You are on page 1of 11

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

BÀI 2. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM


Câu 1. Sự lãnh đạo của Đảng được ghi nhận khác nhau như thế nào trong các bản
Hiến pháp Việt Nam và giải thích vì sao có sự khác nhau đó.
Trả lời:
* Sự lãnh đạo của Đảng được ghi nhận khác nhau trong các bản Hiến pháp Việt
Nam:
Sau ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tình hình đất nước có nhiều khó
khăn, phức tạp do đó Hiến pháp năm 1946 chưa quy định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Tuy nhiên các bản Hiến pháp sau đó của nước ta (Hiến pháp năm 1959, năm 1980,
năm 1992 và năm 2013) đều có quy định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được quy định ở các
bản Hiến pháp của nước ta với nội dung quy định và các phương thức thể hiện khác nhau. Nếu
như trong Hiến pháp năm 1959 vai trò lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam (nay gọi là Đảng
cộng sản Việt Nam) chỉ được đề cập ở Lời nói đầu, thì các bản Hiến pháp sau đó (Hiến pháp
năm 1980, năm 1992 và năm 2013) đều được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp, cụ thể:
- Hiến pháp năm 1946: Sau khi tuyên bố độc lập, trong bối cảnh vận mệnh đất nước
ví như “ngàn cân treo sợi tóc”, ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương
tuyên bố tự giải tán “Để tỏ rằng những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiến phong
của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng
đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng
phái cho quyền lợi chung của dân tộc”. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng
ta phải có một hiến pháp dân chủ. Ngày 9-1-1946, Quốc hội đầu tiên thông qua Hiến
pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1946 không
ghi rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải có
Đảng lãnh đạo mới có thể xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, Người đã chỉ rõ “chúng ta muốn sống thì phải làm cách mệnh”.
Cách mạng muốn thắng lợi cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. “Đảng có vững thì
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Tháng
2 năm 1951, Đảng tuyên bố ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam
và lãnh đạo kháng chiến chống xâm lược đi đến thắng lợi.
- Hiến pháp năm 1959:  “Lời nói đầu”, linh hồn của bản Hiến pháp năm 1959
khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. “Từ năm 1930, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng
Việt Nam đã tiến lên một giai đọan mới… Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam
đã xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ”.
- Hiến pháp năm 1980: “Lời nói đầu” của Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã lần lượt chiến thắng bọn đế
quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân… Nước ta từ một nước thuộc địa
và nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều
4, Hiến pháp 1980 khẳng định rõ hơn: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết
1
Mác- Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ
yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp”.   
- Hiến pháp năm 1992: “Lời nói đầu” của Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định: từ
năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và giành
những thắng lợi vĩ đại. “Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”. Điều 4, Hiến pháp 1992 có sự diễn đạt mới
và khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa  Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Mọi tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. 
- Hiến pháp năm 2013:  
 So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 có sự bổ sung và phát triển quan
trọng, đã khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Hiến pháp sửa đổi lần này tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của Đảng cộng sản
Việt Nam. Trong Điều 4 của Hiến pháp trước đây không nói rõ trách nhiệm của Đảng, thì
lần này Hiến pháp sửa đổi đã đưa vào và nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với
nhân dân. Đó là sức sống của Đảng. Thêm vào đó, Đảng phải phục vụ nhân dân,
phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình. Nếu như quyết định không đúng, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia,
dân tộc, nhân dân thì Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước dân tộc. Đây là
điểm rất mới của Hiến pháp.
Như vậy, các bản Hiến pháp là tối thượng thể hiện quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong
thời gian tới, với sự tác động mạnh mẽ của tình hình khu vực và thế giới, ảnh hưởng lớn
từ các vấn đề trong nước dự kiến tình hình kinh tế chính trị, xã hội của nước ta sẽ gặp
không ít khó khăn, thách thức mới. Các thế lực thù địch, phản động đang hàng ngày,
hàng giờ thực hiện các âm mưu, chiến lược hoạt động “Diễn biến hòa bình”, tiến tới bạo
loạn lật đổ, tác động từng bước chuyển hóa chế độ chính trị ở nước ta. Trong đó, mục tiêu
hàng đầu của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, từ đó lật đổ chế độ XHCN ở
nước ta. Chính vì vậy, việc bảo vệ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên cả phương
diện pháp lí và thực tiễn là rất quan trọng. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là tất yếu của lịch sử.
* Có sự khác nhau về vai trò của Đảng trong 5 bản Hiến pháp vì:
Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, là nhân tố bảo đảm sự
ổn định chính trị, xã hội và chủ quyền của quốc gia, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ
của Nhà nước và chế độ. Là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước, Hiến pháp có hiệu
lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật. Theo dòng lịch sử lập hiến của nước ta, kể
2
từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nước ta đã có 05 bản Hiến
pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013. Các bản Hiến pháp này đều ra đời
trong những bối cảnh và ở những thời điểm lịch sử nhất định nhằm thể chế hóa đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị,
nằm trong hệ thống chính trị nhưng Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là một nguyên lý của xã hội chủ nghĩa nói
chung và của nước ta nói riêng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mang
tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính
trị có cơ sở để chủ động, sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ,
phương pháp và biện pháp cụ thể của mình. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị là phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào uy tín năng lực
của các đảng viên và tổ chức Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng qua 5 bản Hiến pháp đã khẳng định đầy đủ bản chất, vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Vai trò lãnh đạo này là tất yếu, đã được lịch sử
chứng minh qua các cuộc cách mạng, các cuộc chiến tranh và công cuộc đổi mới ở đất
nước ta.
Câu 2. Anh (chị) hãy trình bày các hình thức nhân dân thực hiện quyền lực của Nhà
nước theo quy định của Hiến pháp hiện hành và nhận xét về việc tổ chức thực hiện
từ phía Nhà nước và công dân.
Trả lời:
* Các hình thức nhân dân thực hiện quyền lực của Nhà nước theo quy định của
Hiến pháp hiện hành:
Hiến pháp năm 2013 không chỉ quy định Nhân dân là chủ thể của Nhà nước, tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà còn quy định phương cách Nhân dân thực
hiện quyền lực Nhà nước của mình. Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi: "Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước".
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước
Dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước.Tức là
Nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là chủ thể quyền lực
nhà nước) về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua cá nhân hay tổ chức thay mặt
mình và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi hành. Hình thức biểu hiện cụ thể của dân
chủ trực tiếp như ứng cử, bầu cử Quốc hội, HĐND, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở,
trưng cầu dân ý... Các cuộc đối thoại trực tiếp của nhân dân với cơ quan Nhà nước hiện
nay cũng là hình thức biểu hiện của dân chủ trực tiếp.
Ưu điểm của hình thức dân chủ trực tiếp là Nhân dân trực tiếp quyết định, phản ảnh
đúng ý chí, nguyện vọng của mình nhưng hạn chế của hình thức này là nhhững vấn đề mà
3
Nhân dân trực tiếp quyết định không nhiều vì điều kiện không cho phép. Dân chủ trực
tiếp được mở rộng đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, trình độ dân trí, nhận thức chính trị, trình độ pháp lý của nhân dân...của một nước.
Dân chủ đại diện là hình thức Nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước, các cá
nhân được Nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của Nhân dân. Dân chủ đại diện là
phương thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Dân chủ đại diện có ưu điểm là
với hình thức này chúng ta quản lý được mọi mặt đời sống xã hội, nhưng có hạn chế là ý
chí, nguỵen vọng của người dân phải qua trung gian của ngừoi đại diện, có thể bị méo mó
bởi nhiều lý do như trình độ nhận thức, quan điểm, lợi ích...
Khi nói đến tính đại diện người ta hay nghĩ đến các cơ quan dân cử. Quyền lực nhà
nước bao gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Khi nói quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân thì chúng ta hiểu quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp là
thuộc về nhân dân. Do điều kiện không cho phép nên số lượng vấn đề nhân dân quyết
định trực tiếp không nhiều, bởi vậy nhân dân lập ra và trao quyền cho các cơ quan nhà
nước để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của mình; các cơ quan này phải chịu sự
giám sát của nhân dân và chỉ được thực hiện quyền lực trong giới hạn cho phép. Như
vậy, cơ quan được nhân dân ủy quyền không chỉ là cơ quan dân cử mà bao gồm cả cơ
quan hành pháp và tư pháp, khi hoạt động các cơ quan này với tư cách là nhân dân, đại
diện nhân dân để thực thi nhiệm vụ. Nhận thức điều này có ý nghĩa trong thực tế là các
cơ quan nhà nước kể cả lập pháp, hành pháp và tư pháp phải thấy rằng quyền mà các cơ
quan này có được là do nhân dân trao, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Không chỉ
có Quốc hội, HĐND các cấp lắng nghe ý kiến nhân dân khi ban hành luật, nghị quyết, mà
các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng phải thu thập, lắng nghe ý kiến nhân dân trong quá
trình thực thi nhiệm vụ của mình.
* Nhận xét về việc tổ chức thực hiện từ phía Nhà nước và công dân.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để thực hiện quyền lực
của nhân dân, đều có vai trò quan trọng trong nền dân chủ. Nền dân chủ phát triển thì dân
chủ trực tiếp được mở rộng, ngược lại đẩy mạnh thực hiện dân chủ trực tiếp thì sẽ thúc
đẩy nền dân chủ phát triển. Để Nhân dân thực sự là chủ thể của Nhà nước thì phải thực
hiện tốt cả dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Trưng cầu dân ý, một nội dung quan
trọng của hình thức dân chủ trực tiếp phải được luật hóa, trong đó quy định những việc gì
phải do nhân dân bàn và quyết định, quy định rõ trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành...
Các cơ quan được Nhân dân trao quyền phải thực hiện tròn trách nhiệm của mình. Các
đại biểu Quốc hôi, HĐND phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe ý kiến của
nhân dân. Quốc hội và HĐND các cấp khi quyết định một vấn đề nào đó phải phù hợp
với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan hành chính và tư pháp từ trung ương
xuống địa phương, người có thẩm quyền trong các cơ quan đó phải tận tụy phục vụ nhân
dân, tiến hành cải cách hành chính để tạo thuân lợi cho nhân dân, không được cửa quyền
hách dịch với nhân dân.
Câu 3. Anh (chị) hãy nêu và phân tích những nội dung thể hiện sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị và giải thích vì sao nói sự lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị mang tính định hướng?
Trả lời:
* Nêu và phân tích những nội dung thể hiện sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam trong hệ thống chính trị:

4
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản luôn giữ vai trò lãnh đạo.
Với bản chất là đội tiên phong của giai cấp công nhân, các Đảng cộng sản luôn trung
thành với mục tiêu, lợi ích lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hệ thống
chính trị Việt Nam theo chế độ nhất nguyên chính trị vì thế không tồn tại các đảng phái
đối lập. Lịch sử Việt Nam qua các giai đoạn phát triển cách mạng luôn gắn với vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh
khả năng lãnh đạo to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sở dĩ Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo đối với các tổ chức trong hệ
thống chính trị bởi vì:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam gồm những người tiên tiến được vũ trang bởi
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - LêNin. Trên cơ sở của
học thuyết Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích một cách khoa học, khách
quan điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, Đảng có khả năng vạch ra đường lối, chính
sách đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả những chính sách, đường lối ấy trong
thực tiễn.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức được Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà
lãnh đạo thiên tài của cách mạng Việt Nam trực tiếp sáng lập và rèn luyện. Tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành quan trọng trong kho tàng tri thức lý
luận của Đảng. Tư tưởng của Người là một di sản quý báu về lý luận cách mạng mà ngày
nay Đảng ta được kế thừa và phát huy.
Thứ ba, Đảng cộng sản là lực lượng có khả năng tổ chức, tập hợp to lớn. Bằng khả
năng và uy tín của mình, Đảng có thể huy động, tập hợp nhân dân thực hiện các mục tiêu,
đường lối mà Đảng đã đề ra. Khả năng tổ chức và lãnh đạo của Đảng đã được kiểm
nghiệm trong thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, Đảng cộng sản Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu đấu tranh vì sự nghiệp
hoà bình, ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân tiến bộ trên thế giới. Điều này đã tạo ra uy tín quốc tế rộng lớn của Đảng ta,
điều này giúp cho Đảng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các chính đảng từ phía phong
trào cộng sản và công nhân trên quốc tế, điều này góp phần củng cố vai trò, vị trí lãnh
đạo của Đảng trong nước.
* Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mang tính định hướng vì:
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
như sau:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu
sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của
mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị,
nằm trong hệ thống chính trị nhưng Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị. Sự
5
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là một nguyên lý của xã hội chủ nghĩa nói
chung và của nước ta nói riêng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mang
tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính
trị có cơ sở để chủ động, sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ,
phương pháp và biện pháp cụ thể của mình. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị là phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào uy tín năng lực
của các đảng viên và tổ chức Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo của mình dưới các hình thức và
phương pháp sau:
- Đảng hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương lớn mang tính chiến lược định
hướng cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và cho các thành viên
của hệ thống chính trị nói riêng.
- Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú có phẩm chất, năng lực
để giới thiệu vào các vị trí quan trọng của bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội.
- Đảng tiến hành kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Thông qua công tác
kiểm tra, giám sát, Đảng kịp thời phát hiện những thiếu sót trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, những sai lầm trong đường lối, chủ trương,
chính sách của mình, kịp thời đưa ra những biện pháp khắc phục.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là hệ thống những phương pháp, hình
thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng vận dụng để tác
động vào các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân nhằm biến đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo, qua đó thực
hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
- Công tác kiểm tra của Đảng được thực hiện theo những nguyên tắc của tổ chức
Đảng, trên cơ sở chức năng, quyền hạn và tính độc lập của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội .
- Các tổ chức cơ sở đảng, các đảng viên gương mẫu trong việc thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây là một trong những biểu hiện quan trọng
để lôi cuốn, thu hút nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Câu 5. Anh (chị) hãy trình bày những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 trong
chương “Chế độ chính trị” so với Hiến pháp năm 1992 và nêu ý nghĩa của những
điểm mới này.
Trả lời:
* Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 trong chương “Chế độ chính trị” so với
Hiến pháp năm 1992:
Chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước Hiến pháp của năm 2013
thể hiện những điểm mới sau đây:
+Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã xác định:“ Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến

6
pháp năm 2013 đã bổ sung thêm việc “kiểm soát”  quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+Về các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”.
So với Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định các hình thức dân chủ đại diện, còn Hiến
pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức “dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện” trong Hiến pháp.
+ Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung
thêm khoản 2 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình”. Hiến pháp 2013 đã quy định bổ sung “các đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Những quy định này
xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Các quy định này là cơ sở
pháp lý để nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các Đảng viên hoạt động theo
đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
+ Chế độ chính trị quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
đó là “vai trò phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Việc bổ sung quy định trên đây về vai
trò của Mặt trận là hoàn toàn phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện
nay ở Việt Nam.
+ Hiến pháp năm 2013 thể hiện phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước
khi xác lập vị trí, tính chất của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân  một cách rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là cơ quan
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102);Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107).
+ Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Về cách thức thực hiện
quyền tư pháp Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới so với Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001). Nếu Hiến pháp năm 1992 tại Điều 132 quy định: “quyền bào
chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
cho mình” thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định thêm cả quyền bào chữa của bị can:
“quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm” (Khoản 7 Điều 103).
Ngoài những nguyên tắc tố tụng đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, như
nguyên tắc tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định, nguyên tắc khi xét xử sơ
thẩm có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hiến pháp năm
2013 còn xác định thêm các nguyên tắc: “nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm” (khoản
5 Điều 103) và “chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều
103). Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, Hiến pháp năm 2013 không quy định Chánh

7
án tòa án địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân như
quy định của Hiến pháp năm 1992.
+ Về chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn quyền hạn
của Chủ tịch nước khi xác định Chủ tịch nước quyết định phong, thăng, giáng tước quân
hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam
thay cho quy định quyết định phong hàm, cấp “sĩ quan cấp cao” trong các lực lượng vũ
trang nhân dân như quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trên thực tế theo Hiến pháp
năm 1992, Chủ tịch nước chỉ quyết định phong sĩ quan cấp thượng tướng và đại tướng,
còn thẩm quyền quyết định phong sĩ quan cấp thiếu tướng và trung tướng thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng.
+ Trong việc tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 là tổ chức chính
quyền địa phương. Trong Hiến pháp năm 1992, Chương IX có tên gọi là Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân còn trong Hiến pháp năm 2013, Chương IX có tên gọi là:
“Chính quyền địa phương”. Việc khẳng định trong Hiến pháp chính quyền địa phương
gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là cần thiết. Do Hiến pháp năm 1992 không
xác định rõ chính quyền địa phương bao gồm những cơ quan nào nên ở một số địa
phương quan niệm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương cũng là chính
quyền địa phương, từ đó đã can thiệp cản trở tính độc lập của Tòa án trong xét xử.
+ Hiến pháp năm 2013, ngoài ba cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn, Hiến pháp mới còn
quy định thêm đơn vị hành chính - lãnh thổ đặc biệt do Quốc hội thành lập. Mặt khác để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa chính quyền địa phương, khoản 2 Điều 111
quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt do luật định.”
+ Về tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 còn
có điểm mới là đã có quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử
Trung ương và Kiểm toán nhà nước. Các cơ quan hiến định độc lập do được Hiến pháp
quy định nên thể hiện tính độc lập cao trong tổ chức và hoạt động của mình, nhờ đó mà
các thiết chế này có thể hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao và không phụ thuộc vào các
thiết chế khác trong bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt
chẽ.
Câu 4: Phân tích vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên Mặt trận trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay. Tại sao phải phát huy vai
trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay?
Trả lời:
* Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận
trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như: Công đoàn Việt Nam,
Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được quy
định tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013 như sau: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
8
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân
dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính
trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên
khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mă ̣t trâ ̣n Tổ quốc Viê ̣t Nam, các tổ chức thành viên của Mă ̣t trâ ̣n và các tổ chức xã hội
khác hoạt đô ̣ng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luâ ̣t. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác
hoạt động.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện quyền lực nhân dân và điều đó được thể hiện trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có nhiệm vụ tập hợp, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức Nhà
nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà
nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác
giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, tham gia thành lập các cơ quan nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì trong việc hiệp thương với các tổ chức xã hội khác
để giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; phối hợp với
cơ quan nhà nước hữu quan tổ chức Hội nghị cử tri ở nơi cư trú, các cuộc tiếp xúc giữa cử tri
với những người ứng cử; tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện pháp luật về bầu
cử; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là những thành viên
trong các tổ chức bầu cử. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có quyền đề nghị các cơ quan
quyền lực Nhà nước bãi nhiệm các đại biểu không xứng đáng đồng thời tham gia việc bãi
nhiệm đó. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có quyền và trách nhiệm tham gia tố tụng,
tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn để bầu, cử làm
Hội thẩm Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tham gia xây dựng pháp luật.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên có quyền: Kiến nghị với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ về dự kiến
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự án
luật, pháp lệnh; cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nghị quyết, thông tư
9
liên tịch để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về trách nhiệm của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia quản lý Nhà nước; Tham
gia góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định và các dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật khác.
Thứ tư, tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là
giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà
nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của
pháp luật. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
được thực hiện bằng các hình thức sau đây: Động viên nhân dân thực hiện quyền giám
sát; Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực Nhà nước; Thông qua hoạt động
của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải
quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực
hiện nhiệm vụ giám sát. Khi nhận được kiến nghị của Mặt trận và các tổ chức thành viên
thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo
quy định của pháp luật.
Thứ năm, tham gia tuyên truyền pháp luật, giáo dục công dân ý thức chấp hành
pháp luật, đấu tranh bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thi hành chính sách,
pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thi hành chính sách, pháp luật với các nội dung sau
đây: Tham gia tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Phối hợp, tham gia với cơ quan nhà nước tổ
chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá, giải quyết các vấn đề xã
hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội;
Tham gia với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp tổ chức vận động nhân dân
thực hiện dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn nhân dân xây dựng hương ước, quy ước về nếp
sống tự quản ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, cộng đồng dân cư khác ở cơ sở phù hợp
với pháp luật, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân; Tham gia hoạt động
hoà giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về hoà giải; Tổng hợp, nghiên cứu ý kiến,
nguyện vọng của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước.
* Cần phải phát huy vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở
nước ta hiện nay vì:
Để phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay, phản biện
xã hội được xem là công cụ, kênh thông tin quan trọng và không thể thiếu giúp cấp ủy,
chính quyền đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp lòng dân. Phản biện xã hội ở nước ta
thời gian qua đã được thực hiện trên thực tế và đạt được những kết quả bước đầu rất quan
trọng, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền. Tuy nhiên, thực tế công tác phản biện xã

10
hội còn nhiều hạn chế. MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện tốt
một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là:
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát huy vai trò chủ thể, chủ động,
tích cực làm tốt việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giám sát, phản biện xã hội
hằng năm; tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về công
tác giám sát và phản biện xã hội. Làm tốt nhiệm vụ đề xuất thể chế hóa quy định những
nội dung cần giám sát, phản biện xã hội; hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các lực lượng
trong tổ chức thực hiện. Tập trung làm tốt hướng dẫn, tập huấn thực hiện quy trình giám
sát, phản biện xã hội; xây dựng, phát hành cuốn “Sổ tay hướng dẫn công tác giám sát,
phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam” nhằm giúp cán bộ MTTQ Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức có tài liệu cơ bản, toàn diện và thực tế; trên cơ sở
đó hằng năm bồi dưỡng, tập huấn sâu theo từng chuyên đề giám sát, phản biện xã hội.
Kết hợp liên thông ba nhiệm vụ: giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền; tăng giám sát vụ việc qua giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của cử tri và nhân dân; công khai kết luận thanh tra, tính khách quan của
các chỉ số hài lòng; cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh; vấn đề báo
chí dư luận đang quan tâm, nhân dân đang bức xúc, góp phần phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”, tăng đồng
thuận xã hội trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ.
Đảng là thành viên lãnh đạo của MTTQ các cấp. Sự quan tâm của cấp ủy quyết định
hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Việc quan tâm của cấp ủy phải bằng
những việc làm cụ thể: bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị cho MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội để có đủ khả năng thực hiện công
tác giám sát, phản biện xã hội. Định kỳ nghe và góp ý kiến vào báo cáo kết quả giám sát,
chỉ đạo UBND, các cơ quan thực hiện những kiến nghị của MTTQ và các tổ chức chính
trị - xã hội sau giám sát. Thật sự cầu thị, lắng nghe, có cơ chế tiếp thu ý kiến của MTTQ;
quy định về việc tiếp xúc, đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền các cấp; chủ động đề nghị MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội phản
biện xã hội đối với các dự thảo nghị quyết quan trọng của cấp ủy.
Đối với chính quyền, có chương trình phối hợp cụ thể hằng năm với MTTQ Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp. Tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của mình. Hướng
dẫn sử dụng kinh phí, bảo đảm các điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát, phản biện
xã hội. Tiếp thu, trả lời kịp thời những kiến nghị của MTTQ Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội.

11

You might also like