rực rỡ của nền văn hoá dân tô ̣c mà các sử gia gọi đó là “Văn hoá Thăng Long
([v])
” để các triều đại sau kế tục phát triển.
Sang thời Trần (1225-1400) trong vòng 30 năm (1258-1288) đất nước liên tục ba lần bị

ngoại xâm. Kinh thành Thăng Long đã ba lần bị giă ̣c chiếm đóng. Nơi phồn hoa đô hô ̣i

bỗng chốc trở thành vườn không nhà trống. Nhiều cung điê ̣n, đền chùa, miếu mạo bị giă ̣c

thiêu huỷ, tàn phá. Chiến tranh vừa kết thúc, hoà bình vừa lâ ̣p lại, triều đình đã đô ̣ng viên

nhân dân phục hồi kinh tế và phát triển văn hoá mô ̣t cách toàn diê ̣n trên cơ sở tinh thần

đô ̣c lâ ̣p mạnh mẽ và mô ̣t ý thức tự hào dân tô ̣c sâu sắc. Điều đáng lưu ý là chữ Nôm thời

này đã được phổ biến và được sử dụng để sáng tác. Đây là mô ̣t  biểu lô ̣ ý thức đô ̣c lâ ̣p trên

lĩnh vực văn hoá.

Mă ̣t khác, kho tàng thần thoại và truyê ̣n cổ dân gian cũng đã được thời này sưu tầm tâ ̣p

hợp thành sách. Viê ̣c học hành thi cử, so với đời Lý, giờ đây đã đi vào quy củ và được

chính quy hoá. Nhà nước đã đă ̣t ra lê ̣ thi các kỳ thi và đă ̣t ra các học vị chính thức trong thi

cử để sĩ tử phấn đấu. Viê ̣c học không chỉ đóng khung ở kinh thành mà còn mở rô ̣ng ra các

địa phương đến các lô ̣, các phủ, các châu. Thiên văn, lịch pháp, y học đã đạt trình đô ̣ cao

với những nhân vâ ̣t tên tuổi như Đă ̣ng Lô ̣, Trần Nguyên Đán, Thái Bá Tĩnh (Tuê ̣ Tĩnh).

Nghê ̣ thuâ ̣t ca múa nhạc, nghê ̣ thuâ ̣t tạo hình cũng có bước phát triển mới. Kịch hát cổ

truyền (chèo, tuồng) được khôi phục và phát triển. Nghê ̣ thuâ ̣t điêu khắc, chạm trổ đã kế

thừa những thành tựu có tính truyền thống từ đời Lý và phát triển thêm, mang tính phóng

khoáng, khoẻ khoắn và hiê ̣n thực, đáp ứng được yêu cầu tinh thần của thời đại. Tiêu biểu

nhất cho phong cách là hình tượng con rồng với dáng vẻ chắc nịch, khoẻ khoắn, hùng

dũng, mang được hào khí của thời đại chiến đấu oai hùng, chiến thắng ngoại xâm.

Nhìn chung, thời Lý - Trần là thời đại phục hưng những giá trị văn hoá tinh thần truyền

thống của dân tô ̣c. Chỉ tính riêng về kiến trúc, thời đại này đã để lại những công trình nổi

tiếng như đời Lý có chùa Diên Hựu (chùa Mô ̣t Cô ̣t) ở Thăng Long, đời Trần có tháp Phổ
Minh ở Nam Định, tháp Bình Sơn ở Vĩnh Phú và nhiều di tích chùa chiền, đền đài khác.

Chỉ với chất liê ̣u gạch và những tấm đất nung màu đỏ ghép lại mà hồi ấy nhân dân ta đã

xây dựng được những ngọn tháp cao đến mười mấy tầng với bố cục chă ̣t chẽ, cân xứng,

chạm trổ công phu, sinh đô ̣ng. Điều đó đủ chứng tỏ nghê ̣ thuâ ̣t xây dựng, điêu khắc, kiến

trúc lúc bấy giờ đã được phục hưng và phát triển đến đỉnh cao. Sẽ là mô ̣t thiếu sót lớn nếu

quên kể ra đây bốn công trình nổi tiếng được mê ̣nh danh là “An Nam tứ đại khí” của thời

đại là tháp Báo Thiên, tượng Phâ ̣t chùa Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền và đỉnh (vạc) chùa

Phổ Minh. Thời ấy văn hoá văn nghê ̣ dân gian với những lễ hô ̣i truyền thống đã chấn hưng

và được mọi giai tầng xã hô ̣i từ vua chúa đến thứ dân đều ưa chuô ̣ng. Sử sách chép rằng

trong mô ̣t hô ̣i vâ ̣t, mô ̣t hoàng thượng đời Trần đang xem và hồi hô ̣p theo dõi trâ ̣n đấu

chẳng kém gì mọi người, bởi mô ̣t trong hai tay đấu để giành danh hiê ̣u “đô vâ ̣t” kia là con

trai của mình.

Cuối cùng, thời đại Lý - Trần còn là thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, nhân từ,

rô ̣ng mở và dân chủ.

Nhờ phát triển kinh tế, phục hưng văn hoá mà thời đại ấy đã có mô ̣t đời sống vâ ̣t chất

tương đối no đủ và mô ̣t đời sống tinh thần tương đối dễ chịu trong không khí dân chủ và

rô ̣ng mở. “Đời sống xã hội thời này còn có những ngày dễ chịu, vui vẻ, gần gũi với nhau…
([vi])
Hồi ấy người ta biết sống, biết sống vui trong tình thân, trong tin tưởng ”; “biết sống
([vii])
một đời sống cởi mở và phong phú, rộng rãi sâu sắc ”. Bởi vì thời ấy “con người chưa

bị lễ giáo nhà Nho ràng buộc gây gắt và đạo Phật hồi này cũng lại có vẻ khoan dung hơn

đời sau ([viii])”. Ý kiến đúc trên của GS Đă ̣ng Thai Mai chính là tinh thần đă ̣c trưng của thời

đại Lý - Trần. Chủ đề trung tâm của thời đại này là những con người tự tin, hào hùng,

phóng khoáng, trong sáng, nhân ái, đô ̣ lượng và khoan dung mà khó lòng gă ̣p lại những
con người như thế ở các thời kỳ sau. Nhờ tinh thần thời đại với những nét đă ̣c trưng như

trên mà con người bấy giờ đã biết khôi phục những giá trị tinh thần truyền thống, đồng

thời vừa khôn ngoan mở cửa đón nhâ ̣n những tinh hoa văn hoá tư tưởng của người rồi tiếp

thu, chuyển hoá và dung hợp nó trên cơ sở cốt lõi dân tô ̣c vững chắc để làm nên mô ̣t nền

văn hoá phong phú có bản sắc riêng, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển.

Cũng nhờ tinh thần của thời đại mà thời này đã sản sinh ra những con người có thể nói là

rất lạ. Những con người với những nhân cách cao đẹp đáng kính, phản ánh đúng đă ̣c trưng

tinh thần của thời đại: nhân thứ, khoan dung, rô ̣ng mở, dân chủ mà dũng liê ̣t. Đó là những

ông vua anh minh như Lý Thái Tông không chỉ tha tô ̣i cha con Nùng Trí Cao làm phản mà

còn phong chức tước cho để thu phục Cao, khiến Cao đem hết tài sức góp phần trấn giữ

vùng đất biên thuỳ của Tổ quốc. Hay như vua Lý Thánh Tông đã tha tô ̣i chết cho vua nước

Chiêm Thành là Chế Củ; đối với tù nhân trong nước, vua sai phát chăn chiếu và cho ăn

uống đầy đủ trong những ngày đông giá rét với lòng thương dân như thương con; vua còn

khuyên các quan nên xử án cần khoan dung và giảm nhẹ hình phạt. Lại có những ông vua

chỉ cách chức và đày đi xa chứ không tử hình kẻ đã dùng pháp thuâ ̣t để hại mình như Lý

Nhân Tông đối với Lê Văn Thịnh. Có những ông vua dễ dàng “từ bỏ ngai vàng như trút
([ix])
chiếc giày rách ” như Trần Thái Tông lúc còn trẻ; và khi về già, nhà vua lại nhường

ngôi cho con, làm thượng hoàng, sai đốt tráp đựng thư hàng giă ̣c Nguyên Mông của mô ̣t

số quý tô ̣c và quan lại chứ không chịu đọc chỉ vì để tránh hỏi tô ̣i họ. Vua còn tha tô ̣i chết

cho Hoàng Cự Đà vì ông này trước đây không được vua cho ăn xoài nên đã bỏ vua giữa

lúc quân giă ̣c đang vây hãm, nhà vua đang tránh loạn. Còn ông vua Bồ tát Trần Nhân

Tông thì nhường ngôi cho con rồi chống gâ ̣y đi hoá đạo, thuyết pháp trong nhân dân,
truyền bá giáo lý từ bi của Đức Phâ ̣t, khuyên nhân dân xoá bỏ những tâ ̣p tục hủ lâ ̣u, mê tín

dị đoan…

Thời đại ấy, cũng có những người phụ nữ với những viê ̣c làm đẹp, biết đă ̣t quyền lợi của

Tổ quốc lên trên quyền lợi của gia đình như Thái hâ ̣u Dương Vân Nga triều Đinh. Trước

vâ ̣n mê ̣nh của đất nước có nguy cơ bị mất bởi giă ̣c Tống xâm lược, bà đã dũng cảm đem

chiếc hoàng bào và ngai vàng của con – tức giao phó vâ ̣n mê ̣nh của Tổ quốc – cho vị

tướng anh dũng tài ba và cũng là người bà đem lòng yêu dấu là thâ ̣p đạo tướng quân Lê

Hoàn. Nhờ thế mà Lê Hoàn lãnh đạo quân sĩ chiến thắng quân Tống xâm lược (981) lâ ̣p

nên triều đại mới: nhà Lê. Có những bà hoàng thay chồng cầm quyền nhiếp chính như

nguyên phi Ỷ Lan lúc Lý Thánh Tông thống lĩnh ba quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Bà

còn thương dân, chăm lo đời sống nhân dân lúc thiên tai bão lụt, và dạy dân nuôi tằm dê ̣t

vải, được nhân dân cảm phục tôn vinh là Quan Âm nữ.

Thời đại ấy có những vị tướng anh hùng không màng công danh phú quý, sẵn sàng

nhường ngôi tể tướng triều đình cho người khác mà người đó lại là đối thủ bị mình đánh

bại để cầm quân trấn giữ biên thuỳ như Lý Thường Kiệt. Có những ông tướng vì an nguy

của xã tắc, sẵn sàng xoá bỏ những hiềm khích mâu thuẫn của gia tô ̣c; ở ngôi cao chức

trọng được ân sủng đă ̣c biê ̣t nhưng không lợi dụng chức quyền và vẫn giữ trọn đạo làm tôi

như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Cũng có những vị tướng, những ông quan dũng

cảm, thà chết chứ không đầu hàng, chịu khuất phục kẻ thù như Trần Bình Trọng, Nguyễn

Đại Phạp. Và cũng có những nhà sư, những người con Phâ ̣t lại khuyên người đời không

nên dẫm theo vết của Như Lai đã đi như Quảng Nghiêm thiền sư.

Có thể nói chính tinh thần của thời đại đã sản sinh ra những nhân cách đẹp đẽ như trên.

Những con người này đã góp phần tạo nên cái hào khí của thời đại. Có được những con
người như thế là nhờ lòng yêu nước, nhờ bản lĩnh cùng ý thức đô ̣c lâ ̣p tự cường của dân

tô ̣c. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Mô ̣t nhân tố quan trọng khác để làm nên diê ̣n mạo, làm

nên cái “chất Đại Viê ̣t” của thời đại còn là nhờ ảnh hưởng giáo lý từ bi thấm đẫm tinh thần

nhân văn của nhà Phâ ̣t. Thời đại ấy từ thứ dân cho đến vua chúa đều sùng mô ̣ đạo Phâ ̣t.

Chính giáo lý nhân từ của Đức Phâ ̣t Thích Ca đã cảm hoá và ảnh hưởng tốt đẹp đến phong

hoá, xã hô ̣i lẫn chính trị thời Lý - Trần, nên học giả Hoàng Xuân Hãn đã gọi đó là “ đời

thuần từ nhất trong lịch sử nước ta ([x])”.

Tháng 10 năm 1997.

(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học –

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, số 3 – 2000)

You might also like