Professional Documents
Culture Documents
Ở thời điểm hiện nay, công nghệ định vị toàn cầu GPS (Global
Positioning System) đã và đang là công nghệ đang được ứng dụng rộng rãi trên
thế giới và ở Việt Nam cũng vậy. Công nghệ này được Việt Nam sử dụng từ
giữa những năm 1990 nhưng chủ yếu để phục vụ cho việc thu thập dữ liệu
chính xác tọa độ của các điểm trắc địa gốc để làm cơ sở phát triển các lưới trắc
địa cấp thấp hơn.Gần đây, với việc xuất hiện các thiết bị đo GPS cầm tay đơn
giản và giá rẻ, công nghệ GPS được áp dụng vào công tác thu thập thông tin vị
trí trở nên phổ biến hơn. Đặc biệt là khi nó được kết hợp với các công nghệ
khác như công nghệ GIS và hệ thống viễn thông thì thực sự đã làm cuộc sống
dễ dàng hơn rất nhiều. Và đây là một ứng dụng của công nghệ GPS, GIS và
công nghệ viễn thông để tạo nên một hệ thống giám sát về các thiết bị di động
có gắn thiết bị đo GPS như quản lý ô tô, taxi, xe buýt hay điện thoại thông
minh… có thể điều hành và giám sát được công việc của mình một cách hiệu
quả. Theo như dự báo, trong thời gian tới các thiết bị GPS sẽ ngày càng nhỏ
gọn, chính xác tạo điều kiện cho sự bùng nổ trong việc ứng dụng công nghệ
vào cuộc sống hàng ngày.
Và để mục đích nghiên cứu làm chủ công nghệ, trong tiểu luận nhỏ này,
em tập trung vào tìm hiểu công nghệ GPS. Đây là cơ hội giúp em tìm hiểu rõ
và chi tiết hơn về công nghệ mà bấy lâu nay em thường xuyên sử dụng.
Mục lục
Chương 2
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG GPS
2.1. Hệ thống GPS
Hệ thống GPS là hệ thống định vị toàn cầu xác định vị trí dựa trên vị trí
của các vệ tinh, cùng một thời điểm, ở một vị trí bất kỳ trên trái đất nếu xác
định được khoảng cách đến tối thiểu ba vệ tinh thì ta có thể tính toán được tọa
độ của vị trí đó.
GPS được thiết kế và quản lý bởi Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, nhưng may
mắn chính phủ Hoa Kỳ cho phép mọi người ở mọi quốc gia sử dụng nó miễn
phí.
Hình 2.1: Sơ đồ về sự liên quan mật thiết của 3 mảng trong hệ thống
2.2.1. Mảng người dùng.
Bộ phận này là thiết bị thu tin hiệu GPS và người sử dụng những thiết bị
này. Thiết bị thu tin hiệu GPS là một máy thu tín hiệu sóng vô tuyến đặc biệt.
Nó được thiết kế để thu tín hiệu sóng vô tuyến được truyền từ các vệ tinh và
tính toán vị trí dựa trên thông tin đó. Thiết bị thu tin hiệu GPS có nhiều kích cỡ
khác nhau, hình dáng và giá cả khác nhau.
Tính chất và giá cả của các Thiết bị thu tin hiệu GPS nói chung lệ thuộc
vào chức năng mà bộ phận thu nhận có ý định. Bộ phận thu nhận dùng cho
ngành hàng hải và hàng không thường sử dụng cho tính năng giao diện với thẻ
nhớ chứa bản đồ đi biển. Bộ phận thu nhận dùng cho bản đồ khả năng chính
xác rất cao và có giao diện người sử dụng cho phép ghi nhận dữ liệu nhanh
chóng.
Hệ thống NAVSTAR của Mỹ gồm 24 vệ tinh với 6 quỹ đạo bay. Các vệ
tinh này hoạt động ở quỹ đạo có độ cao 20.200 km (10,900 nm) ở góc nghiêng
55 độ và với thời gian 12 giờ/quỹ đạo. Quỹ đạo bay không gian của các vệ tinh
được sắp xếp để tối thiểu 4 vệ tinh sẽ được bộ phận người dùng nhìn thấy mọi
lúc và bao phủ trên toàn cầu, vị trí chính xác hoàn toàn (position dilution of
precision PDOP) của 6 vệ tinh hoặc ít hơn.
Hình 2.2: Chuyển động vệ tinh nhân tạo xung quanh trái đất
Mỗi vệ tinh truyền trên 2 dải tần L tần số L1 có tần số 1575.42 MHz và
L2 có tần số 1227.6 MHz. Mỗi vệ tinh truyền trên cùng tần số xác định. tuy
nhiên, tín hiệu mỗi vệ tinh thì thay đổi theo thời gian đến người sử dụng. L1
mang mã P (precise code) và mã C/A (coarse/acquisition (C/A) code). L2 chỉ
mang mã P (P code).
Thông tin của dữ liệu hàng hải được thêm vào các mã này. Thông tin dữ
liệu hàng hải giống nhau sẽ được mang cả 2 dải tần. Mã P được mã hoá nên vì
thế chỉ mã C/A thì có sẵn đến người sử dụng tuy nhiên, một vài thông tin có
thể nhận được từ mã P. Khi mã hoá, mã P được hiểu như mã Y. Mỗi vệ tinh có
2 số nhận dạng. Đầu tiên là số NAVSTAR với nhận dạng trên thiết bị vệ tinh
đặc biệt. Thứ hai là số sv (the space vehicle (sv) number). Số này được ấn định
để ra lệch phóng vệ tinh. Thứ ba là số mã ồn giả ngẫu nhiên (the pseudo-
random noise-PRN). Đây chỉ là số nguyên mà nó được sử dụng để mã tín hiệu
từ các vệ tinh đó. Một vài máy ghi nhận nhận biết vệ tinh mà chúng đang ghi
nhận từ mã SV hoặc mã khác từ mã PRN.
2.2.3. Mảng điều khiển.
Mảng điều khiển được dùng để giám sát và điều khiển các vệ tinh. Mảng
này thường người sử dụng không thể nhìn thấy, nhưng đây là bộ phận quan
trọng của toàn hệ thống. Bộ phận điều khiển NAVSTAR, còn gọi là hệ thống
điều khiển hoạt động (operational control system (OCS)) gồm nhiều trạm giám
sát, một trạm điều khiển chính (master control station (MCS)) và anten quay.
Các trạm giám thụ động không nhiều hơn GPS nhận mà đường bay của các vệ
tinh được nhìn thấy và do đó phạm vi tích luỹ dữ liệu từ tín hiệu vệ tinh. Có 5
trạm giám không chủ động, nằm ở Colorado Springs, Hawaii, đảo Ascencion,
Diego Garcia và Kwajalein. Các trạm giám sát gởi dữ liệu thô về trạm MSC để
xử lý. Trạm MCS được toạ lạc ở Falcon Air Force Base, cách 12 dặm về phía
đông của Colorado Springs, Colorado và được Mỹ quản lý. Trạm MCS nhận
dữ liệu từ trạm giám sát trong thời gian 24 giờ/ngày và sử dụng thông tin này
để xác định nếu các vệ tinh đang khoá hoặc lịch thiên văn thay đổi và để phát
hiện thiết bi trục trặc. Thông tin về tàu thuỷ di chuyển và lịch thiên văn được
tính toán từ tín hiệu giám sát và chuyển đến vệ tinh một lần hoặc hai
lần/ngày.Thông tin tính toán bởi trạm MCS, cùng với các mệnh lệnh duy trì
thường xuyên được truyền bởi anten xoay trên mặt đất. Anten này toạ lạc tại
đảo Ascencion, Diego Garcia và Kwajalein. Anten có đủ phương tiện để truyền
đến vệ tinh theo đường liên kết sóng vô tuyến dải tần S.
Thêm vào đó chức năng chính của trạm MCS là để duy trì 24 giờ hệ
thống bản tin điện tử với tình trạng và tin tức hệ thống sau cùng.
Mã C/A là 1 luồng bít nhị phân của 1023 số nhị phân và lặp lại bản thân
chúng trong mỗi giây. Điều này có nghĩa là tốc độ chip của mã C/A là
1.023Mbps. Hay theo cách khác,chu kỳ của một bit xấp xỉ 1ms hay tương
đương với 300m. Việc đo đạc sử dụng mã C/A là kém chính xác so với mã P
code nhưng nó ít phức tạp và được cung cấp cho tất cả người sử dụng.
Mã P code là 1 một chuỗi dài các số nhị phân, nó lặp lại bản thân nó sau
266 ngày. Nó cũng nhanh hơn 10 lần so với mã C/A( tốc độ là 10.23MBps).
Nhân với thời gian lặp lại bản thân nó sau 266 ngày để cho ra tốc độ
10.23Mbps suy ra mã P code là một luồng gồm 2.35x1014chip mã dài 266 ngày
được chia ra 38 đoạn; 32 đoạn được phân chia tới các vệ tinh khác nhau. Mỗi
vệ tinh phát ra đoạn 1 tuần của mã P code,chúng được khởi tạo vào nửa đêm
nằm giữa thứ 7 và chủ nhật hàng tuần. 6 đoạn còn lại để dành riêng cho mục
đích sử dụng khác. Mã P code được thiết kế chủ yếu sử dụng cho mục đích
quân sự. Nó được cho người ngoài quân sự sử dụng vào ngày 31/1/1994. Ở
thời điểm đó mã P code được mã hóa bằng việc thêm vào nó 1 loại mã W
CODE. Và kết quả của việc thêm vào loại mã code này là mã Y CODE và nó
có tốc độ chíp giống với mã P code
Hình 1.3 Mô hình tín hiệu GPS khí truyền
Thành phần vuông pha cũng là hai pha được điều chế bởi 1 luồng dữ
liệu 50bps nhưng có một sự khác nhau đó là thành phần vuông pha dùng mã
giả ngẫu nhiên được gọi là P Code, nó có xung nhịp là 10.24MHz với chu kỳ
168 tiếng.
P1: công suất của thành phần sóng mang cùng pha
PQ: công suất của thành phần sóng mang vuông pha d(t): sự điều chế
dữ liệu 50bps
c(t) và p(t) tương ứng là những sóng mã C/A và mã giả ngẫu nhiên
L1: tần số sóng mang
0: độ dịch pha
Công suất sóng mang vuông pha PQ it hơn xấp xỉ 3db so với P1
Ngược lại với tín hiệu L1, tín hiệu L2 được điều chế với duy nhất dữ liệu
50bps và mã P code
Biểu thức toán học của tín hiệu L2:
Dữ liệu 50bps được nhân với sóng mang qua bộ điều chế rồi sau đó
được mã hóa theo mã C/A rồi được truyền đi.
Hình 2.5 Cấu trúc thành phần vuông pha của L1
Hình 2.4 và 2.5 là trình bày cấu trúc của thành phần cùng pha và thành
phần vuông của tín hiệu L1.
Dữ liệu niêm giám: Mỗi vệ tinh truyền dữ liệu trong không gian được
gọi là niêm giám. Nó cho phép người sử dụng tính toán vị trí của mọi
vệ tinh trong chòm sao GPS tại bất ký thời điểm nào. Dữ liệu Niêm
giám không đủ chính xác để xách dịnh vị trí nhưng có thể được cất
giữa trong một thiết bi thu ở đâu đó, nó lưu lại trong vài tháng. Nó
chủ yếu được dung để xác định vệ tinh rõ rang tại 1 vị trí bất kỳ
Dữ liệu vệ tinh thiên văn. Dữ liệu thiên văn cũng tương tự như dữ
liệu Niêm giác nhưng nó cho phép xác định vị tri với độ chính xác
cao, để cần dược chuyển đổi sự trễ lan truyền trong việc ước lượng vị
trí của người dùng.
Dữ liệu về thời gian. Chuỗi dữ liệu 50bps bao gồm sự đánh dẫu thời
gian, được sử dụng để thiết lập thời gian truyền dẫn của những điểm
trên tin hiệu GPS. Thông tin này cần xác định được độ chễ về thời
gian lan truyền tín hiệu từ vệ tinh tới người sử dụng.
2.3.1.2. Cấu trúc một thông diệp tín hiệu.
Một thông điệp đầy đủ là 25 khung hình (frame), mỗi khung hình chứa
1500 bit, mỗi 1 khung dữ liệu lại được chia làm các khung con 300 bit. Mỗi
khung con bao gồm 10 từ mỗi từ là 30 bit. Như vậy với tốc độ truyền 50bps nó
phải mất 6s để truyền 1 khung dư liệu con (subframe) và 30s để hoàn thành
một khung dữ liệu (frame). Để truyền hoàn thành 25 khung thông điệp thì yêu
cầu cần tới 750s .
Hình 2.7 Tính khoảng cách từ thiết bị GPS đến các vệ tinh
Tất cả máy thu GPS bắt buộc phải khoá được tín hiệu của ít nhất ba vệ tinh để
có thể tính được vị trí hai chiều kinh độ và vĩ độ. Nếu thiết bị thu tín hiệu GPS có thể
khóa được tín hiệu của bốn hay nhiều hơn số vệ tinh trong tầm nhìn thì máy GPS có
thể tính được vị trí theo ba chiều kinh độ, vĩ độ và độ cao. Một khi vị trí người dùng
đã tính được thì máy thu GPS có thể tính các thông tin khác, như tốc độ, hướng
chuyển động, bám sát di chuyển, khoảng hành trình, quãng cách tới điểm đến, thời
gian mặt trời mọc, lặn và nhiều yếu tố khác.
Theo nguyên tắc thông thường thì để xác định vị trí của 1 vật nào đó ta
cần xác định được khoảng cách của chúng tới các vật chuẩn khác, ví dụ như
khi ta lạc đường , một người chỉ cho ta biết rằng anh đang cách A 15Km, ta chỉ
biết được là đang nằm đâu đó trong trên đường tròn bán kính 15Km, nếu 1
người khác bảo là ta cách B 20Km thì ta xác định được 2 vị trí bằng cách cho 2
đường tròn cắt nhau, và nếu 1 người khác lại cho ta biết rằng vị trí đó cách C
10 Km thì ta sẽ xác định được chính xác vị trí của mình. GPS cũng sử dụng
nguyên tắc đó để xác định vị trí, tuy nhiên trong không gian, 3 mặt cầu cắt
nhau cho ra 2 điểm, nếu sử dụng trái đất là mặt cầu thứ tư thì sẽ xác định được
vị trí của mình. Tuy nhiên việc sử dụng như vậy sẽ bỏ qua cao độ vậy nên cần
vệ tinh thứ 4 để xác định được vị trí chính xác của bạn nên 4 vệ tinh đó sẽ cho
bạn biết khoảng cách của bạn đến nó bằng công thức quãng đường bằng thời
gian sóng điện từ truyền nhân với vận tốc sóng truyền, mà vận tốc sóng truyền
tính bằng vận tốc ánh sáng và thời gian truyền thì được mã hóa rồi gửi đến máy
thu.
2.4.3. Độ chính xác của hệ thống GPS
Các máy thu GPS hiện nay siêu chính xác, nhờ vào thiết kế nhiều kênh
hoạt động song song. Các máy thu 12 kênh song song nhanh chóng khoá vào
các quả vệ tinh khi mới bật lên và chúng duy trì chắc chắn liên hệ này, ngay cả
trong tán lá rậm rạp hoặc thành phố với các toà nhà cao tầng. Tình trạng nhất
định của khí quyển và các nguồn gây sai số khác có thể ảnh hưởng tới độ chính
xác của máy thu GPS. Các máy thu GPS có độ chính xác trung bình là 15 mét
Các máy thu mới hơn với khả năng WAAS (Wide Area Augmentation
System) có thể tăng độ chính xác trung bình tới dưới 3 mét. Không cần thêm
thiết bị hay mất phí để có được lợi điểm của WAAS. Người dùng cũng có thể
có độ chính xác tốt hơn với GPS Vi sai (Differential GPS, DGPS) sửa lỗi các
tín hiệu GPS để có độ chính xác trong khoảng 3 đến 5 mét. Cục Phòng vệ Bờ
biển Mỹ vận hành dịch vụ sửa lỗi này. Hệ thống bao gồm một mạng các đài
thu tín hiệu GPS và phát tín hiệu đã sửa lỗi bằng các máy phát hiệu. Để thu
được tín hiệu đã sửa lỗi, người dùng phải có máy thu tín hiệu vi sai bao gồm cả
ăn-ten để dùng với máy thu GPS của họ.
2.4.4. Những lỗi có thể ảnh hưởng đến tín hiệu GPS
Hệ thống GPS đã được thiết kế để ngày càng chính xác, tuy nhiên trên
thực tế khi sử dụng vẫn còn có những lỗi. Những lỗi này có thể gây ra một sự
lệch từ 50 đến 100m từ vị trí máy thu GPS trên thực tế. sau đây có một vài
nguồn lỗi được bàn tới:
Chính vì lý do này, một số đơn vị chỉ gửi thông tin cập nhập trong 2 giây
một lần hoặc chuyển dữ liệu mỗi giây một lần trong khi vẫn bảo đảm dữ liệu
khác cũng sẽ được gửi đi trong thời gian đó. Thêm vào đó, một số đơn vị có
thể gửi dữ liệu trong vài giây khi những đơn vị khác gửi dữ liệu đã thu thập
chính trong giây phút nó được gửi. Nói chung thời gian truyền đi trong từng
trường chỉ trong vài giây, do vậy khá dễ dàng để chỉ ra GPS nào đang hoạt
động. Một số đoạn mã có thể được gửi đi chỉ trong một khoảng thời gian đặc
biệt của thiết bị thu như vậy trong khi một đường truyền mà các thiết bị gửi
khác luôn gửi các đoạn mã và chỉ vô hiệu hóa ở ngoài những giá trị. Sự khác
nhau sẽ được chú ý trong phần miêu tả kiểu dữ liệu riêng biệt được định nghĩa
ở phần sau.
bạn có thể gửi 480 ký tự trong một giây, với tốc độ 4800bit/ s. Khi một
đoạn mã NMEA bao gồm 82 ký tự, có thể chia nhỏ thành 6 đoạn mã khác
nhau. Trong thực tế hạn chế này tuỳ thuộc vào từng đoạn mã cụ thể. Tuy nhiên
từ đó ta thấy được rằng có thể dễ dàng vượt quá con số trên nếu bạn muốn
đoạn mã trả lời nhanh. NMEA được thiết kế để hoạt động như một quá trình
trong vai trò tạo các đoạn mã nền ở lối ra, và giữ đoạn mã ở lại khi cần bằng
code trên chương trình. Một số chương trình không thể làm như vậy, tuy nhiên
nhưng chúng sẽ lấy một dòng dữ liệu để làm mẫu, sau đó sử dụng dữ liệu này
hiển thị trên màn hình và lại lấy mẫu dữ liệu sau đó.
Tiêu chuẩn NMEA đã được ứng dụng trong nhiều năm, từ năm 1983 và
đã qua nhiều lần chỉnh sửa. Giao thức đã thay đổi, số lượng cũng như các đoạn
mã có thể khác nhau tuỳ thuộc vào từng phiên bản chỉnh sửa nhưng hầu hết
các thiết bị thu GPS đều theo tiêu chuẩn 0138 phiên bản 2 với tốc độ truyền tải
là 4800 bit/ s. Một số thiết bị thu khác cũng được làm theo những thông số của
các phiên bản cũ hơn. Phiên bản lâu đời nhất là 0180, tiếp đó là 0182 với tốc
độ truyền tải là 1200 bit/ s. Tiếp đó là 0183 gọi là phiên bản 1.5. Một số đơn vị
Garmin và các loại khác có thể cài đặt lên tới 9600 hoặc thậm chí cao hơn cho
thiết bị đầu ra của NMEA. Nhưng đó chỉ là tham khảo nếu bạn chắc chắn nó
hoạt động tốt, bạn có thể thử cài với tốc độ nhanh hơn. Việc cài đặt để đạt tốc
độ nhanh như mong muốn phải đòi hỏi nâng cấp khả năng đáp ứng của chương
trình.
Tuỳ vào từng lượng thời gian cụ thể, có thể là 3 hoặc 4 giây để chuyển
dữ liệu. Đối với một số ứng dụng, điều này có thể chấp nhận được, nhưng với
nhiều ứng dụng khác lại không. Chậm vài giây có thể khiến cho toàn bộ hệ
thống không hoạt động và mất ổn định.
Để sử dụng giao diện phần cứng, bạn cần một dây cáp. Thông thường
dây cáp này khác so với mô hình phần cứng vì vậy bạn sẽ cần một dây cáp
riêng biệt cho các sản phẩm và khối mô hình bạn đang sử dụng. Một số máy
tính mới nhất không sản xuất kèm theo cổng tiếp nối ngoại trừ một cổng USB.
Hầu hết những thiết bị thu GPS sẽ làm việc với cổng nối tiếp từ bộ chuyển đổi
USB và cổng nối tiếp được gắn thông qua cổng chuyển đổi. Ví dụ NMEA
thông thường sử dụng với một thiết bị thu nhận GPS thì bạn sẽ chỉ cần 2 dây
cáp truyền, dữ liệu ra từ GPS và dữ liệu đất.
Dây thứ 3 còn lại, sẽ phải dùng đến nếu muốn thiết bị thu cho phép dữ
liệu đi vào dây cáp đó để tải một điểm hoặc gửi dữ liệu DGPS tới thiết bị thu.
Thiết bị thu GPS có thể sử dụng để giao tiêp với thiết bị theo chuẩn NMEA
khác như máy tự động hoặc những thết bị thu GPS khác. Chúng có thể nhận
diện những thiết bị nhận tín hiệu khác, những thiết bị này có khả năng gửi dữ
liệu sử dụng tiêu chuẩn RTCM SC-104. Dữ liệu này phù hợp với phần cứng
theo yêu cầu của dữ liệu lối vào theo chuẩn NMEA.
Có nhiều đoạn mã theo tiêu chuẩn NMEA có thể áp dụng cho tất cả mọi
loại thiết sử dụng được trong môi trường hải quân. Một vài trong số đó có thể
dùng cho thiết bị thu tín hiệu GPS theo như bảng kê dưới đây:
Một số đơn vị không hỗ trợ phiên bản 1.5. Unit Lowrance cung cấp khả
năng tuỳ chỉnh (customize) đầu ra NMEA bằng các đoạn mã, vì vậy bạn có thể
tự xây dựng cấu trúc đoạn mã riêng của mình.
Đầu ra NMEA 2.3 từ Garmin Legend, Vista, và có thêm một số đầu ra khác có
các đoạn mã BWC, VTG, và XTE. Đầu ra Encore Motorola là GGA, GLL,
GSV, RMC, VTG, ZDA và đoạn mã thuộc sở hữu PMOTG.
Những đơn vị cơ bản dựa trên chipset có thể làm đầu ra: GGA, GLL,
GSA, GSV, RMC, và VTG. Đầu ra thực sự là đầu ra đã đc chuơng trình ứng
dụng hoặc người dùng chọn. Một số phiên bản đã nâng cấp khả năng của SiRF
với nhiều đoạn mã khác nhau cũng như bằng hình thức thay đổi firmware. Ví
dụ, thiết bị nhận u-blox bổ sung thêm ZDA và một số đoạn mã thuộc sở hữu và
lập thành danh sách các đoạn mã.
Thiết bị thu Garmin sẽ gửi những đoạn mã thuộc sở hũu như sau:
b) GSA
Đoạn mã này cung cấp thông tin chi tiết về một thông tin của thiên nhiên.
$GPGSA,A,3,04,05,,09,12,,,24,,,,,2.5,1.3,2.1*39
Where:
2 = 2D fix
3 = 3D fix
c) RMC
Cung cấp dữ liệu về vị trí, vận tốc, thời gian GPS- GPS PVT (position,
velocity,time)
$GPRMC,123519,A,4807.038,N,01131.000,E,022.4,084.4,230394,003.1,W*6
A
Where:
d) GLL
Cung cấp thông tin về vị trí của các thiết bị thu GPS
S$GPGLL,4916.45,N,12311.12,W,225444,A,*31
Where:
Chưa thành thạo trong lập trình nên chưa tự thiết kế và mô phỏng các
chuẩn kể trên.
Chưa tìm hiều về cách khôi phục tín hiệu trong các máy thu GPS.
Chỉ là tham khảo các bài viết về lý thuyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Mạc Đăng Huy, Báo cáo tốt nghiệp công nghệ định vị toàn cầu, Đại học Công
nghệ-DHQGHN.
[2] John Wily- Global Positioning Systems, Inertial Navigation, and Integration
[4]https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87_th%E1%BB%91ng_
%C4%90%E1%BB%8Bnh_v%E1%BB%8B_To%C3%A0n_c%E1%BA%A7u
[5] http://giamsatgps.vn/ GPS là gì, tìm hiểu nguyên lý hoạt động của GPS