You are on page 1of 22

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

BÀI 6. QUỐC HỘI

Câu 1. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban chuyên môn của Quốc hội đóng vai trò gì
trong hoạt động của Quốc hội? Hiện nay, số lượng các Ủy ban của Quốc hội nhiều
hơn trước đây. Hãy lý giải nguyên nhân của hiện tượng này.
Trả lời:
* Vai trò của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban chuyên môn của Quốc hội trong hoạt
động của Quốc hội
- Vai trò của Hội đồng Dân tộc: Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch
và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy
viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực
hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Vai trò Ủy ban chuyên môn của Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội: Ủy
ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Chủ nhiệm Ủy
ban do Quốc hội bầu; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ
Quốc hội phê chuẩn.
Ủy ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo
được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt
động của Ủy ban.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính
phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu
về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.
* Hiện nay, số lượng các Ủy ban của Quốc hội nhiều hơn trước đây. Nguyên nhân
của hiện tượng này, vì:
Theo Luật tổ chức Quốc Hội, Quốc Hội được thành lập bảy Uỷ ban thường trực:
- Uỷ ban pháp luật;
- Uỷ ban kinh tế và ngân sách;
- Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
- Uỷ ban giáo dục, thanh niên, thiếu niên, và nhi đồng;
- Uỷ ban các vấn đề xã hội;
- Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
- Và Uỷ ban đối ngoại.
Các quy định về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được Hiến pháp năm
2013 quy định từ các Điều 75 đến Điều 77. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định định này
1
xuất phát từ tính chất hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, cũng như
yêu cầu của công tác cán bộ ở nước ta. Trong đó, Hiến pháp quy định theo hướng Quốc
hội bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng và
Ủy viên Hội đồng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban và Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ
Quốc hội phê chuẩn (Điều 75, Điều 76). Đồng thời, Hiến pháp quy định rõ hơn về quyền
yêu cầu cung cấp thông tin và bổ sung quyền yêu cầu giải trình của Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội (Điều 77).
Câu 2. Hãy so sánh quyền trình dự án luật và quyền kiến nghị về luật theo những
tiêu chí sau: chủ quyền, nội dung quyền.
Trả lời:
* So sánh quyền trình dự án luật và quyền kiến nghị về luật theo những tiêu chí sau:
chủ quyền, nội dung quyền.
Điều 84 Hiến pháp năm 2013 quy định về thẩm quyền trình, kiến nghị các dự án luật, dự
án pháp lệnh như sau:
- Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà
nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức
thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh
trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp
lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Chủ quyền Nội dung quyền

Câu 3. Anh (chị) hãy so sánh quy chế pháp lý của đại biểu Quốc hội hoạt động
chuyên trách với đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách.
Trả lời:
* So sánh quy chế pháp lý của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách với đại
biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách.
- Giống nhau: Căn cứ Điều 79, 80, 81, 82 Hiến pháp năm 2013 quy định
+ Là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình
và của Nhân dân cả nước.
+ Liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung
thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực
hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả
lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và
hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
+ Phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.

2
+ Có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước.
+ Có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan
đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn
luật định.
+ Không bị bắt, giam, giữ, khởi tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc nếu không có sự
đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của
Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trường hợp đại biểu Quốc hội bị tạm giữ vì phạm tội quả
tang thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc
hội xem xét, quyết định.
+ Có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu, có quyền tham gia làm thành
viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.
+ Mỗi năm, các đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ít nhất là bốn lần vào trước và sau
mỗi kỳ họp Quốc hội.
+ Nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội là 5 năm. 
- Khác nhau:
Đại biểu Quốc hội hoạt động Đại biểu Quốc hội hoạt động
chuyên trách không chuyên trách

- Ít nhất là ba mươi lăm phần trăm tổng số - Từ sáu mươi lăm phần trăm tổng số đại
đại biểu Quốc hội. biểu Quốc hội.

- Dành toàn bộ thời gian làm việc để thực - Dành ít nhất một phần ba thời gian làm
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu tại việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ,
cơ quan của Quốc hội hoặc tại Đoàn đại quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
biểu Quốc hội ở địa phương.

- Có trách nhiệm tham gia hội nghị đại biểu - Có thể không là thành viên các cơ quan
Quốc hội chuyên trách và các hội nghị khác khác Nhà nước nhưng được nhân dân giới
do Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập. thiệu và bầu làm làm nhiệm vụ đại biểu
Quốc hội

Câu 4. Anh (chị) hãy so sánh hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm
tại Quốc hội theo quy định của pháp luật hiện hành. Anh (chị) hãy giải thích vì sao
nói việc Nghị quyết số 51 năm 2001 quy định thêm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đã
giúp Quốc hội chủ động hơn trong việc xử lý các chức danh do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn?
Trả lời:
* So sánh hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội theo
quy định của pháp luật hiện hành:
- Giống nhau:
3
 + Mục đích: nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của của bộ máy nhà
nước; giúp người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm thấy được mức độ tín
nhiệm để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; làm cơ sở để
xem xét đánh giá cán bộ.
+ Nguyên tắc áp dụng:
Bảo đảm quyền và đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân; tôn trọng quyền báo cáo, giải trình của người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm.
Công khai, công bằng, dân chủ, khách quan; bảo đảm đánh giá đúng thực chất về người
được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm.
Bảo đảm sự ổn định và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng
trong công tác cán bộ.
+ Căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm:
Kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Khác nhau:
Lấy phiếu tín nhiệm Bỏ phiếu tín nhiệm

Định nghĩa Lấy phiếu tín nhiệm là việc Quốc Bỏ phiếu tín nhiệm là việc Quốc
hội, Hội đồng nhân dân thực hiện hội, Hội đồng nhân dân thể hiện
quyền giám sát, đánh giá mức độ sự tín nhiệm hoặc không tín
tín nhiệm đối với người giữ chức nhiệm đối với người giữ chức vụ
vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân do Quốc hội, Hội đồng nhân dân
dân bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ sở
sở cho việc xem xét đánh giá cán cho việc miễn nhiệm hoặc phê
bộ. chuẩn đề nghị miễn nhiệm người
không được Quốc hội, Hội đồng
nhân dân tín nhiệm.

Đối tượng áp Quốc hội, Hội đồng nhân dân tổ - Ủy ban thường vụ Quốc
dụng chức lấy phiếu tín nhiệm một lần hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín
trong mỗi nhiệm kỳ vào kỳ họp nhiệm đối với người giữ chức vụ
thường lệ cuối năm thứ ba của do cơ quan này bầu hoặc phê
nhiệm kỳ. Theo đó: chuẩn:
- Quốc hội chức lấy phiếu tín + Ủy ban thường vụ Quốc hội tự
nhiệm: mình đề nghị;
+ Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch + Có kiến nghị của Hội đồng dân
nước; tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội,
hoặc có ít nhất hai mươi phần
+ Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ trăm tổng số đại biểu Quốc hội;
tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội + Người được lấy phiếu tín nhiệm
đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban có từ 2/3 tổng số đại biểu Quốc

4
của Quốc hội; hội trở lên đánh giá “tín nhiệm
thấp”.
+ Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các - Thường trực Hội đồng nhân
thành viên khác của Chính phủ; dân trình Hội đồng nhân dân bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ
+ Chánh án Tòa án tối cao, Viện chức vụ do cơ quan này bầu:
trưởng Viện kiểm sát tối cao,
Tổng kiểm toán nhà nước. + Có kiến nghị của ít nhất 1/3
tổng số đại biểu Hội đồng nhân
- Hội đồng nhân dân: dân;
+ Chủ tịch Hội đồng nhân dân, + Có kiến nghị của Ủy ban Mặt
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
Ủy viên Thường trực Hội đồng
nhân dân, Trưởng Ban của Hội + Người được lấy phiếu tín nhiệm
đồng nhân dân; có từ 2/3 tổng số đại biểu Hội
đồng nhân dân trở lên đánh giá
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó “tín nhiệm thấp”.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các
thành viên khác của Uỷ ban nhân
dân.

Hạng tín nhiệm - Tín nhiệm cao - Tín nhiệm


- Tín nhiệm - Không tín nhiệm.
- Tín nhiêm thấp.

Hệ quả - Người được lấy phiếu tín nhiệm Người được bỏ phiếu tín nhiệm
có quá nửa tổng số đại biểu Quốc có quá nửa tổng số đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
đánh giá “tín nhiệm thấp” thì có đánh giá “không tín nhiệm” thì có
thể xin từ chức. thể xin từ chức; trường hợp không
từ chức thì cơ quan hoặc người có
- Người được lấy phiếu tín nhiệm thẩm quyền giới thiệu người đó
có từ hai phần ba tổng số đại biểu để Quốc hội, Hội đồng nhân dân
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân bầu hoặc phê chuẩn có trách
dân trở lên đánh giá “tín nhiệm nhiệm trình Quốc hội, Hội đồng
thấp” thì Ủy ban thường vụ Quốc nhân dân xem xét, quyết định việc
hội trình Quốc hội, Thường trực miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề
Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nghị miễn nhiệm đối với người
nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm. đó.

* Nghị quyết số 51 năm 2001 quy định thêm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đã giúp Quốc
hội chủ động hơn trong việc xử lý các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn,
vì:
Bỏ phiếu tín nhiệm là phương thức để Quốc hội thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi
nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi người đó

5
không xứng đáng với trọng trách được giao, đồng thời cũng là quyền của Quốc hội khi
xem xét kết quả giám sát được quy định tại Điều 14 Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội.
Việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân
bầu hoặc phê chuẩn; giúp những người này nhận thấy được mức độ tín nhiệm để có biện
pháp phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của mình. 
Lấy phiếu tín nhiệm định kỳ hằng năm là để đánh giá mức độ tín nhiệm của đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng
nhân dân bầu hoặc phê chuẩn làm cơ sở cho việc đánh giá cán bộ của cơ quan có thẩm
quyền. 
Bỏ phiếu tín nhiệm là việc đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thể hiện sự tín
nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân
bầu hoặc phê chuẩn  làm cơ sở cho việc miễn nhiệm chức vụ đối với người mà Quốc hội
hoặc Hội đồng nhân dân không còn tín nhiệm. 
Bảo đảm quyền và nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân trong việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; tôn trọng quyền được báo
cáo, giải trình của người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm.
Công khai, công bằng, khách quan, đánh giá đúng thực chất kết quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của người được lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. 
Bảo đảm sự ổn định của bộ máy nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cán
bộ.
Câu 5. Nghị quyết số 51 năm 2001 đã thu hẹp quyền của Ủy ban thường vụ Quốc
hội như thế nào và giải thích ý nghĩa của vấn đề này. Liên hệ với Hiến pháp năm
2013.
Trả lời:
* Nghị quyết số 51 năm 2001 đã thu hẹp quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội
như:
Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH có hai điểm mới liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn
của UBTVQH so với Hiến pháp 1992:
Một là, Khoản 8 Điều 91 Hiến pháp 1992 quy định: “Trong thời gian Quốc hội
không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội”. Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH đã bỏ đi
thẩm quyền của UBTVQH trong việc phê chuẩn nhân sự của Chính phủ theo đề nghị của
Thủ tướng trong thời gian Quốc hội không họp. Việc bỏ đi thẩm quyền này của
UBTVQH là nhằm khẳng định quyền phê chuẩn nhân sự của Chính phủ là thẩm quyền
riêng của Quốc hội, tránh tình trạng các chủ thể khác lợi dụng quy định này đặt Quốc hội
trong “tình thế đã rồi”.  
Hai là, Khoản 9 Điều 91 Hiến pháp 1992 quy định: “Trong thời gian Quốc hội
không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và
trình Quốc hội phê chuẩn quyết định đó tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội”. Nghị quyết số
51/2001/NQ-QH ngày 25/12/2001 quy định lại thẩm quyền này của UBTVQH như sau:
6
“Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng
chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp
gần nhất của Quốc hội”. Như vậy, Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH đã dùng cụm từ “trong
trường hợp Quốc hội không thể họp được” (ngoài hai kỳ họp thường lệ thì UBTVQH
phải triệu tập Quốc hội họp bất thường mà Quốc hội vẫn không họp bất thường được thì
lúc này UBTVQH mới được quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh) thay
cho cụm từ “trong thời gian Quốc hội không họp” (ngoài hai kỳ họp thường lệ của Quốc
hội thì UBTVQH được quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh). Cách quy
định này đã góp phần đáng kể trong việc thu hẹp phạm vi quyết định việc tuyên bố tình
trạng chiến tranh của UBTVQH.   
Những phân tích trên cho thấy, Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH ngày 25/12/2001
tiếp tục thu hẹp quyền hạn của UBTVQH nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động
của Quốc hội: Quốc hội ngày càng thực quyền, tự mình giải quyết những trọng trách mà
nhân dân giao phó, xứng đáng hơn với niềm tin của nhân dân; Quốc hội hoạt động ngày
một thường xuyên và chuyên trách hơn. Điều này là hệ quả tất yếu khi nguyên tắc tập
quyền đã được nhận thức lại, kỳ họp Quốc hội ngày càng được kéo dài hơn và số lượng
đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ngày càng nhiều hơn.
* Liên hệ quyền hạn Ủy ban thường vụ Quốc hội Hiến pháp năm 2013
Các quy định về Ủy ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 có một số
điểm mới cơ bản sau đây so với Hiến pháp 1992:
Thứ nhất, làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ
quan thường trực của Quốc hội (Điều 73); chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (khoản 5 Điều 74);
Thứ hai, bổ sung thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc quyết định
việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(khoản 8 Điều 74). Viê ̣c điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng,
không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề
tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện
vọng của Nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường
xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên Hiến pháp giao thẩm quyền
này cho Ủy ban thường vụ Quốc hô ̣i – cơ quan thường trực, hoạt động động thường
xuyên của Quốc hội là hợp lý;
Thứ ba, bổ sung thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử
quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (khoản 6 Điều 74); 
Thứ tư, bổ sung thẩm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiê ̣m, miễn nhiê ̣m đại sứ đặc
mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 12 Điều 74). Bởi vì,
vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài nên việc quy
định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, cử, triệu hồi đại
sứ là cần thiết. Quy định này cũng là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Câu 6. Hãy so sánh hoạt động tiếp dân với hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu
Quốc hội.
7
Trả lời:
* So sánh hoạt động tiếp dân với hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
- Giống nhau:
Một là, đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn
vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.
Hai là, đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu
thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ
chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu
và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo.
Ba là, đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp
luật.
- Khác nhau:
Hoạt động tiếp dân Hoạt động tiếp xúc cử tri

Theo sự phân công của Trưởng đoàn đại Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ở nơi ứng
biểu Quốc hội; cử theo chương trình tiếp xúc cử tri của
Đoàn đại biểu Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội thực hiện việc tiếp công Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ở nơi cư
dân theo lịch tiếp công dân đã được công trú, nơi làm việc; tiếp xúc cử tri theo
bố. chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà
đại biểu quan tâm.

Công dân trực tiếp hoặc thông qua Đoàn Thông qua hoạt động chất vấn, Đại biểu
đại biểu Quốc hội yêu cầu được gặp đại Quốc hội thể hiện trách nhiệm của người
biểu Quốc hội để trình bày khiếu nại, tố đại biểu trước cử tri và Nhân dân, nhiều
cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc khi đại biểu vấn đề bức xúc của cử tri được đại biểu đưa
Quốc hội thấy cần thiết. ra để tìm giải pháp khắc phục. 

Trường hợp công dân yêu cầu gặp đại biểu Trong quá trình tiếp xúc cử tri, đại biểu
Quốc hội để trình bày khiếu nại, tố cáo, Quốc hội có trách nhiệm báo cáo với cử tri
kiến nghị, phản ánh thì đại biểu Quốc hội về hoạt động của đại biểu và Quốc hội; cử
có trách nhiệm sắp xếp thời gian tiếp công tri hoặc đại diện cử tri ở đơn vị bầu cử có
dân; trường hợp chưa thể tiếp công dân thể góp ý kiến với đại biểu Quốc hội tại hội
được thì đại biểu Quốc hội yêu cầu Văn nghị cử tri do Đoàn đại biểu Quốc hội phối
phòng phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội cử hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và chính
người nhận đơn hoặc hẹn tiếp công dân vào quyền địa phương tổ chức trong trường hợp
thời gian thích hợp. cần thiết.

Câu 7. Anh (chị) hãy trình bày mối quan hệ pháp lý giũa Quốc hội với Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nhận xét Anh (chị) về vị
trí của Quốc hội trong bộ máy nước ta.
8
Trả lời:
* Mối quan hệ pháp lý giữa Quốc hội với Chính phủ
- Trong hoạt động tổ chức Chính phủ:
+ Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định, gồm Thủ tướng
Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ.
+ Quốc hội có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ theo
đề nghị của Chủ tịch nước, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Chính phủ, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
+ Nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì
Chính phủ tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.
+ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
- Trong hoạt động xây dựng pháp luật:
+ Chính phủ có nhiệm vụ trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án
khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
+ Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
+ Chính phủ có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn bản của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ
việc thi hành văn bản của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.
- Trong hoạt động kiểm tra, giám sát:
+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ.
+ Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ, người bị chất
vấn phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc
hội cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau hoặc gửi văn bản trả
lời.
- Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:
+ Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ
tướng Chính phủ, Chính phủ, và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công, phụ trách.
+ Về hoạt động đối nội: Chính phủ có quyền trình Quốc hội quyết định thành lập,
giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt; trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành
lập, giải thể nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.

9
+ Về hoạt động đối ngoại: Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và sự uỷ quyền của Chủ
tịch nước, Chính phủ tổ chức đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước;
quyết định việc kí, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế nhân
danh Chính phủ.
* Mối quan hệ pháp lý giữa Quốc hội với Tòa án nhân dân tối cao
+ Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao, quy định về tổ chức
và hoạt động của cơ quan này, quy định nhiệm vụ quyền hạn cho cơ quan này.
+ Bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với chức danh Chánh án toà án nhân dân
tối cao. Giám sát hoạt động thông qua việc xét báo cáo hoạt động và thực hiện chất vấn
đối với Toà án nhân dân tối cao.
+ Giao cho UBTVQH thực hiện việc giám sát hoạt động của TAND tối cao.
Khi phát hiện thấy văn bản của TAND tối cao trái văn bản của UBTVQH thì có quyền
bãi bỏ, nếu thấy trái văn bản của Quốc hội thì đình chỉ và đề nghị Quốc hội bãi bỏ.
+ TAND tối cao phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện công việc
được giao. Toà án nhân dân tối cao có quyền trình dự án luật, pháp lệnh trước
Quốc hội, UBTVQH. Xét xử các đại biểu Quốc hội.
* Mối quan hệ pháp lý giữa Quốc hội với Viện kiểm sát nhân dân tối cao
+ Quốc hội quyết định thành lập VKSND tối cao, quy định về tổ chức và hoạt
độngcủa cơ quan này, quy định nhiệm vụ quyền hạn cho cơ quan này.
+ Bầu miễn nhiệm, bãinhiệm đối với chức danh Viện trưởng VKSND tối cao.
Giám sát hoạt động thông quaviệc xét báo cáo hoạt động và thực hiện chất vấn
đói với VKSND tối cao. Giao cho UBTVQH thực hiện việc giám sát hoạt động của
VKSND tối cao. Khi phát hiện thấy văn bản của VKSND tối cao trái văn bản của
UBTVQH thì có quyền bãi bỏ, nếu thấy trái vănbản của Quốc hội thì đình chỉ và đề nghị
Quốc hội bãi bỏ. VKSND tối cao phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện
công việc được giao.
+ VKSND tối cao có quyền trình dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội,
UBTVQH. Bắt giữ và truy tố các đại biểu Quốc hội khi có sự đồng ý của Quốc hội. 
Câu 8. Anh (chị) hãy trình bày điểm khác nhau cơ bản giữa chế định Ủy ban
thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 với chế định Hội đồng Nhà nước theo
Hiến pháp năm 1980.
Trả lời:
* Những điểm khác nhau cơ bản giữa chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội theo
Hiến pháp năm 2013 với chế định Hội đồng Nhà nước theo Hiến pháp năm 1980.
Chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội chế định Hội đồng Nhà nước theo
theo Hiến pháp năm 2013 Hiến pháp năm 1980

Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan HĐNN vừa thực hiện chức năng của cơ
thường trực của Quốc hội quan thường trực của Quốc hội vừa thực
hiện chức năng của Nguyên thủ quốc gia.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có: Chủ Thành phần của HĐNN gồm: Chủ tịch
tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội, HĐNN; các Phó Chủ tịch HĐNN; Tổng thư
10
các uỷ viên. Số thành viên Uỷ ban thường ký HĐNN; các ủy viên HĐNN. Các thành
vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. viên của HĐNN do Quốc hội bầu ra trong
số các Đại biểu Quốc hội.
Thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội làm việc theo chế độ chuyên trách và
không thể đồng thời là thành viên của
Chính phủ.

Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, Công bố luật.
nghị quyết của Quốc hội.

Trong thời gian Quốc hội không họp, phê Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về định việc thành lập, hoặc bãi bỏ các Bộ, các
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Ủy ban Nhà nước; cử và bãi miễn các Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ
của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại trưởng, các Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước.
kỳ họp gần nhất của Quốc hội.

Đình chỉ việc thi hành các văn bản của Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện bỏ những Nghị quyết, Nghị định, Quyết
kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và pháp, luật và pháp lệnh.
trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các
văn bản đó

Bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung không thích đáng của các HĐND tỉnh,
ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp
thành phố trực thuộc Trung ương trong tương đương, giải tán các Hội đồng nói trên
trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt
hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân. hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân
dân.

Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của


Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc
hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt
động cho các đại biểu Quốc hội;

- Cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm


phán và Hội thẩm nhân dân của TAND tối
cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và
Kiểm sát viên VKSND tối cao;
- Bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại
diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng
11
hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài và ở
các tổ chức quốc tế;
- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước
quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình
Quốc hội quyết định;
- Quy định hàm và cấp quân sự ngoại giao
và những hàm và cấp khác;
- Quy định và quyết định việc tặng thưởng
huân chương, huy chương và các danh hiệu
vinh dự nhà nước;
- Quyết định đặc xá.

Ðể thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Trong các quyền hạn nói trên thì những
mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao cho quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ,
Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc các Ủy ban Nhà nước; cử và bãi miễn các
hội và Văn phòng Quốc hội chuẩn bị các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ
vấn đề trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước;
xem xét và quyết định. việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi
nước nhà bị xâm lược, HĐNN phải trình
Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất.

* Giống nhau:
- Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh;
- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, HĐNN; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân;
- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh
khi nước nhà bị xâm lược và trình Quốc hội phê chuẩn quyết định đó tại kỳ họp gần nhất
của Quốc hội;
- Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả
nước hoặc ở từng địa phương;
- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
- Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
Câu 9. Anh (chị) hãy trình bày mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa Đại biểu Quốc hội
với cử tri theo quy định của pháp luật hiện hành. Cho ý kiến nhận xét của Anh (chị)
về hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay.
Trả lời:

12
* Mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa Đại biểu Quốc hội với cử tri theo quy định của
pháp luật hiện hành
Căn cứ Luật tổ chức quốc hội 2014, Đại biểu Quốc hội là Người được cử tri tín
nhiệm bầu làm đại biểu của nhân dân tại Quốc hội thông qua cuộc tổng tuyển cử. Là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, không chỉ đại diện cho
nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước, là người thay
mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. 
Tại Điều 27 quy định: “Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám
sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri;
thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ
chức hữu quan; phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật”.
Đại biểu thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri, gắn bó chặt chẽ với cử tri, thông
qua nhiều hình thức: tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, gặp gỡ cử tri các giới…có thể gặp
riêng, nghe chuyên đề hoặc chỉ là thăm hỏi, tìm hiểu cuộc sống…đại biểu sẽ lắng nghe
được những tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri. Đại biểu gắn bó với cử tri, có
nhiều thông tin từ thực tiễn, tiếng nói tại diễn đàn Quốc hội thường “nặng ký” hơn, tránh
được chủ quan, duy ý chí, dễ tạo được sự đồng thuận của Quốc hội.
Trong thực tế nếu người làm Luật, làm chính sách không sát dân, không gắn bó chặt
chẽ với cử tri, xa rời thực tiễn thì pháp luật, chính sách sẽ không đi vào cuộc sống, không
giải quyết được những vấn đề cuộc sống đặt ra, dẫn đến tuổi thọ của một số điều luật,
chính sách thấp, thậm chí chưa có hiệu lực đã phải sửa (Luật Bảo hiểm xã hội, Luật xử
phạt vi phạm hành chính…). Mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri lỏng lẻo là
đại biểu thiếu trách nhiệm với cử tri, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của đại biểu,
của Quốc hội. Sức mạnh của Nhân dân sẽ bị hạn chế; bản chất “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân” vì vậy sẽ không trọn vẹn ý nghĩa.
Cử tri gắn bó chặt chẽ với đại biểu Quốc hội để phát huy quyền làm chủ của mình,
để được thông tin về hoạt động của Quốc hội, của đại biểu về chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Đồng thời giám sát đại biểu. Hiến pháp qui định “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Cử tri thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ cử tri. Phản ánh “trung thực” ý chí, nguyện
vọng của cử tri đến Quốc hội. Có trách nhiệm, đeo bám để đôn đốc, nhắc nhỡ, giám sát
các cơ quan, tổ chức về quá trình giải quyết kiến nghị của cử tri. Khi đại biểu có bản lĩnh
trình bày và thuyết phục Quốc hội đồng thuận với vấn đề mình đại diện cử tri nêu ra là
vừa góp phần hoàn thiện nội dung Quốc hội đang thảo luận, quyết định, vừa tạo niềm tin
nơi cử tri.
* Hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay
Có 2 hình thức chính:
- Theo hình thức hội nghị: Đây là hình thức tiếp xúc cử tri chủ yếu, phổ biến được
các Đoàn đại biểu Quốc hội triển khai thường xuyên. Trong đó tiếp xúc cử tri theo hình
thức Hội nghị gồm có: tiếp xúc theo định kỳ trước và sau kỳ họp Quốc hội tại địa phương
nơi đại biểu Quốc hội ứng cử; theo nơi cư trú, nơi làm việc; theo chuyên đề, lĩnh vực mà
đại biểu Quốc hội quan tâm.

13
Tiếp xúc cử tri định kỳ trước và sau kỳ họp Quốc hội Đây là hình thức tiếp xúc
được quy định “cứng”, có tính bắt buộc đại biểu Quốc hội thực hiện, hay nói cách khác,
đây là nhiệm vụ thường xuyên của đại biểu Quốc hội. Tiếp xúc cử tri trước và sau Kỳ
họp nhằm mục đích: nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cử tri; được các vấn đề đang
đặt ra cho đất nước và cho địa phương; nắm được các thông tin cần thiết để thực hiện
chức năng giám sát; để các đại biểu có cơ hội báo cáo về kết quả Kỳ họp; giải thích và
biện hộ cho các quyết sách được Quốc hội thông qua, góp phần tuyên truyền, tạo sự ủng
hộ trong cử tri; để cử tri thấy kết quả hoạt động của đại biểu và thể hiện thái độ của mình
đối với việc thực hiện trách nhiệm được ủy quyền của đại biểu.
Nhìn chung, quá trình triển khai việc tiếp xúc cử tri trước và sau Kỳ họp Quốc hội
đã có sự phối hợp tham gia khá tốt của các cơ quan hữu quan; quy mô và cách tổ chức
khá chặt chẽ từ tỉnh đến cơ sở. Đại biểu Quốc hội chuẩn bị nội dung tiếp xúc thuận lợi
hơn, việc các Đoàn đại biểu Quốc hội thông báo lịch tiếp xúc trên các phương tiện thông
tin đại chúng thu hút được nhiều cử tri tham dự hơn, công tác an ninh hội nghị tiếp xúc
được đảm bảo,….
Mặt được của hình thức này là: do trong hội nghị tiếp xúc bao giờ cũng có đại diện
lãnh đạo của Quận, huyện, phường, thị trấn, xã “tham dự”, là những người làm công tác
quản lý mọi mặt xã hội tại địa phương nên họ nắm chắc tình hình thực tế, giải quyết được
ngay những thắc mắc, đòi hỏi của cử tri tại chỗ, đồng thời đề xuất những ý kiến có tầm
đóng góp vĩ mô hơn; cử tri có điều kiện theo dõi, giám sát hoạt động của từng đại biểu
đối với Quốc hội trên cơ sở Chương trình hành động đại biểu đã báo cáo, hứa trước cử tri
khi ứng cử; công tác tổ chức, phục vụ an ninh hội nghị tiếp xúc cử tri của các cơ quan đỡ
phức tạp;….
Tồn tại, hạn chế của hình thức tiếp xúc này là: thành phần cử tri tham gia cuộc tiếp
xúc thường là những cán bộ chủ chốt ở các cấp, khá “quen thuộc” đại biểu sau vài lần
tiếp xúc nên dễ có sự đơn giản, đơn điệu, dễ “thông cảm” cho nhau; thời lượng tiếp xúc
còn ngắn, hạn chế; địa điểm, kinh phí còn khó khăn,…
- Hình thức gặp gỡ, tiếp xúc cá nhân hoặc nhóm cử tri: So với tiếp xúc cử tri
theo hình thức hội nghị thì hình thức tiếp xúc gặp gỡ với cá nhân hay nhóm cử tri không
có tính quy mô, tổ chức như vậy nhưng lại tạo điều kiện cho đại biểu có thể thực hiện
một cách linh hoạt trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau mà không cần huy động
sự tham gia của bất cứ cơ quan phối hợp nào. Qua thực tiễn thì hình thức này cũng chưa
được thực hiện nhiều, còn hạn chế cả về số cuộc và số lượt cử tri tham gia.
Tiếp xúc cử tri theo hình thức này tạo được mối quan hệ cởi mở, thân mật, nội dung
trao đổi được nhiều hơn, không khí buổi tiếp xúc được nhẹ nhàng, cử tri và cả đại biểu
thoải mái hơn do đó thông tin trao đổi và thu được cũng nhiều chiều hơn. Song nhận thức
về hình thức tiếp xúc cá nhân hoặc nhóm cử tri chưa thống nhất, không phải bất cứ cuộc
gặp nào cũng là tiếp xúc cử tri; kinh phí còn hạn hẹp,….
Câu 10. Anh (chị) hãy trình bày về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội. Hãy nêu ý
kiến nhận xét và kiến nghị của Anh (chị) về vấn đề này?
Trả lời:
* Các khái niệm:
- Đại biểu Quốc hội: Là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của
Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước bầu ra thông qua tổng tuyển cử tự do. Đó là

14
những đại biểu chân chính, đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân đồng thời là
người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội.
- Chất vấn và trả lời chất vấn: Chất vấn là một hình thức giám sát của Quốc hội
đồng thời cũng là quyền của đại biểu Quốc hội.  Chất vấn được hiểu là “đặt vấn đề hỏi
một cơ quan chính quyền về một điều thắc mắc và yêu cầu trả lời”. Trong phiên chất vấn,
đại biểu Quốc hội nêu ra những câu hỏi và yêu cầu một cơ quan nhà nước hay một nhà
chức trách phải trả lời, báo cáo và giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về những
vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan, cá nhân đó. Chất vấn là một dạng câu hỏi
nhằm quy kết trách nhiệm đồng thời làm rõ nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục.
Trả lời chất vấn là hoạt động của cá nhân có thẩm quyền nhằm giải đáp khúc mắc,
nguyện vọng của cử tri thông qua đại biểu Quốc hội. Những vấn đề chất vấn mà đại biểu
Quốc hội đưa ra buộc các cơ quan và người chất vấn phải trả lời một cách nghiêm túc.
* Quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 32 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 thì Đại biểu Quốc
hội có quyền chất vấn những người sau đây:
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước.
Cùng với đó. người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội hoặc
tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.
Ngoài ra, nếu đại biểu Quốc hội chưa đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có
quyền chất vấn lại tại phiên họp của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc gửi
chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn.
Ðại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cơ quan và cá nhân bị chất vấn có nghĩa vụ
trả lời chất vấn.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp, chất vấn được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội
để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.
Tuỳ theo nội dung và tính chất của chất vấn, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể quyết
định người bị chất vấn phải trả lời chất vấn trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
* Y kiến nhận xét về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội:
Chất vấn là một hình thức giám sát của Quốc hội. Thời gian qua, đây là hoạt động
được công chúng ghi nhận và đánh giá cao trong những nỗ lực nhằm đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Về lý luận cũng như thực tiễn, cùng một sự việc là hỏi và trả lời, nhưng căn cứ vào
tính chất, mục đích và thủ tục nên có tên gọi rất khác nhau: hỏi- đáp, thẩm vấn, chất
vấn... Suy xét một cách chung nhất, chúng ta có thể thấy rằng hỏi đáp là để thu nhận
thông tin; thẩm vấn là để làm rõ sự thật; chất vấn là để làm rõ trách nhiệm.
Chất vấn, với tư cách là một hình thức giám sát của Quốc hội, được phân biệt với
các hình thức khác, tạm gọi là hỏi và trả lời, chủ yếu ở bản chất, mục đích, thủ tục và hậu
quả của nó.
15
Về bản chất: Chất vấn là một thủ tục (hình thức) được Quốc hội áp dụng để giám
sát hoạt động của các cơ quan và các quan chức Nhà nước được giao quyền (các hình
thức giám sát khác là nghe báo cáo, nghe điều trần, tổ chức, điều tra, tổ chức đi nghiên
cứu, xem xét tình hình.... Trong số này có một vài hình thức chưa được áp dụng trong
thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta). Đây là một hoạt động bình thường mà cơ
quan lập pháp của các nước trên thế giới đều tiến hành.
Về mục đích: Mục đích chính của chất vấn là để làm rõ trách nhiệm. Khi các vị đại
biểu Quốc hội hỏi một quan chức nào đó theo thủ tục chất vấn thì thông tin, số liệu không
phải là vấn đề chính. Vấn đề chính ở đây, có thể là: Người bị chất vấn có biết về việc đó
không? Tại sao lại để nó xảy ra? Hướng xử lý như thế nào? Cần phải rút kinh nghiệm ở
đâu? Chế độ trách nhiệm ra sao?
Về thủ tục chất vấn: Quốc hội nhiều nước đã có những quy định khá chặt chẽ về
những lĩnh vực mà đại biểu Quốc hội được đặt câu hỏi chất vấn.
Về hình thức chất vấn: quy định về câu hỏi miệng và câu hỏi viết. Câu hỏi viết
thường được gửi trước cho những người có liên quan và có trách nhiệm trả lời chất vấn.
Câu hỏi miệng được hỏi trực tiếp tại các phiên trả lời chất vấn.
Về hậu quả: Chất vấn có thể dẫn đến những hậu quả như hậu qủa pháp lý, hậu quả
xã hội và hậu quả chính trị.
Về hậu quả pháp lý: việc chất vấn có thể dẫn đến việc Quốc hội biểu quyết thông
qua kiến nghị đưa ra thảo luận tại Quốc hội về trách nhiệm của một quan chức nào đó. Và
cao hơn nữa, một số nước quy định khi kiến nghị thu được một số lượng chữ ký nhất
định thì vị quan chức này phải điều trần trước Quốc hội và có thể bị cách chức, thậm chí
Quốc hội có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một chính sách của Chính phủ.
Qua theo dõi một số phiên trả lời chất vấn gần đây tại Quốc hội Việt Nam, có thể
rút ra một số nhận xét sau:
- Về thời gian: thông thường không đủ thời gian để chất vấn và trả lời chất vấn;
- Một số quy định về chất vấn chưa rõ ràng (về thời hạn những lĩnh vực mà đại biểu
được phép chất vấn, về quyền của Bộ trưởng chỉ trả lời những vấn đề liên quan đến chính
sách...).
* Những kiến nghị về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội:
Muốn khắc phục những hạn chế đã nêu ở trên chúng ta cần phải đưa ra được những
giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của những phiên họp chất vấn và trả
lời chất vấn. Trước tiên, cơ sở pháp lí về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cần được
hoàn thiện hơn. Cụ thể như sau:
Sửa đổi, bổ sung những điều còn bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật liên quan
đến hoạt động chất vấn trong kỳ họp Quốc hội.
Cần xây dựng những quy định rõ ràng hơn nữa về chế tài xác định trách nhiệm của
những người đứng đầu các bộ, ngành liên quan đến vấn đề chất vấn. Đồng thời cần quy
định cụ thể các thủ tục hậu chất vấn như thu thập ý kiến đánh giá của đại biểu Quốc hội
về kết quả trả lời chất vấn, hoạt động giám sát việc thực hiện lời hứa của người bị chất
vấn, đưa ra lộ trình thay đổi cụ thể cũng như điều chỉnh chính sách  kịp thời với những
vấn đề đưa ra chất vấn…bởi sau chất vấn mà không có sự hành động, chuyển động thì
mọi thứ đều trở nên vô nghĩa.

16
Thứ hai, về phía đại biểu Quốc hội. Chúng ta cần nâng cao hơn nữa chất lượng của
hoạt động bầu cử nhằm lựa chọn những đại biểu thật sự xứng đáng là đại diện đấu tranh
cho lợi ích của nhân dân, vững vàng về phẩm chất và chuyên môn. Đưa ra những biện
pháp cụ thể để nâng cao năng lực trình độ của đại biểu Quốc hội như tổ chức khóa tập
huấn các kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trả lời báo chí…để có
thể nâng cao khả năng diễn đạt cũng như chất lượng câu hỏi chất vấn. Bên cạnh đó,
chúng ta cần tăng số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, đại biểu Quốc hội
tái cử và giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm bởi đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên
trách vừa đảm bảo điều kiện về thời gian hoạt động, vừa ít ràng buộc với các cơ quan
chịu sự giám sát hơn các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm nên có “lửa” và ít ngại va chạm
hơn còn đối với đại biểu Quốc hội tái cử đã có những trải nghiệm thực tế và kinh nghiệm
hoạt động nghị trường nên có kỹ năng giám sát, chất vấn tốt. Chính vì thế hoạt động chất
vấn sẽ mạnh mẽ và hiệu quả hơn. 
Tính chuyên nghiệp của đại biểu trong hoạt động chất vấn cũng là vấn đề cần được
quan tâm. Đại biểu Quốc hội cần có khả năng đánh giá, phân tích tốt vấn đề và thông
thạo quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội. Đồng thời họ cũng cần có sự liên hệ chặt
chẽ với nhân dân. Các đại biểu Quốc hội nên tăng cường hoạt động tiếp xúc với cử tri
nhằm nắm bắt rõ tâm tư, nguyện vọng và những búc xúc của người dân về các vấn đề liên
quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…để từ đó có thể đưa những khúc mắc của
nhân dân đến các thành viên của Chính phủ. Phát biểu ý kiến và chất vấn là sức ép của cử
tri và của nhân dân đối với đại biểu Quốc hội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi đại
biểu phải hoạt động gần dân, sát cơ sở, lắng nghe ý kiến nhân dân, phải có những bằng
chứng sinh động như dùng mô hình, chụp hiện trường các công trình, dự án để chứng
minh một cách chân thực, rất thời sự về chất lượng các công trình, dự án.
Thứ ba, về phía người trả lời chất vấn cần trả lời câu hỏi chất vấn một cách rõ ràng
hơn nữa. Tránh cách trả lời vòng vo hay coi chất vấn như là cơ hội để báo cáo thành tích,
giải trình khó khăn...Đồng thời các thành viên của Chính phủ cần phải thể hiện tinh thần
trách nhiệm cao hơn nữa, có khuyết điểm thì phải thẳng thắn thừa nhận và đưa ra giải
pháp cụ thể giải quyết vấn đề cũng như nghiêm túc thực hiện lời hứa của mình sau khi
kết thúc phiên chất vấn. 
Thứ tư, đảm bảo điều kiện về bộ máy tham mưu giúp việc. Với thực tế đa số đại
biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm như hiện nay, bộ máy giúp việc và các chuyên gia
không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng mà còn tiết kiệm thời gian cho đại biểu Quốc hội.
Cần thiết phải có cơ chế để đại biểu Quốc hội có thể tham vấn đội ngũ chuyên gia và các
nhà nghiên cứu khoa học cho hoạt động của mình.
Thứ năm, đảm bảo điều kiện về tài chính. Cơ chế tài chính là một trong những yếu
tố quan trọng đảm bảo cho hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Cần tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho đại biểu Quốc hội tạo điều kiện cũng như
động lực để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ sáu, cần tăng cường hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn giữa hai kỳ họp
Quốc hội, tại các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tại Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội, để tránh tình trạng gây áp lực quá tải trong kỳ họp Quốc hội.
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực điều hành chất vấn và trả lời chất vấn trực tiếp của người
chủ tọa phiên họp. Người điều hành phải hướng cho người bị chất vấn thấy được trách
nhiệm của bộ, ngành mình trước Quốc hội và cử tri, nội dung yêu cầu trả lời phải đi
thẳng vào trọng tâm câu hỏi chất vấn, phải giải trình rõ những vấn đề làm được, chưa
17
được, xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, tránh tình trạng lợi dụng diễn đàn để
báo cáo thành tích hoặc trả lời vòng vo, không đúng nội dung yêu cầu của đại biểu đặt ra.
Câu 11. Anh (chị) hãy phân tích vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội theo quy định
tại Điều 69 của Hiến pháp hiện hành. Nhận xét của Anh (chị) về vị trí của Quốc hội
trong bộ máy nhà nước ta.
Trả lời:
* Phân tích vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội theo quy định tại Điều 69 của Hiến
pháp hiện hành:
Vị trí pháp lý
Tại Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bởi vì theo quy định của Hiến
pháp, ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, Nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Quốc hội do Nhân dân bầu ra, là cơ quan nhà nước cao nhất thực hiện quyền
lực của Nhân dân. Chỉ Quốc hội mới có quyền thể chế ý chí, nguyện vọng của Nhân dân
thành luật, thành các quy định chung mang tính chất bắt buộc phải tuân thủ đối với mọi
tầng lớp dân cư trong xã hội.
Hiến pháp giao cho Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân được thể hiện ở các mặt sau
đây:
- Quốc hội là cơ quan nhà nước do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
- Quốc hội gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp Nhân dân. Quốc hội là sự thể
hiện rõ nhất khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện cho trí tuệ của Nhân dân cả nước.
- Quốc hội có nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của Nhân dân và dân tộc, nói lên
tiếng nói của Nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân cả nước.
Tính chất pháp lý
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia,
Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
- Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước;

18
- Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc
bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ
công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính
quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia,
Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê
chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh
sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn;
- Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến
pháp và luật;
- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
- Quyết định đại xá;
- Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và
những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự
nhà nước;
- Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các
biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc
chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền
quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Quyết định trưng cầu ý dân.
* Nhận xét về vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ta:
“Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” (Điều 69 Hiến pháp 2013). Hiến pháp khẳng định tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 6 Hiến Pháp 2013). Trong đó, Quốc hội là cơ quan
19
được nhân dân cả nước bẩu ra và trao quyền thực hiện quyền lực nhà nước nên Quốc hội
là cơ quan cao nhất nắm quyền lực nhà nước.
Tính quyền lực cao nhất thể hiện trong nhiệm vụ và quyền hạnh của Quốc hội:
- Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp: Điều 70 Hiến pháp 2013 qui định chỉ Quốc
hội có nhiệm vụ và quyền hạn làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi
luật, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Trong Hiến pháp năm 2013, về vị trí, Quốc hội vẫn được quy định là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm
1992, Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 không còn là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến.
Đây là sự thay đổi cơ bản về nhận thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đồng thời kế thừa tư tưởng lập hiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946. Trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) mà còn
thông qua các cơ quan nhà nước khác, và bằng cả hình thức dân chủ trực tiếp như phúc
quyết Hiến pháp khi Quốc hội quyết định (Điều 120), trưng cầu ý dân (Điều 29). Vì thế,
quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân sử dụng quyền lập hiến để thiết lập
quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Bằng quyền lập hiến của mình, Nhân
dân giao cho Quốc hội thực hiện một số quyền cụ thể như quyết định việc làm Hiến pháp,
sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành;
thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp; thảo luận và thông qua Hiến pháp khi có ít nhất 2/3
tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (Điều 120).
Vị trí pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện rõ trong các mối quan hệ giữa Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Cùng
với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn
được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh lấn sân, chồng chéo, mâu thuẫn khi thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ đó. Để tăng cường quan hệ phối hợp trong việc thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp.
Câu 12. Anh (chị) hãy phân tích chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội. Hãy
nêu ý kiến nhận xét của Anh (chị) về thực hiện chức năng của Quốc hội hiện nay.
Trả lời:
* Phân tích chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội:
- Quốc hội lập hiến: là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra
(hoặc được đề cử) chỉ thực hiện chức năng lập hiến (làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp).
Quốc hội lập hiến có nhiệm vụ duy nhất là lập hiến, do đó cơ quan này sẽ tự giải tán sau
khi nhiệm vụ lập hiến được hoàn thành.
- Quốc hội lập pháp: cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp
bầu ra, nhưng có chức năng cơ bản là lập pháp (làm luật và sửa đổi luật). Ngoài chức
20
năng đại diện và lập pháp, Quốc hội còn thực hiện chức năng giám sát các cơ quan hành
pháp.
Như vậy, mặc dù Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp đều là những cơ quan đại
diện cho nhân dân, do nhân dân bầu ra, nhưng hai cơ quan này có những điểm khác nhau
rất cơ bản: Quốc hội lập hiến là cơ quan có chức năng lập hiến, còn Quốc hội lập pháp là
cơ quan thực hiện chức năng lập pháp; Quốc hội lập hiến chỉ là cơ quan lâm thời, trong
khi Quốc hội lập pháp là cơ quan hoạt động thường xuyên; Quốc hội lập pháp được tổ
chức và hoạt động phù hợp với các quy định hiến pháp do Quốc hội lập hiến quyết định.
Việc thành lập Quốc hội lập hiến phân biệt với Quốc hội lập pháp thể hiện nguyên
tắc chủ quyền nhân dân và sự giới hạn quyền lực của Quốc hội lập pháp trong việc xây
dựng, sửa đổi hiến pháp. Nhiều hiến pháp không quy định thành lập Quốc hội lập hiến
mà trao cho Quốc hội lập pháp thẩm quyền tham gia vào hoạt động xây dựng, sửa đổi
hiến pháp. Để phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp, hiến pháp các nước
thường quy định những quy tắc phức tạp trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
* Nhận xét ý kiến thực hiện chức năng lập Hiến, lập pháp của Quốc hội:
Trong Hiến pháp năm 2013, về vị trí, Quốc hội được quy định là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 không còn là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến. Đây là sự thay đổi cơ bản về nhận thức xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đồng thời kế thừa tư
tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946.
Vì thế, quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, nhân dân sử dụng quyền lập hiến để
thiết lập quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Bằng quyền lập hiến của mình,
nhân dân giao cho Quốc hội thực hiện một số quyền cụ thể như quyết định việc làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành;
thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp; thảo luận và thông qua Hiến pháp khi có ít nhất 2/3
tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (Điều 120).
- Về chức năng của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn, khái quát
hơn trên ba phương diện: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
- Về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp: Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân
biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy định “Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập pháp theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền).
Hiến định nội dung này, Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn
nữa vào chức năng làm luật để khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mâu thuẫn,
chồng chéo trong hệ thống pháp luật, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động
của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật,
không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác ngoài những nhiệm vụ và
quyền hạn đã được Hiến pháp, pháp luật quy định.
Để tăng cường quan hệ phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp. Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể
21
hiện trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này, theo hướng việc làm Hiến pháp,
sửa đổi Hiến pháp không chỉ riêng Quốc hội thực hiện mà còn dựa trên ý kiến đề nghị
của “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội”.
Đối với quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp
của nhiều chủ thể, trong đó có Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời cũng quy
định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

22

You might also like