You are on page 1of 8

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

I. Mở bài

“Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc


Khi lòng ta đã hóa những con tàu”

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất với nhiều hoang sơ, bí
ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có hồn thơ của Chế Lan Viên mà ta còn bắt gặp Tô Hoài với
riêng một tập truyện viết về phong tục, thiên nhiên và con người nơi đây. “Vợ chồng A Phủ” là
một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện “Tây Bắc”. Tác phẩm đã xây dựng thành
công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách
mạng của nhân dân Tây Bắc. Điều đó được thể hiện rõ nét thông qua việc Tô Hoài miêu tả diễn
biến tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

II. Thân bài

1. Khái quát
Tô Hoài là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Văn chương ông hấp dẫn người đọc ở lối trần thuật, từng trải, hóm hỉnh - là một nhà văn thực sự
thành công về hiện tượng, đời sống xã hội, về phong tục tập quán..
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952 in trong tập truyện Tây Bắc đến nay vẫn giữ
gần như nguyên vẹn giá trị và sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Một trong những thành
công lớn nhất của tác phẩm Vợ chồng A Phủ là xây dựng nên nhân vật Mị - nhân vật trung tâm
toàn bộ thiên truyện.
- Khái quát về nhân vật Mị
Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và mang trong mình nhiều phẩm chất đáng quý. Nhưng vì
món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Trong
quãng thời gian làm dâu đầy tủi nhục ấy, Mị bị bóc lột tàn bạo, bị đánh đập, đày đọa về thể xác,
dày vò về tinh thần. Mị bị ràng buộc, khống chế bởi tư tưởng thần quyền. Từ một cô gái ham
sống trở thành một công cụ lao động biết nói tê liệt về mặt ý thức, về sức sống và tinh thần,
những tưởng Mị sẽ sống mãi trong cảnh tù đày ấy. Thế nhưng, cái hay của Tô Hoài là vẽ ra một
con đường tưởng chừng là ngõ cụt cho Mị, khiến cô như chết về hồn lẫn xác thì vẫn còn ý chí.
Trong thâm tâm, Mị không chấp nhận cuộc sống địa ngục trần gian, sức sống của cô như một hạt
mầm bị chôn vùi dưới tầng đất đau khổ chẳng thể nảy chồi. Chính đêm tình mùa xuân trên rẻo
cao đã bào mòn những khổ đau ấy, làm mầm sống trong Mị vươn lên mãnh liệt.

Luận điểm 1: Có thể thấy, yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn đến tâm trạng cũng như
hành động của con người. Để tạo tiền đề cho sự đột phá của Mị, Tô Hoài đã dụng công
chuẩn bị những yếu tố đặc biệt về thiên nhiên, về cảnh sắc cuộc sống của người miền núi.
Mở đầu là khung cảnh mùa xuân tươi vui, nhộn nhịp, vạn vật đua nhau khoe màu áo mới phơi
phới sắc xuân: “cỏ gianh vàng ửng”, “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như
con bướm sắc sỡ”, rồi hình ảnh “đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm ầm trên sân trước nhà”.
Hay “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, từng lời hát giản dị, mộc mạc ấy lại có sức gợi to lớn đối
với Mị. Còn bữa cơm hàng ngày nay đã thành “bữa cơm Tết cúng ma”, rộn rã tiếng “chuông
đánh ầm ĩ”, “ vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa”. Những sự kiện ngày Tết đã
tạo thành cơn mưa đánh thức hạt mầm sự sống mãnh liệt trong Mị, đặc biệt là tiếng lấp ló ngoài
đầu núi rủ bạn đi chơi- tiếng ca của hạnh phúc lứa đôi, biểu tượng của tình yêu trai gái như đánh
một hồi lớn vào tâm khảm nơi Mị. Nó sưởi ấm và kéo Mị vùng dậy sau bao ngày sống im lặng,
đánh thức Mị khỏi giấc ngủ của bi kịch đau thương.

Luận điểm 2: Sức sống mãnh liệt, lòng khát khao hạnh phúc, tự do của Mị thể hiện rõ nét
qua những thay đổi trong nhận thức.

Sau bao ngày câm lặng Mị đã biết lắng nghe tiếng sáo, nhẩm theo lời bài hát của người đang
thổi:
“ Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

Cảm xúc cô được thể hiện qua ngôn ngữ đầy gợi cảm của Tô Hoài: “bổi hổi”, “thiết tha”, dường
như tâm hồn của cô đang dần hé mở để đón lấy ánh sáng của cuộc đời. Những ngôn từ mộc mạc,
giản dị lại chất chứa cả một vùng trời tự do, không có xiềng xích, khổ đau vọng vào tâm hồn Mị,
cô hát những lời ca của đôi lứa yêu nhau, của những con người khát khao hạnh phúc tình yêu
nam nữ. Hành động này đánh dấu bước trở lại của người con gái yêu đời- thổi sáo rất hay ngày
trước.

Trong hương vị của mùa xuân, cái nồng nàn của ngày Tết vui tươi cùng tiếng sáo gọi bạn
văng vẳng, Mị uống rượu và sống lại quãng đời quá khứ tươi đẹp: Cách uống rượu của cô
không như bao người, Mị “uống ừng ực từng bát” như uống lấy bao đắng cay của phần đời đã
qua, uống lấy bao khát khao của phần đời chưa tới. Cô uống như nuốt hồn nuốt tửu, nhờ men
rượu đưa cô sống lại những kỉ niệm tươi đẹp ngày trước. Chính men rượu làm tinh thần Mị say
nhưng tâm hồn cô lại bừng tỉnh sau bao tháng ngày làm trâu làm ngựa. Cũng ngay lúc này đây,
Mị lãng quên thực tại đang diễn ra trước mắt mình, “chén rượu hương đưa say lại tỉnh” (Hồ
Xuân Hương), cô dường như đang bước trên lằn ranh nhập nhằng giữa quá khứ và thực tại. Cùng
với men rượu ngà ngà của buổi cúng ma nhà thống lí là tiếng sáo gọi bạn đầu làng văng vẳng bên
tai Mị:

“Anh ném pao, em không bắt


Em không yêu, quả pao rơi rồi”
Ngày xưa, Mị cũng là một cô gái trẻ, tràn đầy sức sống, cũng là con người tài hoa với việc thổi
kèn lá, kèn môi. Vì thế, không ngạc nhiên khi tiếng sáo văng vẳng nơi xa cùng hơi rượu nồng
nàn đã khơi dậy nơi Mị những bổi hổi, bồi hồi ngày trước. Mị như sống lại những năm tháng tuổi
trẻ. Dường như cô mượn rượu để giải tỏa nỗi lòng, tâm tư. Khi một người đàn bà không thiết
sống bỗng dưng nhận ra mình còn trẻ lắm, thì đó là một cảm xúc bi kịch. Mị chua xót, oán hận,
phẫn uất với số kiếp của mình. Ấy là lúc lòng ham sống trở về mạnh mẽ. Nó rọi vào hiện tại một
cái nhìn sắc nhọn, bỏng rát, nó xé toang tất cả. Rượu là tác nhân đặc biệt mà Tô Hoài đã dùng
rất khéo léo, đúng lúc khi nó cởi trói cho Mị khỏi những gông xiềng, làm thức dậy những cảm
xúc con người, hồi sinh Mị một lần nữa. Mị không cam chịu mà sống đúng với mình, với ước
vọng của mình: Mị muốn đi chơi – đó cũng chính là những khao khát tự do và tình yêu của Mị.

Tâm hồn Mị sau giai đoạn ngủ yên nay đã bừng tỉnh, như một lẽ tự nhiên, Mị cảm nhận rõ từng
hồi đắng cay, đau đớn của cuộc sống thực tại. Mị nhận ra bi kịch của chính bản thân mình với A
Sử: “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Giờ đây, “nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa” bởi lẽ “nhớ lại, chỉ thấy nước mắt
ứa ra”. Khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi. Ý muốn tự tử của Mị
là ranh giới đấu tranh gay gắt giữa một khát vọng sống đang mãnh liệt trỗi dậy với một thực tại
đầy chua xót, thảm thương hiện hữu. Dòng nước mắt của Mị là khóc cho những ngày mất đi ý
niệm về cuộc đời mình.

Tiếng sáo giờ đây được phen bước vào tâm hồn Mị khiến “đầu Mị rập rờn tiếng sáo”, từng
nốt như chất xúc tác mạnh mẽ thôi thúc hành động đi chơi của Mị diễn ra nhanh hơn. Hàng
loạt các hành động được Tô Hoài diễn tả dồn dập: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng
bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Mị quấn lại tóc”, “Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong
vách”. Đây là chuỗi hành động nổi loạn thể hiện sự trỗi dậy của một khát vọng sống mãnh liệt
nơi tâm hồn Mị. Từ người tê liệt hoàn toàn về thể xác, tâm hồn, Mị đã có sự hồi sinh, Mị ý thức
được quá khứ, thực tại và những quyền cơ bản của con người.

Với ngòi bút tài hoa, tác giả đã phác họa sức sống ấy lớn đến nỗi Mị không hề chú tâm đến sự
xuất hiện của A Sử. Mị thắp ngọn đèn như thắp lên lẽ sống của cuộc đời mình, thứ ánh sáng ấy
xua tan bao đêm tối triền miên, chiếu rọi vào thẳm sâu linh hồn như đã chết của Mị khao khát
hạnh phúc, tự do để tìm ra con đường giải thoát mình khỏi sự trói buộc của thực tại. Hành động
nhỏ ấy cho ta thấy Mị đã dần nhận thức được không gian mình đang sống, đang cần một chút
ánh sáng- dù chỉ hiu hắt để soi sáng con đường, soi sáng cả cuộc sống tối tăm mù mịt của mình
nơi địa ngục trần gian. Qua chi tiết đầy ý nghĩa này, tác giả bộc lộ sự trân trọng dành cho Mị
đồng thời thể hiện nét bút làm rung động tâm can người đọc.

Luận điểm 3: Tiếc thay, khát vọng sống của người con gái đáng thương vừa nhen nhóm đã bị
dập tắt bởi sự tàn nhẫn, phũ phàng của A Sử. A Sử trói Mị đứng vào cột nhà, “tóc Mị xõa
xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Hành
động của hắn là minh chứng đầy thuyết phục cho sức sống mãnh liền của Mị. Mị không hề cảm
thấy đau, không biết mình bị trói chỉ nghe thấy tiếng sáo, ngửi thấy hơi rượu nồng nàn. A Sử chỉ
trói được thể xác, không trói được tâm hồn của Mị, khát khao hạnh phúc trong Mị, lúc đó Mị chỉ
còn biết sống với tiếng sáo, mê man và chập chồn theo tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha
vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Tuy nhiên hiện thực vẫn mãi là hiện thực nghiệt ngã, chưa buông tha cho Mị. Khát vọng sống
mãnh liệt của Mị gặp sự đối kháng, khi Mị vùng bước đi thì hiện thực rõ mồn một. Mị đang bị
trói chân tay không cựa nổi. Mị không còn nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe thấy tiếng chân
ngựa đạp vào vách. Hồn Mị đã trở về với thực tại, Mị lại đau đớn, tủi thân và xót xa, thổn thức
nhận thấy mình không bằng con ngựa, con trâu. Nhưng cũng chính những tiếng khóc ngày nào
của Mị giúp chúng ta thấy được rằng Mị vẫn còn biết đau, biết xót xa cho thân phận mình; rồi Mị
sẽ lại phản kháng, vùng lên.

(Xuyên suốt truyện ngắn, độc giả có thể dễ dàng nhận ra rằng tiếng sáo là chi tiết được lặp đi lặp
lại trong tác phẩm, đặc biệt là trong đêm tình mùa xuân. Phải chăng đây là dụng ý của nhà văn
Tô Hoài. Tiếng sáo là một trong những tác nhân quan trọng nhất đánh thức tâm hồn chai sạn của
Mị sau những tháng ngày tăm tối ở nhà thống lí. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, từ bên ngoài
tới bên trong nhận thức của Mị, chiếm lấy tâm hồn cô gái. Tiếng sáo mở ra một không gian xa
xôi của núi rừng Tây Bắc, tiếng sáo gọi bạn, gọi người yêu là nét đẹp truyền thống của người dân
nơi đây. Tiếng sáo còn là sự thể hiện tài năng của con người- cụ thể là Mị có tài “thổi lá hay như
thổi sáo”. Nó còn khơi gợi quá khứ tươi đẹp, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng thời tiếng
sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị. Đặc biệt, tiếng sáo là chi tiết
nghệ thuật tố cáo bản chất giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống,
quyền làm người.)

3. Đánh giá

Nhà văn đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc làm nổi bật tâm lí và cảm
xúc nhân vật cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí đến mức biện chứng tâm hồn Sức hấp dẫn và lôi
cuốn của VCAP còn được thể hiện ở giọng điệu trữ tình giàu chất thơ, đầy chất hình, gợi cảm và
ngôn ngữ giản dị, phong phú, sáng tạo, mang đậm dấu ấn miền núi.

Qua đó, chúng ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên miền núi sống động cùng những phong tục, tập
quán của nhân dân nơi đây. Hình tượng nhân vật Mị là tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp tâm hồn
của người lao động Tây Bắc, góp phần tô đậm giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện
ngắn.

“Nhà văn trước hết phải là một nhà nhân đạo”, điều này được thể hiện rõ nét dưới ngòi bút tài
hoa của Tô Hoài. Qua những thay đổi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, ta thấy được
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài. Ông đã nâng niu, trân trọng, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của nhân vật, đồng thời cảm thông, thấu hiểu, tin vào sức sống tiềm tàng của
con người. Những trang văn của tác giả phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người để
rồi chỉ ra con đường tự giải thoát, làm chủ vận mệnh của mình. Có lẽ chính những điều đó đã
đưa tác phẩm tới sâu hơn trong trái tim người đọc, để lại bài học nhận thức và hành động cùng ý
nghĩa sâu xa.
III. Kết bài

Trải qua hơn một nửa thế kỉ, truyện ngắn vợ chồng A Phủ đã vượt qua bao lớp bụi thời gian để
in sâu, bám rễ vào tâm tưởng nhiều thế hệ độc giả Việt. Gấp lại những trang sách mà dư âm về
cuộc sống, về số phận của người dân nghèo dưới chế độ chủ nô phong kiến vẫn in đậm trong tâm
khảm người đọc. Đủ để thấy ngòi bút Tô Hoài, đặc biệt qua truyện ngắn trên có sức lay động
tuyệt đối tới trái tim mọi người, để lại những day dứt, ám ảnh khó phai.

-------
Sức phản kháng táo bạo của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ
I. Mở bài

“Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc


Khi lòng ta đã hóa những con tàu”

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất với nhiều hoang sơ, bí
ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có hồn thơ của Chế Lan Viên mà ta còn bắt gặp Tô Hoài với
riêng một tập truyện viết về phong tục, thiên nhiên và con người nơi đây. “Vợ chồng A Phủ” là
một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện “Tây Bắc”. Tác phẩm đã xây dựng thành
công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách
mạng của nhân dân Tây Bắc. Điều đó được thể hiện rõ nét thông qua việc Tô Hoài miêu tả diễn
biến tâm lý nhân vật Mị trong đêm đông giá lạnh trên rẻo cao Tây Bắc đi cởi trói cho A Phủ và
cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.

II. Thân bài

1. Khái quát
Tô Hoài là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Văn chương ông hấp dẫn người đọc ở lối trần thuật, từng trải, hóm hỉnh - là một nhà văn thực sự
thành công về hiện tượng, đời sống xã hội, về phong tục tập quán..
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952 in trong tập truyện Tây Bắc đến nay vẫn giữ
gần như nguyên vẹn giá trị và sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Một trong những thành
công lớn nhất của tác phẩm Vợ chồng A Phủ là xây dựng nên nhân vật Mị - nhân vật trung tâm
toàn bộ thiên truyện.
- Khái quát nhân vật
Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và mang trong mình nhiều phẩm chất đáng quý. Vì món
nợ của cha mẹ mà Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Trong quãng thời gian làm
dâu đầy tủi nhục, Mị bị bóc lột tàn bạo, bị đánh đập, đày đọa về thể xác, dày vò về tinh thần. Mị
bị ràng buộc, khống chế bởi tư tưởng thần quyền. Từ một cô gái ham sống trở thành một công cụ
lao động biết nói tê liệt về mặt ý thức, về sức sống và tinh thần, những tưởng Mị sẽ sống mãi
trong cảnh tù đày ấy. Thế nhưng, cái hay của Tô Hoài là vẽ ra một con đường tưởng chừng là
ngõ cụt cho Mị, khiến cô như chết về hồn lẫn xác thì vẫn còn ý chí. Trong thâm tâm, Mị không
chấp nhận cuộc sống địa ngục trần gian, sức sống của cô như một hạt mầm bị chôn vùi dưới tầng
đất đau khổ chẳng thể nảy chồi. Sự thức tỉnh tâm hồn trong đêm tình mùa xuân trên rẻo cao
chính là cơ sở cho những hành động phản kháng quyết liệt của Mị trong đêm đông - cái đêm mà
Mị cởi trói cho A Phủ và chạy thoát khỏi Hồng Ngài.
A Phủ là một chàng trai miền núi vạm vỡ khỏe mạnh. Trong một lần đi chơi xuân xảy ra ẩu đả
với A Sử, anh bị bắt phạt. Vì không có tiền nên phải chịu cảnh làm trâu làm ngựa cho nhà thống
lý. Trong một lần làm việc vì mải mê bẫy nhím, A Phủ đã để hổ bắt mất một con bò. Anh bị Pá
Tra trói đứng ở cột nhà bằng dây mây quấn từ đầu đến vai cho đến khi bắt được hổ mới tha.
Luận điểm 1: Mấy hôm đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng, thờ ơ
với hiện thực trước mắt: “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đó, cũng thế thôi”. Câu văn chứng
minh cho sự tê dại trong tâm hồn Mị, trái tim cô giờ đây đã đóng băng, lạnh giá vô cùng. “ Mị
thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Phản ứng này của Mị cũng dễ hiểu bởi cô đã quá quen với cảnh
tượng đó ở nhà thống lý, nó không tác động gì đến cảm xúc của cô được nữa. Vả lại có lẽ do “ở
lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên cái khổ của người khác cũng thế thôi. Ngay cả bản thân
mình Mị cũng không thương, chấp nhận mình chỉ là con trâu, con ngựa thì làm sao có thể thương
người.
Luận điểm 2: Nhà văn thể hiện cái đỉnh của ngòi bút khi lựa chọn chi tiết giọt nước mắt của
A Phủ để tác động vào tâm trí Mị. Mùa đông trên núi cao rất dài và lạnh. Mị có thói quen ra bếp
thổi lửa để hơ tay, xua tan đi cái lạnh giá trong tâm hồn. Mị có chồng nhưng chưa bao giờ được
làm vợ và cũng chưa bao giờ được làm mẹ. Với Mị, bếp lửa là người bạn tri âm, tri kỷ, nguồn
sáng ấm áp duy nhất giúp cô sưởi ấm tâm hồn nơi rẻo cao lạnh lẽo. Đã biết bao lần A Sử đánh
Mị ngã dúi xuống cửa bếp mà Mị vẫn giữ thói quen thức sưởi lửa suốt đêm. Có lẽ cũng chính vì
thói quen ấy, những đốm lửa đã soi sáng làm cho cô có thể nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ.
Mị có những biến chuyển về cảm xúc, tình cảm. Giọt nước mắt đau khổ, bất lực, tuyệt vọng của
A Phủ đã đánh thức dậy quá khứ đau khổ của cô, làm tan chảy băng giá trong tâm hồn Mị. Tình
thương đó không tự nhiên bùng phát, mà là kết quả của sự đấu tranh mạnh mẽ, giằng xé nội tâm.
Cô nhớ lại đêm năm trước, cô cũng từng bị trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt, nước
mũi chảy xuống cổ, xuống mặt không biết làm sao mà lau đi được. Mị còn nhớ lại người đàn bà
sống trong nhà thống lý bị trói đứng cho đến chết. Đây chính là cơ sở để Mị nảy sinh sự đồng
cảm với A Phủ. Như vậy Mị thương mình, đồng cảm với người
+ Nước mắt của A Phủ được xem là chi tiết mở khóa cho tình người, tình đời khi nó khiến Mị
nhận thức rõ được tội ác nhà thống lý. Lần đầu tiên, dù chỉ là trong ý nghĩ, Mị đã dám kết tội
cha con nhà thống lý: “chúng nó thật độc ác”. Những giọt nước mắt của A Phủ đã giúp cho Mị
nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương cho chính mình. Và khi cô quay trở lại, nhìn A Phủ đang
bị trói đứng ở cột nhà: “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết”. Trong một câu văn có đến 5 từ chết cho ta thấy cái chết như là một lẽ tất yếu, thường
tình xảy ra với A Phủ.
+ Đặc biệt Mị nhận thức rất rõ sự yếu đuối rất đàn bà của bản thân và sự phi lý bất công trong
số phận của A Phủ “ ta là thân đàn bà nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế”
 Dòng nội tâm ấy có thể coi là sự nổi loạn đỉnh cao của khát vọng sống mãnh liệt cho ta
thấy những chuyển biến dữ dội trong nội tâm của nhân vật. Một người đàn bà yếu đuối đã
ném 1 câu hỏi lớn về thân phận con người, về sự phi lý bất công trong số phận con người
vào xã hội đen tối lúc bấy giờ. Đó chính là dấu hiệu của 1 cuộc nổi loạn sắp sửa.
+ Mị tưởng tượng đến 1 lúc nào đó, A Phủ sẽ trốn thoát được và cha con nhà TLPT sẽ cho rằng
Mị là người cởi trói cho A Phủ và liền bắt Mị trói thế vào đấy. Nghĩ đến cảnh đó Mị cũng
“không sợ”. Tình thương người trong Mị lớn dần và lấn át cả sự sợ hãi. Lúc này Tô Hoài đưa Mị
đi đến 1 hành động táo bạo quyết liệt: cắt dây trói cứu A Phủ: Mị rón rén lại gần và rút con dao,
cắt nút dây mây. Lần lần đến lúc gỡ hết dây, Mị nói với AP: “Đi ngay..”
 Điều này tưởng như phi lý nhưng lại rất thống nhất và hợp lý. Mị thương người, tình
thương lấn át cả nỗi sợ hãi khiến Mị đã dũng khí để đi đến hành động táo bạo để cứu
người. Mị cũng là con người có khát vọng sống nên khi cứu người cảm xúc thương mình
trỗi dậy đó là lẽ tất yếu trong tâm lý con người.
 TH chỉ sd 2 câu văn ngắn, gãy gọn miêu tả hd trực tiếp của Mị tạo nên sự kịch tính, thu
hút trong mạch văn. Mị cắt sợi dây trói cho A Phủ cũng chính là cắt sợi dây trói buộc đời
cô bấy lâu nay.
+ Giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối, đối mặt với nỗi sợ hãi, đối mặt với bản án tử hình
thì bản năng sống, sức mạnh mãnh liệt giờ đây mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nó thôi thúc Mị
đuổi theo A Phủ, bỏ trốn khỏi nhà TLPT, bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Một đoạn văn cực ngắn với
nhiều động từ mạnh mẽ xuất hiện một cách dày đặc: “ vút chạy, băng đi, đuổi kịp, lăn, chạy
xuống...” đã tái hiện rõ nét rất mạnh mẽ sức phản kháng táo bạo của nhân vật. Sức sống của Mị
đã đạp đổ cả cường quyền và thần quyền hủ tục
+ Cái chết chập chờn trước mắt. Với bản năng, Mị vụt chạy theo A Phủ và thổn thức : “A Phủ
cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Tình huống diễn ra mau lẹ, bất ngờ, tự nhiên nhưng rất logic, phù
hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật mà mùa xuân năm trước đã từng có khát vọng tự do
mãnh liệt. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị là hành động dứt khoát, đoạt tuyệt với quá
khứ, khổ đau cho cả 2 người. Như cánh chim sổ lồng tăm tối, họ băng xuống dốc, bay về phía tự
do. Đây chính là hệ quả tất yếu của sự thức tỉnh trong đêm xuân Hồng Ngài. Giờ đây, Mị đã tìm
lại được con người thật đã mất của mình, một con người đầy sức sống và khao khát thay đổi số
phận. Trong Mị không còn nỗi sợ hãi, ám ảnh nữa mà chỉ còn lòng ham sống mãnh liệt, sục sôi.
+ Đặc sắc trong tình huống này là hình ảnh Mị “đứng lặng trong bóng tối” sau khi đã cắt dây trói
cho A Phủ. Hành động cắt dây trói, đứng im 1 lúc rồi chạy theo vừa hợp lý lại thể hiện được cái
tài tình của Tô Hoài. Nếu Mị chạy theo A Phủ luôn sẽ gây cho hiểu lầm với người đọc rằng Mị
đã lên sẵn kế hoạch từ trước chứ họ không phải là hành động tự phát. Việc Mị chạy theo A Phủ
sẽ định hướng tới việc Mị bỏ chồng theo người khác. Tuy nhiên đây là hành động bộc phát vì Mị
muốn giữ lại cuộc sống, giữ lại cuộc đời. Hình ảnh cô đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau
những câu chữ và hành động đó là cuộc đấu tranh, giằng xé nội tâm dữ dội: Tự do hay nô lệ?
Đây chính là chiếc bản lề khép mở hai thế giới, đóng lại ký ức nô lệ kinh hoàng và mở ra cuộc
sống tự do, hạnh phúc.
Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ không chỉ là đơn thuần cởi trói cho A Phủ mà còn là cởi
trói cho tâm hồn Mị, cắt đứt sợi dây gắn Mị với kiếp đời nô lệ. Hai người dắt tay nhau đi mà
trốn, thoát khỏi những khổ ải nơi HN để đến Phiềng Sa. Tại đây, họ được giác ngộ cách mạng và
kết hôn với nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung bảo vệ Tổ quốc.
Liên hệ: Đoạn kết VCAP có điểm tương đồng trong tp Tắt đèn của NTT. Thế nhưng lại có những
sự khác nhau cho ta thấy cách nhìn mỗi nhà văn có nét hay riêng. Không như chị Dậu bỏ đi trong
đêm tối nhưng tiền đồ của chị không lối thoát, không như Chí Phèo của Nam Cao rút dao giết kẻ
thù rồi kết liễu cuộc đời mình trong ngõ cùng bế tắc nhất. Ý thức sống đã hóa thành hành động
phản kháng quyết kiệt, táo bạo. Mị vùng lên chống lại cường quyền, thần quyền chống lại mọi sự
áp bức, chà đạp, lăng nhục, vật hóa con người để cứu lấy cuộc đời hạnh phúc mà Mị đã bị tước
đoạt và A Phủ đã từng khao khát.
3. Đánh giá, kết bài như đề 1.

You might also like