You are on page 1of 18

VỘI VÀNG - Xuân Diệu - TS Nguyễn Phượng

I. NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ


1. Về tác giả và thời điểm ra đời của tác phẩm
Xuân Diệu được coi là “ nhà thơ mới nhất trong phong trào Thơ Mới” (Hoài Thanh) do chỗ
ông hiện diện như một cái Tôi tự ý thức sâu sắc nhất mang đến một quan niệm hiện đại về
nhân sinh trong việc đề cao lối sống cao độ giao cảm tận hiến và một quan niệm hiện đại về
thẩm mĩ : lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp thay vì lấy thiên nhiên như trong văn học
trung đại.
Thi sĩ được giới trẻ tấn phong là “ ông hoàng của thơ tình yêu” bởi đã đem vào thơ tình một
quan niệm đầy đủ toàn diện một cách thể hiện mới mẻ phong phú đặc biệt là sự diễn đạt chân
thực và táo bạo về tình yêu.
Xuân Diệu còn là một cây bút có nhiều tìm tòi cách tân trong nghệ thuật ngôn từ : lối diễn đạt
chính xác những thông tin cụ thể tỉ mỉ mang tính vi lượng thơ giàu nhạc tính và sự sáng tạo
trong việc sự dụng những cách nói mới nhờ phát huy triệt để năng lực cảm nhận của các giác
quan.
Xuân Diệu hấp dẫn bởi một phong cách nghệ thuật độc đáo với ba đặc điểm chính:
- Một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm trước sự vận động của thời gian
- Một trái tim luôn hướng đến mùa xuân tuổi trẻ tình yêu nơi trần thế bằng niềm yêu đời yêu
sống cuồng nhiệt sôi nổi.
- Một nghệ sĩ học tập nhiều ở cấu trúc câu thơ Tây phương hoàn thiện thơ trữ tình điệu nói để
hiện đại hoá thơ Việt.
Bài thơ Vội vàng được sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ thơ thi phẩm đầu tay và ngay lập
tức vinh danh Xuân Diệu như một đại diện tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới.
2. Tri thức văn hoá
Vội vàng và nhiều bài thơ khác của Xuân Diệu thường gây ấn tượng với công chúng bởi
những lời kêu gọi kiểu : Nhanh với chứ với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em em ơi! Tình non
sắp già rồi! hoặc Gấp lên em! Anh rất sợ ngày mai! Đời trôi chảy tình ta không vĩnh viễn!
Khi thi nhân cất cao những lời kêu gọi : Mau lên thôi! Nhanh với chứ! Vội vàng lên! mà Hoài
Thanh từng nhận xét một cách hóm hỉnh “là đã làm vang động chốn nước non lặng lẽ” thì
không có nghĩa là anh ta đang tuyên truyền cho một triết lý sống gấp từng bị coi là lai căng
và vẫn bị đặt dưới một cái nhìn không mấy thiện cảm của người phương Đông một xứ sở vẫn
chuộng lối sống khoan hoà chậm rãi.
Cần phải thấy rằng bước vào thời hiện đại sự bùng nổ của ý thức cá nhân đã kéo theo những
thay đổi trong quan niệm sống và đánh thức một nhu cầu tự nhiên là cần phải thay đổi điệu
sống. Ý thức xác lập một cách sống mới nói trên càng ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc trong
tầng lớp trẻ. Phát ngôn của Xuân Diệu trên phương diện thi ca chỉ có tính cách như một đại
diện.
Nhìn ở một góc độ khác bài thơ bộc lộ nét đẹp của một quan niệm nhân sinh mới : sống tự
giác và tích cực sống với niềm khao khát phát huy hết giá trị bản ngã tận hiến cho cuộc đời
và cũng là một cách tận hưởng cuộc đời.
3. Tri thức thể loại
Bài Vội vàng được viết theo phong cách chung của một thế hệ thi nhân xuất thân Tây học
trưởng thành vào những năm 30 của thế kỷ trước được gọi chung là phong trào Thơ Mới.
Thơ Mới vẫn được coi là một sự nổi loạn trong sáng tạo nghệ thuật nhằm một mặt khước từ
luật thơ gò bó phản ứng với quan niệm cố định về âm thanh vần điệu chống lại thói quen “
đông cứng” văn bản thơ trong những cấu trúc đã trở thành điển phạm kiểu ngắt nhịp đã trở
thành công thức cách dùng từ đã trở nên sáo mòn; mặt khác nỗ lực đổi mới tư duy thơ trên
nhiều phương diện. Chẳng hạn mạnh dạn mở rộng diện tích bài thơ câu thơ táo bạo trong việc
thể nghiệm cấu trúc mới cú pháp mới nhịp điệu mới từ ngữ mới khai thác nhiều tiềm năng
của tiếng Việt để làm giàu nhạc tính cho thơ. Nhưng điều quan trọng hơn nói theo nhận xét
của Hoài Thanh tất cả chỉ nhằm để bộc lộ “ cái nhu cầu được thành thực” trong xúc cảm và
suy tư của một thế hệ.
IV.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Về nội dung
Sống vội vàng chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi đây là một quan niệm sống mới mang ý
nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá nhân trong thời hiện đại. Quan
niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “
biện luận” rất riêng của tác giả.
a/ Từ phát hiện mới: cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất.
Bước vào bài thơ độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi!
Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ kì dị ngông cuồng bề ngoài thực chất bên trong chứa đựng
một khát vọng rất đẹp : chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của
cuộc đời.
Nhưng lý do nào khiến nhà thơ nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn lại dòng
chảy của thời gian?
Trong quan niệm của người xưa đời là chốn bụi trần cuộc đời là bể khổ. Đấy là lý do vì sao
lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách thế sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều
chủ trương vẫy gọi con người trên hành trình đi tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu
nhiên đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi niết bàn cõi Tây Phương cực lạc; văn học cổ Trung
Quốc cũng như văn học trung đại Việt Nam đều đề cao tâm lý hoài cổ phục cổ khuyến khích
xu hướng tìm về với những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm
một thiên đường đã mất. Xuân Diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi
nổi họ không coi lánh đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại họ không ngần
ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên nhờ tuổi trẻ họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không
phải là một cõi mông lung mờ mờ nhân ảnh cũng chẳng phải là cái bể khổ đầy đoạ con người
bằng sinh lão bệnh tử … những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại là
cả một thế giới tinh khôi quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu tất cả đều gần gũi đầy ắp ngay trong
đời thực và trong tầm tay với. Trong cái nhìn mới mẻ say sưa thi nhân vồn vã liệt kê bao vẻ
đẹp của cuộc đời bằng hàng loạt đại từ chỉ trỏ này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống
động. Hơn thế cõi sống đầy quyến rũ ấy như đang vẫy gọi chào mời bằng vẻ ngọt ngào trẻ
trung và đang như vẫn có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi trẻ trung ngọt ngào : đây là
tuần tháng mật để dành cho ong bướm đây là hoa của đồng nội (đang) “xanh rì đây là lá của
cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi.
Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi thi nhân
còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn : Tháng Giêng mùa Xuân sao ngon như một cặp môi gần!
b....đến nỗi ám ảnh về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi
của tuổi xuân:
Tuy nhiên trong ý thức mới của con người thời đại về thời gian khi khám phá ra cái đẹp đích
thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi
mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là
vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác tất cả đều
nhuốm màu của âu lo bàng hoàng thảng thốt.
Đấy là lý do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi : từ việc xuất hiện
các kiểu câu định nghĩa tăng cấp : “nghĩa là (3lần/3dòng thơ) để định nghĩa về mùa xuân và
tuổi trẻ mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha đến ý tưởng ràng buộc số phận
cá nhân mình với số phận của mùa xuân tuổi xuân nhằm thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp
nhất của đời người rồi cất lên tiếng than đầy khổ não :
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất!
Cũng từ đây thiên nhiên chuyển hoá từ hợp thành tan:
Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng ngắt tiếng reo thi
Dường như tất cả đều hoảng sợ bởi những chảy trôi của thời gian bởi thời gian trôi đe doạ sẽ
mang theo tất cả thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây thời gian
không còn là một đại lượng vô ảnh vô hình nữa người ta nhận ra nó trong hương vị đau xót
của chia phôi người ta phát hiện nó tựa một vết thương rớm máu trong tâm hồn :
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công
đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật
đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa :
lòng người rộng” mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn” mà tuổi trẻ của con
người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con
người sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “ bất công” này thôi
thúc cái tôi cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.
c. Và những giải pháp điều hoà mâu thuẫn nghịch lý:
Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân tác giả đề ra một giải pháp
táo bạo. Con người không thể chặn đứng được bước đi của thời gian con người chỉ có thể
phải chạy đua với nó bằng một nhịp sống mới mà nhà thơ gọi là vội vàng. Con người hiện đại
không sống bằng số lượng thời gian mà phải sống bằng chất lượng cuộc sống – sống tận
hưởng phần đời có giá trị và ý nghĩa nhất bằng một tốc độ thật lớn và một cường độ thật lớn.
Đoạn thơ cuối trong bài gây ấn tượng đặc biệt trước hết bởi nó tựa như những lời giục giã
chính mình lại như lời kêu gọi tha thiết đối với thế nhân được diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp
gáp bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung sôi nổi cuồng nhiệt yêu đời và yêu sống.
Rõ ràng lẽ sống vội vàng bộc lộ một khát vọng chính đáng của con người. Như đã nói đây
không phải là sự tuyên truyền cho triết lý sống gấp mà là ý thức sâu sắc về cuộc sống của con
người khi anh ta đang ở lứa tuổi trẻ trung sung sức nhất. Xuân Diệu từng tuyên ngôn : “Thà
một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm chính là tuyên ngôn cho
chặng đời đẹp nhất này. Vội vàng vì thế là lẽ sống đáng trân trọng mang nét đẹp của một lối
sống tiến bộ hiện đại. Tuy chưa phải là lẽ sống cao đẹp nhất nhưng dù sao trong một thời đại
mà lối sống khổ hạnh “ép xác diệt dục” là không còn phù hợp nữa nó là lời cổ động cho một
lối sống tích cực sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của cái Tôi.
Tuy nhiên lối sống vội vàng đang còn dừng lại ở sự khẳng định một chiều. Một lẽ sống đẹp
phải toàn diện và hài hoà : không chỉ tích cực tận hưởng mà còn phải tích cực tận hiến.
2. Về nghệ thuật
Nét độc đáo trong cấu tứ.
Bài thơ có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố : Trữ tình và chính luận. Trong đó chính luận đóng
vai trò chủ yếu. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám
ảnh kinh hoàng khi phát hiện về sự mong manh của cái Đẹp của tình yêu và tuổi trẻ trước sự
huỷ hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận lí giải về lẽ sống vội vàng thông
điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến cho độc giả được trình bày theo hệ lối qui nạp từ nghịch lý
mâu thuẫn đến giải pháp.
Là cây bút tích cực tiếp thu thành tựu nghệ thuật thơ trung đại và đặc biệt cái mới trong thơ
phương Tây Xuân Diệu có nhiều sáng tạo trong cách tạo ra cú pháp mới của câu thơ cách
diễn đạt mới hình ảnh mới ngôn từ mới.
Ví dụ trong đoạn thơ cuối tác giả cũng đã mạnh dạn và táo bạo trong việc sử dụng một hệ
thống từ ngữ tăng cấp như : ôm” ( Ta muốn ôm ) riết ( Ta muốn riết ) “say” ( Ta muốn say )
thâu ( Ta muốn thâu )...Và đỉnh cao của đam mê cuồng nhiệt là hành động cắn vào mùa xuân
của cuộc đời thể hiện một xúc cảm mãnh liệt và cháy bỏng. Không dừng lại ở đó tác giả còn
sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng: “chếnh choáng đã đầy no nê...diễn tả niềm
hạnh phúc được sống cao độ với cuộc đời.

. Tác giả: Xuân Diệu (1916-1985)


1. Tiểu sử
 - Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha,
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định ( quê mẹ). Cha là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn
Thị Hiệp.
 - Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên
chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên
của Tự Lực Văn Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham
tá thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.

   - Ông là một tài năng đa diện: làm thơ, viết văn, nghiên cứu, phê bình văn học, dịch thuật.
Ở phương diện nào, ông cũng có những đóng góp đáng kể, nhưng đặc biệt là trong lĩnh vực
thơ ca.

  2. Sự nghiêp̣ sáng tác


a.Trước cách mạng tháng Tám,
 - Xuân Diệu sáng tác nhiều thể lọai: thơ, văn xuôi. Tác phẩm văn xuôi tiêu biểu trước Cách
mạng tháng tám của ông gồm có: Phấn thông vàng(1939), Trường ca(1945). Đây là những
tác phẩm giàu chất trữ tình, cảm hứng lãng mạn là chủ yếu nhưng cũng có những trang
nghiêng về hiện thực như: Tỏa nhị Kiều, Cái hỏa lò. Nhiều trang văn trong Trường ca sôi nổi
tha thiết như những bài thơ diễm lệ, đầy sức hấp dẫn như : Hoa học trò, Giã từ tuổi nhỏ,
Thu…
     - Những đóng góp nổi bật và cũng là thành công đặc sắc của Xuân Diệu là thể lọai thơ với
2 tập Thơ Thơ(1938), Gửi hương cho gió. Trước CMT8, Xuân Diệu được đánh giá là “nhà
thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới” (Hòai Thanh)

     - Thơ Xuân Diệu trước CMT8 có nhiều cách tân táo bạo và thành công rực rỡ, ông tiếp
thu  thơ ca lãng mạn phương Tây và thể hiện một cách chân thành, say đắm cái tôi cá nhân .
Thơ Xuân Diệu đã thực sự thóat khỏi hệ thống ước lệ có tính phi ngã của thơ cũ đem lại cho
thơ mới một luồng gió nồng nàn, mãnh liệt chưa có trong thơ ca truyền thống.Thơ Xuân Diệu
trước cách mạng tháng Tám có hai nội dung tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng thực tế là
một thể thống nhất trong hồn thơ Xuân Diệu:

       + Niềm khát khao giao cảm với đời, tình yêu đời, tình yêu cuộc sống, thiết tha, nồng nàn,
mãnh liệt
·         Ông là nhà thơ của trần gian, ông tận hưởng say mê thanh sắc của cuộc đời,
sống tận tâm, tận lực, cuộc đời đối với Xuân Diệu có một sức hút mãnh liệt:
                                                  Tôi chỉ là cây kim bé nhỏ,
Mà vạn vật là muôn đá nam châm.
         Nếu hương đêm say dậy ánh trăng rằm,
                                                 Thì chớ trách người thơ tình lơi lả
·         Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan, mở lòng say sưa đón
nhận thiên nhiên (Đây mùa thu tới) 
·         Tình yêu đời, tình yêu cuộc sống trong thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua
nhiều bài thơ. tình yêu với nhiều sắc thái, nhiều cung bậc. Ông là nhà thơ tình yêu
số một của Việt Nam được mệnh danh là “ ông hòang của thơ tình”. Xuân Diệu là
người đầu tiên mang đến cho văn chương Việt Nam một quan niệm mới về tình
yêu. Đó là tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi vô biên, khát khao tuyệt đỉnh và vĩnh
viễn:
                                      Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá   
                                      Ánh sáng tuôn đầy các lối đi      
                                      Tôi với người yêu qua nhè nhẹ
                                     Êm đềm không dám nói năng chi

                                                                                                       (Trăng)

+ Nỗi hòai nghi, chán nản, cô đơn, tuyệt vọng. sầu não nuột
·         Có những lúc thơ Xuân Diệu tràn ngập nỗi cô đơn, cô đơn trở thành nỗi ám
ảnh trong thơ ông. Từ đó, thi sĩ đã tạo nên những hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo

                                  Tôi là con nai bị chiều đánh lưới

                                  Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối

(Khi chiều giăng lưới)


·         Tình yêu trong thơ Xuân Diệu đôi khi rơi vào bi kịch của một trái tim hiến
dâng nhầm chỗ
Lòng anh là một cơn mưa lũ
               Đã gặp lòng em là lá khoai
  Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
     Lá xanh không ướt đến da ngoài.
(Nước đổ là khoai)

                              Yêu là chết trong lòng một ít                          

                                      Vì mấy khi yêu đã được người yêu 

                                     Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu

                                     Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết
·         Xuân Diệu là nhà thơ của tuổi trẻ, của mùa xuân, của tình yêu nhưng ông
luôn lo sợ dòng trôi của thời gian. Vì vậy thi sĩ có một nhịp độ sống hối hả, cuống
quýt

                                    Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ

                                    Em, em ơi, tình non sắp già rồi                   

                                    Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi 

                                   Mau lên chứ, thời gian không đứng đợi   

                                                                             (Giục Giã)

- Kinh nghiệm của Đông và Tây, truyền thống và hiện đại đã giúp Xuân Diệu khám phá được
nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người được thể hiện trong những
vần thơ “ít lời nhiều ý”, súc tích như đọng lại bao nhiêu tinh hoa. (Thế Lữ). Ông đã sáng tạo
ra một thế giới nghệ thuật tràn đầy xuân sắc và tình tứ, trong đó con người là chuẩn mực, là
thước đo để đánh giá cái đẹp. Đây chính là quan điểm thẩm mĩ của “nhà thơ mới nhất
trong những nhà thơ mới “. Thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con
người  “Phù dung như diện liễu như mi”. Còn với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của
cái đẹp “ Lá liễu dài như nét mi”

b. Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu sau CMT8

- Sau CMT8, Xuân Diệu mở rộng hồn thơ đến với cuộc đời mới, ông say sưa viết về nhân
dân, về Đảng, về bác Hồ, về hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ,
về sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với một tinh thần lạc quan và một niềm
tin tưởng mãnh liệt
   - Sau CMT8, Xuân Diệu sáng tác nhiều thể lọai: Trường ca, Tráng ca, văn xuôi, thơ, phê
bình , tiểu luận, dịch thuật

   - Tác phẩm tiêu biểu sau CMT8: Hội nghị non sông, Ngọn quốc kỳ, Hồn tôi đôi cánh,
Thanh ca, Tôi giàu đôi mắt…Mài sắt nên kim

Xuân diệu nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với những cách tân nghệ thuật
mới mẻ, độc đáo.Sau Cách mạng Tháng Tám ông là nhà thơ công dân, nhà dịch thuật,
nhà nghiên cứu phê bình thơ tinh tế và uy tín. Xuân Diêu xứng đáng là nhà thơ lớn của
văn học dân tộc.

B. Bài thơ Vội vàng


1.Xuất xứ:  “ Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước
cách    mạng tháng Tám. Bài thơ được in trong tập “Thơ thơ” (1938).
2.Thể loại :Thể thơ trữ tình, tự  do
3.Bố cục: 3 phần:
-  Cảm xúc của thi sĩ trước mùa xuân, tình xuân và tuổi trẻ
- Tâm trạng của thi nhân trước quy luật của tạo hoá.
-  Lời giục giã và tình yêu cuộc sống vội vàng của nhà thơ

4. Phân tích bài thơ Vội vàng


a.Đă ̣t vấn đề:

Thế Lữ trong lời tựa tâ ̣p “Thơ Thơ” đã viết: “Xuân Diê ̣u là một người của đời, một người ở
giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã
không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi đời”. Thâ ̣t vâ ̣y, Xuân Diê ̣u tha thiết yêu đời, khao
khát được sống, được yêu, được giao cảm với đời, với thiên nhiên tạo vâ ̣t. Có lẽ đối với Xuân
Diê ̣u chưa phải là bức tranh toàn cảnh của bao nhiêu cảnh ngô ̣ thăng trầm, bao số phâ ̣n khổ
đau hay hạnh phúc … Đời của Xuân Diê ̣u là hạnh phúc tình yêu tuổi trẻ, là sức sống tràn đầy
của thiên nhiên tạo vâ ̣t. “Vô ̣i vàng” trích trong “Thơ Thơ” (1938) là bài thơ tiêu biểu của
Xuân Diê ̣u viết về niềm khao khát được tâ ̣n hưởng tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu.

  b.Giải quyết vấn đề:


 Cảm nhâ ̣n chung về bài thơ: Xuân Diê ̣u là

             “Kẻ đựng trái tim trìu máu đất

Hai tay chín móng bám vào đời”

            “Bám vào đời” là lẽ sống của nhà thơ và càng gắn bó với cuô ̣c sống bao nhiêu, nhà
thơ càng nhâ ̣n thức sự mong manh, không bền vững của thời gian. “Thời gian không đứng
đợi” mô ̣t ai nên Xuân Diê ̣u sống vô ̣i vàng, hối hả, cuống quýt. Nhà thơ cảm nhâ ̣n dòng chảy
của thời gian trên cuô ̣c sống, trong tình yêu đôi lứa và thiên nhiên, tạo vâ ̣t.

v      Phân tích bài thơ:


-      Cảm xúc của thi sĩ trước mùa xuân – tình xuân:
Tôi muốn tắt nắng đi
         Cho màu đừng nhạt mất
         Tôi muốn buộc gió lại
         Cho hương đừng bay đi

            Nhà thơ mơ ước “tắt nắng” cho “màu đừng nhạt”, “buô ̣c gió” cho “hương đừng bay”.
Điê ̣p ngữ “tôi muốn” bày tỏ tha thiết niềm khát khao muốn xoay chuyển, đoạt quyền của tạo
hóa, muốn giữ tất cả những gì tươi xanh của cuô ̣c sống, của mùa xuân và tình xuân và rất sợ
sự tàn phai của thi sĩ. Mơ ước vời xa, nồng nhiê ̣t và vẫn là mô ̣t khát khao chân thực.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật

                                   Này đây hoa của đồng nội xanh rì

                                   Này đây lá của cành tơ phơ phất

                                   Của yến anh này đây khúc tình si

            Thi sĩ phát hiê ̣n có mô ̣t thiên đường ngay trên mă ̣t đất, ngay trong tầm tay với của mỗi
chúng ta. Với những hình ảnh thơ cụ thể, gợi cảm và điê ̣p ngữ “này đây” đă ̣t ở nhiều vị trí
khác nhau, nhà thơ vẽ mô ̣t bức tranh tạo hóa với muôn ngàn thanh sắc. Thiên nhiên dưới mắt
thi sĩ phong phú, bất tâ ̣n. Nhà thơ đón nhâ ̣n cảnh sắc thiên nhiên bằng mô ̣t tình yêu say đắm,
bằng tâm hồn rô ̣ng mở. Tất cả sự vâ ̣t trong đoạn thơ hiê ̣n lên với vẻ ngọt ngào của “ong
bướm tuần tháng mâ ̣t”, xanh non với “lá của cành tơ”, với “hoa của đồng nô ̣i xanh rì” và say
mê cùng “khúc tình si” của yến anh. Ta nghe như tiếng reo vui của mô ̣t người đang yêu lạc
vào mô ̣t khu vườn xuân với bao cảnh sắc tuyê ̣t mỹ, rực rỡ. Ta bắt gă ̣p mô ̣t tấm lòng yêu cuô ̣c
sống tha thiết, dào dạt đang mở rô ̣ng với nhiều cảm giác: nhìn cảnh sắc, nghe âm thanh, ngửi
mùi hương chan hòa trong ánh sáng.

                        Mỗi sáng thần vui hằng gõ cửa

                               Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

            Trong thơ mới chỉ có “thần sầu”, có nỗi “buồn cô quạnh”, “sầu vạn kỷ” nhưng không
hề có “thần vui”. “Mỗi sáng thần vui hằng gõ cửa” là mô ̣t ý thơ mới mẻ trong thơ mới và đó
chính là tình yêu cuô ̣c sống trong thơ Xuân Diê ̣u. Nhà thơ rạo rực trước khu vườn xuân của
tạo hóa và cảm thấy mỗi ngày xuân là mô ̣t ngày của niềm vui. Thi sĩ say sưa tâ ̣n hưởng mùa
xuân, tình xuân mô ̣t cách đắm đuối “Tháng giêng ngon như mô ̣t că ̣p môi gần”. Rất mới mẻ,
rất đô ̣c đáo khi Xuân Diê ̣u so sánh “tháng giêng” như “că ̣p môi gần”.

        Bức tranh tạo hóa kỳ diê ̣u, tràn ngâ ̣p thanh sắc. Thiên đường trên mă ̣t đất không có gì
mới lạ nhưng qua cái nhìn “xanh non” nhà thơ như ngơ ngác, vui sướng khi lần đầu trông
thấy. Thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người “phù dung như diê ̣n,
liễu như mi”. Xuân Diê ̣u đưa ra mô ̣t tiêu chuẩn khác, con người là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp
trên thế gian. Con người là thước đo thẩm mỹ của vũ trụ, vẻ đẹp con người trần thế là tác
phẩm kỳ diê ̣u nhất của tạo hóa. Quan niê ̣m về cái đẹp của Xuân Diê ̣u mang ý nghĩa nhân bản
sâu sắc. Xuất phát từ tư tưởng ấy, nhà thơ đã sáng tạo nên những hình ảnh mới mẻ “Và này
đây ánh sáng chớp hàng mi” nhưng đô ̣c đáo, táo bạo, rất “Xuân Diê ̣u” là hình ảnh “Tháng
giêng ngon như mô ̣t că ̣p môi gần”. Hình ảnh thơ gợi lên vẻ đẹp rất con người, rất trần gian,
nhưng cũng thâ ̣t tuyê ̣t mỹ, tuyê ̣t vời.
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Trên không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

            Dấu chấm giữa dòng và ngữ nghĩa của câu sau thể hiê ̣n rõ nét tâm trạng của thi nhân.
Niềm vui say của nhà thơ như bị cắt ngang khi nhà thơ nhâ ̣n ra qui luâ ̣t của thiên nhiên, tạo
hóa. Trong say đắm thi sĩ vẫn mơ hồ “sợ hãi”, dự cảm ngày xuân, tình xuân sẽ qua mau. Tình
yêu cuô ̣c sống của Xuân Diê ̣u luôn có mă ̣t của sự vô ̣i vàng, mong manh.
-      Cảm xúc của nhà thơ trước quy luâ ̣t tạo hóa:
Xuân dương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mùa xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

            Từ niềm vui say, náo nức tâ ̣n hưởng mùa xuân, tình xuân nhà thơ bỗng ý thức về sự
trôi chảy của thời gian, của qui luâ ̣t tạo hóa khắc nghiê ̣t. Điê ̣p ngữ “nghĩa là” như mô ̣t lời
khẳng định qui luâ ̣t của tạo hóa về dòng trôi thời gian. Trong cái vẻ rực rỡ, xinh tươi của
thiên đường trần gian kia đã chớm màu tàn phai. Tất cả chỉ hiê ̣n ra trong khoảnh khắc. Trong
mùa xuân, tình xuân thi sĩ đã cảm nhâ ̣n nỗi đau mất mát, chia xa. Điê ̣p ngữ “nghĩa là” còn
như mô ̣t lời nhắc nhở, mô ̣t dự cảm, mô ̣t nỗi lo sợ của mô ̣t tấm lòng ham sống, ham yêu và chỉ
chấp nhâ ̣n cuô ̣c sống, mùa xuân, ánh sáng.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bang khuâng tôi tiếc cả đất trời

            Trên kia chỉ là mô ̣t dự cảm, mô ̣t nỗi lo sợ về dòng trôi thời gian còn mơ hồ. Giờ đây
Xuân Diê ̣u đã ý thức sự tuần hoàn của mùa xuân, của vạn vâ ̣t nhưng tuổi trẻ chỉ có mô ̣t lần,
mô ̣t giai đoạn. Những đối lâ ̣p trong đoạn thơ “Lòng tôi rô ̣ng – lượng trời châ ̣t, xuân vẫn tuần
hoàn – tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, còn trời đất – chẳng còn tôi” thể hiê ̣n nỗi lo sợ tuổi trẻ
qua đi, tình xuân không còn và “chẳng còn tôi mãi”. Trong nỗi lo sợ ấy ta còn nghe như có
tiếng thở dài, mô ̣t lời ai oán, mô ̣t tiếc nuối khôn nguôi.

Đoạn thơ không chỉ là lời bày tỏ tâm trạng của tác giả trước dòng trôi thời gian và qui luâ ̣t tạo
hóa mà còn là sự ý thức về cá nhân trong mỗi quan hê ̣ với cuô ̣c đời, với vũ trụ, tạo hóa. Nhà
thơ đồng nhất tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu và muốn tâ ̣n hưởng say đắm, nồng nhiê ̣t mọi giai
điê ̣u, mọi thanh sắc của ngày xuân, tình xuân. Có phải chăng Xuân Diê ̣u rơi vào “chủ nghĩa
hưởng thụ”? Hưởng thụ để tìm quên những chán chướng, đau khổ trong cuô ̣c đời là quan
niê ̣m không lạ của các nhà thơ mới.
                        “Hãy buông lại gần đây làn tóc rối

                               Sát gần đây gần nữa cặp môi điên

                               Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói

                               Đưa hồn say về tận cuối trời quên”

                                    (Quên – Vũ Hoàng Chương)

            Xuân Diê ̣u không như thế! Tình yêu cuô ̣c sống trong Xuân Diê ̣u nồng nhiê ̣t, đắm say
nhưng bao giờ thi nhân cũng đến với đời bằng tâm hồn trẻ trung, trong sáng, nhìn cuô ̣c sống
bằng cái nhìn ngơ ngác, mới mẻ. Ngay cả trong thơ tình Xuân Diê ̣u bao giờ cũng có ý thức
trân trọng, khao khát cái vô biên, tuyê ̣t đích trong sự hòa hợp của đôi tâm hồn mă ̣c dù lúc nào
cũng vô ̣i vàng, cuồng nhiê ̣t, say mê, đắm đuối.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biê ̣t
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa.

            Bức tranh thiên nhiên giờ đây đã chuyển sang sắc thái khác. Thiên nhiên đang diễn ra
mô ̣t cuô ̣c chia ly: thời gian “chia phôi”, không gian “tiễn biê ̣t”, cơn gió xinh phải “bay đi”,
chim “đứt tiếng” vì sợ “tàn phai”. Từ trong lo sợ, nuối tiếc thi nhân đã cảm nhâ ̣n mô ̣t cuô ̣c
chia ly của chính mình với tuổi trẻ, mùa xuân và tình yêu. Nhà thơ càng cuống quýt, sợ hãi,
tuyê ̣t vọng và thốt lên tiếng kêu não nuô ̣t “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”. Đoạn thể
hiê ̣n chân thực nỗi đau, sự tuyê ̣t vọng của nhà thơ khi ý thức mùa xuân, tình xuân sẽ qua đi
và cũng thể hiê ̣n tài năng của thi sĩ với sự cảm nhâ ̣n tinh tế về sự vâ ̣t bằng nhiều cảm giác
(khứu giác, thị giác, thích giác, cảm xúc …)
-      Tấm lòng của thi nhân đối với cuô ̣c sống:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân của đất trời có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân sẽ không còn
và con người không thể níu kéo thời gian dừng lại. Như vâ ̣y, hãy sống, sống say mê, tâ ̣n tâm
trong từng giây, từng phút giữa mùa xuân của cuô ̣c đời và vũ trụ. Rất nhiều bài thơ của Xuân
Diê ̣u bày tỏ sự vô ̣i vàng, hối hả trong cuô ̣c sống:
…Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi tình non đã già rồi

Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi

Mau lên chứ! Thời gian không đứng đợi

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biê ̣t

Những vườn xưa nay đoạn tuyê ̣t dấu hài

Gấp đi em anh rất sợ ngày mai

Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

Trong “Vô ̣i vàng” vẫn thái đô ̣ sống vô ̣i vã, cuống quýt nhưng thể hiê ̣n đâ ̣m đă ̣c hồn thơ, tình
thơ và phong cách sáng tác của Xuân Diê ̣u. Điê ̣p khúc “ta muốn”, nhịp điê ̣u “ta muốn” cùng
những hình ảnh táo bạo, nồng nàn, nhất là viê ̣c sử dụng mô ̣t loạt những đô ̣ng từ: ôm, riết, say,
thâu, cắn … đã thể hiê ̣n chân thực niềm yêu mãnh liê ̣t cuô ̣c sống, mô ̣t tình yêu đắm đuối,
nồng nàn, sôi nổi. Đối tượng mà nhà thơ muốn “ôm, riết, cắn, say” là mây gió, non nước, cỏ
cây, hoa bướm và mùa xuân. Đó là những biểu hiê ̣n của sự sống và sức sống trong thiên
nhiên, tạo vâ ̣t không hề nhuốm bản năng tầm thường.Đoạn thơ thể hiê ̣n nhân sinh quan của
Xuân Diê ̣u – phải sống, phải yêu, phải vô ̣i vàng tâ ̣n hưởng tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ

                                          “Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ

                                                      Em, em ơi! Tình non đã già rồi”

Quan niê ̣m sống của nhà thơ mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, thi nhân đã thả hơi thở nồng
nàn, say đắm vào tình yêu và cuô ̣c sống.

Kết thúc vấn đề:


“Vô ̣i vàng” là mô ̣t bài thơ rất “Xuân Diê ̣u”, là tiếng nói của mô ̣t trái tim sôi sục, khao khát
sống và yêu, là cái nhìn của mô ̣t tâm hồn trẻ trung, là sự khẳng định cái tôi của thi sĩ trong
quan hê ̣ gắn bó với đời. Bài thơ là mô ̣t minh chứng “Xuân Diê ̣u là nhà thơ của tuổi trẻ, mùa
xuân, tình yêu và là nhà thơ của cảm xúc, cảm giác tinh tế”. Về hình thức nghê ̣ thuâ ̣t “Vô ̣i
vàng” cũng mang nét riêng của Xuân Diê ̣u thể hiê ̣n ở nhịp thở hăm hở, cuống quýt; ở hình
ảnh táo bạo; ở cú pháp rất Tây và lối vắt câu tự do, thoải mái. Cùng với những bài thơ “Phải
nói”, “Giục giã”, “Vô ̣i vàng” thể hiê ̣n sức sống và tình yêu cuô ̣c sống tha thiết đắm say
nhưng cũng chứa đầy bi kịch trong hồn thơ Xuân Diê ̣u.

II. Luyêṇ tâ ̣p

1.      Trình bày sự nghiê ̣p thơ ca của Xuân Diê ̣u.

2.      Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diê ̣u.

3.      Quan niê ̣m sống của nhà thơ Xuân Diê ̣u qua bài thơ Vội vàng.

4.      Tâm trạng của nhà thơ trong đoạn thơ sau:

Tôi muốn tắt nắng đi…

……………………….

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuận…

5.      Quan niê ̣m về thời gian của Xuân Diê ̣u trong bài Vội vàng.

6.      Quan niê ̣m thẩm mỹ mới mẽ và triết lý nhân sinh đô ̣c đáo của Xuân Diê ̣u qua bài
thơ  Vội vàng.

III. Tham khảo

Những nhâ ̣n định

+ Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhâ ̣n định về bài thơ Vội vàng:"Đây là tiếng nói của một tâm
hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan
niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống

+ Thế Lữ trong lời tựa tâ ̣p Thơ thơ: “ Xuân Diê ̣u là mô ̣t người của đời, mô ̣t người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xâ ̣y dựng trên đất của mô ̣t tấm lòng trần gian

+ Có thể nói, nồng nàn và trẻ trung là hai phẩm chất, đồng thời cũng là hai giọng điê ̣p chính
trong thơ Xuân Diê ̣u…Trong số đó, Vội vàng là mô ̣t trong những thi phẩm thuô ̣c loại tiêu
biểu nhất cho giọng điê ̣u nồng nàn của Xuân Diê ̣u ( Nguyễn Đăng Điê ̣p)

+ Xuân Diê ̣u đã mang đến cho thơ ca dân tô ̣c mô ̣t cách nhìn mới,mô ̣t bút pháp mới,mô ̣t cảm
xúc mới ( Lê Tiến Dũng )

2.      Các bài viết:


Xuân diệu và quan niệm sống qua bài thơ Vội Vàng

Xuân Diệu là nhà thơ lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Ông để lại hàng chục tập thơ với
trên dưới 1000 bài thơ thấm thía tình yêu cuộc sống nồng nàn. Một trong số những bài thơ
tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ-tập thơ được sáng tác trong
những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ thể hiện tình yêu nồng
nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy.
Bài thơ Vội vàng được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời
tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là những khát khao phi
lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy khao khát mãnh
liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc
của của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá
biết bao nhiêu. Nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé
đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật,


Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì có vẻ đẹp của màu
xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ , cành tơ non thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình
minh như cái chớp mi của người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp,
sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống
trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh,
màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này.
Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui
cũng gõ cửa ùa vào theo:
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng người. Phải nói rằng trong
thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân
Diệu:

Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần


Xuân Diệu chẳng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp khi so sánh với con người như
thơ cổ mà lại lấy con người làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu
Nguyễn Du so vẻ đẹp của Thuý Vân-Thuý Kiều “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
thì Xuân Diệu lại liên tưởng “ Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Một cách so sánh
rất riêng, rất táo bào, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu. Ông thấy mùa xuân với bao
vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh
này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất
thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống đến si mê, cháy bỏng!

Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng,
con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng, tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến
đâybỗng chùng xuống:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.


Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng
điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Xưa nay, người ta chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, tiếc xuân khi nó đã
không còn. Ở đây, Xuân Diệu với sự nhạy cảm lạ lùng của nhà thơ yêu cuộc sống đến đắm
say, ông tiếc mùa xuân ngày khi mùa xuân vẫn còn đang phơi phới. Vì nhà thơ biết rằng thời
gian sẽ trôi qua nhanh, mà với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, thời gian còn tàn nhẫn
trôi nhanh hơn gấp bội, nhanh đến khủng khiép, phũ phàng. Cái non trẻ, thắm tươi rồi sẽ
chẳng mấy mà già nua, héo úa. Điều ấy lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến Xuân Diệu:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ đầy cảm giác buồn bã. Nhà thơ phát hiện ra một điều bi thảm cho mình: mùa xuân
trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Mà khi tuổi trẻ đã trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa.
Bởi quý giá nhất của cuộc đời, dất trời là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.
Con người khao khát vẻ đẹp tồn tại vĩnh cửu, nhưng cuộc đời lại có những quy luật vô cùng
chặt chẽ và nghiệt ngã:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hồi vô hạn, nhưng đời người thì hữu hạn. Con người trong cái hữu hạn ấy trở
nên thật nhỏ bé, tội nghiệp và mong manh. Bao người lí luận rằng xuân đi xuân đến, nhưng
với Xuân Diệu, ông chẳng thể tự an ủi mình mà trái lại, càng xót xa hơn:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý giá, chỉ đẹp khi con
người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng
mùa xuân thì xuân cũng mất hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển
sang giọng điệu buồn bã:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,


Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi”, chỉ biết “than thầm tiễn
biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam, ít ai
có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha dường ấy. Cũng vẫn gió lá
hoa như đạon đầu nhưng đoạn trên rạo rực náo nức, đoạn này lại buồn thương ngậm ngùi, xót
xa biết bao nhiêu. Nhà thơ kêu lên một cách tuyệt vọng:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!
Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc lắm, cắt cứa lắm, thấm thía lắm thì mới bộc phát
thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi
trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của
đời người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải
đắm say mãnh liệt hơn, phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ
đẹp nhân gian, những thứ ưúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Xuân Diệu giục giã:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đàu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng
ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên sôi nổi của
nhà thơ. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận để khẳng định
niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của Xuân Diệu. Một loạt điệp
từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của khao khát: muốn ôm - muốn riết - muốn say -
muốn thâu - muốn cắn thể hiện tam trạng si mê đến cuồng nhiệt. Trong một câu thơ mà có
đến ba hư từ “và” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc
dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân
Diệu mới thực là sống, mới đi đến tạn cùng của niềm hạnh phúc được sống.
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là có
dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống
cho đến “no nê”, “chuếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân
Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng,
chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim nồng
cháy của Xuân Diệu.
Bài thơ Vội vàng thể hiện tam trạng đắm say bồng bột của một tấm lòng ham sống mãnh liệt.
Bài thơ còn thể hiện một quan niệm sống sống gấp gáp vội vàng tận hưởng những hạnh phúc
trần thế, một quan niệm sống lành mạnh và tích cực so với đương thời. Bài thơ là một sáng
tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà thơ của tình yêu”, bài thơ rất tự
do, hình ảnh giàu sức gợi, giàu nhạc điệu và cách liên tưởng rất hiện đại. Tâm trạng yêu đời,
yêu sống đến cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng nhân văn của nhà thơ. Cho đến
nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn
bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.

Trong bài thơ Vô ̣i vàng tác giả đã cảm nhận về thời gian như thế nào ? Phân tích đoạn
từ câu 14 đến câu 24 để làm nổi bật cảm nhận ấy.
A. Mở bài:
- Trước hết cần khẳng định: Thời gian trong vũ trụ này thì muôn đời vẫn thế. Chỉ có quan
niệm của con người về thời gian thì đổi thay. Sự đổi thay này có thế do trình độ nhận thức
khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mĩ … của mỗi thời một khác.
- Trong bài thơ “Vội Vàng”, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới của mình về thời gian.
B. Thân bài:
I. Quan niệm của Xuân Diệu về thời gian:
1. Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa; đồng
thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng
ý thức triết học đã thấm nhuần cảm xúc.
2. Đoạn thơ ( từ câu 14 đến câu 24, có thể đến câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác, nhịp
điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên đã chứa đựng
cảm nhận về thời gian của thi sĩ.
II. Phân tích cụ thể:
1. Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là “thời gian tuần hoàn”. Nghĩa
là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về
điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn
có ra đi thì cũng quay trở về.
- Xuân đi rồi xuân lại quay trở lại, một năm là một vòng tuần hoàn như thế.
- Trong dân gian còn có quan niệm về sự kết thúc của kiếp này ( người ta chết đi ) là sẽ lại bắt
đầu bằng một kiếp khác ( đầu thai vào một sinh mệnh mới ).
è Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh
mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian.
· Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt
khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.
2. Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác “thời gian tuyến thính”. Nghĩa là thời
gian được hình dung như một dòng chãyuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh
khắc trồi qua là mất đi vĩnh viễn.
a. Quan niệm “thời gian tuyến thính” xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về
thời gian: “ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.
b. Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian
hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mện cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí
thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm
thước đo:
“ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ trật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
c. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi
qua là một sự mất mát; đó chính là môtj phần đời trong sinh mệnh, cá thể đã mất đi vĩnh viễn,
thấm thía hơn là phần vô cùng đáng giá của tuổi trẻ mình đã mất đi vĩnh viễn ( hai câu thơ ):
“ Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Mỗi khoảnh khắc đang rời
bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào
cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của
những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thẫm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó
đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian
đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một
phần đời của chính nó.
- Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi
chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:
“ Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là
lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim
chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy
hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳn riêng gì Xuân
Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi
không bao giờ trở lại của thời gian:
“ Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.
Vậy Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Không chờ
nắng hạ mới hoài xuân”.
C. Kết luận:
- Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của
sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi
đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của
đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa.
Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”.
- Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến thính” phải sống “Vội Vàng” cho
cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng
của tư tưởng Xuân Diệu.

You might also like