Professional Documents
Culture Documents
Chốt đề cương Triết
Chốt đề cương Triết
Chương 1: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về vật chất và hình thức tồn
tại của vật chất
1.1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về vật chất
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản của triết học duy vật. Việc
nhận thức đúng đắn nội dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để
khẳng định tính chất khoa học, đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế
giới.
Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh chúng
ta, mà trước hết là thế giới của những vật thể hữu hình, từ xưa đến nay luôn luôn là
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các
trường phái triết học đều bằng cách này hay bằng cách khác giải quyết vấn đề này.
Và bởi vậy trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện.
1.1.1. Cơ sở lý luận của phạm trù vật chất
Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh đó xuất phát từ việc đi tìm căn
nguyên của thế giới. Đứng trước vô số các sự vật, hiện tượng và quá trình của thế
giới xung quanh, các nhà triết học đều đưa ra câu trả lời cái gì tạo ra chúng. Trong
các loại ý kiến khác nhau đó có hai loại ý kiến trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy tâm
cho rằng cái sinh ra các sự vật, hiện tượng phong phú, đa dạng xung quanh chúng
ta là tinh thần, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật cho rằng: thế giới này là vật chất, vật chất là sự tồn tại của mọi sự
vật và hiện tượng, mọi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là cái biểu hiện
khác nhau của vật chất đang vận động, đây là quan điểm duy vật đối với chủ nghĩa
duy vật nói chung, phạm trù xuất phát, cơ bản, trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ
hệ thống triết học của mình đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, xuất
phát từ phạm trù vật chất đã khẳng định sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất
và khả năng nhận thức thế giới của con người, nguồn gốc sản sinh ra ý thức, bản
chất và nội dung khách quan của ý thức, tính thống nhất, tính vô tận, tính vĩnh
viễn, tính phong phú và muôn vẻ của thế giới vật chất.
Như vậy có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về vật chất. Để hiểu đúng
và định nghĩa được vật chất phải có một quá trình phát triển nhất định của hoạt
động thực tiễn của khoa học và của hoạt động nhận thức.
1.1.2.Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
- Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại
Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đều cho có một nguyên thể
vật chất đầu tiên là cơ sở thế giới. Họ quy vật chất về cơ sở đầu tiên đó. Quan niệm
vật chất của các nhà duy vật cổ đại còn mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng
nhất vật chất nói chung với những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế
giới bên ngoài.
+ Talét coi thực thể của thế giới là nước.
+ Anaximen coi thực thể đó là không khí. Với Hêraclít thực thể đó là lửa, còn
với Ămpêđôlơ thì thực thể đó bao gồm cả bốn yếu tố: đất, nước, lửa và không khí.
+ Anaximanđrơ cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác
định về mặt chất và vô tận về mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được
và ông gọi nó là apâyrôn. Sự tương tác giữa các mặt đối lập vốn có trong apâyrôn
tạo nên toàn bộ thế giới.
+ Lơxíp và Đêmôcrít thì thực thể của thế giới là nguyên tử. Đó là các phân tử
cực kì nhỏ, cứng, tuyệt đối không thâm nhập được, không quan sát được và nói
chung là không cảm giác được. Nguyên tử chỉ có thể nhận biết nhờ tư duy.
Đêmôcrít hình dung nguyên tử có nhiều loại: có loại góc cạnh, xấu xí, có loại cong,
nhẵn, có loại tròn, hình cầu… Sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo các trật tự
khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới.
Tóm lại: Những quan điểm trên tuy còn thô sơ, nhưng có ưu điểm căn bản là vật
chất được coi là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Điều này đối lập với quan điểm duy tâm tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của thế
giới là tinh thần, ý thức. Học thuyết nguyên tử là một bước tiến mới trên con
đường hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới cho
nhận thức khoa học sau này.
- Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại
Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên
tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng
một cách siêu hình với vận động không gian và thời gian. Họ chưa thấy được vận
động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng
nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng nhất vật chất với
khối lượng, năng lượng.
1.1.3.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin về vật chất
*Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa
+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong
khoa học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản hơn và sâu sắc
hơn về nguyên tử. Những phát minh tiêu biểu mang ý nghĩa vạch thời đại như:
+ Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện tử có bước sóng từ
0,01 đến 100.10-8cm.
+ Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Với hiện tượng này,
người ta hiểu rằng, quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác.
+ Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một
trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên
trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã được chứng minh bằng thực
nghiệm.
+ Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải
là khối lượng tĩnh mà là khối lượng điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng
Như vậy, từ những phát minh trên mâu thuẫn với quan niệm quy vật chất về
nguyên tử hay khối lượng. Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình hình để la lối lên
rằng: nếu nguyên tử bị phá vỡ thì tức là vật chất đã tiêu tan, và chủ nghĩa duy vật
dựa trên nền tảng là vật chất cũng không thể đứng vững được nữa.
* Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở một
khung cảnh nhất định trong tương quan về kích thước so với các khách thể khác…
Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là không gian.
* Sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu
dài hay mau chóng của hiện tượng, của sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận
động… Những thuộc tính này của sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật
chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng
tính, kết cấu; còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài
diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình.
Tuy vậy, trong lịch sử triết học, xung quanh phạm trù không gian và thời gian đã
từng có rất nhiều vấn đề nan giải gây tranh cãi.
+ Những người theo chủ nghĩa duy tâm thường phủ nhận tính khách quan của
không gian và thời gian.
+ Các nhà duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII - XVIII tách rời không gian và thời
gian với vật chất. I.Niutơn cho rằng không gian, thời gian và vận động là những
thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau. Khi phê phán
quan điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Ph. Ăngghen cho không gian và thời
gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của vật
chất. Chúng là hình thức tồn tại của vật chất không thể có vật chất nào tồn tại bên
ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian, thời gian nào
tồn tại bên ngoài vật chất.
Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của A. Anhxtanh ra đời, đã chứng minh một
cách hùng hồn luận điểm thiên tài trên đây của Ph. Ăngghen. Thuyết tương đối
cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất giữa không gian và thời gian. Như vậy
thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của không gian, thời gian; chứng minh
tính biến đổi của không gian, thời gian cùng với sự vận động của vật chất, một lần
nữa khẳng định không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
- Tính chất và mối quan hệ của không gian, thời gian.
+ Tính khách quan. không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn
liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không
gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
+ Tính vĩnh cửu và vô tận. theo Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh cửu và vô tận trong
không gian và thời gian. Vô tận có nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả,
cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía dưới, cả về bên phải lẫn bên
trái. Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng như những thành tựu của vũ trụ
học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính vô tận của không gian và thời gian.
+ Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian: tính ba chiều của
không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao, tính một chiều của thời gian là
chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian mà chúng ta đang nói tới ở đây là
không gian hiện thực, không gian ba chiều. Nên chú ý rằng, trong toán học ngoài
phạm trù không gian ba chiều còn có phạm trù không gian n chiều, v.v… Đó là sự
trừu tượng hoá toán học, một công cụ toán học dùng để nghiên cứu các đối tượng
đặc thù.
1.2.3.Ý nghĩa phương pháp luận
* Định nghĩa vật chất của Lênin
- Vì vật chất có trước, quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật
khách quan”.Cụ thể:
+ Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho
mọi hành động của mình; không được lấy ý muốn chủ quan làm điểm xuất phát.
+ Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
cho địa phương mình, đơn vị mình, ngành mình, phải nắm chắc tình hình thực tế
khách quan thì mới nêu ra mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong
hoạt động thực tiễn.
- Chống thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan,
không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tuỳ tiện, phiến diện, lấy ý muốn,
nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương chính sách; hậu quả là
đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt
động thực tiễn.
* Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
- Phải nhận thức sự vật trong trạng thái vận động của nó.
- Tránh chủ quan duy ý chí, quy vận động này vào vận động khác.
- Nhìn nhận thế giới trong trạng thái vốn có của nó.