You are on page 1of 6

Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau làm nổi bật bút pháp lãng mạn, hào hoa:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu luận đề
Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm
không thể nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để
chiến đấu, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình cảm cá
nhân, vị kỉ để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.. Những con người ấy đã đi vào trong thơ
ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể
hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của
mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức tượng đài người
lính cụ Hồ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Đoạn
thơ dưới đây nằm ở giữa bài thơ, tái hiện những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận
tinh tế về một đêm lửa trại mà sau đó là nỗi nhớ của nhà thơ về cảnh và người miền
Tây, hé mở vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.
II. Thân bài
1. Khái quát
Trong khói lửa chiến tranh mịt mù và không khí hào hùng chiến trận của non sông
suốt những ngày trường kỳ kháng chiến, với vai trò là trung đội trưởng Trung đoàn
Tây Tiến được thành lập năm 1947, Quang Dũng đã cùng đồng đội tiến về miền Tây
sơn cước với bao ý chí, kiên cường và hiên ngang. Để rồi, dẫu chỉ gắn bó một năm
ngắn ngủi thôi nhưng chính những kỷ niệm, những ấn tượng về người lính kiêu hùng,
lạc quan đã ăn sâu vào trí óc, in đậm vào trong tim nhà thơ. Và nơi ấy - Phù Lưu
Chanh, nỗi nhớ thương cuộn sóng dâng trào đã thôi thúc ông viết nên một Nhớ Tây
Tiến dạt dào cảm xúc mà về sau khi in trong tập Mây đầu ô chỉ còn lại hai chữ Tây
Tiến đượm tình.
Luận điểm 1: Sau chặng đường hành quân gian nan, thử thách người lính Tây
Tiến được chung vui với bản làng trong đêm liên hoan văn nghê ̣ ấm áp tình quân
dân - món quà tinh thần quý giá và ý nghĩa.
a) Ở câu thơ đầu tiên ta cảm nhận không khí vui tươi phấn khởi của đêm sinh
hoạt:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Doanh trại là nơi đóng binh của đoàn quân Tây Tiến. Trong những năm tháng chiến
đấu gian khổ và thiếu thốn, những người lính Tây Tiến thường tập trung ở các lán trại.
Qua cái nhìn hào hoa và lạc quan, yêu đời của người lính Quang Dũng, ông đã gọi tên
những lán trại thô sơ ấy thành những doanh trại, nó tạo nên một lực lượng to lớn, đông
đảo, tạo nên tính chất trang trọng, uy nghi. Đối diện với những gian lao, vất vả, từ
“doanh trại” thể hiện ý chí chiến đấu, không ngừng tin tưởng vào tương lai phía trước.
Thông qua những vần thơ của Tố Hữu, ta thấy một mặt của đời sống thiếu thốn được
tái hiện. Soi vào vần thơ Quang Dũng, dù phải đối mặt với bao khó khăn, vất vả thì
trong tâm hồn của những người lính Tây Tiến vẫn ánh lên niềm tin, sự lạc quan đến
vô cùng. Cách nói giảm nói tránh tái hiện được hiện thực cuộc sống, hé mở tâm hồn
người lính Tây Tiến lạc quan.
Trong bài thơ, đây là lần thứ hai lửa và đuốc được liên tưởng tới hoa – nếu trong đêm
sương Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh huyền ảo mà thấy
như hoa về trong đêm hơi thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây,
nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở
thành đuốc hoa rực rỡ. Hình ảnh “đuốc hoa” chỉ ngọn nến thắp trong phòng tân hôn
của những cặp uyên ương thể hiện sự yêu đời, bay bổng của nhà thơ Quang Dũng.
Qua cái nhìn lãng mạn của ông, những ngọn nến trong đêm liên hoan trở thành hội
đuốc hoa lãng mạn gợi những liên tưởng thú vị, tình tứ, chất chứa bao khát khao hạnh
phúc. Đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Sự ấm áp
tỏa ra từ tinh thần lạc quan, từ tình quân dân thắm thiết.
Cụm từ “bừng lên” giàu sắc thái biểu cảm mở ra một không gian tràn ngập ánh sáng,
lung linh với niềm vui lan toả. Đó có thể là cái “sáng bừng” của những bó đuốc, hay
vẻ “bừng sáng” toát ra sự rạng rỡ trên khuôn mặt những người lính Tây Tiến chứa đầy
hạnh phúc, hân hoan sau những chuỗi ngày hành quân vất vả, họ bắt gặp một đêm liên
hoan tràn đầy xúc cảm.
Từ “bừng lên” còn làm rõ, tô điểm vẻ đẹp của người thiếu nữ Tây Bắc. Hình ảnh cô
gái miền Tây tràn đầy sức trẻ khiến cho người lính Tây Tiến phải thốt lên ngỡ ngàng.
Xuất phát từ đặc trưng của văn học đó là xây dựng từ chất liệu ngôn từ: hàm súc và cô
đọng, chỉ qua một từ “bừng”, nhà thơ Quang Dũng đã tái hiện sự xốn xang trong tâm
hồn người lính Tây Tiến. Không gian đêm liên hoan văn nghệ trở nên sáng rỡ, tràn
ngập không khí tưng bừng rộn rã, tươi vui.
Trong một không gian nơi núi cao, vực thẳm, nó làm sáng lên rừng già u tịch, hoang
vắng của thiên nhiên Tây Bắc. Chữ “bừng” giống như nhãn tự của câu thơ, khiến ngừi
ta không khỏi nhớ đến hình ảnh lò than rực hồng trong Chiều tối mang tính chất làm
ấm lên, làm bừng sáng, xua tan đi những mệt mỏi, vất vả trên bước đường hành quân.
b) Hai câu tiếp theo miêu tả không khí rộn ràng trong đêm liên hoan văn nghệ
mà hình ảnh trung tâm là nhân vật em, người thiếu nữ Tây Bắc xinh đẹp, dịu
dàng:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Chỉ từ “kìa” và cụm từ nghi vấn “tự bao giờ” ở đầu câu thơ cho thấy sự ngạc
nhiên, ngỡ ngàng và thái độ trầm trồ, mê đắm của người lính trước vẻ đẹp quá đỗi
duyên dáng, trẻ trung của những thiếu nữ phương xa xứ lạ. Vẻ đẹp kín đáo và sự thẹn
thùng, e lệ làm duyên cùng những điệu múa uyển chuyển đặc trưng của vùng cao Tây
Bắc đã để nhiều thương nhớ với những người lính Tây Tiến - phần đông là những
thanh niên Hà thành thanh lịch, hào hoa.
Câu thơ thốt lên thể hiện nỗi ngạc nhiên từ một tâm hồn đa tình, hào hoa phong nhã
đồng thời thể hiện được sự thích thú, tếu táo của người lính. Đây là cảm xúc hết sức
trần thế, đời thường của một người lính. Bởi lẽ, nhà thơ Quang Dũng cũng là một
chàng trai Hà thành nên ông rất thấu hiểu tâm tư của những người đồng đội, đồng chí
của mình.
Quang Dũng đã tập trung khắc hoạ đêm liên hoan văn nghệ bằng ánh sáng, âm thanh,
điệu múa, tiếng khèn… Khèn chính là đạo cụ đặc trưng cho nét văn hóa của đồng bào
vùng cao, kết hợp với man điệu – điệu múa quá đỗi tình tứ, mạnh mẽ đắm say. Phải
chăng đó là hình ảnh của những cô gái Lào xinh đẹp, khỏe khoắn đang say sưa trong
điệu múa“lăm vông, lăm tơi”, những điệu múa sôi nổi, yêu đời, đắm say, cuồng nhiệt
biết bao nhiêu. Nó khiến cho ánh mắt chàng trai Hà thành phải cuốn theo những điệu
múa mê hoặc lòng người, sự trẻ trung hấp dẫn của nàng sơn nữ mười chín, đôi mươi.
Tất cả đã làm nổi bật lên không khí tưng bừng, náo nhiệt, rộn rã thắm thiết tình quân
dân.
Các anh hòa mình vào những điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ, đắm say trước
vẻ đẹp của con người, văn hoá nơi đây “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Viên Chăn
không chỉ là thủ đô của Lào mà còn là khung cảnh mơ ước, là nơi tâm hồn người lính
thăng hoa và chạm đến. Chính vẻ đẹp của con người, của điệu múa, của âm nhạc
khiến tâm hồn người lính thăng hoa, chắp cánh cho những giấc mơ, những chân trời
chưa tới, xây hồn thơ với bao mộng ước ngọt ngào, hướng về ngày mai độc lập:
“Giữa bom lửa, khói đạn
Đối mặt với quân thù
Chỉ có sống và chết
Vẫn mơ tình thiên thu”
Có thể nói chỉ bằng 4 câu thơ, nhà thơ Quang Dũng đã tái hiện lại bức tranh liên hoan
văn nghệ hiện lên như một thước phim nghệ thuật đặc sắc tràn đầy những thanh âm
rộn rã và những hình ảnh thơ mộng, trữ tình, quyến rũ; thông qua đó hé mở tâm hồn
trẻ trung lạc quan và nổi bật lên vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến. .
Luận điểm 2: Tới đoạn thơ sau, những hoài niệm rực rỡ và sống động về một
đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ mênh
mông, da diết về cảnh sắc và con người miền Tây :
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
a) Câu thơ đầu tiên như lời nhắn nhủ tha thiết về miền Tây, mở ra một không
gian buồn man mác: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”
Khi nói đến Mộc Châu, đây là địa danh mang trong mình vẻ đẹp hoàn mỹ, là điểm
nhấn hội tụ những vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, được đất mẹ ưu ái cho rất nhiều
cảnh sắc,.. đã trở thành cảm hứng thi vị trong thơ ca, nghệ thuật.
Cả đoạn thơ có dáng dấp của câu hỏi tu từ. Câu hỏi tu từ vang lên không nhằm mục
đích tìm kiếm câu trả lời mà để khơi gợi những cảm xúc như xoáy sâu vào tâm hồn,
nhắc nhớ, khơi dậy trong sâu thẳm nhân vật trữ tình một nỗi buồn, nỗi nhớ man mác
về thiên nhiên miền Tây biết bao thơ mộng và trữ tình.
Hình ảnh người đi kết hợp với cụm từ “chiều sương” mang tính chất phiếm định tạo
nên một cảm giác mờ ảo, lãng mạn. Chính sự mơ hồ này đã tạo nên nét hào hoa cho
bài thơ Tây Tiến. Một buổi chiều Tây Bắc u tịch, mênh mông được bao trùm bởi
những màn sương huyền ảo, gợi mở không gian miền Tây. Đó chính là phông nền cho
nỗi nhớ nhung, lưu luyến, bịn rịn. Không chỉ là nỗi nhớ về đêm liên hoan với cô gái
Thái mà còn trải dài, bao trùm cả thiên nhiên Tây Bắc, nó như rộng mở ra, khơi gợi
nỗi nhớ thiết tha, trữ tình trong tâm hồn nhà thơ. Thời gian buổi chiều tự nó đã là thời
điểm gợi buồn, chiều sương thì càng buồn hơn. Sương giăng khắp mây trời Tây Bắc.
Trong tiếng Việt, “ấy” là một đại từ chỉ định luôn đem lại sắc thái xa xôi, mơ hồ cùng
nỗi nhớ nhung tiếc nuối cho những danh từ đứng trước nó như: thuở ấy, ngày ấy,
người ấy,.. Có lẽ vì vậy mà ở khổ thơ này, nỗi nhớ đượm buồn, có tính phiếm định,
không được vui tươi, say đắm như 4 câu thơ đầu. Phải chăng, xét về thời điểm ra đời
của bài thơ, trong một buổi chiều mưa bên Phù Lưu Chanh, nhà thơ Quang Dũng đã
nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, buổi chiều bên đồng đội. Chính thời điểm buổi chiều này
đã khiến nhà thơ nhớ về buổi chiều mưa giăng mắc mây trời Tây Bắc đầy huyền ảo,
thơ mộng. Nó buồn vì tất cả những kỉ niệm bên đồng chí đã lùi vào dĩ vãng.
Nhớ về mảnh đất Châu Mộc nhạt nhòa sương khói, bâng khuâng đến tột cùng để nhà
thơ phải thốt lên: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ/ Có nhớ dáng người trên độc mộc”
b) Nhớ về mảnh đất Châu Mộc nhạt nhòa sương khói, bâng khuâng đến tột cùng khiến
nhà thơ phải cất lên tiếng hỏi mà phép điệp trong cấu trúc: “Có thấy hồn lau nẻo
bến bờ/ Có nhớ dáng người trên độc mộc” đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn
trở hướng về cảnh và người miền Tây.
Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về “hồn lau” thay vì bờ lau, hàng
lau hay rừng lau.. khiến cho những cành lau trở nên sống động, có hồn, gợi cảm. Hoa
lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên chỉ cần một
chút gió rất nhẹ, những bông lau mềm mại, nhẹ nhàng cũng xao động, cả bờ lau đung
đưa mềm mại. Từ đây, ta thấy được tâm hồn tinh tế của Quang Dũng: yêu thiên nhiên,
cảm nhận từng hình thái, từng chuyển động tinh vi của tạo vật. Sắc trắng tinh khôi,
huyền hoặc của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau
trong xào xạc gió núi..đã khiến rừng lau như có hồn, như biết chia sẻ nỗi niềm với con
người. Khi đã xa miền Tây, câu hỏi “có nhớ”, “có thấy” càng làm xao xuyến lòng
người. Hoa lau thường mọc ven bờ sông, triền núi. Cụm từ “nẻo bến bờ” lại tô đậm
thêm hoang vắng, đìu hiu, lạnh lẽo của không gian vắng người qua lại.
Trong màn sương mờ nhạt của hoài niệm, khi nhà thơ để lòng mình trở về với “châu
Mộc chiều sương ấy”, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa,
huyền ảo trên con thuyền độc mộc. “Độc mộc” là thuyền làm từ thân cây gỗ lớn và
dáng người trên độc mộc khơi gợi nhiều cách hiểu: có thể là những cô gái Mèo, những
cô gái Thái chèo thuyền đưa bộ đội vượt sông, cũng có thể là những người lính Tây
Tiến trên con thuyền độc mộc vượt thác dữ, vượt qua những khó khăn gian khổ để tiếp
bước trên con đường hành quân vất vả. Cho dù hiểu theo cách nào thì âm điệu hào
hùng, khoẻ khoắn của câu thơ cũng khiến ta cảm nhận được vẻ đẹp chắc nịch, tự tin
của con người giữa thiên nhiên Tây Bắc: gan dạ, dũng cảm, làm chủ thiên nhiên Tây
Bắc. Hình ảnh thiên nhiên và con người sóng đôi bên nhau tạo nên tổng thể thật đẹp
và ấn tượng. Thiên nhiên làm nền cho vẻ đẹp và phẩm chất của con người được tô
điểm rõ nét, con người cũng trở thành bạn đồng hành tri kỷ khiến nét đẹp của thiên
nhiên được tôn vinh lên.
c) Câu thơ khép lại đoạn thơ mang hình ảnh thơ mộng và trữ tình:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Biện pháp tu từ nhân hoá “hoa đong đưa” làm nổi bật sự quyến luyến, bịn rịn của
thiên nhiên đối với con người. Bằng chính cái nhìn lãng mạn, tình tứ, Quang Dũng đã
khơi dậy ngòi bút tài hoa của mình để kịp ghi lại một khoảnh khắc tuyệt đẹp: những
bông hoa rừng làm duyên trên dòng thác lũ tạo sự nhẹ nhàng, thơ mộng như đang
luyến lưu người lính. Nếu như xem dòng suối chảy của thiên nhiên Tây Bắc trong veo
như 1 chiếc khăn voan thì những bông hoa rừng giống như hạt cườm lấp lánh đính
quanh núi rừng Tây Bắc. Biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp với tương phản đối lập đã
góp phần khắc hoạ rất đáng yêu, đáng nhớ. Câu thơ dường như thổi vào bài thơ một
hơi thở lãng mạn, hết sức hào hoa, tình tứ, giống như chất nhựa gắn kết tất cả chi tiết
thô ráp, rời rạc của thiên nhiên Tây Bắc thành một bức tranh sơn mài hoàn hảo hòa
trộn cả âm thanh, màu sắc, sống động; đẹp đến mức lay động lòng người.
Hoa ở đây còn có thể hiểu là người, là hình ảnh những người con gái Thái, Mèo kiều
diễm, e ấp làm duyên trên con thuyền mênh mông sóng nước; hay hình ảnh con người
Tây Bắc trong lao động nói chung, khỏe khoắn nhưng cũng đằm thắm, dịu dàng.
Hình ảnh “hoa đong đưa” làm ta nhớ đến hai câu thơ:“Mường Lát hoa về trong đêm
hơi” và “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” ở đoạn thơ trước với nhiều liên tưởng độc
đáo thú vị. Qua đó, có thể thấy nhà thơ đã thể hiện cảm nhận thật sự tinh tế và vô
cùng thăng hoa trong cảm xúc khi viết về mảnh đất Tây Bắc thương nhớ.
Nỗi nhớ hướng về cảnh sông nước miền Tây thơ mộng nhưng đượm buồn đã gián tiếp
ám gợi nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhân vật trữ tình về mảnh đất và con người
Tây Bắc.
3. Đánh giá

Ở đoạn trên, nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng tài tình bút pháp lãng mạn để đặc tả
những cảnh sinh hoạt nhộn nhịp và hình ảnh người ra đi trên phong nền thiên nhiên
thơ mộng.
Bút pháp lãng mạn đã làm cho hình ảnh người lính tràn đầy sức sống, trẻ trung yêu
đời và hình ảnh thiên nhiên mang in đậm dấu ấn trong lòng người đọc những vẻ đẹp
đặc trưng của miền núi Tây Bắc. Với sự tài năng trong việc sử dụng các biện pháp tu
từ: nhân hóa, điệp ngữ, đảo ngữ,.. nhà thơ đã tạo nên những vần thơ vô cùng sống
động và có hồn.
Với phong thái hào hoa lãng mạn của một người nghệ sĩ và một người chiến sĩ từng
chiến đấu với đoàn quân Tây Tiên, Quang Dũng đã thể hiện phong cách sáng tác nổi
bật trong nền thơ ca hiện đại như quan niệm của nhà thơ Sóng Hồng: “Thơ là sự thể
hiện con người và thời đại một cách cao đẹp.
III. Kết bài.

- Khái quát nội dung cần nghị luận, giá trị đoạn trích, tác phẩm.

- Nêu cảm xúc, suy nghĩ cá nhân.


Khép lại những dòng thơ tràn đầy cảm xúc, niềm yêu thương của bài thơ Tây Tiến,
chúng ta cảm thấy vô cùng kính nể và và tự hào về thế hệ cha anh đã hi sinh và mang
lại độc lập, hòa bình cho dân tộc. Quang Dũng giúp độc giả chiêm ngưỡng rõ nét vẻ
đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, một tượng đài bất biến, luôn sáng ngời trong
thơ ca cách mạng.Nhà thơ đã giúp chúng ta khơi gợi tình yêu đất nước và ý thức trách
nhiệm của bản thân đối với sự tồn vong của đất nước. Tây Tiến không chỉ là một thi
phẩm mà nó còn là một bức họa chân dung về thế hệ lịch sử đã xông pha chiến đấu
quên mình vì nền hòa bình của dân tộc. Đúng như Giang Nam đã viết:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông.”

You might also like