Professional Documents
Culture Documents
V I Vàng
V I Vàng
- Ông là một tài năng đa diện: làm thơ, viết văn, nghiên cứu, phê bình văn học, dịch thuật.
Ở phương diện nào, ông cũng có những đóng góp đáng kể, nhưng đặc biệt là trong lĩnh vực
thơ ca.
- Thơ Xuân Diệu trước CMT8 có nhiều cách tân táo bạo và thành công rực rỡ, ông tiếp
thu thơ ca lãng mạn phương Tây và thể hiện một cách chân thành, say đắm cái tôi cá nhân .
Thơ Xuân Diệu đã thực sự thóat khỏi hệ thống ước lệ có tính phi ngã của thơ cũ đem lại cho
thơ mới một luồng gió nồng nàn, mãnh liệt chưa có trong thơ ca truyền thống.Thơ Xuân Diệu
trước cách mạng tháng Tám có hai nội dung tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng thực tế là
một thể thống nhất trong hồn thơ Xuân Diệu:
+ Niềm khát khao giao cảm với đời, tình yêu đời, tình yêu cuộc sống, thiết tha, nồng nàn,
mãnh liệt
· Ông là nhà thơ của trần gian, ông tận hưởng say mê thanh sắc của cuộc đời,
sống tận tâm, tận lực, cuộc đời đối với Xuân Diệu có một sức hút mãnh liệt:
Tôi chỉ là cây kim bé nhỏ,
Mà vạn vật là muôn đá nam châm.
Nếu hương đêm say dậy ánh trăng rằm,
Thì chớ trách người thơ tình lơi lả
· Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan, mở lòng say sưa đón
nhận thiên nhiên (Đây mùa thu tới)
· Tình yêu đời, tình yêu cuộc sống trong thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua
nhiều bài thơ. tình yêu với nhiều sắc thái, nhiều cung bậc. Ông là nhà thơ tình yêu
số một của Việt Nam được mệnh danh là “ ông hòang của thơ tình”. Xuân Diệu là
người đầu tiên mang đến cho văn chương Việt Nam một quan niệm mới về tình
yêu. Đó là tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi vô biên, khát khao tuyệt đỉnh và vĩnh
viễn:
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ
Êm đềm không dám nói năng chi
(Trăng)
+ Nỗi hòai nghi, chán nản, cô đơn, tuyệt vọng. sầu não nuột
· Có những lúc thơ Xuân Diệu tràn ngập nỗi cô đơn, cô đơn trở thành nỗi ám
ảnh trong thơ ông. Từ đó, thi sĩ đã tạo nên những hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
Vì mấy khi yêu đã được người yêu
Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết
· Xuân Diệu là nhà thơ của tuổi trẻ, của mùa xuân, của tình yêu nhưng ông
luôn lo sợ dòng trôi của thời gian. Vì vậy thi sĩ có một nhịp độ sống hối hả, cuống
quýt
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi
Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi
Mau lên chứ, thời gian không đứng đợi
(Giục Giã)
- Kinh nghiệm của Đông và Tây, truyền thống và hiện đại đã giúp Xuân Diệu khám phá được
nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người được thể hiện trong những
vần thơ “ít lời nhiều ý”, súc tích như đọng lại bao nhiêu tinh hoa. (Thế Lữ). Ông đã sáng tạo
ra một thế giới nghệ thuật tràn đầy xuân sắc và tình tứ, trong đó con người là chuẩn mực, là
thước đo để đánh giá cái đẹp. Đây chính là quan điểm thẩm mĩ của “nhà thơ mới nhất
trong những nhà thơ mới “. Thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con
người “Phù dung như diện liễu như mi”. Còn với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của
cái đẹp “ Lá liễu dài như nét mi”
- Sau CMT8, Xuân Diệu mở rộng hồn thơ đến với cuộc đời mới, ông say sưa viết về nhân
dân, về Đảng, về bác Hồ, về hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ,
về sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với một tinh thần lạc quan và một niềm
tin tưởng mãnh liệt
- Sau CMT8, Xuân Diệu sáng tác nhiều thể lọai: Trường ca, Tráng ca, văn xuôi, thơ, phê
bình , tiểu luận, dịch thuật
- Tác phẩm tiêu biểu sau CMT8: Hội nghị non sông, Ngọn quốc kỳ, Hồn tôi đôi cánh,
Thanh ca, Tôi giàu đôi mắt…Mài sắt nên kim
Xuân diệu nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với những cách tân nghệ thuật
mới mẻ, độc đáo.Sau Cách mạng Tháng Tám ông là nhà thơ công dân, nhà dịch thuật,
nhà nghiên cứu phê bình thơ tinh tế và uy tín. Xuân Diêu xứng đáng là nhà thơ lớn của
văn học dân tộc.
Thế Lữ trong lời tựa tâ ̣p “Thơ Thơ” đã viết: “Xuân Diê ̣u là một người của đời, một người ở
giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã
không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi đời”. Thâ ̣t vâ ̣y, Xuân Diê ̣u tha thiết yêu đời, khao
khát được sống, được yêu, được giao cảm với đời, với thiên nhiên tạo vâ ̣t. Có lẽ đối với Xuân
Diê ̣u chưa phải là bức tranh toàn cảnh của bao nhiêu cảnh ngô ̣ thăng trầm, bao số phâ ̣n khổ
đau hay hạnh phúc … Đời của Xuân Diê ̣u là hạnh phúc tình yêu tuổi trẻ, là sức sống tràn đầy
của thiên nhiên tạo vâ ̣t. “Vô ̣i vàng” trích trong “Thơ Thơ” (1938) là bài thơ tiêu biểu của
Xuân Diê ̣u viết về niềm khao khát được tâ ̣n hưởng tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu.
“Bám vào đời” là lẽ sống của nhà thơ và càng gắn bó với cuô ̣c sống bao nhiêu, nhà
thơ càng nhâ ̣n thức sự mong manh, không bền vững của thời gian. “Thời gian không đứng
đợi” mô ̣t ai nên Xuân Diê ̣u sống vô ̣i vàng, hối hả, cuống quýt. Nhà thơ cảm nhâ ̣n dòng chảy
của thời gian trên cuô ̣c sống, trong tình yêu đôi lứa và thiên nhiên, tạo vâ ̣t.
Nhà thơ mơ ước “tắt nắng” cho “màu đừng nhạt”, “buô ̣c gió” cho “hương đừng bay”.
Điê ̣p ngữ “tôi muốn” bày tỏ tha thiết niềm khát khao muốn xoay chuyển, đoạt quyền của tạo
hóa, muốn giữ tất cả những gì tươi xanh của cuô ̣c sống, của mùa xuân và tình xuân và rất sợ
sự tàn phai của thi sĩ. Mơ ước vời xa, nồng nhiê ̣t và vẫn là mô ̣t khát khao chân thực.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Thi sĩ phát hiê ̣n có mô ̣t thiên đường ngay trên mă ̣t đất, ngay trong tầm tay với của mỗi
chúng ta. Với những hình ảnh thơ cụ thể, gợi cảm và điê ̣p ngữ “này đây” đă ̣t ở nhiều vị trí
khác nhau, nhà thơ vẽ mô ̣t bức tranh tạo hóa với muôn ngàn thanh sắc. Thiên nhiên dưới mắt
thi sĩ phong phú, bất tâ ̣n. Nhà thơ đón nhâ ̣n cảnh sắc thiên nhiên bằng mô ̣t tình yêu say đắm,
bằng tâm hồn rô ̣ng mở. Tất cả sự vâ ̣t trong đoạn thơ hiê ̣n lên với vẻ ngọt ngào của “ong
bướm tuần tháng mâ ̣t”, xanh non với “lá của cành tơ”, với “hoa của đồng nô ̣i xanh rì” và say
mê cùng “khúc tình si” của yến anh. Ta nghe như tiếng reo vui của mô ̣t người đang yêu lạc
vào mô ̣t khu vườn xuân với bao cảnh sắc tuyê ̣t mỹ, rực rỡ. Ta bắt gă ̣p mô ̣t tấm lòng yêu cuô ̣c
sống tha thiết, dào dạt đang mở rô ̣ng với nhiều cảm giác: nhìn cảnh sắc, nghe âm thanh, ngửi
mùi hương chan hòa trong ánh sáng.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Trong thơ mới chỉ có “thần sầu”, có nỗi “buồn cô quạnh”, “sầu vạn kỷ” nhưng không
hề có “thần vui”. “Mỗi sáng thần vui hằng gõ cửa” là mô ̣t ý thơ mới mẻ trong thơ mới và đó
chính là tình yêu cuô ̣c sống trong thơ Xuân Diê ̣u. Nhà thơ rạo rực trước khu vườn xuân của
tạo hóa và cảm thấy mỗi ngày xuân là mô ̣t ngày của niềm vui. Thi sĩ say sưa tâ ̣n hưởng mùa
xuân, tình xuân mô ̣t cách đắm đuối “Tháng giêng ngon như mô ̣t că ̣p môi gần”. Rất mới mẻ,
rất đô ̣c đáo khi Xuân Diê ̣u so sánh “tháng giêng” như “că ̣p môi gần”.
Bức tranh tạo hóa kỳ diê ̣u, tràn ngâ ̣p thanh sắc. Thiên đường trên mă ̣t đất không có gì
mới lạ nhưng qua cái nhìn “xanh non” nhà thơ như ngơ ngác, vui sướng khi lần đầu trông
thấy. Thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người “phù dung như diê ̣n,
liễu như mi”. Xuân Diê ̣u đưa ra mô ̣t tiêu chuẩn khác, con người là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp
trên thế gian. Con người là thước đo thẩm mỹ của vũ trụ, vẻ đẹp con người trần thế là tác
phẩm kỳ diê ̣u nhất của tạo hóa. Quan niê ̣m về cái đẹp của Xuân Diê ̣u mang ý nghĩa nhân bản
sâu sắc. Xuất phát từ tư tưởng ấy, nhà thơ đã sáng tạo nên những hình ảnh mới mẻ “Và này
đây ánh sáng chớp hàng mi” nhưng đô ̣c đáo, táo bạo, rất “Xuân Diê ̣u” là hình ảnh “Tháng
giêng ngon như mô ̣t că ̣p môi gần”. Hình ảnh thơ gợi lên vẻ đẹp rất con người, rất trần gian,
nhưng cũng thâ ̣t tuyê ̣t mỹ, tuyê ̣t vời.
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Trên không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Dấu chấm giữa dòng và ngữ nghĩa của câu sau thể hiê ̣n rõ nét tâm trạng của thi nhân.
Niềm vui say của nhà thơ như bị cắt ngang khi nhà thơ nhâ ̣n ra qui luâ ̣t của thiên nhiên, tạo
hóa. Trong say đắm thi sĩ vẫn mơ hồ “sợ hãi”, dự cảm ngày xuân, tình xuân sẽ qua mau. Tình
yêu cuô ̣c sống của Xuân Diê ̣u luôn có mă ̣t của sự vô ̣i vàng, mong manh.
- Cảm xúc của nhà thơ trước quy luâ ̣t tạo hóa:
Xuân dương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mùa xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Từ niềm vui say, náo nức tâ ̣n hưởng mùa xuân, tình xuân nhà thơ bỗng ý thức về sự
trôi chảy của thời gian, của qui luâ ̣t tạo hóa khắc nghiê ̣t. Điê ̣p ngữ “nghĩa là” như mô ̣t lời
khẳng định qui luâ ̣t của tạo hóa về dòng trôi thời gian. Trong cái vẻ rực rỡ, xinh tươi của
thiên đường trần gian kia đã chớm màu tàn phai. Tất cả chỉ hiê ̣n ra trong khoảnh khắc. Trong
mùa xuân, tình xuân thi sĩ đã cảm nhâ ̣n nỗi đau mất mát, chia xa. Điê ̣p ngữ “nghĩa là” còn
như mô ̣t lời nhắc nhở, mô ̣t dự cảm, mô ̣t nỗi lo sợ của mô ̣t tấm lòng ham sống, ham yêu và chỉ
chấp nhâ ̣n cuô ̣c sống, mùa xuân, ánh sáng.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bang khuâng tôi tiếc cả đất trời
Trên kia chỉ là mô ̣t dự cảm, mô ̣t nỗi lo sợ về dòng trôi thời gian còn mơ hồ. Giờ đây
Xuân Diê ̣u đã ý thức sự tuần hoàn của mùa xuân, của vạn vâ ̣t nhưng tuổi trẻ chỉ có mô ̣t lần,
mô ̣t giai đoạn. Những đối lâ ̣p trong đoạn thơ “Lòng tôi rô ̣ng – lượng trời châ ̣t, xuân vẫn tuần
hoàn – tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, còn trời đất – chẳng còn tôi” thể hiê ̣n nỗi lo sợ tuổi trẻ
qua đi, tình xuân không còn và “chẳng còn tôi mãi”. Trong nỗi lo sợ ấy ta còn nghe như có
tiếng thở dài, mô ̣t lời ai oán, mô ̣t tiếc nuối khôn nguôi.
Đoạn thơ không chỉ là lời bày tỏ tâm trạng của tác giả trước dòng trôi thời gian và qui luâ ̣t tạo
hóa mà còn là sự ý thức về cá nhân trong mỗi quan hê ̣ với cuô ̣c đời, với vũ trụ, tạo hóa. Nhà
thơ đồng nhất tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu và muốn tâ ̣n hưởng say đắm, nồng nhiê ̣t mọi giai
điê ̣u, mọi thanh sắc của ngày xuân, tình xuân. Có phải chăng Xuân Diê ̣u rơi vào “chủ nghĩa
hưởng thụ”? Hưởng thụ để tìm quên những chán chướng, đau khổ trong cuô ̣c đời là quan
niê ̣m không lạ của các nhà thơ mới.
“Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây gần nữa cặp môi điên
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói
Đưa hồn say về tận cuối trời quên”
Xuân Diê ̣u không như thế! Tình yêu cuô ̣c sống trong Xuân Diê ̣u nồng nhiê ̣t, đắm say
nhưng bao giờ thi nhân cũng đến với đời bằng tâm hồn trẻ trung, trong sáng, nhìn cuô ̣c sống
bằng cái nhìn ngơ ngác, mới mẻ. Ngay cả trong thơ tình Xuân Diê ̣u bao giờ cũng có ý thức
trân trọng, khao khát cái vô biên, tuyê ̣t đích trong sự hòa hợp của đôi tâm hồn mă ̣c dù lúc nào
cũng vô ̣i vàng, cuồng nhiê ̣t, say mê, đắm đuối.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biê ̣t
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa.
Bức tranh thiên nhiên giờ đây đã chuyển sang sắc thái khác. Thiên nhiên đang diễn ra
mô ̣t cuô ̣c chia ly: thời gian “chia phôi”, không gian “tiễn biê ̣t”, cơn gió xinh phải “bay đi”,
chim “đứt tiếng” vì sợ “tàn phai”. Từ trong lo sợ, nuối tiếc thi nhân đã cảm nhâ ̣n mô ̣t cuô ̣c
chia ly của chính mình với tuổi trẻ, mùa xuân và tình yêu. Nhà thơ càng cuống quýt, sợ hãi,
tuyê ̣t vọng và thốt lên tiếng kêu não nuô ̣t “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”. Đoạn thể
hiê ̣n chân thực nỗi đau, sự tuyê ̣t vọng của nhà thơ khi ý thức mùa xuân, tình xuân sẽ qua đi
và cũng thể hiê ̣n tài năng của thi sĩ với sự cảm nhâ ̣n tinh tế về sự vâ ̣t bằng nhiều cảm giác
(khứu giác, thị giác, thích giác, cảm xúc …)
- Tấm lòng của thi nhân đối với cuô ̣c sống:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân của đất trời có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân sẽ không còn
và con người không thể níu kéo thời gian dừng lại. Như vâ ̣y, hãy sống, sống say mê, tâ ̣n tâm
trong từng giây, từng phút giữa mùa xuân của cuô ̣c đời và vũ trụ. Rất nhiều bài thơ của Xuân
Diê ̣u bày tỏ sự vô ̣i vàng, hối hả trong cuô ̣c sống:
…Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Trong “Vô ̣i vàng” vẫn thái đô ̣ sống vô ̣i vã, cuống quýt nhưng thể hiê ̣n đâ ̣m đă ̣c hồn thơ, tình
thơ và phong cách sáng tác của Xuân Diê ̣u. Điê ̣p khúc “ta muốn”, nhịp điê ̣u “ta muốn” cùng
những hình ảnh táo bạo, nồng nàn, nhất là viê ̣c sử dụng mô ̣t loạt những đô ̣ng từ: ôm, riết, say,
thâu, cắn … đã thể hiê ̣n chân thực niềm yêu mãnh liê ̣t cuô ̣c sống, mô ̣t tình yêu đắm đuối,
nồng nàn, sôi nổi. Đối tượng mà nhà thơ muốn “ôm, riết, cắn, say” là mây gió, non nước, cỏ
cây, hoa bướm và mùa xuân. Đó là những biểu hiê ̣n của sự sống và sức sống trong thiên
nhiên, tạo vâ ̣t không hề nhuốm bản năng tầm thường.Đoạn thơ thể hiê ̣n nhân sinh quan của
Xuân Diê ̣u – phải sống, phải yêu, phải vô ̣i vàng tâ ̣n hưởng tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ
Em, em ơi! Tình non đã già rồi”
Quan niê ̣m sống của nhà thơ mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, thi nhân đã thả hơi thở nồng
nàn, say đắm vào tình yêu và cuô ̣c sống.
II. Luyêṇ tâ ̣p
3. Quan niê ̣m sống của nhà thơ Xuân Diê ̣u qua bài thơ Vội vàng.
……………………….
5. Quan niê ̣m về thời gian của Xuân Diê ̣u trong bài Vội vàng.
6. Quan niê ̣m thẩm mỹ mới mẽ và triết lý nhân sinh đô ̣c đáo của Xuân Diê ̣u qua bài
thơ Vội vàng.
+ Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhâ ̣n định về bài thơ Vội vàng:"Đây là tiếng nói của một tâm
hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan
niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống
+ Thế Lữ trong lời tựa tâ ̣p Thơ thơ: “ Xuân Diê ̣u là mô ̣t người của đời, mô ̣t người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xâ ̣y dựng trên đất của mô ̣t tấm lòng trần gian
+ Có thể nói, nồng nàn và trẻ trung là hai phẩm chất, đồng thời cũng là hai giọng điê ̣p chính
trong thơ Xuân Diê ̣u…Trong số đó, Vội vàng là mô ̣t trong những thi phẩm thuô ̣c loại tiêu
biểu nhất cho giọng điê ̣u nồng nàn của Xuân Diê ̣u ( Nguyễn Đăng Điê ̣p)
+ Xuân Diê ̣u đã mang đến cho thơ ca dân tô ̣c mô ̣t cách nhìn mới,mô ̣t bút pháp mới,mô ̣t cảm
xúc mới ( Lê Tiến Dũng )
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Ông để lại hàng chục tập thơ với
trên dưới 1000 bài thơ thấm thía tình yêu cuộc sống nồng nàn. Một trong số những bài thơ
tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ-tập thơ được sáng tác trong
những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ thể hiện tình yêu nồng
nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy.
Bài thơ Vội vàng được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời
tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là những khát khao phi
lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy khao khát mãnh
liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc
của của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá
biết bao nhiêu. Nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé
đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:
Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì có vẻ đẹp của màu
xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ , cành tơ non thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình
minh như cái chớp mi của người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp,
sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống
trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh,
màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này.
Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui
cũng gõ cửa ùa vào theo:
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng người. Phải nói rằng trong
thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân
Diệu:
Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng,
con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng, tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến
đâybỗng chùng xuống:
Trong bài thơ Vô ̣i vàng tác giả đã cảm nhận về thời gian như thế nào ? Phân tích đoạn
từ câu 14 đến câu 24 để làm nổi bật cảm nhận ấy.
A. Mở bài:
- Trước hết cần khẳng định: Thời gian trong vũ trụ này thì muôn đời vẫn thế. Chỉ có quan
niệm của con người về thời gian thì đổi thay. Sự đổi thay này có thế do trình độ nhận thức
khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mĩ … của mỗi thời một khác.
- Trong bài thơ “Vội Vàng”, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới của mình về thời gian.
B. Thân bài:
I. Quan niệm của Xuân Diệu về thời gian:
1. Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa; đồng
thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng
ý thức triết học đã thấm nhuần cảm xúc.
2. Đoạn thơ ( từ câu 14 đến câu 24, có thể đến câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác, nhịp
điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên đã chứa đựng
cảm nhận về thời gian của thi sĩ.
II. Phân tích cụ thể:
1. Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là “thời gian tuần hoàn”. Nghĩa
là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về
điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn
có ra đi thì cũng quay trở về.
- Xuân đi rồi xuân lại quay trở lại, một năm là một vòng tuần hoàn như thế.
- Trong dân gian còn có quan niệm về sự kết thúc của kiếp này ( người ta chết đi ) là sẽ lại bắt
đầu bằng một kiếp khác ( đầu thai vào một sinh mệnh mới ).
è Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh
mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian.
· Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt
khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.
2. Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác “thời gian tuyến thính”. Nghĩa là thời
gian được hình dung như một dòng chãyuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh
khắc trồi qua là mất đi vĩnh viễn.
a. Quan niệm “thời gian tuyến thính” xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về
thời gian: “ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.
b. Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian
hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mện cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí
thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm
thước đo:
“ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ trật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
c. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi
qua là một sự mất mát; đó chính là môtj phần đời trong sinh mệnh, cá thể đã mất đi vĩnh viễn,
thấm thía hơn là phần vô cùng đáng giá của tuổi trẻ mình đã mất đi vĩnh viễn ( hai câu thơ ):
“ Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Mỗi khoảnh khắc đang rời
bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào
cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của
những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thẫm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó
đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian
đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một
phần đời của chính nó.
- Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi
chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:
“ Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là
lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim
chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy
hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳn riêng gì Xuân
Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi
không bao giờ trở lại của thời gian:
“ Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.
Vậy Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Không chờ
nắng hạ mới hoài xuân”.
C. Kết luận:
- Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của
sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi
đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của
đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa.
Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”.
- Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến thính” phải sống “Vội Vàng” cho
cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng
của tư tưởng Xuân Diệu.