You are on page 1of 20

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

BÀI 1. LÝ LUẬN VỀ LUẬT HIẾN PHÁP, HIẾN PHÁP VÀ LỊCH


SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM
II. Câu hỏi tự luận:
Câu 1. Anh (chị) hãy so sánh đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp đối
với điều chỉnh của các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trình
bày nhận xét của anh (chị) về đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp Việt
Nam?
Trả lời:
* So sánh đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp đối với điều chỉnh của các
ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam:
Đối tượng điều chỉnh của ngành Hiến Đối tượng điều chỉnh của ngành luật
pháp khác

Đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp làĐối tượng điều chỉnh của pháp luật là
những quan hệ xã hội quan trọng của Những quan hệ xã hội trong một lĩnh vực
nhiệm với việc xác định chế độ chính trị, của đời sống xã hội hoặc những nhóm quan
kinh tế, văn hóa – xã hội, chính sách đối hệ xã hội có tính chất giống nhau, gần gũi
ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý
với nhau do một ngành luật điều chỉnh. Đối
của công dân cũng như tổ chức và hoạt tượng điều chỉnh và phương pháp điều
động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã chỉnh là căn cứ để phân chia các ngành luật
hội chủ nghĩa Việt Nam. trong hệ thống pháp luật. Đối tượng điều
chỉnh được ghi ngay đoạn đầu các bộ luật
Đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp ở hoặc văn bản luật.
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế văn hoá,
giáo dục, khoa học công nghệ, tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước

* Những nhận xét về đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp Việt Nam:
Trước hết, Hiến pháp là một văn bản có hiệu lực cao nhất quy định việc tổ chức
quyền lực Nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của
giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, Hiến pháp là văn bản, là phương tiện pháp
lý cao nhất thể hiện tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới hình thức những quy
phạm pháp luật.
Xét về mặt nội dung, nếu các luật khác thường chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội
thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống, chẳng hạn luật hôn nhân và gia đình, luật đất
đai, luật lao động... thì đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp rất rộng, có tính chất bao quát
tất cả các lĩnh vực của sinh hoạt xã hội: Chế độ chính trị; chế độ kinh tế; đường lối phát
triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục; đường lối quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ

1
quốc xã hội chủ nghĩa; cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
Nằm trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật Hiến pháp có quan hệ mật thiết với
các ngành luật khác, cùng góp phần tạo nên hệ thống pháp luật thống nhất của Nhà
nước Việt Nam. Nhưng so với các ngành luật khác, luật Hiến pháp có một vị trí quan
trọng, tạo thành ngành luật cơ bản trong hệ thống các ngành luật Việt Nam. Chính vị
trí vai trò này của luật Hiến pháp làm cho hệ thống pháp luật Việt Nam có tính thống
nhất. Sở dĩ luật Hiến pháp có vị trí như vậy, vì đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp là
những mối quan hệ xã hội quan trọng tạo nên chế độ chính trị của Nhà nước.
Các mối quan hệ xã hội khác được các ngành luật khác điều chỉnh đều bắt nguồn từ
các mối quan hệ được Luật Hiến pháp điều chỉnh. Vì vậy, về cơ bản các ngành luật khác
đều phải bắt nguồn hay nói một cách khác hơn phải dựa vào các quy phạm cuả ngành luật
Hiến pháp. Dựa trên quan điểm nhiều người cho rằng, không những hiến pháp là luật cơ
bản của quốc gia, mà cả ngành luật hiến pháp này cũng là ngành luật cơ bản của mỗi
quốc gia.
Câu 2. Anh (chị ) hãy phân tích tính tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật
và đời sống xã hội. Điểm mới của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về vấn
đề gì?
Trả lời:
* Phân tích tính tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật và đời sống xã hội
Do vị trí đặc biệt quan trọng của Hiến pháp trong một hệ thống pháp luật, trong sinh
hoạt Nhà nước và trong sinh hoạt của một xã hội nói chung, Hiến pháp được xem là luật
cơ bản của Nhà nước. Hiến pháp không phải là một đạo luật thông thường, như những
đạo luật khác, mà là một đạo luật cơ bản của một nước”.
Hiến pháp là một đạo luật cơ bản, khác với những đạo luật khác. Tính chất luật cơ
bản và hiệu lực pháp tối cao của Hiến pháp Việt Nam thể hiện trên nhiều phương diện:
- Trước hết, Hiến pháp là một văn bản có hiệu lực cao nhất quy định việc tổ chức
quyền lực Nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của
giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, Hiến pháp là văn bản, là phương tiện pháp
lý cao nhất thể hiện tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới hình thức những quy
phạm pháp luật.
- Xét về mặt nội dung, nếu các luật khác thường chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội
thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống, chẳng hạn luật hôn nhân và gia đình, luật đất
đai, luật lao động... thì đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp rất rộng, có tính chất bao quát
tất cả các lĩnh vực của sinh hoạt xã hội: Chế độ chính trị; chế độ kinh tế; đường lối phát
triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục; đường lối quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
* Điểm mới của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp năm 1992 về những vấn đề pháp
luật và đời sống xã hội:
- Về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
Chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước Hiến pháp của năm 2013
thể hiện những điểm mới sau đây:

2
+Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã xác định:“ Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013 đã bổ sung thêm việc “kiểm soát”  quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+Về các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”.
So với Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định các hình thức dân chủ đại diện, còn Hiến
pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức “dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện” trong Hiến pháp.
+ Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung
thêm khoản 2 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình”. Hiến pháp 2013 đã quy định bổ sung “các đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Những quy định này
xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Các quy định này là cơ sở
pháp lý để nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các Đảng viên hoạt động theo
đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
+ Chế độ chính trị quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
đó là “vai trò phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Việc bổ sung quy định trên đây về vai
trò của Mặt trận là hoàn toàn phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện
nay ở Việt Nam.
+ Hiến pháp năm 2013 thể hiện phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước
khi xác lập vị trí, tính chất của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân  một cách rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là cơ quan
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102);Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107).
+ Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Về cách thức thực hiện
quyền tư pháp Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới so với Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001). Nếu Hiến pháp năm 1992 tại Điều 132 quy định: “quyền bào
chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
cho mình” thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định thêm cả quyền bào chữa của bị can:
“quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm” (Khoản 7 Điều 103).
Ngoài những nguyên tắc tố tụng đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, như
nguyên tắc tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định, nguyên tắc khi xét xử sơ
thẩm có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hiến pháp năm
2013 còn xác định thêm các nguyên tắc: “nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm” (khoản
3
5 Điều 103) và “chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều
103). Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, Hiến pháp năm 2013 không quy định Chánh
án tòa án địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân như
quy định của Hiến pháp năm 1992.
+ Về chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn quyền hạn
của Chủ tịch nước khi xác định Chủ tịch nước quyết định phong, thăng, giáng tước quân
hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam
thay cho quy định quyết định phong hàm, cấp “sĩ quan cấp cao” trong các lực lượng vũ
trang nhân dân như quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trên thực tế theo Hiến pháp
năm 1992, Chủ tịch nước chỉ quyết định phong sĩ quan cấp thượng tướng và đại tướng,
còn thẩm quyền quyết định phong sĩ quan cấp thiếu tướng và trung tướng thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng.
+ Trong việc tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 là tổ chức chính
quyền địa phương. Trong Hiến pháp năm 1992, Chương IX có tên gọi là Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân còn trong Hiến pháp năm 2013, Chương IX có tên gọi là:
“Chính quyền địa phương”. Việc khẳng định trong Hiến pháp chính quyền địa phương
gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là cần thiết. Do Hiến pháp năm 1992 không
xác định rõ chính quyền địa phương bao gồm những cơ quan nào nên ở một số địa
phương quan niệm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương cũng là chính
quyền địa phương, từ đó đã can thiệp cản trở tính độc lập của Tòa án trong xét xử.
+ Hiến pháp năm 2013, ngoài ba cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn, Hiến pháp mới còn
quy định thêm đơn vị hành chính - lãnh thổ đặc biệt do Quốc hội thành lập. Mặt khác để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa chính quyền địa phương, khoản 2 Điều 111
quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt do luật định.”
+ Về tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 còn
có điểm mới là đã có quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử
Trung ương và Kiểm toán nhà nước. Các cơ quan hiến định độc lập do được Hiến pháp
quy định nên thể hiện tính độc lập cao trong tổ chức và hoạt động của mình, nhờ đó mà
các thiết chế này có thể hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao và không phụ thuộc vào các
thiết chế khác trong bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt
chẽ.
* Về chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
 So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến vượt bậc trong
việc bảo vệ các quyền con người và quyền công dân. Bên cạnh việc quy định về quyền
công dân, quyền con người cũng được quy định một cách chi tiết và đầy đủ. Nếu trong
Hiến pháp năm 1992 chương Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có 29 điều thì
chương Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm
2013 có 36 điều (tăng 7 điều so với Hiến pháp năm 1992). Hiến pháp năm 2013 đã dành
21 điều quy định về quyền con người, 15 điều quy định về quyền công dân. Tại Điều 14
khoản 1 Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy
4
định cụ thể về  quyền con người được thể hiện trên các bình diện: quyền bình đẳng trước
pháp luật (khoản 1 Điều 16), quyền không bị phân biệt đối xử (Khoản 2 Điều 16), quyền
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18), quyền sống, tính mạng được pháp
luật bảo hộ (Điều 19); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 20, khoản 1), quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều
21). Ngoài ra quyền con người trên các lĩnh vực khác được quy định tại các Điều 22, 24,
26, 30, 31, 32, 33,35, 36, 37, 38, 40,  41, 43, 48,49. Nhìn chung, quyền con người có
phạm vi chủ thể rộng hơn quyền công dân. Trong khi quyền công dân Việt Nam chỉ dành
cho người có quốc tịch Việt Nam thì quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn là
công dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có quốc tịch (bao gồm cả người
nước ngoài và người Việt Nam). Quyền công dân Việt Nam được pháp luật Việt Nam
điều chỉnh, trong khi đó quyền con người vừa được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam điều chỉnh.
Từ những phân tích trên đây có thể khẳng định rằng Hiến pháp năm 2013 là một cột
mốc mới đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của nền lập hiến Việt Nam về tư tưởng dân chủ;
tổ chức, kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo vệ các quyền con người, quyền công dân và
kỹ thuật lập hiến.
Câu 3. Nêu và phân tích các điểm khác nhau bản giữa Hiến pháp với các đạo luật
thông thường để thấy rằng Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của nhà nước. Vì sao
Hiến pháp được tôn vinh đạo luật có tính tối cao?
Trả lời:
* Phân tích các điểm khác nhau bản giữa Hiến pháp với các đạo luật thông thường
để thấy rằng Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của nhà nước:
Những yếu tố để phân biệt giữa hiến pháp so với các đạo luật thông thường khác
của quốc gia ở những điểm cơ bản sau:
• Tính chất: Hiến pháp là văn bản thể hiện và bảo vệ chủ quyền của nhân dân, thông
qua việc giới hạn quyền lực của nhà nước và khẳng định các quyền con người, quyền
công dân. Trong khi đó, các đạo luật thông thường là tập hợp những quy tắc cư xử bắt
buộc do nhà nước lập ra để quản lý xã hội, vì thế mang tính chất là công cụ pháp lý của
nhà nước, chủ yếu phản ánh ý chí của nhà nước (tuy về nguyên tắc không được đi ngược
với ý chí của nhân dân vì không được trái với hiến pháp).
• Phạm vi và mức độ điều chỉnh: Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh rất rộng, liên
quan đến tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của quốc gia, song chỉ tập
trung vào các mối quan hệ cơ bản và chỉ đề cập đến các nguyên tắc định hướng, nền tảng,
không đi sâu vào chi tiết. Trong khi đó, các đạo luật thông thường chỉ đề cập đến một
lĩnh vực, thậm chí một nhóm quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định, nhưng đi sâu
điều chỉnh từng mối quan hệ cụ thể.
• Thủ tục xây dựng và sửa đổi: Quy trình xây dựng và sửa đổi hiến pháp bao gồm
nhiều thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi nhiều thời gian hơn so với các đạo luật thông thường,
đặc biệt với những hiến pháp “cứng”. Ngay cả với những hiến pháp “mềm dẻo” cũng đòi
hỏi việc xin ý kiến nhân dân (ở nhiều quốc gia phải tổ chức trưng cầu ý dân) là bắt buộc
khi xây dựng hiến pháp (trong khi ở một số quốc gia việc này không nhất thiết phải thực
hiện với mọi đạo luật thông thường). Thêm vào đó, việc thông qua hiến pháp cũng đòi
hỏi tỷ lệ biểu quyết cao hơn (đa số 2/3) so với việc thông qua các đạo luật thông thường.
* Hiến pháp được tôn vinh đạo luật có tính tối cao vì:
5
– Thứ nhất, tính tối cao của Hiến pháp thể hiện trước hết qua việc ghi nhận chủ
quyền tối cao của nhân dân. Vì vậy, Hiến pháp là văn bản chính trị – pháp lý chứa đựng
những giá trị cơ bản, cao quý nhất của xã hội.
– Thứ hai, tính tối cao của Hiến pháp thể hiện thông qua quy trình, thủ tục pháp lý
đối với việc ban hành, sửa đổi và hiệu lực pháp lý quy định tại Điều 120 Hiến pháp
2013. (Do nội dung, vị trí, vai trò đặc biệt của Hiến pháp, việc xây dựng, thông qua, ban
hành, sửa đổi, thay đổi đều phải tuân theo một trình tự đặc biệt) Việc ban hành, sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp phải thuộc quyền của nhân dân nói chung, hoặc cơ quan đại diện
có thẩm quyền cao nhất của nhân dân (Quốc hội) thông qua theo một trình tự thủ tục đặc
biệt vì Hiến pháp điều chỉnh và bảo vệ những quan hệ xã hội quan trọng nhất, cơ bản
nhất, và là công cụ để bảo vệ thành quả đấu tranh Cách mạng.
Bên cạnh đó, điều Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn
bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.” cho thấy Hiến pháp là văn bản pháp
luật duy nhất quy định và thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước – lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Câu 4. Hiến pháp nhiều quốc gia trên thế giới quy định Hiến pháp được thông qua
bằng trưng cầu ý dân hoặc Quốc hội lập hiến. Anh (chị) hãy lý giải quy định này và
cho biết quan điểm của mình
Trả lời
* Hiến pháp nhiều quốc gia trên thế giới quy định Hiến pháp được thông qua bằng
trưng cầu ý dân hoặc Quốc hội lập hiến:
Quy trình, thủ tục lập hiến ở những nét chung nhất là trình tự, thủ tục được quy định
cũng như các tập tục truyền thống được áp dụng để ban hành, sửa đổi, bổ sung hiến pháp.
So với trình tự, thủ tục lập pháp, trình tự, thủ tục lập hiến có tính đặc biệt và đặc thù hơn.
Việc ban hành hiến pháp luôn gắn với sự ra đời một chế độ chính trị mới (gọi là lập
quốc). Hiến pháp được ban hành gắn liền với việc thiết lập chế độ dân chủ, chế độ hiến
pháp. Bản hiến pháp được lập ra theo những điều kiện, hoàn cảnh được chấp nhận với
những cách thức, thủ tục khác nhau. Thường thì, bản hiến pháp do một Quốc hội hay Hội
đồng được bầu ra chỉ để thông qua Hiến pháp gọi là Quốc hội, Hội đồng lập hiến, sau là
giải tán để lập ra Quốc hội lập pháp theo Hiến pháp (ví dụ, nước Mỹ, và Quốc hội được
bầu năm 1946 của nước ta cũng là Quốc hội lập hiến).
Đại hội nhân dân - cơ quan đại diện cũng được bầu ra theo nhiệm kỳ nhưng chủ yếu
tập trung vào chức năng lập hiến (còn việc lập pháp thì do cơ quan thường vụ, thường
trực thực hiện), bầu các chức sắc cao cấp của nhà nước, quyết định những vấn đề trọng
đại của đất nước, trong đó có việc phê chuẩn những hiệp ước quốc tế quan trọng (Đại hội
nhân dân ở Trung Quốc, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô, Đại hội nhân dân
Inđônêxia…).
Chủ thể là Quốc hội, Nghị viện lập pháp cũng được ban hành hiến pháp (đầu tiên)
tuy có, nhưng không nhiều và thể hiện như sự một tiếp nối quá trình dân chủ hóa (ở
Campuchia, Myanmar…). Đối với cơ quan này, đòi hỏi hiến pháp được thông qua với
thủ tục đa số đặc biệt 2/3 hoặc 3/4 trên tổng số đại biểu, sau đó phải được nguyên thủ
quốc gia (Vua, Tổng thống) xem xét công bố hoặc đưa ra cho nhân dân phúc quyết (như
là phê chuẩn). Chủ thể là nhân dân gần đây được nhiều nước (như nước Nga hiện nay) áp
dụng dưới hình thức trưng cầu ý dân. Thực tiễn còn có hiến pháp của một quốc gia hay
6
một liên minh quốc gia -do một tổ chức soạn thảo, rồi đưa ra cho nghị viện (các nghị
viện) thông qua hoặc đưa ra nhân dân từng nước phúc quyết (ví dụ, Hiến pháp liên minh
châu Âu - đã có hiệu lực vào 01/12/2009).
Công bố hiến pháp đối với các nước, nếu như các luật sau khi được nghị viện thông
qua còn phải trải qua các công đoạn xem xét cuối cùng, công bố hoặc phủ quyết thì việc
thông qua hiến pháp luôn cố gắng vượt ra khuôn khổ đó, hiến pháp thông qua là có hiệu
lực ngay.
Câu 5. Trình bày những khuynh hướng lập hiến chủ yếu ở nước ta trước Cách
mạng tháng 8 năm 1945 và cho ý kiến nhận xét của Anh (chị) về từng khuynh
hướng vừa nêu?
Trả lời:
* Khuynh hướng lập hiến chủ yếu ở nước ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945:
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong
kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có Hiến pháp. Tuy nhiên, vào những
năm đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm
1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính sách duy tân mà Minh
Trị thiên hoàng đã áp dụng ở Nhật Bản,… nên trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện
tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chủ yếu về lập hiến trong thời gian này là:
Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự bảo
hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong đó bảo đảm:
quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và
quyền của "dân An Nam" về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại diện cho xu hướng này là
Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến năm 1923) và Phạm Quỳnh.
Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và
sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập đó. Không
có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện cho chủ trương
này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc.
* Ý kiến nhận xét về từng khuynh hướng vừa nêu:
Khuynh hướng thứ nhất: thực chất tư tưởng của Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu
dù trình bày cách này hay cách khác, người chủ trương xoá bỏ chế độ vua quan, người
chủ trương thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ quân chủ lập hiến, nhưng
tựu trung vẫn đặt đất nước ta dưới sự thống trị của thực dân Pháp.
Khuynh hướng thứ hai: Khác với Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh và Nguyễn ái Quốc chủ trương phải giành lại độc lập, tự do cho
dân tộc, sau đó mới xây dựng Hiến pháp của nhà nước độc lập. Không có độc lập tự do
thì không thể có Hiến pháp thực sự. Đây là khuynh hướng thứ hai và là khuynh hướng
đúng đắn nhất.
Cũng là những người yêu nước, tìm đường cứu nước, nhưng Phan Chu Trinh và
Phan Bội Châu có những chính kiến riêng của mình. Tư tưởng của Phan Bội Châu là
đoàn kết nhân dân lao động đánh đuổi thực dân Pháp rồi tiến hành canh tân xã hội. Còn
Phan Chu Trinh chủ trương đoàn kết nhân dân canh tân, dân chủ hoá xã hội, đánh đổ
phong kiến noi theo phương Tây, tự cường dân tộc, giành độc lập. Do hạn chế của hoàn
cảnh lịch sử mà cả Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở mức độ khác nhau đều chưa
nhận thức được bản chất thực sự của chủ nghĩa đế quốc.
7
Nhưng có thể nói rằng tư tưởng lớn của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai
mạch nguồn quan trọng trong tư tưởng của Nguyễn ái Quốc, trong đó có tư tưởng lập
hiến. Nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái Quốc đã khắc phục được
những hạn chế của hai ông, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của Nguyễn ái Quốc
đã kết hợp được ngọn cờ phản đế và phản phong mới đi đến thắng lợi .
Câu 6. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1946 đã tác động như thế nào đến mối
quan hệ pháp lý giữa Chủ tịch nước với Nghị viện nhân dân được quy định trong
Hiến pháp này?
Trả lời:
* Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946:
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau đó,
trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm
vụ cấp bách của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến
pháp. Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ".
Ngày 20-9-1945, Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp
gồm 7 người do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11-1945, Ban dự thảo đã hoàn
thành công việc và bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người
Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ
ước bao đời của nhân dân ta về độc lập và tự do.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội đã nghe Chính phủ trình bày bản dự thảo Hiến pháp. Trên
cơ sở đó, Quốc hội (Khoá I, Kỳ họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm
11 người, đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân dân và xây
dựng bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét và thông qua.
Ngày 28-10-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I đã
khai mạc. Ngày 9-11-1946, sau hơn mười ngày làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông
qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240 phiếu thuận,
2 phiếu chống.
Vào thời điểm Quốc hội thông qua Hiến pháp, thực dân Pháp phản bội các hiệp
định đã ký kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta
bằng vũ lực, hòng lập lại ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Trước tình hình đó, trong
phiên họp ngày 9-11-1946, sau khi tuyên bố Hiến pháp đã trở thành chính thức, Quốc hội
ra Nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố
và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo Nghị quyết của Quốc hội trong
điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã
quy định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày 19-12-1946, mười ngày sau khi
Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến
tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu
Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần
và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.

8
* Mối quan hệ pháp lý giữa Chủ tịch nước với Nghị viện nhân dân được quy định
trong Hiến pháp 1946:
Không giống Hiến pháp đầu tiên của một số nước trên thế giới, toàn bộ nội
dung Hiến pháp năm 1946 không có một điều khoản nào định nghĩa Chủ tịch nước,
nhưng bằng các quy định về cách thức thành lập, thẩm quyền, mối quan hệ của Chủ tịch
nước với các cơ quan trong bộ máy nhà nước mà vị trí pháp lý của Chủ tịch nước được
khẳng định theo nội dung quy định trong Chương IV – Chính phủ, từ Điều 43 đến Điều
56 của Hiến pháp năm 1946.
Theo quy định tại Điều 43 Hiến pháp năm 1946: “Cơ quan hành chính cao nhất
của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa”. 
“Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội
các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng” (Điều
44 Hiến pháp). Do vậy, Chủ tịch nước được xác lập với vị trí tương đối đặc biệt, đó là
nằm trong Chính phủ.
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Nghị viện nhân dân bầu trong số các
Nghị viên của Nghị viện nhân dân và phải được 2/3 tổng số Nghị viên bỏ phiếu thuận
(nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ 2/3 số phiếu thì bầu lại lần hai sẽ theo đa số tương
đối, tức là chỉ cần trên ½ tổng số Nghị viên bỏ phiếu thuận). Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước
là 05 năm và có thể được bầu lại.
Về mối quan hệ pháp lý giữa Chủ tịch nước với Nghị viện nhân dân “cơ quan có
quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 22):
Tuy Chủ tịch nước được Nghị viện bầu trong số các Nghị viên nhưng mối quan hệ
giữa Chủ tịch nước với Nghị viện nhân dân là mối quan hệ tương đối độc lập cả về mặt tổ
chức, cả về mặt thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai chế định này. Chủ tịch
nước có nhiệm kỳ khác với nhiệm kỳ của Nghị viện. Nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân là
03 năm (Điều 24) nhưng nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 05 năm. Điều này đảm bảo tính
độc lập của Chủ tịch nước với Nghị viện nhân dân.
Tính độc lập ấy còn thể hiện, Chủ tịch nước không chịu trách nhiệm pháp lý nào
trước Nghị viện. Nghị viện chỉ có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Nội các chứ không
phải với cả Chính phủ do Chủ tịch nước đứng đầu (Điều 54).
Câu 7. Anh (chị) trình bày điểm khác nhau cơ bản thủ tục sửa đổi Hiến pháp theo
Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 2013. Anh (chị) có nhận xét gì về vấn đề
này?
* Điểm khác nhau cơ bản thủ tục sửa đổi Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1946 và
Hiến pháp năm 2013
- Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1946:
+ Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 1946, việc sửa đổi Hiến pháp là do Nghị
viện nhân dân, Quốc hội quyết định với thủ tục bỏ phiếu đa số đặc biệt, việc sửa đổi (kể
cả ban hành) còn phải đưa ra nhân dân phúc quyết. Quốc hội có quyền sửa đổi Hiến pháp
với thủ tục đa số đặc biệt (2/3).
 + Trong điều kiện khó khăn của chiến tranh Quốc hội lập hiến thay cho Quốc hội lập
pháp. Quyền lập hiến  bao gồm sang quyền lập hiến và cách thức sửa đổi Hiến pháp được
Hiến pháp 1946 quy định thành một chương riêng được gọi là Chương VII Sửa đổi Hiến
pháp. Điều 70 quy định:
9
Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân
phúc quyết. 
Bổ sung, sửa đổi Hiến pháp cũng do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, như:
+ Chính phủ: đề nghị soạn thảo, ban hành Hiến pháp năm 1946
+ Quốc hội với 2/3 tổng số đại biểu yêu cầu
+ Nghị viện nhân dân, Quốc hội: đề nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1946 để ban
hành Hiến pháp năm 1959
- Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2013:
+ Để thể hiện rõ tính chất, vị trí vai trò của Quốc hội đề nghị trên cơ sở của Hiến pháp
1992, Hiến pháp năm 2013 có thể quy định theo hướng Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lập pháp.
+ Về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội tại khoản 1 Điều 70 quy định  Quốc hội có
những nhiệm vụ và quyền hạn “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi
luật”.
Tại Chương XI Điều 120, việc sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội
quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên,
nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề
nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc
hội dự thảo Hiến pháp.
4. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.
5. Thời hạn công bố, thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp do Quốc hội quyết định.
* Những nhận xét thủ tục sửa đổi Hiến pháp:
Nhìn chung, quy trình cơ bản sửa đổi, bổ sung hiến pháp nước ta không khác nhiều
so với quy trình chung của các nước trên thế giới. Không những thế, nó còn có những ưu
việt nhất định: ít rủi ro hơn so với thông qua bằng trưng cầu ý dân vì trong trưng cầu ý
dân chỉ có một sự lựa chọn đồng ý hoặc không nên kết quả phụ thuộc rất lớn vào trình độ
dân trí của nhân dân; lại tranh thủ được nhiều ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân
so với Quốc hội lập hiến và Đại hội nhân dân vì trong cơ chế này đã có đông đảo đại diện
nên thường không tổ chức lấy ý kiến nhân dân nữa.
Ở nước ta, trong quá trình thi hành các Hiến pháp Việt Nam, ngoài những lần tổ
chức sửa đổi, bổ sung Hiến pháp một cách chính thức để thể chế hóa đường lối, chính
sách mới của Đảng có nội dung khác với quy định của Hiến pháp hiện hành. Việc sửa
10
đổi Hiến pháp không phải thường xuyên, tràn lan mà chỉ trong trường hợp do yêu cầu
cấp thiết bắt buộc với nhiệm vụ chính trị, sự phát triển của đất nước, phù hợp với chuẩn
mực chung thế giới.
Câu 8. Anh (chị) hãy trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa của Hiến pháp năm 1946.
* Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1946:
Hiến pháp 1946 gồm lời nói đầu, 7 chương với 70 điều Trong Lời nói đầu, Hiến
pháp ghi nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám “giành lại chủ quyền cho đất nước tự
do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”. Lời nói đầu cũng nêu rõ: “Nhiệm vụ
của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo đảm lãnh thổ, giành độc lặp hoàn toàn và kiến
thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.
Chương I (từ Điều 1 đến Điều 3) quy định về chính thể, theo đó Việt Nam  là một
nước dân chủ cộng hòa, thống nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quốc kỳ lả cờ đỏ
sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô đặt ở Hà Nội.
Chương II (từ Điều 4 đến Điều 21) quy định về quyền và nghĩa vụ công dân, ghi
nhận quyền bình đẳng trên một phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôi; bình đẳng
giữa nam vả nữ; bình đẳng trước pháp luật; quyền được tham gia chính quyền và công
việc kiến quốc tùy theo tài đức; quyền tự do ngôn luận, hội họp, cư trú, đi lại, tín ngưỡng;
quyền bầu cử, bãi miễn, phúc quyết; quyền đảm bảo thân thể, nhà ở, thư tín...; nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc, tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Chương III (từ Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân (Quốc hội),
theo đó, cơ quan lập pháp tối cao là Nghị viện nhân dân gồm các Nghị viện được nhân
dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Nghị viện
nhân dân chỉ gồm một viên, là “cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ
Công hòa”: quyết định những vấn đề chung quan trọng nhất của đất nước, đặt ra luật
pháp biểu quyết ngân sách, bầu và giám sát hoạt động của Chính phủ…Chương này cũng
quy anh cơ cấu, hoạt đông của Nghị viện nhân dân; quyền và nghĩa vụ của các nghị viên.
Chương IV (từ Điều 43 đến Điều 56) quy định về Chính phủ, theo đó, “Chính phủ
là cơ quan hành chính cao nhất” của quốc gia, gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng, các bộ
trưởng và thứ trưởng. Chính phủ được lập ra và chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
Chương này còn quy định chi tiết cơ cấu, thẩm quyền và phương thức hoạt động của
chính phủ.
Chương V (từ Điều 57 đến Điều 62) quy định về hội đồng nhân dân và ủy ban hành
chính. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa
phương trực tiếp bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Ủy ban hành chính là
cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, thực hiện những quyết định của hội đồng nhân
dân và các cơ quan nhà nước cấp trên. Chương này còn quy định về cơ cấu đơn vị hành
chính lãnh thổ Việt Nam.
Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69) quy định về cơ quan tư pháp, theo đó, các tòa
án được chia thành 4 cấp, có trách nhiệm xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Khi xét xử
thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử các vụ án hình sự, phải có phụ thẩm nhân dân
tham gia. Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm. Bị cáo được quyền tự bào chữa, mượn luật
sư, dùng tiếng nói riêng và không bị ngược đãi.
Chương VII (Điều 70) quy định về việc sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp chỉ được sửa
đổi khi có không dưới 2/3 tổng số Nghị viện yêu cầu, Nghị viện bầu ra Ban Dự thảo
11
những điều thay đổi và toàn dân phúc quyết những điều thay đổi đã được Nghị viện tán
thành.
* Ý nghĩa:
Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, là bản Hiến pháp
dân chủ và tiến bộ nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nó ghi nhận thành quả vĩ đại của
nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và thống nhất lãnh
thổ. Hiến pháp 1946 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước và nhân dân ta trong
giai đoạn trước mắt, chỉ rõ những đường lối thực hiện nhiệm vụ ấy. Đồng thời, nó đặt nền
móng cho một bộ máy nhà nước kiểu mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp
1946 còn công nhận, đảm bảo quyền dân chủ thiêng liêng của công dân, phù hợp với tình
hình, đặc điểm cách mạng Việt Nam và xu hướng tiến bộ, văn minh trên thế giới.
Câu 9. Anh (chị) hãy trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa của Hiến pháp năm 2013.
* Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 2013:
Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm
1992, bản Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu
sắc và toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị; thể hiện rõ và đầy đủ hơn
bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh tế, xã hội, văn
hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà
nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp.
- Về Lời nói đầu: Lời nói đầu của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở chắt lọc, lựa
chọn  ý tứ, từ ngữ để nêu bật được một cách ngắn gọn, súc tích tinh thần, nội dung của
Hiến pháp, phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc, những mốc lịch sử quan trọng,
thành quả cách mạng to lớn mà Nhân dân ta đã đạt được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã
thể hiện rõ mục tiêu dân chủ và khẳng định chủ quyền của Nhân dân Việt Nam trong việc
xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. 
- Chế độ chính trị (Chương I): Chương I của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở
sửa đổi tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 (Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam- Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm 1992 (Quốc kỳ, Quốc
huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh). Về cơ bản, Hiến pháp tiếp tục kế thừa, khẳng
định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định  và làm rõ hơn
- Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương
II):  Chương II của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại
Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) thành
Chương: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Chuyển các quy
định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác của Hiến pháp
năm 1992 về Chương này. Sự thay đổi tên gọi và bố cục này nhằm khẳng định giá trị, vai
trò quan trọng của quyền còn người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể
hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với Hiến pháp
năm 1992, Hiến pháp mới có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
12
- Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
(Chương III): Chương III của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở gộp Chương II - Chế
độ kinh tế và Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm
1992 nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. 
+ Về kinh tế:  Hiến pháp quy định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50).
+ Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường: Hiến
pháp cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực này trong Hiến pháp năm 1992
nhưng được thể hiện một cách tổng quát, mang tính nguyên tắc, còn những vấn đề và
chính sách cụ thể sẽ do luật định (các điều 57, 58, 59, 60, 61, 62 và 63).
- Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Trên cơ sở giữ nội dung và bố cục của Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp xác định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, phải được thể hiện trên tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Hiến pháp khẳng định
và làm sâu sắc hơn vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, sự gắn kết giữa nhiệm vụ đối ngoại với quốc phòng, an ninh trong việc xây
dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
nghĩa vụ quốc tế và góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
- Về bộ máy nhà nước: Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy
nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp định danh và làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng, thẩm quyền của cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này;
bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà
nước.
+ Quốc hội (Chương V)
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước (Điều 69).
Về Ủy ban thường vụ Quốc hội: Hiến pháp làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban
thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội (Điều 73); chỉ đạo,
điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (khoản 5
Điều 74). Bổ sung thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc quyết định
việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(khoản 8 Điều 74).
Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội: Từ tính chất hoạt động của Quốc
hội và các cơ quan của Quốc hội, cũng như yêu cầu của công tác cán bộ ở nước ta, Hiến
pháp quy định theo hướng Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban;
còn Phó Chủ tịch Hội đồng và Ủy viên Hội đồng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban và Ủy viên Ủy
13
ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn (Điều 75, Điều 76). Hiến pháp quy định rõ
hơn về quyền yêu cầu cung cấp thông tin và bổ sung quyền yêu cầu giải trình của Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (Điều 77).
Về Đại biểu Quốc hội: Hiến pháp tiếp tục quy định vị trí, vai trò của đại biểu Quốc
hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và
của Nhân dân cả nước; đồng thời, khẳng định đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện
đầy đủ nhiệm vụ đại biểu và bổ sung quy định đại biểu Quốc hội có quyền tham gia làm
thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.
+ Về Chủ tịch nước (Chương VI)
Hiến pháp tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò của
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hiến pháp sắp xếp, bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
+ Chính phủ (Chương VII)
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: Hiến pháp mới đã sắp xếp, cơ cấu lại
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ với
tính chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất và
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và bổ sung, điều chỉnh những nhiệm vụ, quyền hạn
sau: Bổ sung thẩm quyền đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan hành pháp quy định tại Điều 96 của Hiến pháp. Phân định rõ thẩm quyền của
Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo
ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu
lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn
quy định tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp.
Về Thủ tướng Chính phủ: Hiến pháp sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của
Thủ tướng Chính phủ bảo đảm tương thích với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; làm
rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc định hướng, điều hành hoạt động
của Chính phủ; lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành
chính quốc gia; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc
ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực
hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Điều 98).
Về Bộ trưởng và các thành viên Chính phủ: Hiến pháp làm rõ hơn mối quan hệ giữa
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ. Nhằm tăng
cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp quy định các
thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ
và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của
Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ (Điều 95). Hiến pháp bổ
sung quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề
quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (khoản 2 Điều 99).
+Tòa án nhân dân (Chương VIII): Hiến pháp bổ sung quy định Tòa án nhân dân
thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
14
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 102); sửa đổi quy định về
hệ thống tổ chức Tòa án (khoản 2 Điều 102) cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp
theo hướng không xác định cấp Tòa án cụ thể trong Hiến pháp mà để luật định, làm cơ sở
hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền. Về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án, theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Hiến pháp đã sắp xếp và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
và chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm (Điều 103).
+ Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII): Hiến pháp thể chế hóa yêu cầu về đổi
mới hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và để phù hợp với mô hình Tòa án nhân
dân, Hiến pháp đã sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với
chủ trương cải cách tư pháp (khoản 2 Điều 107).Bổ sung và làm rõ hơn nguyên tắc “khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo chỉ đạo
của Viện trưởng Viện kiểm sát” (khoản 2 Điều 109).
- Chính quyền địa phương (Chương IX)
Về đơn vị hành chính: Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành
về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc
hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt,
đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung
ương. Theo đó, nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành
huyện, thị xã vàthành phố thuô ̣c tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận,
huyê ̣n, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã
vàthành phố thuô ̣c tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập (Điều 110).
Về tổ chức chính quyền địa phương: Hiến pháp quy định khái quát theo hướng:
“Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành
chính- kinh tế đặc biệtdo luật định” (Điều 111). Việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính
quyền địa phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng thí điểm một
số nội dung về tổ chức chính quyền đô thị và kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết 26
của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân
cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương: Hiến pháp quy định chính
quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa
phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát
của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiê ̣m vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được
xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính
quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên
với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó (Điều 112).
Về địa vị pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương: Kế thừa quy
định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ
15
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo
đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa
phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương (Điều 113). Ủy
ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Điều
114). Hiến pháp cũng sắp xếp lại và làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới
(Điều 113, Điều 114). 
+ Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước (Chương X)
Để làm rõ hơn quyền làm chủ của Nhân dân, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát
quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp bổ sung
2 thiết chế hiến định độc lập vào Chương X gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán
nhà nước.
- Hội đồng bầu cử quốc gia: Hiến pháp bổ sung thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia
là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo
và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 117). Việc
thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ
đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Kiểm toán nhà nước: Hiến pháp hiến định địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước
trong Hiến pháp để tăng cường vị thế và trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước.
Đâylà cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có
chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118).
- Về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp (Chương XI)
Hiến pháp tiếp tục khẳng định Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất; mọi văn bản pháp luật khác phải phù
hợp với Hiến pháp; đồng thời, bổ sung và quy định rõ mọi vi phạm Hiến pháp đều bị xử
lý cũng như trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan nhà nước cũng như toàn dân trong
việc bảo vệ Hiến pháp (Điều 119).
Về quy trình sửa đổi Hiến pháp, Hiến pháp đã cụ thể hóa các quy định về thẩm
quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp, thủ tục soạn thảo Hiến pháp, quy trình thông qua Hiến
pháp (Điều 120). Theo đó, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi
Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai
phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội thành lập Ủy ban dự
thảo Hiến pháp. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và
trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do
Quốc hội quyết định (Điều 120). Đây là một điểm mới quan trọng, thể hiện chủ quyền
của Nhân dân. 
- Về kỹ thuật lập hiến: Để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có
tính ổn định lâu dài, Hiến pháp chỉ quyết định những vấn đề có tính nguyên tắc cần thể
16
hiện khái quát, cô đọng, súc tích. Theo đó, những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp còn quy trình, thủ
tục, cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ cần để luật điều chỉnh. Một số chủ
trương chính sách cụ thể về phát triển ngành, lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao) không quy định trong Hiến pháp mà để luật điều
chỉnh để bảo đảm tính linh hoạt trong bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách và
trong quản lý, điều hành.
- Về hiệu lực của Hiến pháp và việc Thi hành Hiến pháp: Để có căn cứ pháp lý
cho việc triển khai thi hành Hiến pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp. Nghị quyết quy định rõ thời
hạn công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày thông qua, thời điểm Hiến pháp mới có
hiệu lực là từ ngày 01/01/2014, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Hiến
pháp nhằm bảo đảm Hiên pháp được tuân thủ và chấp hành nghiêm trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
* Ý nghĩa của Hiến pháp năm 2013:
Hiến pháp năm 2013 được ban hành là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan
trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của Việt Nam. Sự ra đời của
Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa vô cùng to lớn. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trên mọi mặt của đời sống xã hội, khẳng định
quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng và kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Hiến pháp năm 2013 là nền tảng pháp lý, chính trị vững chắc cho công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, tạo cơ sở hiến định để tiến hành công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước trong tình hình mới. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý cho việc đẩy
mạnh đổi mới về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường, bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tiếp tục đổi mới hệ
thống chính trị và cải cách bộ máy nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Câu 10. Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm
1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
* Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992:
Thứ nhất, về cấu trúc của Hiến pháp:
Cấu trúc của Hiến pháp 2013 gọn nhẹ hơn Hiến pháp năm 1992. Nếu Hiến pháp
năm 1992 có 12 chương, 147 điều thì Hiến pháp 2013 đã rút gọn được  một chương và 27
điều, chỉ còn 11 chương và 120 điều. Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 khái quát về lịch
sử Việt Nam và mục tiêu của bản Hiến pháp mới được quy định ngắn gọn và khúc chiết
hơn so với Hiến pháp năm 1992. Vị trí các chương trong Hiến pháp cũng hợp lý hơn so
với Hiến pháp năm 1992. Chương V trong Hiến pháp năm 1992 được gọi là “Quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” thì nay được chuyển vào vị trí Chương II và được đổi tên
thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc quy định quyền
con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương II thể hiện sự coi trọng quyền
con người, quyền công dân của nhà nước ta trong giai đoạn phát triển và đổi mới toàn
diện của đất nước. Chương “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân” được chuyển từ vị
trí Chương X về Chương VIII trước chương “ Chính quyền địa phương”. Sự điều chỉnh
17
này trong cấu trúc Hiến pháp là hợp lý theo tư duy lô gíc chính quyền Trung ương quy
định trước, chính quyền địa phương quy định sau.
Ngoài việc ghép Chương XI vào Chương I, Chương II và Chương III (của Hiến
pháp năm 1992) vào Chương III, Hiến pháp mới cũng sáng tạo thêm một chương mới đó
là Chương X:“Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước”. So với các Hiến pháp
trước đây, đây là một chương hoàn toàn mới. Chương mới này là kết quả của việc tiếp
nhận tư duy lập hiến mới về các thiết chế hiến định độc lập trong Hiến pháp nước ngoài.
Thứ hai, về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước:
Chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước Hiến pháp của năm 2013
thể hiện những điểm mới sau đây:
- Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã xác định:“ Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013 bên cạnh quy định về phân công, phối hợp đã bổ sung thêm việc kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sự bổ sung này là cần thiết để khắc phục những yếu kém trong kiểm
soát quyền lực nhà nước của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001).
- Về các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”.
So với Hiến pháp năm 1992, quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rõ
ràng của tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định các hình thức
dân chủ đại diện, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện trong Hiến pháp.
- Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc tiếp tục xác định vai
trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm khoản 2
quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình”. Đồng thời bên cạnh việc quy định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật” như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 đã quy định bổ
sung “các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật”. Các quy định mới trên đây là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Những quy định
này xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Các quy định này là cơ
sở pháp lý để nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các Đảng viên hoạt động theo
đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Trong chương Chế độ chính trị còn có quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, đó là “vai trò phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Vai trò
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bổ sung quan trọng trong Hiến pháp
năm 2013. Chế độ chính trị nhất nguyên  của các nước xã hội chủ nghĩa có ưu thế là sự
thống nhất chính trị cao, sự ổn định của đường lối và quyết sách chính trị, tuy nhiên cũng
có hạn chế là thiếu sự phân tích phản biện đúng mức nên đôi khi các quyết sách chưa
được nhìn nhận, xem xét trên nhiều bình diện khác nhau một cách khách quan và đầy đủ.
18
Việc bổ sung quy định trên đây về vai trò của Mặt trận là hoàn toàn phù hợp với điều
kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay ở Việt Nam.
- Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiếp nhận những hạt nhân hợp lý của học thuyết
phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước khi xác lập vị trí, tính chất của Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân  một cách rõ ràng. Hiến pháp
năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp
(Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân
thực hiện quyền tư pháp (Điều 102);Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107).
- Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Về cách thức thực hiện
quyền tư pháp Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới so với Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001). Nếu Hiến pháp năm 1992 tại Điều 132 quy định: “quyền bào
chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
cho mình” thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định thêm cả quyền bào chữa của bị can:
“quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm” (Khoản 7 Điều 103).
Ngoài những nguyên tắc tố tụng đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, như
nguyên tắc tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định, nguyên tắc khi xét xử sơ
thẩm có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hiến pháp năm
2013 còn xác định thêm các nguyên tắc: “nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm” (khoản 5
Điều 103) và “chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều 103).
Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, Hiến pháp năm 2013 không quy định Chánh án tòa
án địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân như quy định
của Hiến pháp năm 1992. Thực hiện chủ trương tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử và
cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013.
- Về chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn quyền hạn
của Chủ tịch nước khi xác định Chủ tịch nước quyết định phong, thăng, giáng tước quân
hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam
thay cho quy định quyết định phong hàm, cấp “sĩ quan cấp cao” trong các lực lượng vũ
trang nhân dân như quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trên thực tế theo Hiến pháp
năm 1992, Chủ tịch nước chỉ quyết định phong sĩ quan cấp thượng tướng và đại tướng,
còn thẩm quyền quyết định phong sĩ quan cấp thiếu tướng và trung tướng thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng.
- Một điểm mới khác cần phải kể đến trong việc tổ chức quyền lực nhà nước theo
Hiến pháp năm 2013 là tổ chức chính quyền địa phương. Trong Hiến pháp năm 1992,
Chương IX có tên gọi là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân còn trong Hiến pháp
năm 2013, Chương IX có tên gọi là: “Chính quyền địa phương”. Việc khẳng định trong
Hiến pháp chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là cần
thiết. Do Hiến pháp năm 1992 không xác định rõ chính quyền địa phương bao gồm
những cơ quan nào nên ở một số địa phương quan niệm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân ở địa phương cũng là chính quyền địa phương, từ đó đã can thiệp cản trở tính
độc lập của Tòa án trong xét xử.
19
- Một điểm mới khác cũng cần lưu ý là  ngoài ba cấp chính quyền tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn,
Hiến pháp mới còn quy định thêm đơn vị hành chính - lãnh thổ đặc biệt do Quốc hội
thành lập. Mặt khác để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa chính quyền địa
phương, khoản 2 Điều 111 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải
đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.”
- Về tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 còn
có điểm mới là đã có quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử
Trung ương và Kiểm toán nhà nước. Ở nước ngoài, ngoài hai cơ quan nói trên, các cơ
quan hiến định độc lập còn có Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Phòng chống tham nhũng, Ủy
ban Thông tin quốc gia, Ủy ban Nhân quyền. Các cơ quan hiến định độc lập do được
Hiến pháp quy định nên thể hiện tính độc lập cao trong tổ chức và hoạt động của mình,
nhờ đó mà các thiết chế này có thể hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao và không phụ
thuộc vào các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước được
kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, về chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
 So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến vượt bậc trong
việc bảo vệ các quyền con người và quyền công dân. Bên cạnh việc quy định về quyền
công dân, quyền con người cũng được quy định một cách chi tiết và đầy đủ. Nếu trong
Hiến pháp năm 1992 chương Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có 29 điều thì
chương Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm
2013 có 36 điều (tăng 7 điều so với Hiến pháp năm 1992). Hiến pháp năm 2013 đã dành
21 điều quy định về quyền con người, 15 điều quy định về quyền công dân. Tại Điều 14
khoản 1 Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy định
cụ thể về  quyền con người được thể hiện trên các bình diện: quyền bình đẳng trước pháp
luật (khoản 1 Điều 16), quyền không bị phân biệt đối xử (Khoản 2 Điều 16), quyền của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18), quyền sống, tính mạng được pháp luật
bảo hộ (Điều 19); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 20, khoản 1), quyền bất khả
xâm phạm về đời sống riêng tư, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 21).
Ngoài ra quyền con người trên các lĩnh vực khác được quy định tại các Điều 22, 24, 26,
30, 31, 32, 33,35, 36, 37, 38, 40,  41, 43, 48,49. Nhìn chung, quyền con người có phạm vi
chủ thể rộng hơn quyền công dân. Trong khi quyền công dân Việt Nam chỉ dành cho
người có quốc tịch Việt Nam thì quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn là công
dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có quốc tịch (bao gồm cả người nước
ngoài và người Việt Nam). Quyền công dân Việt Nam được pháp luật Việt Nam điều
chỉnh, trong khi đó quyền con người vừa được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
điều chỉnh.

20

You might also like