You are on page 1of 103

THUYẾT SPIN

Sơ lược:
Với việc chứng minh một cách rỏ ràng, bản chất của sự bất biến của vận tốc
ánh sáng không liên quan đến không gian và thời gian, như thuyết Tương đối
đã khẵng định. Định luật quan hệ vận tốc, định luật phân bố bức xạ và hệ quả
của các định luật này cũng đã được thiết lập, giải thích đầy đủ bản chất của
sự bất biến của vận tốc ánh sáng. Đồng thời, quan niệm mới về các bức xạ
trong không gian vật chất cùng với các định luật quan hệ vận tốc, định luật
phân bố bức xạ cũng là nền tảng để thiết lập lý thuyết tổng quát về vũ trụ. Chỉ
dựa trên một sự khác nhau duy nhất giữa các phần tử vật chất là thuộc tính
spin, lý thuyết được thành lập đã giải quyết trọn vẹn các vấn đề sau:
-Bản chất của các tương tác thông qua khoảng cách như tương tác hấp dẫn,
tương tác điện từ, tương tác hạt nhân v.v…
- Bản chất của những hiện tượng điện từ, nguyên nhân của cấu trúc nguyên tử.
-Khối lượng và tính quán tính của khối lượng.
-Bản chất của các hiện tượng nhiệt.
- Cấu trúc, hình dáng và giới hạn tận cùng của vũ trụ.

1- Lý thuyết Spin chỉ sữ dụng Toán Giải Tích thay vì Giải Tích Vecto
Tư duy toán học là vô hạn, nhưng thực tế và sự tồn tại là hữu hạn. Định lý Bất
Toàn Godel chỉ có thể áp dụng cho vô hạn (ngoài thứ này còn có thứ khác bao
quanh), trong khi đó nguyên lý bất định Heisenberg lại vi phạm sự tồn tại vật
chất hiện hữu. Năm 1931 Kurt Godel đã khám phá ra định lý bất toàn, được
phát biểu như sau:
Bất cứ điều gì mà bạn có thể vẽ một vòng tròn bao quanh nó sẽ không thể tự
giải thích về bản thân nó mà không tham chiếu đến một cái gì đó ở bên ngoài
vòng tròn – một cái gì đó mà bạn phải thừa nhận là đúng nhưng không thể
chứng minh.
Tất cả các nhà khoa học đều coi đây là khám phá toán học vĩ đại nhất của thế
kỷ 20th. Tiên đề của định lý bất toàn là, ngoài vòng tròn nhỏ sẽ có vòng tròn to
hơn, toán học cũng đã có khái niệm về đại lượng vô cùng bé và vô cùng lớn,
với định nghĩa rất rõ ràng: Một đại lượng được coi là vô cùng bé, nếu cho
trước một số bé bao nhiêu tuỳ ý, ta luôn tìm được giá trị của đại lượng bé hơn
số đó. Một đại lượng được coi là vô cùng lớn nếu cho trước một số lớn bao
nhiêu tuỳ ý, ta luôn tìm được giá trị của đại lượng lớn hơn số đó. Thế nhưng,
khi lý thuyết Spin ra đời, thì có vẻ như định lý này đã mất hiệu lực hoàn toàn,

1
thậm chí bị coi là phản động, cản trở nổ lực nhận thức về thế giới khách quan
của con người. Với việc bổ sung thêm hai định luật mới vào kho tàng kiến thức
khoa học của nhân loại, lý thuyết Spin đã bao trùm mọi hiện tượng trong vũ trụ
chỉ với một khái niệm duy nhất là Spin. Sự bao trùm này là nhất quán, tổng
quát và tuyệt đối với thế giới quan chuẩn tắc: Vũ trụ là hình cầu lấp đầy photon
với spin W = C , các phần tử vật chất là nơi có mật độ photon cao hơn mật độ
photon không gian và có spin W = C/R (C vận tốc ánh sáng, R bán kính phần
tử đơn vị). Đã có cái bé nhât, thì không thể có có thứ gì bé hơn nó, tức chân
không tuyệt đối không thể tồn tại, đã có cái lớn nhất, thì không thể có thứ gì
lớn hơn nó, tức ngoài vũ trụ là chân không tuyệt đối. theo logic toán học thì
chân không là không có bất cứ thứ gì tồn tại, nếu có sự tồn tại thì không thể coi
là chân không được, hay nói cách khác, không có bất cứ thứ gì xuyên qua chân
không tuyệt đối được kể cả ý nghĩ của con người, tức chân không tuyệt đối
đồng nghĩa với rắn tuyệt đối. Bằng tư duy logic toán học không triệt để, con
người đã suy diễn ra môi trường chân không tuyệt đối trong vũ trụ đã vi phạm
logic toán học, gây nên thảm hoạ khôn lường cho khoa học. Tiên đề của định
lý bất toàn đã chứng tỏ là chưa khách quan, nên định lý này coi như phá sản.
Tương tự, nguyên lý bất định Heisenberg cũng phải phá sản nốt. Do bởi, nếu
thay vì khái niệm vận tốc dài tại một thời điểm nào đó bằng khái niệm vận tốc
tiếp tuyến của chuyển động xoay quanh một điểm nào đó (spin), thì tất cả mọi
phẩn tử trong vũ trụ đều quay quanh nhau tại thời điểm đó, hay sự khác nhau
duy nhất giữa các phần tử là spin, vậy nên vị trí của các phần tử được xác định
rõ ràng và không phụ thuộc vào việc xác định tốc độ. Chính vì quan niệm
không nhất quán về vận tốc tương đối và tuyệt đối mà nền khoa học của chúng
ta đã rơi vào mê cung bất định.
Lý thuyết Spin đã thống nhất vật lý và toán học lại thành một thể thống nhất
không thể tách rời, đồng thời chứng minh được vũ trụ là hình cầu lấp đầy
photon với một thế giới quan chuẩn:
- Không gian và thời gian là hai khái niệm toán học của tư duy, độc lập và
không phụ thuộc vào thế giới khách quan. Đó là những khái niệm tuyệt đối. -
Vũ trụ là hình cầu lấp đầy photon với spin W= C.
- Vật chất là nơi có mật độ photon cao hơn mật độ photon không gian.
C
- Spin vật chất có trị số W= R (C vận tốc ánh sáng, R bán kính phần tử đơn vị)
chuyển động tương đối so với nhau, còn Photon không gian luôn đứng im một
chổ.
Muốn hiểu được vũ trụ, loài người nhất thiết phải chấm dứt áp dụng khái niệm
vô hạn trong toán học, tức định lý Bất Toàn và nguyên lý Bất Định vào các
nghiên cứu về thế giới vật chất.

2
Toán học là môn khoa học định lượng, nếu thiếu dấu bằng ( = ) thì toán học sẽ
không còn là toán hay là tính nữa. Khi các nhà toán học dùng con số để biểu
diễn các đại lượng có hướng và sáng tạo ra môn Hình Học Giải tích, sau đó là
Giải Tích Vec Tơ, vô hình chung họ đã tiếp tay cho sự nguỵ biện của các nhà
vật lý lý thuyết hiện nay. Giải Tích Vec Tơ đã tỏ ra là công cụ vô cùng hiệu lực
cho các nhà vật lý lý thuyết đến mức nếu không có môn toán học này thì cũng
sẽ không có nền vật lý hiện đại. Các đại lượng có hướng được biểu diễn bới
vecto với mô đun, phương chiều cụ thể trong không gian nào đó, có thể là
không gian Euclid hoặc không gian 11 chiều như lý thuyết Dây (String theory)
chẳng hạn, thoạt nhìn có vẻ rất có lý nhưng nếu ta đặt câu hỏi: Liệu có mấy ai
cùng nhìn thấy một vecto có mô đun, phương chiều như nhau? Tính tương đối
không cho phép chúng ta thực hiện được điều đó, vì khái niệm vecto hay các
đại lượng có hướng là khái niệm cục bộ, tức trường hợp cụ thể nên không tổng
quát cho toàn vũ trụ như các đại lượng vô hướng. Chính vì hạn chế này mà đôi
khi các phương trình vật lý biểu diễn bằng giải tích vecto rất lúng túng trong
việc sử dụng dấu bằng ( = ) thay vào đó là các phương trình không tường minh
vô thưởng vô phạt. Đây là đất để các nhà vật lý lý thuyết có thể trình bày
những ý tưởng phi vật chất, siêu hình theo ý của họ mà không thể có ai bắt bẻ
được, khiến cho nền vật lý lý thuyết của nhân loại bị chệch hướng.
Cho dù nền văn minh trên trái Đất có đạt được những thành tựu khoa học kỹ
thuật đồ sộ tới đâu đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ là thành tựu của nền khoa học
xuất phát từ trực giác, nếu cứ tự hào với niềm kiêu hãnh đó thì mãi mãi nhân
loại này sẽ chỉ như múa gậy trong bị, quanh quẩn không có lối ra. Mọi tư duy
đều phải căn cứ theo tiến trình vận hành của mọi quá trình, vậy nên khái niệm
tốc độ là nền tảng lý luận cho mọi tư duy, nếu quan niệm không nhất quán và
tổng quát về tốc độ kéo theo đó là không gian và thời gian, thì mọi kết quả tư
duy và lý luận của chúng ta đều không nhất quán và tổng quát trên phạm vi cho
toàn vũ trụ. Đơn cử, tất cả chúng ta đều vẫn thường nghe phát biểu quen thuộc
trong các giáo trình vật lý rằng, A chuyển động so với B với vận tốc là
vectoVab, vô hình chung người phát biểu đã chủ quan coi tất cả thế giới này
cùng chuyển động như anh ta, nhưng thực tế thì tất cả thế giới vật chất đều
đang chuyển động tương đối so với nhau. Từ quan niệm trực giác và chủ quan
về tốc độ đã khiến cho nền khoa học trực giác của chúng ta hiểu sai về không
gian và thời gian, kết quả là mọi kết luận và lý thuyết đều không nhất quán và
tổng quát. Ranh giới giữa Đúng và Sai trong khoa học bị nhạt nhoà, nền khoa
học chính thống mà đã như thế sẽ kéo theo mọi chủ thuyết, lý luận khác nhau
của loài người phát triển như nấm, không ai phục ai, vì nhân loại ngơ ngát
không thể nào phân xử nổi ai đúng ai sai, và cứ thể mà xã hội đa sắc tộc của
loài người trên trái Đất mất ổn định để phát triển trường tồn.

3
2- Không gian tuyệt đối và thời gian tuyệt đối.
Qua 2 điểm cố định có vô số đường đi qua 2 điểm đó, nhưng đường thẳng là
đường ngắn nhất. Vấn đề là ta không có căn cứ nào để phân biệt đâu là đường
thẳng đâu là đường cong. Đối với các nhà toán học, họ có thể dùng khái niệm
vô cùng lớn, vô cùng bé để sự thỏa hiệp là có thể chấp nhận được. Đối với nhà
vật lý thì thực tế chỉ có một, cong là cong, thẳng là thẳng, không có chuyện có
thể là cong mà cũng có thể là thẳng được. Định nghĩa vật lý về đường thẳng:
- Đường thẳng là đường trùng với trục con quay tự do. 
Định luật bảo toàn hướng trục con quay tự do đã được lý thuyết và thực
nghiệm khẳng định, đang được ứng dụng là con quay hồi chuyển trong các
thiết bị định hướng của hàng không và vũ trụ hiện nay.
Định nghĩa này đã giúp cho các nhà vật lý phân biệt được đâu là cong, đâu là
thẳng một cách tuyệt đối. Đơn cử, hướng trục con quay hồi chuyển theo hướng
đường bất kỳ nào đó nối giữa 2 điểm và khởi động con quay, nếu trên đường đi
mà hướng trục con quay không trùng với hướng đi, thì đó là đường cong, nếu
luôn trùng với hướng đi thì đó là đường thẳng. Do vậy, theo phương của trục
con quay tự do, ta luôn xác định được đường thẳng trong không gian, qua đó
xác định mặt phẳng, khoảng cách v.v... tức không gian vũ trụ là không gian
Euclid, mọi mô hình không gian khác đều là mô hình không gian toán học.
Tính chất tức thời của hình ảnh nguồn “Tại thời điểm, khi ánh sáng từ nguồn
tới người quan sát là hình ảnh của nguồn tại thời điểm ấy”, hay sự đồng thời
giữa ảnh gương và vật soi gương (đã được phân tích qua thí nghiệm nguồn
sáng giữa 2 gương phẳng) đã khẳng định rằng: Tia ánh sáng luôn là một đường
thẳng liên tục và không gián đoạn nối từ nguồn đến người quan sát. Hiện tượng
thấu kính hấp dẫn làm tia sáng bị uốn cong là theo quan điểm vật lý hiện đại,
chỉ là một cách giải thích và tính toán, dựa trên giả thuyết "không gian bị uốn
cong do vật thể có khối lượng gây ra". Thuyết Spin đã chỉ ra rằng, chính môi
trường spin bức xạ khối lượng lân cận vật thể có khối lượng lớn đạt tới mật độ
spin bức xạ dày đặc đến mức có tính chất thấu kính như vật chất, nên tia ánh
sáng bị khúc xạ như khi xuyên qua thấu kính chứ không phải bị uốn cong.
Trong trường hợp như vậy thì, ánh sáng từ thấu kính đến chúng ta, được coi là
từ nguồn thứ cấp (Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến khoảng cách giữa 2 điểm theo
định nghĩa đường thẳng vật lý mà thôi).
Đã có không gian tuyệt đối, thì phải có thời gian tuyệt đối. 
Dựa trên sự đối xứng gương giữa vật và ảnh trong gương, thì mọi quá trình xãy
ra trong tia tới và tia phản xạ là đồng thời, hay tia tới và tia phản xạ xuất hiện
đồng thời với nhau, kể từ thời điểm tia tới chạm mặt gương (khi tia tới chạm
mặt gương, thì tia phản xạ trong gương cũng chạm mặt gương đồng thời tại

4
thời điểm đó). Hiện tượng đối xứng gương đã khẳng định, chúng ta chỉ có thể
quan sát hình ảnh hiện tại của mọi vật chứ không thể quan sát được quá khứ
lẫn tương lai như đang quan niệm hiện nay. Để xác định đơn vị thời gian tuyệt
đối, ta có thể truyền hình trực tiếp chiếc đồng hồ đang chạy ra khắp vũ trụ, tuy
hình ảnh đến từng khoảng cách với thời gian khác nhau, nhưng các nhà du
hành trên các con tàu xa xôi đều nhận được hình ảnh chiếc đồng hồ đang chạy
với cùng một nhịp, lấy nhịp đó làm đơn vị thời gian tuyệt đối. Cách xác định
này tuy có hơi khập khiểng, vì sóng điện từ và ánh sáng khác nhau hoàn toàn
về bản chất, sóng điện từ có độ trể còn ánh sáng thì không, nên chỉ với mục
đích để các bạn dể hình dung. Các bạn có thể hình dung, hình ảnh cái đồng hồ
cố định trên trái Đất trong các chiếc gương đang bay với mọi vận tốc khác
nhau, khắp mọi nơi trong vũ trụ, khi đó hình ảnh của chiếc đồng hồ trong mọi
cái gương đều cùng chỉ giờ như nhau.
3- Tương đối và tuyệt đối.
Khái niệm chuyển động luôn gắn liền với không gian và thời gian, không
những thế, mà toàn bộ các ngành khoa học của nhân loại cũng phải gắn liền
với nó, vì chuyển động là thuộc tính của vật chất, là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân. Do tính tương đối của chuyển động, chúng ta chỉ có thể nhận biết
được vật này chuyển động so với vật kia bằng cách so sánh vận tốc giữa chúng
với chúng ta, và thế là khái niệm hệ qui chiếu ra đời. Chúng ta có thể chọn bất
cứ thứ gì tồn tại trong vũ trụ làm hệ qui chiếu, trong khi mọi thứ tồn tại trong
vũ trụ đều chuyễn động tương đối với nhau, do vậy mà trong quan niệm của
chúng ta không thể có hệ qui chiếu tuyệt đối. Hay nói một cách khác thì, nền
khoa học của chúng ta là nền khoa học tương đối, tức có thể đúng lúc này và
cũng có thể sai lúc khác, tuỳ theo quan niệm của các tư duy khác nhau về tự
nhiên và vũ trụ. Đối với một tư duy lành mạnh, thì điều này là không thể chấp
nhận được vì, đã là khoa học thì đúng và sai phải được phân định rỏ ràng một
cách tuyệt đối như toán học vậy. Để khắc phục khiếm khuyết của nền khoa học
tương đối, chúng ta phải xác định được hệ qui chiếu tuyệt đối cho mọi chuyển
động trong vũ trụ, thì mới có thể có nền khoa học tuyệt đối. Có như vậy, chúng
ta mới không còn mãy may nghi ngờ gì kiến thức về tự nhiên, yên tâm phát
triển nền khoa học tuyệt đối của chúng ta một cách bền vững và nhất quán vĩnh
viễn. Hiện tượng bất biến của vận tốc ánh sáng đối với mọi hệ qui chiếu, C =
const, cụ thể là, cho dù ta có đứng im hay chuyển động với vận tốc ánh sáng đi
chăng nữa, thì vận tốc tương đối giữa chúng ta và vận tốc ánh sáng vẫn là C,
thậm chí là vận tốc tương đối giữa ánh sáng so với ánh sáng vẫn cứ phải là
hằng số C. Nếu có một điểm “Đen” nào đó trong thực tế, đứng im tuyệt đối
trong vũ trụ, thì vận tốc ánh sáng so với nó vẫn cứ phải là C. Điều này chứng
tỏ rằng, vận tốc ánh sáng là vận tốc tuyệt đối trong vũ trụ và chúng ta có thể

5
chọn ánh sáng làm hệ qui chiếu tuyệt đối. Vấn đề bây giờ là làm sao có thể
chọn ánh sáng làm hệ qui chiếu được, trong khi mà, không có cách gì để so
sánh các vận tốc của các hệ qui chiếu khác nhau với vận tốc ánh sáng. Trên cơ
sở định luật quan hệ vận tốc, chúng ta sẽ thực hiện được việc chọn ánh sáng là
hệ qui chiếu tuyệt đối mà không gặp bất cứ trở ngại gì. Chính nhờ vào việc
chọn ánh sáng làm hệ qui chiếu tuyệt đối, mà thuyết Spin đã mô tả vũ trụ một
cách đơn giản, rỏ ràng và nhất quán, không những thế, tự nhiên lại dường như
muốn mách bảo rất nhiều điều cho thuyết này.

MẬT ĐỘ ĐƯỜNG SỨC VÀ VẬN TỐC BỨC XẠ TRONG KHÔNG


GIAN.
CÁC TƯƠNG TÁC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CẤU TRÚC VŨ TRỤ

Thuyết tương đối hẹp coi vận tốc ánh sáng là bất biến và có giá trị giới nội C
đối với mọi hệ quy chiếu như là một tiên đề, từ đó rút ra các kết luận toán học
về sự phụ thuộc thời gian riêng và không gian riêng của một hệ qui chiếu bất
kỳ vào vận tốc tương đối của hệ qui chiếu đó, thông qua các công thức biến đổi
Lorentz. Liệu đây có phải là tiên đề hiển nhiên không?
Để tiện cho việc trình bày quan điểm mới về sự bất biến của vận tốc ánh sáng
đối với mọi hệ qui chiếu, chúng ta cần phải nhắc lại phương pháp tư duy và
những hiệu ứng về không gian và thời gian mà thuyết tương đối đã chỉ ra, khi
coi sự bất biến của vận tốc ánh sáng như là một tiên đề từ kết quả thí nghiệm
của Michelson. Dựa vào nguyên lý tương đối, được phát biểu như sau: Bất kỳ
phương trình nào cũng phải thể hiện như nhau đối với các hệ qui chiếu quán
tính khác nhau. Thông qua các phép biến đổi Lorentz, Einstein đã phát triển
thành thuyết tương đối về không gian và thời gian, để giải quyết mâu thuẩn
giữa định luật cộng vận tốc của Galilei và sự bất biến của vận tốc ánh sáng đối
với các hệ qui chiếu quán tính khác nhau. Vấn đề cốt yếu ở đây là phải tìm ra
các biến đổi có dạng tổng quát hơn các biến đổi Galilei đối với việc chuyển từ
hệ quán tính này sang hệ quán tính khác. Giống như các biến đổi Galilei, các
biển đổi ấy phải thỏa mãn một số yêu cầu có đặc tính tổng quát sau:
1- Các công thức chuyển đổi phải đối xứng đối với cả hai hệ quán tính. Ta sẽ
ký hiệu các đại lượng liên quan với hệ này bằng các chữ không có dấu phẩy,
còn liên quan với hệ kia bằng các chữ có dấu phẩy. Sau đó phải tìm các công
thức biểu diễn x,y, z và t qua x¢, y¢, z¢ và t¢ sao cho các đại lượng “có dấu
phẩy” biểu diễn qua các đại lượng “không dấu phẩy” hoặc các đại lượng
“không dấu phẩy” qua các đại lượng “có dấu phẩy” bằng những công thức có
dạng như nhau.

6
Vận tốc của hệ qui chiếu “có dấu phẩy” đối với hệ “không dấu phẩy” ký hiệu
bằng chữ V. Khi đó những công thức chuyển trực tiếp phải được biến đổi thành
những công thức ngược lại, khi thay V bằng - V. Yêu cầu này là cần thiết đối
với sự bình đẳng của hai hệ qui chiếu.
2- Phép biến đổi phải chuyển các điểm của hệ qui chiếu này, ở cách gốc tọa độ
tùy ý một khoảng hữu hạn, thành các điểm, cũng ở cách gốc tùy ý của hệ qui
chiếu kia một khoảng hữu hạn.
Yêu cầu thứ nhất giới hạn tối đa dạng khả dĩ của các biến đổi. Thí dụ, các hàm
của biến đổi không thể là bậc hai, vì phép nghịch đảo của hàm bậc hai sẽ dẫn
đến sự vô tỉ giống như phép nghịch đảo của hàm có bậc bất kỳ, trừ bậc nhất.
Phép biến đổi phân tuyến, nghĩa là thương số của phép chia hai biểu thức tuyến
tính, với một vài hạn chế đặt cho các hệ số, có thể nghịch đảo được nhờ một
hàm có cùng dạng đó. Thí dụ, đối với một biến số các hàm phân tuyến thuận
và đảo có dạng sau:
a.x +b b - f . x¢
x¢= x=
e.x + f ¢ , e. x¢- a
a
x¢=
Nhưng các hàm ấy không thỏa mãn điều kiện thứ hai, nếu e thì x tiến
đến vô cùng. Vì vậy chỉ có duy nhất một hàm bậc nhất.
3- Khi vận tốc tương đối của hai hệ tiến tới không, các công thức chuyển sẽ
cho đồng nhất thức: x =x¢, y = y¢, z =z¢,t =t¢
4- Từ các công thức biến đổi suy ra định luật cộng các vận tốc, trong đó vận
tốc ánh sáng trong chân không là bất biến.
Tóm lại, ta nói một cách ngắn gọn rằng các công thức chuyển phải là: 1) Bảo
toàn dạng khi đảo, 2) Bậc nhất, 3) Với những vận tốc tương đối nhỏ chúng
chuyển thành đồng nhất thức, 4) Không làm thay đổi vận tốc ánh sáng trong
chân không.
Bốn điều kiện này là đủ. Để cho phép tính đơn giản ta hướng các tọa độ nào
đó, thí dụ x và x¢ , dọc theo vận tốc tương đối của hai hệ. Khi đó các tọa độ
đặt theo những trục khác sẽ hoàn toàn không bị phép biến đổi tác động tới,
nghĩa là y = y¢, z =z¢
Khi đó các phép biến đổi tuyến tính của x và t dưới dạng tổng quát nhất có thể
được biểu diễn như sau :
x¢=a .x + b . (1)
t ¢=g.x + d .t (2)
Các hệ số x =x , y = y , z =z ,t =t ,a , b ,g,d được xác định từ các điều kiện 1-4.
¢ ¢ ¢ ¢
Những số hạng không đổi trong các công thức này không cần viết; chúng có
thể được bao gồm trong x hoặc x¢ do việc chọn gốc qui chiếu.

7
Hãy áp dụng công thức (1) cho gốc tọa độ của hệ “có dấu phẩy” , tức x¢=0 .
Đối với hệ “không dấu phẩy” điểm này chuyển động với vận tốc V. Do đó,
x =V .t . Thay x¢=0 , x =V .t vào (2) và ước lược t ta được:
a .V + b =0 (3)
Giải các phương trình (3-1) và (3-2) đối với x và t. Các phép tính đại số sơ cấp
sẽ cho :
d. x¢- b .t¢
x=
a .d - b.g (4)

g. x¢- a .t ¢
t=
b .g - a .d (5)
Bây giờ ta áp dụng điều kiện thứ nhất. Sơ bộ nhận thấy rằng các hệ số b và
g , liên hệ tọa độ và thời gian với nhau, phải đổi dấu đồng thời với vận tốc V.
Ngược lại, nếu đảo các trục x và x’ theo chiều ngược lại, các công thức không
bảo toàn dạng, điều này không được phép. Sự biến đổi của x thành -x và x’
thành - x’ tương đương với biến đổi của V thành -V, khi đó muốn cho công
thức (1) không thay đổi, ta phải đòi hỏi dấu của b biến đổi đồng thời với V.
Điều này phù hợp cả với (3).
Như vậy, điều cần thiết để cho các công thức chuyển ngược từ x’ sang x khác
với các công thức chuyển thuận (1) và (2) bởi các dấu trước b và g :
x =a . x¢- b.t ¢ (6)
t =- g. x¢+ d .t ¢ (7)
So sánh (6) và (4), ta được:
d
a=
a .d - b.g (8)
-b
-b=
a .d - b.g (9)
Từ (9) suy ra rằng:
a .d - b.g =1 (10)
Khi đó (8) cho:
a =d (11)
Đó là tất cả những điều cần thiết cho sự đối xứng giữa các công thức thuận và
ngược.
Bây giờ ta áp dụng điều kiện thứ tư. Muốn thế ta chia phương trình (1) cho (2):

8
x

a . +b
= t
t¢ x
g. + d
t (12)
Giả sử x là điểm, tại đó có tín hiệu ánh sáng, xuất phát ở thời điểm đầu t =0
x
=c
từ gốc tọa độ của “không dấu phẩy”. Rỏ ràng rằng t , nhưng theo điều

=c
kiện thứ tư thì t¢ . Do đó,
a .c + b
c=
g.c + d (13)
Ta thay các hệ thức (3-3) và (3-11) vào (3-13) để khử b và d . Còn lại hệ
thức giữa a và g :
g.c 2 + a .c =a .c - a .V
Từ đó ta có:
V
g =- a .
c2 (14)
Thay (14), (3) và (11) vào (10), ta tìm được phương trình đối với a :
V2
a 2 (1- a 2 (1- )) =1
c2 (15)
Khi khai căn ta phải lấy dấu dương theo điều kiện 3, lúc đó ứng với vận tốc
tương đối nhỏ (2) chuyển thành t =t¢ (nếu khác đi thì sẽ được t =- t¢ , điều
này vô nghĩa).
Biểu diễn tất cả các hệ số a , b,g và d theo những phương trình (15), (3),
(14) và (11) rồi thay vào (1) và (2), ta sẽ đi đến các biến đổi cần tìm:
x - V .t
x¢=
V2
1-
c2 (16)
V .x
t-
t ¢= c2
V2
1- 2
c (17)
Các công thức này gọi là “các phép biến đổi Lorentz”. Các công thức ngược
theo (6) và (7) có dạng sau:
x¢- V .t ¢
x=
V2
1-
c2 (18)

9
V . x¢
t ¢-
t= c2
V2
1- 2
c (19)
Để làm sáng tỏ ý nghĩa của những công thức biến đổi này, ta hãy áp dụng
chúng vào một số bài toán riêng. Giả sử ở gốc tọa độ x¢=0 của hệ “có dấu
phẩy” có một đồng hồ nằm yên và chỉ thời gian là t ¢ , khi đó từ công thức (3-
19) suy ra:

t=
V2
1- 2
c (20a)
Ta gọi đồng hồ nằm yên đối với hệ qui chiếu của nó là đồng hồ của người quan
sát. Từ công thức (20a) rỏ ràng rằng người quan sát này so đồng hồ của mình,
đang chỉ thời gian t, với đồng hồ của người quan sát kia thì bao giờ cũng kết
luận rằng đồng hồ này chậm, nghĩa là t > t¢ . Nếu đồng hồ nằm yên ở gốc tọa
độ của hệ “không dấu phẩy”, nghĩa là tại điểm x =0 , thì công thức chuyển
có cùng dạng đó, vì theo (17):
t
t ¢=
V2
1-
c2 (20b)
Điều này không những không mâu thuẩn với (20a) mà còn biểu thị chính xác
điều sau đây: Đồng hồ chuyển động đối với một người quan sát nào đấy chạy
chậm hơn đồng hồ của người đó.
Khái niệm về độ dài của một đoạn cũng là tương đối. Muốn nhận biết độ dài
của một vật chuyển động - tức là một cái “thước”, ta phải đặt đồng thời tọa độ
các đầu của nó trong hệ qui chiếu đứng yên. Về nguyên tắc người quan sát
đứng yên không có phương pháp khác đo thước chuyển động, vì nếu không thế
thì người đó phải dừng thước lại, nghĩa là chuyển nó sang hệ qui chiếu của
mình. Người đó phải lấy “dấu” của các đầu thước chuyển động một cách đồng
thời theo đồng hồ của mình, giả sử ở cùng thời điểm: t =0 . Khái niệm về sự
đồng thời của hai thao tác tiến hành trong cùng một hệ qui chiếu có thể được
xác định một cách đơn trị bằng các tín hiệu ánh sáng, bằng cách đưa một lượng
hiệu chỉnh vào thời gian truyền của ánh sáng.
Thay t =0 vào (16), ta được biểu thức độ dài của thước chuyển động đối với
thước đứng yên :
D.x
D . x¢=
V2
1-
c2 (21)

10
Nếu các người quan sát đổi vai trò cho nhau và người chuyển động cùng với
thước, đo thước của người quan sát “không dấu phẩy” thì sẽ được một công
thức tương tự, trong đó D . x¢ đứng bên vế phải, còn D .x bên vế trái. Cả hai
công thức liên hệ độ dài của thước đứng yên và chuyển động đều diễn tả cùng
một điều: Thước chuyển động bị co ngắn so với thước đứng yên.
Trên đây là những điều cơ bản và những kết luận của thuyết tương đối để hình
thành nên quan điểm hiện nay về tính tương đối của không gian và thời gian.
Bây giờ chúng ta sẽ nhìn nhận lại các kết quả của thuyết tương đối theo một
cách nhìn hoàn toàn khác với những quan điểm hiện nay.

1- Định luật Quan Hệ Vận Tốc và các quan niệm mới về bức xạ trong
không gian.

Mọi véc tơ vận tốc bất kỳ ⃗v đều có thể phân tích thành hai thành phần vuông
góc ⃗v x ,⃗v y theo Pitago ta có:
v

v y= v −v 2 → 2
x √
v y=v . 1−
v
x
2
2

0
Để đơn giản, ta lựa chọn phương chiếu hợp với ⃗v một góc 45 , khi đó
v x=v y =V , thay vào công thức trên ta có:
V2

Chia s cho hai vế:


V =v . 1− 2
v √
s
s v
=
V V2

t=
s
t' =
s
√ 1−
v2

Đặt V , v '
(coi t , t là thời gian để các vận tốc v và V đi hết
quãng đường có độ dài s), thay vào công thức trên ta có:
t'
t=
V2
√ 1−
v2
Vận tốc v cũng chính là vận tốc tương đối giữa hai vận tốc thành phần V, nên
'
khi coi t là thời gian của hệ được xem như là đứng yên, thì t sẽ là thời gian
của hệ có vận tốc v so với hệ đứng yên kia.
Đặc biệt, nếu v=c, ta có:

11
'
t
t=
V2

Công thức trên đã chứng tỏ rằng t


√ 1−
c2
'
, t là những khoảng thời gian để vận
tốc ánh sáng c và vận tốc thành phần V đi hết một quãng đường như nhau mà
thôi, chứ không phải là thời gian riêng cho từng hệ qui chiếu như thuyết tương
đối đã khẳng định.
Tổng quát, khi phân tích một vận tốc nào đó thành hai thành phần vuông góc
bằng nhau, tuy là hai vận tốc khác nhau vì có hướng khác nhau, nhưng các vận
tốc thành phần đều coi vận tốc đó là bất biến. Véc tơ ⃗v có thể phân tích
thành hai thành phần vuông góc bằng nhau ⃗v x ,⃗v y ( v x=v y ) theo mọi phương
⃗v x ,⃗v y
tùy ý, do vậy tập gồm các véc tơ vận tốc thành phần ( n n với n nguyên
dương) của véc tơ ⃗v luôn thỏa mãn đẵng thức bất biến:
⃗v 1 ⃗v 2 ⃗v 3 ⃗v
= = . . .= n
⃗v ⃗v ⃗v ⃗v ( ⃗v 1≠⃗v 2 . ..≠⃗v n với n nguyên dương ) (1-1)
Rỏ ràng rằng, sự bất biến được đề cập ở trên, là sự bất biến trong toán học chứ
không phải là sự bất biến trong vật lý.
Theo thuyết Tương Đối, nếu một người bay với vận tốc xấp xĩ ánh sáng, khi
trở về trái Đất anh ta sẽ trẻ hơn những người khác hàng 100 năm. Đây là
nghịch lý hay sự thực? Lý thuyết Spin chỉ ra rằng, đây là sự thực hiển nhiên
chứ không phải là nghịch lý, vì thuyết tương đối xuất phát từ các phương trình
tương đương toán học, nên cho kết quả cũng là ảo giác, giống như ảo giác mặt
2
C
Trời quay quanh trái Đất vậy. Lực hạt nhân F=M (M khối lượng, R bán
R
kính, C vận tốc ánh sáng) là nguyên nhân của mọi quá trình xãy ra trong vũ trụ,
kể cả quá trình sinh lão bệnh tử của muôn loài chúng sinh. Khi M chuyển động
M .V
với vận tốc V, sẽ bức xạ ra spin Từ khối lượng B= R , môi trường bức xạ
M .V2
này tạo ra lực quán tính F qt = chống lại lực hạt nhân:
R
M . ( C 2−V 2 )
F t=F−F qt = làm chậm mọi quá trình do lực hạt nhân F gây ra chứ
R
không phải thời gian co lại như thuyết tương đối đã kết luận. Cụ thể hơn, xét
tích ( C 2−V 2 ) trong đẳng thức trên ta có:
S
V2 S t '=

C . 1− 2 ; Gọi t= ,
C V C 1−
V 2 thời gian để √ ( C 2−V 2 ) đi hết quãng đường S,
C2√
ta có công thức tính thời gian bị chậm bởi V gây ra:

12
t
t '=
V 2 hoàn toàn trùng với công thức Lorentz của Einstein. Điều này cắt
√ 1−
C2
nghĩa tại sao các nhà khoa học tuy hiểu sai về hiệu ứng thời gian do chuyển
động gây ra, nhưng dùng công thức này vẫn luôn chính xác với thực tế. Ta có
thể đi đến kết luận cuối cùng:
Thời gian và không gian là khái niệm toán học của tư duy, độc lập và không
phụ thuộc vào thế giới khách quan. Đó là những khái niệm tuyệt đối

Giả sử vận tốc tương đối giữa hai hệ qui chiếu bất kỳ (A,B) là ⃗v AB , trong thực
tế, không thể có vận tốc nào lớn hơn vận tốc ánh sáng c, do vậy chúng ta luôn
dựng được tam giác vuông cân, với cạnh huyền bằng c, các cạnh bên là K.v (K
là hệ số tỷ lệ, v là mô đun vận tốc ⃗v AB ), điều này cũng có nghĩa là các véc tơ
K ⃗v là vận tốc thành phần của vận tốc ánh sáng, hay nói một cách khác, véc
tơ ⃗c là bất biến đối với mọi véc tơ K ⃗v . Đến lượt véc tơ ⃗v AB , về mặt lý
thuyết, thì có thể coi các thành phần vuông góc và bằng nhau ( ⃗v x , ⃗v y ) của
véc tơ ⃗v AB là vận tốc của từng hệ qui chiếu trong chuyển động tương đối
⃗v AB , vì rằng ⃗v x , ⃗v y thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu về tính tương đối của
chuyển động cũng như sự bình đẵng giữa hai hệ qui chiếu. Cụ thể là, các véc tơ
⃗v x , ⃗v y bằng nhau và ngược chiều, tức ⃗v x , ⃗v y cùng hướng vào góc vuông
hoặc cùng hướng ra xa góc vuông, khi chiếu lên phương của véc tơ ⃗v AB thì
hình chiếu của các véc tơ này vẫn bằng nhau và ngược hướng. Hơn thế nữa,
các véc tơ ⃗v x , ⃗v y tồn tại đồng thời với véc tơ ⃗v AB , trong khi khái niệm
thông thường về vận tốc tương đối thì, hoặc là A hoặc là B chuyển động với
vận tốc ⃗v AB hoặc ⃗v BA , nên không những mâu thuẩn về sự tồn tại, mà còn
thiếu tính khách quan về sự bình đẵng giữa các hệ qui chiếu trong chuyển động
tương đối so với nhau.
Khi dùng ánh sáng để xác định vận tốc tương đối của hai hệ qui chiếu, với khái
niệm như đã được trình bày ở trên, vô hình chung chúng ta đã coi vận tốc của
hai hệ là bằng nhau và luôn vuông góc với nhau. Để tránh nhầm lẩn cho việc
phân tích sau này, chúng ta sẽ không gọi các véc tơ vận tốc vuông góc với
nhau này là vận tốc tương đối giữa hai hệ qui chiếu nữa, mà gọi là vận tốc
thành phần của từng hệ qui chiếu. Xuất phát từ quan điểm tương đối từ trước
cho đến nay rằng: “Tôi thấy anh chuyển động như thế nào, thì anh thấy tôi
cũng chuyển động như vậy” mà Einstein đã xây dựng nên thuyết tương đối.
Vấn đề được đặt ra ở đây là: Trong môi trường bức xạ, liệu vận tốc tương đối
giữa hai hệ qui chiếu là cùng phương, bằng nhau nhưng ngược chiều, theo như

13
quan niệm từ trước cho đến nay, hay là véc tơ hiệu của hai véc tơ vận tốc bằng
nhau, ngược chiều và vuông góc với nhau? Trực giác trong môi trường động
lực học thông thường đã khiến Einstein suy diễn ra quan điểm tương đối và
chúng ta đã công nhận, vô tình đã bỏ qua điều cốt lỏi cơ bản trong suy diễn đối
với môi trường bức xạ rằng: Khi so sánh vận tốc của hai hệ bất kỳ, thì một
trong hai hệ được chọn làm hệ qui chiếu phải được coi là đứng yên so với hệ
kia, bất chấp mọi chuyển động mà hệ qui chiếu đó có thể có, có nghĩa rằng,
mọi véc tơ vận tốc của hệ qui chiếu, nếu chiếu lên phương véc tơ vận tốc tương
đối giữa hai hệ phải bằng không, tức vuông góc với véc tơ vận tốc tương đối
đó, hay nói cách khác. Tại một thời điểm, hệ qui chiếu chuyển động quay xung
quanh hệ qui chiếu đứng yên, được coi là tâm quay với vận tốc góc có vận tốc
tiếp tuyến là véc tơ vận tốc tương đối. Do vậy nếu theo quan điểm tương đối
một cách triệt để, thì chúng ta phải suy diễn rằng, các véc tơ vận tốc tương đối
giữa hai hệ là vuông góc với nhau và bằng nhau, tổng hợp của các véc tơ vận
tốc tương đối này là véc tơ vận tốc tương đối giữa hai hệ.
Các véc tơ vận tốc thành phần và véc tơ vận tốc tương đối giữa hai hệ tạo
thành tam giác vuông cân, với các cạnh bên là các véc tơ vận tốc thành phần và
cạnh huyền là véc tơ vận tốc tương đối, tức các véc tơ vận tốc thành phần và
véc tơ vận tốc tương đối luôn thỏa mãn công thức biến đổi Lorentz. Với mục
đích, phát triển một lý thuyết tổng quát nhằm giải thích sự hình thành trong quá
khứ, lý giải sự vận động hiện tại và tiên đoán số phận tương lai sau này của Vũ
Trụ, nhất thiết chúng ta cần phải có một quan niệm nhất quán về vận tốc và
vận tốc tương đối trong chuyển động của mọi dạng tồn tại của vật chất trong
vũ trụ, vì “Lý thuyết thì nhiều, nhưng thực tế chỉ có một”.
Để nhận biết được mọi chuyển động trong môi trường động lực học thông
thường, mà không thông qua môi trường bức xạ, thì các phần tử chuyển động
phải tiếp xúc trực tiếp với nhau. Cụ thể, chúng ta đã chọn hệ qui chiếu là hệ
phòng thí nghiệm (gốc tọa độ là tâm trái đất) và coi hệ này đứng im tuyệt đối
so với mọi hệ qui chiếu khác. Khi đó mọi điểm trong không gian đều thuộc về
hệ qui chiếu cố định, các thông số tọa độ ( x , y , z ) thể hiện sự hiện diện của hệ
qui chiếu cố định tại điểm khảo sát. Nói cách khác, tại mọi điểm trong không
gian, các hệ qui chiếu chuyển động luôn tiếp xúc trực tiếp với hệ qui chiếu cố
định. Giả sử vận tốc tương đối khi tiếp xúc nhau giữa hai vật thể là ⃗v AB , để
đảm bảo sự đồng thời, bình đẵng và tính tương đối trong chuyển động, các hệ
qui chiếu phải cùng chuyển động với các vận tốc tương ứng ⃗v A ,⃗v B thỏa mãn
điều kiện:

14
(a )⃗v A =−⃗
vB
v AB v v 1
(b )v A =v B = =v → = =
2 v AB v td 2
v A −⃗v B =⃗
(c )⃗ v AB ; ⃗v B −⃗v A =⃗v BA
Mặt khác theo quan điểm vận tốc tương đối trong môi trường bức xạ, ta có:
(d )⃗v x =−⃗v y
v v v 1
(e )v x=v y =v x , y= AB = td → x , y =
√ 2 √2 v td √ 2
(g )⃗v x −⃗v y =⃗v AB ;⃗v y −⃗v x =⃗v BA
Từ các điều kiện (b) , (e) ta có v x , y=v √2 , kết hợp với các điều kiện từ
(a) đến ( (g) chứng tỏ rằng ⃗v A ,v B là vận tốc của từng hệ qui chiếu tương
ứng với vận tốc tương đối ⃗v x , v y .Vì ánh sáng là môi trường bức xạ, nên
chúng ta có định luật về quan hệ vận tốc của hệ qui chiếu bất kỳ như sau:
Định luật quan hệ vận tốc:
Vận tốc tương đối giữa hai hệ qui chiếu trong môi trường bức xạ, được biểu
diển bằng véc tơ hiệu ⃗v td của các véc tơ vận tốc thành phần ⃗v , với mô đun
được xác định theo công thức:
v 1
v td =v √ 2→ =
v td √ 2 (1-2)
Theo công thức (1-2) thì, tỷ số giữa vận tốc tương đối trong không gian cố
định (hệ qui chiếu tĩnh) và vận tốc tương đối trong không gian bức xạ (hệ qui
chiếu động) là bất biến.
Vận tốc của một vật thể là tốc độ biến thiên tọa độ của vật thể đó trong không
gian cố định trong một đơn vị thời gian, còn vận tốc tương đối là tốc độ biến
thiên tọa độ của vật thể đó trong không gian thay đổi trong một đơn vị thời
gian. Với những gì vừa được đề cập ở trên, chúng ta đều nhận thấy rằng quan
niệm hiện nay về vận tốc và vận tốc tương đối giữa các vật thể trong vũ trụ là
không nhất quán, hay nói cách khác, chúng ta đã mô tả cùng một hiện tượng
nhưng lại xãy ra trong hai không gian khác nhau. Định luật quan hệ vận tốc
cho phép chúng ta có được quan niệm nhất quán về vận tốc tương đối, bằng
cách đồng nhất không gian cố định và không gian thay đổi thành một không
gian duy nhất, hay còn được gọi là không gian vật chất. Chúng ta sẽ chứng
minh sự bất biến của vận tốc ánh sáng đối với mọi hệ qui chiếu có chuyển
động bất kỳ ở phần sau, thực ra thì sự bất biến này không liên quan gì đến các
vấn đề về chuyển động của các vật thể cả, nên trước mắt chúng ta công nhận
ánh sáng là môi trường bức xạ, hay không gian thay đổi đều với vận tốc
c=const . Điều này cũng có nghĩa chúng ta đã chọn ánh sáng là hệ qui chiếu

15
trong không gian thay đổi, tương tự như việc xác định hệ tọa độ cho hệ qui
chiếu trong không gian cố định.
Khi chọn ánh sáng làm hệ qui chiếu, thì ⃗c =const phải được coi là vận tốc
tương đối giữa hệ qui chiếu bất kỳ so với ánh sáng, tương tự như khi chúng ta
coi ⃗v là vận tốc tương đối của hệ qui chiếu nào đó so với hệ qui chiếu đứng
im ( v qc =0 ) trong không gian cố định. Chúng ta có thể chọn hệ bất kỳ làm hệ
qui chiếu và coi hệ này là đứng im tuyệt đối so với hệ khác, tức vận tốc tuyệt
đối v qc =0 , do vậy mà thiếu khách quan và không mô tả đúng thực chất quan
hệ tương đối của sự vận động giữa các vật thể trong vũ trụ. Nếu chọn ánh sáng
làm hệ qui chiếu, chúng ta sẽ khắc phục được điều này, vì lẽ, hệ qui chiếu ánh
sáng là duy nhất. Cụ thể, nếu vận tốc tương đối của ánh sáng so với chúng ta là
c, vì chỉ có hai hệ qui chiếu (hoặc là chúng ta, hoặc là ánh sáng) nên chỉ có thể
dựa vào công thức (1-2) để xác định vận tốc của chúng ta mà thôi, tức:
v 1
= =const
c √2 , nếu c=const , cho dù chúng ta có thể chuyển động với vận
tốc tương đối so với mọi hệ qui chiếu khác như thế nào đi chăng nữa, nhưng
trên lý thuyết thì vận tốc tương đối giữa chúng ta và hệ tọa độ trong không
c
v=
gian thay đổi sẽ vẫn phải là √2 .
Hệ qui chiếu trong không gian bức xạ là tam giác vuông cân, với cạnh huyền
có độ dài là c , số đo giá trị vận tốc tương đối trong không gian cố định, và
c
các cạnh bên có độ dài là √2 , số đo giá trị vận tốc tương đối trong không
gian thay đổi. Như đã có lần trình bày, các thành phần vuông góc và bằng
nhau ( ⃗v x , v y ) của véc tơ ⃗v AB là vận tốc của từng hệ qui chiếu trong
chuyển động tương đối ⃗v AB , vì rằng ⃗v x , v y thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu
về sự đồng thời, tính tương đối của chuyển động cũng như sự bình đẵng giữa
hai hệ qui chiếu. Khác với việc coi một véc tơ tương đương với các thành phần
vuông góc của véc tơ đó, các véc tơ thành phần ⃗v x , v y của véc tơ ⃗v AB được
đề cập ở trên không phải tương đương với ⃗v AB , mà là hiện tượng thực tế. Các
tam giác vuông cân đều đồng dạng với nhau, nên có thể biểu diễn véc tơ ( ⃗v AB
) và các thành phần ( ⃗v x , v y ) theo các cạnh của hệ qui chiếu trong không
gian bức xạ. Theo đó thì, véc tơ ⃗v AB song song với cạnh c , do vậy là số đo
vận tốc tương đối trong không gian cố định, ( ⃗v x , v y ) song song với các
cạnh bên tương ứng, nên ⃗v x , v y là số đo vận tốc tương đối trong không gian
thay đổi. Lấy các số đo này làm tham số cho mọi vận tốc trong không gian bức

16
xạ, ta dể dàng xác định quan hệ vận tốc của mọi hệ qui chiếu trong không gian
Bức xạ, hay không gianVật chất, cụ thể:
⃗v (⃗v , v ),⃗v (⃗v , v ), ⃗v (⃗v , v ). . .⃗v (⃗v , v )
Cho trước các véc tơ 1 x 1 y1 2 x
2
y
2
3 x
3
y
3
n x
n
y
n là vận tốc
tương đối trong không gian cố định và không gian thay đổi của n hệ qui
chiếu khác nhau so với hệ qui chiếu nào đó được chọn để khảo sát. Đây là tập
hợp các tam giác vuông cân đồng dạng, với các cạnh huyền ⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n là số
đo vận tốc tương đối trong không gian cố định, các cạnh bên
(⃗v x , v y ), (⃗v x , v y ),(⃗v x , v y ).. .( ⃗v x , v y )
1 1 2 2 3 3 n n là số đo vận tốc tương đối trong không gian
bức xạ giữa các hệ qui chiếu tương ứng so với hệ khảo sát. Các véc tơ
⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n song song với ánh sáng, nên có phương trùng với phương khoảng
cách giữa hai hệ qui chiếu đang khảo sát tương ứng, các véc tơ
(⃗v x , v y ), (⃗v x , v y ),(⃗v x , v y ).. .( ⃗v x , v y )
1 1 2 2 3 3 n n được xác định theo ⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n tương ứng.
Với các khái niệm vận tốc trong hệ qui chiếu không gian thay đổi như trên, ta
có thể thực hiện các phép tính trên tập các véc tơ ⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n bằng mô hình
tương đương khác, sẽ được trình bày chi tiết ở phần sau.
Quan niệm về vận tốc tương đối giữa hai hệ qui chiếu bất kỳ trong môi trường
bức xạ như trên, đã giúp chúng ta có thể hiểu được, vì sao mà. Tuy thuyết
Tương Đối mâu thuẩn với rất nhiều hiện tượng trong thực tế, nhưng lại có
những trường hợp chỉ có thể giải thích được bằng thuyết Tương Đối mà thôi.
Chính vì thế mà, cho đến nay tuy khó có thể chấp nhận thuyết tương đối,
nhưng chưa có nhà vật lý lành mạnh nào có thể bác nổi thuyết này. Đơn cử
như, khi so sánh đồng hồ của chúng ta với đồng hồ của nhà du hành vũ trụ bay
trên quĩ đạo vòng quanh trái Đất, theo thuyết Tương Đối, đồng hồ của chúng ta
và đồng hồ của nhà du hành Vũ trụ có đơn vị thời gian khác nhau. Mặt khác,
chúng ta và nhà du hành vũ trụ lại đứng im so với tâm trái Đất, vì khoảng cách
đến tâm không thay đổi, nên đồng hồ của chúng ta và đồng hồ của nhà du hành
vũ trụ phải giống như chiếc đồng hồ đặt tại tâm trái Đất, tức cùng đơn vị thời
gian. Trên cơ sở những gì đã được trình bày, chúng ta phải đi đến kết luận cuối
cùng về không gian và thời gian như sau:
-Thời gian và không gian là hai khái niệm toán học của tư duy, độc lập và
không phụ thuộc vào thế giới khách quan.

Hình thức vận động đặc biệt, như chúng ta đang quan niệm hiện nay là “sóng
điện từ trong chân không hay ánh sáng” gây ra hiện tượng vận tốc tia phản xạ
luôn bằng với vận tốc tia tới đối với mọi hệ qui chiếu có chuyển động bất kỳ so
với nguồn, nguyên nhân là do hiện tượng bất biến của tốc độ ánh sáng và nếu,
sự bất biến này là mâu thuẩn với các phép biến đổi Galilei, thì cũng có nghĩa,
hoặc là quan niệm hiện nay của chúng ta về tia tới và tia phản xạ có vấn đề,

17
hoặc là ánh sáng không có sự thay đổi vị trí trong không gian. Chúng ta phải
chấp nhận điều tưởng như nghịch lý này, vì rằng các phép biến đổi Galilei là
toán học nên không thể bị vi phạm. Bây giờ chúng ta hãy phân tích một thí
nghiệm hết sức đơn giản sau:
Đặt một nguồn sáng giữa hai tấm gương phẳng đối diện nhau. Vì hai tấm
gương đối diện nhau, nên ánh sáng từ nguồn đập vào gương này sẽ phản xạ lại
gương kia, rồi ánh sáng phản xạ từ gương kia lại đập vào gương này... cứ như
thế mãi. Với lập luận như vậy, khi tắt nguồn sáng, thì ánh sáng vẫn lưu lại trên
hai chiếc gương trong khoảng thời gian bằng thời gian mà nguồn phát sáng.
Nhưng thực tế không như vậy, trái lại khi tắt nguồn thì hình ảnh tia tới lẫn tia
phản xạ của nguồn trong hai chiếc gương cũng biến mất đồng thời. Theo định
luật bảo toàn vật chất, sự biến mất tức thì tại thời điểm tắt nguồn của ánh sáng,
chứng tỏ rằng ánh sáng không phải là vật chất mà là một hình thức truyền tải
năng lượng. Kết quả của thí nghiệm trên buộc chúng ta phải thay đổi quan
niệm hiện nay về ánh sáng như sau:
- Hiện tượng ánh sáng hay tổng quát hơn là các bức xạ trong không gian nói
chung, không phải là sự di chuyển của các phần tử vật chất, mà là sự truyền
tải động năng với tốc độ truyền tải là hằng số.
Nếu tia tới và tia phản xạ cùng biến mất đồng thời, vậy liệu hai tia này có
cùng xuất hiện đồng thời? Vật thể và hình ảnh của vật thể luôn đối xứng qua bề
mặt của gương. Do đối xứng, nên khi ánh sáng từ vật thể chạm bề mặt gương
thì cũng là lúc ánh sáng từ ảnh của vật thể trong gương cũng chạm đến bề mặt
gương và hai hiện tượng này phải diễn ra đồng thời. Khoảng cách từ ảnh trong
gương tới bề mặt của gương luôn bằng không, vì tất cả đều cùng nằm trên mặt
phẳng gương nên tia phản xạ trong gương không có sự thay đổi vị trí trong
không gian, do vậy tia phản xạ là tức thời, tức khi tia tới chạm đến mặt gương
thì cũng là lúc tia phản xạ từ mặt gương chạm đến vật thể. Điều này không
mâu thuẩn với luật nhân quả, vì rằng hình ảnh trong gương không phải là vật
chất, ngoài ra để có được sự đồng thời này thì hình ảnh trong gương luôn đối
xứng với vật thể qua bề mặt gương, ở một khoảng cách đúng bằng quãng
đường để ánh sáng từ vật thể bay đến gương rồi quay về lại vật thể, trong khi
trên thực tế thì hình ảnh trong gương chỉ cách vật thể bằng một nửa quãng
đường ấy mà thôi, chính vì vậy mà, cho dù đến với vật thể ngay tại thời điểm
tia tới chạm vào gương, nhưng hình ảnh phản xạ vẫn luôn cách vật thể một
khoảng cách bằng khoảng cách từ vật thể đến gương, tức tia phản xạ hoàn toàn
không hề chuyển động. Đây là quá trình đồng thời, nên nguồn sáng và ảnh
trong gương của nó là những quá trình luôn đồng thời, tức mọi động tác của
hình ảnh trong gương luôn đồng thời với người soi gương. Tương tự, hình ảnh
của thế giới vật chất mà chúng ta đang quan sát, luôn cách xa chúng ta với
khoảng cách bằng khoảng cách thực tế. Tổng quát, ta có thể đi đến kết luận:

18
-Hình ảnh của vật thể xuất hiện đồng thời tại thời điểm tia tới chạm vào vật
thể và biến mất đồng thời tại thời điểm tắt nguồn mà không phụ thuộc vào
khoảng cách từ nguồn đến vật thể đó.
Với kết luận trên thì, mọi trạng thái của thế giới vật chất mà chúng ta đang
quan sát đều đang diễn ra đồng thời ngay tại thời điểm ấy và không phụ thuộc
vào khoảng cách từ chúng ta đến vật thể quan sát. Sự xuất hiện và biến mất
đồng thời của tia tới và tia phản xạ, được giải thích dể dàng bởi định luật quan
hệ vận tốc như sau: Khi ánh sáng từ nguồn chạm vào bề mặt gương, thì cũng là
lúc tia phản xạ xuất hiện, vì vận tốc tương đối giữa tia tới và tia phản xạ là ⃗c ,
theo định luật quan hệ vận tốc thì tia tới và tia phản xạ cùng chuyển động đồng
⃗c
⃗v =
thời với vận tốc tương đối trong không gian bức xạ √2 ngược chiều
nhau.
Tại thời điểm, khi nguồn sáng truyền động năng cho vật chất (quá trình hấp
phụ), thì vật chất cũng đồng thời truyền bổ sung thêm một phần động năng vừa
nhận được từ nguồn sáng vào không gian (quá trình bức xạ) theo cùng một
phương thức với nguồn sáng, hai quá trình truyền động năng này phải được
thực hiện đồng thời và liên tục theo thời gian với tốc độ ánh sáng. Có thể ví
phương thức truyền tải năng lượng của ánh sáng như việc xe một sợi chỉ dài,
quá trình xe phải mất một khoảng thời gian nhất định, để mô men xoắn ở hai
đầu sợi chỉ cân bằng nhau. Khi mô men xoắn ở hai đầu sợi chỉ cân bằng, coi
sợi chỉ như một cái que, thì bất cứ sự thay đổi nào ở hai đầu đều tác động lên
đầu bên kia tức thời. Trên cơ sở các thí nghiệm với các chiếc gương, chúng ta
có thể kết luận. Một khi, ánh sáng từ chúng ta bay tới mặt gương, thì mô men
xoắn hai đầu của sợi chỉ tưởng tượng giữa chúng ta và chiếc gương đã được
cân bằng. Từ thời điểm đó trở đi, hình ảnh phản xạ từ gương đến với chúng ta
là tức thì, bất chấp mọi khoảng cách giữa chúng ta và chiếc gương. Do vậy sau
một năm, thì hình ảnh của chúng ta trong chiếc gương cách xa chúng ta một
năm ánh sáng vẫn có các hành động đồng thời với hành động hiện tại của
chúng ta. Ngoài ra chúng ta cũng có nhận xét rằng. Trong trường hợp mà
nguồn đã tắt, nhưng ánh sáng từ nguồn vẫn chưa bay tới được chúng ta, tức mô
men xoắn hai đầu của sợi chỉ tưởng tượng giữa chúng ta và nguồn chưa được
cân bằng, thì chúng ta cũng không thể nhìn thấy nguồn sáng đó được. Không
gian đóng vai trò như không gian vật chất để truyền tải các bức xạ, các phần tử
của không gian vật chất không có khối lượng quán tính, nên khi ngừng tương
tác, các phần tử không gian cũng ngừng truyền tải bức xạ, đồng thời dính luôn
vào phần tử đã gây ra tương tác (va chạm mềm). Do vậy để truyền tải các bức
xạ tới các khoảng cách xa trong không gian vật chất, thì nguồn phát bức xạ

19
phải tác động lên các phần tử không gian vật chất một cách liên tục và không
được gián đoạn. Chúng ta có thể phát biểu như sau:
-Tại một thời điểm, vật thể và các bức xạ do vật thể đó bức xạ ra là một thể
thống nhất, không tách rời nhau, lan truyền với tốc độ tương tác.
Từ các kết luận trên ta có nhận xét. Nếu một nguồn, sáng rồi lại tắt theo chu
kỳ, mà trong khoảng thời gian phát sáng, ánh sáng vẫn chưa tới chúng ta, thì
chúng ta cũng không thể nhìn thấy nguồn phát sáng đó được. Nhận xét này có
thể giúp chúng ta có được một phương án khả dĩ để giải thích cho quan niệm
“Vật chất tối” đang phổ biến hiện nay. Giả sử có một ngôi sao với khối lượng
lớn gấp vài trăm lần khối lượng mặt trời, nhưng lại ở rất xa chúng ta, ánh sáng
từ ngôi sao đến trái đất đã bị những hành tinh chuyển động theo chu kỳ chặn
lại, giống như hiện tượng nhật thực toàn phần, nhưng xãy ra ở những khoảng
cách mà, trong khoảng thời gian, khi không bị che khuất, thì ánh sáng từ
khoảng cách đó vẫn không thể đến trái đất được, do vậy chúng ta sẽ không bao
giờ quan sát được ngôi sao khổng lồ đó, mặc dù chúng ta vẫn cảm nhận được
những tác động do khối lượng khổng lồ của ngôi sao gây ra. Cũng chính vì
quan niệm sai lầm về vận tốc tương đối trong môi trường bức xạ, mà chúng ta
coi hiệu ứng Hoble là kết quả của quá trình không gian dãn nở, thực ra, tại
cùng một thời điểm, ánh sáng của vật thể càng ở xa quang phổ kế bao nhiêu thì
càng thiên về vùng quang phổ đỏ bấy nhiêu mà thôi. Ngoài ra, với quan niệm
hiện nay, chúng ta cũng không thể nào giải thích nổi. Nguyên nhân gì? để một
hạt không có khối lượng như “hạt” Photon lại có thể bay tự do theo quán tính
với tốc độ lớn nhất có thể và hiện tượng ánh sáng khôi phục lại tốc độ ban đầu,
khi xuyên qua các môi trường có hằng số điện môi khác nhau.
Để có thể giải đáp được các vấn đề trên, nhất thiết chúng ta phải hiểu cho được
bản chất của hiện tượng bất biến của vận tốc truyền bức xạ đối với mọi hệ qui
chiếu.

2- Định luật phân bố bức xạ trong không gian.

Tại một điểm bất kì trong không gian, nơi có trường các bức xạ đi qua, ví dụ
trường bức xạ ánh sáng.
Dễ dàng nhận thấy ngay rằng sự biến thiên khoảng cách từ nguồn phát bức xạ
tới điểm khảo sát (tức quãng đường) tỉ lệ với sự biến thiên về số lượng các
đường sức đi qua một diện tích hữu hạn D, điều này tương tự như sự biến thiên
số lượng đường sức của thanh nam châm đi qua một diện tích hữu hạn khi ta
đưa diện tích này lại gần hoặc ra xa thanh nam châm, ta có :
Δs= AΔn

20
Trong đó: s là quãng đường, n là số lượng đường sức đi qua diện tích D, A là
hệ số tỉ lệ.
Lấy vi phân hai vế và chia cho dt ta có:
ds dn
=A
dt dt
ds
=v
dt (định nghĩa vận tốc)
dn
v =A
Suy ra : dt (2-1)
Ký hiệu N là tổng các đường sức của trường bức xạ ánh sáng do một nguồn
phát ra, với khái niệm nguồn phát bức xạ là chất điểm và khái niệm này cũng
được áp dụng cho các điểm phản xạ. Tức ánh sáng đến với chúng ta là ánh
sáng phản xạ thì ta coi điểm phản xạ ánh sáng là nguồn phát sáng với tổng các
đường sức là mật độ đường sức n của nguồn chính tại điểm đó. Tại một điểm
bất kỳ trong không gian ta luôn xác định được một mặt cầu có tâm là nguồn
phát bức xạ, bán kính là: R = c.t (trong đó c là vận tốc truyền bức xạ, t là
khoảng thời gian để truyền bức xạ từ tâm đến điểm khảo sát), diện tích mặt cầu
được xác định :
S=4 π (ct )2
Vì là mặt kín nên tổng đường sức qua S bằng N .
Nếu gọi số đường sức đi qua một đơn vị diện tích là n, ta có :
N N
n= =
S 4 π ( ct )2
dn N
=−
dt 2. π . c 2 . t 3
(2-2)
Chia và nhân vế phải của (2-2) cho 2c:
dn 2 N .c N .c 2n.c
=− =−2 =−
dt 3
4 π .c .t 3 2
4.π . R .R R
Số 2 biểu thị tính đối xứng của bức xạ trong không gian đẵng hướng, nên:
dn n. c
=−
dt R (2-3)
Tức tốc độ biến thiên mật độ đường sức tại một điểm bất kỳ trong không gian,
nơi có bức xạ đi qua phải có giá trị tương ứng với công thức (2-3). Cũng tại
điểm đó có một hệ qui chiếu chuyển động với vận tốc v so với nguồn và theo
phương truyền bức xạ, thì tốc độ biến thiên mật độ đường sức ứng với v sẽ là :
Khi hệ qui chiếu chuyển động với vận tốc là c.
dn c n.c
c→ =−
dt R
Khi hệ qui chiếu chuyển động với vận tốc là v.

21
dnv
v→
dt
Suy ra:
dnv n.c. v n.v
=− =−
dt R.c R
dnv n.v
=−
dt R

Tốc độ biến thiên mật độ đường sức tại một điểm bất kỳ trong không gian
được xác định theo công thức (2-3), vậy tốc độ biến thiên đường sức tại điểm
khảo sát chuyển động với vận tốc v sẽ là:
dn d ⃗nc d ⃗nv
= +
dt dt dt (2-4)
Khi chuyển động cùng chiều với vận tốc truyền bức xạ, thì vận tốc tương đối
của hệ qui chiếu so với vận tốc truyền bức xạ sẽ là c−v , theo (2-1) , (2-3) và
(2-4) ta có :
dn c dn v n
(c−v )= A ( + )=−A (c +v )
dt dt R (a)
Nếu v ngược hướng với phương truyền bức xạ thì vận tốc tương đối sẽ là
c +v , tương tự ta có:
dnc dn v n
(c +v )= A( − )=−A (c−v )
dt dt R (b)
Chia (a) cho (b) ta có:
c−v c + v
= →c +v=c−v
c+ v c−v

Trường hợp v>c . Nếu v cùng chiều với c ta có:


dn c dn v n
(v−c )= A ( + )=−A ( c +v )
dt dt R (c)
Nếu v ngược chiều với c ta có:
dnv dnc n
( c +v )= A( − )= A (v−c )
dt dt R (d)
Chia (c) cho (d):
v−c c+v
=− → v−c=−( c + v )→c+ v=c−v
c+ v v−c
Kết quả vẫn không thay đổi, vậy trong mọi trường hợp ta luôn có:
c +v =c−v (2-5)
Có vẻ như đẵng thức (2-5) mâu thuẩn với các phép biến đổi Galilei, nhưng lại
phù hợp với thực tế. Nếu chúng ta chuyển động về phía nguồn sáng với vận tốc
là V, vì chuyển động ngược chiều với tia sáng, nên vận tốc tương đối giữa

22
chúng ta và tia tới sẽ là c +V , còn với tia phản xạ là c−V vì chúng ta
chuyển động cùng chiều với tia phản xạ. Như chúng ta đã biết, trong thực tế
vận tốc của tia phản xạ luôn bằng vận tốc tia tới, bất kể chúng ta chuyển động
như thế nào so với nguồn sáng, tức trong mọi trường hợp ta luôn quan sát thấy:
c +V =c−V
Điều này chỉ chứng tỏ một điều rằng, vận tốc ánh sáng là lớn nhất, nên trong
mọi trường hợp, chúng ta chỉ có thể nhận biết được sự tác động của tia tới và
hoàn toàn không thể nhận biết được sự tác động của tia phản xạ, và hiện tượng
này không liên quan gì đến các phép biến đổi Galilei. Đối với một hệ qui chiếu
độc lập, chỉ có khái niệm vận tốc tia tới, còn khái niệm vận tốc tia phản xạ là
hoàn toàn vô nghĩa, mặt dù tia này tồn tại hiển nhiên trong thực tế, bởi lẻ,
chúng ta sẽ không bao giờ đuổi kịp tia sáng khi tia này đang rời khỏi chúng ta.
Tốc độ biến thiên số lượng đường sức tại điểm khảo sát trong không gian luôn
tỷ lệ thuận với vận tốc tương đối của hệ quy chiếu so với nguồn, bất kể là tiến
gần hay lùi xa. Điều đó cũng có nghĩa là, tốc độ biến thiên mật độ đường sức
tại một điểm bất kỳ trong không gian so với mọi vận tốc là hằng số, ở đây
chính là hệ số tỷ lệ A trong công thức (2-1).
Vận tốc của mọi chất điểm trên mặt cầu so với tâm mặt cầu (tâm nguồn phát
bức xạ) đều có thể phân tích thành 2 thành phần, pháp tuyến và tiếp tuyến với
mặt cầu. Thành phần vận tốc tiếp tuyến mô tả chuyển động của chất điểm khảo
sát trên mặt cầu, bán kính không thay đổi, tức n = const cho nên ta có thể bỏ
qua thành phần vận tốc tiếp tuyến khi so sánh sự biến thiên theo thời gian của
vị trí chất điểm so với nguồn phát bức xạ với sự biến thiên của n theo thời gian,
do vậy những vận tốc được đề cập ở trên là những vận tốc có hướng và phương
bất kỳ. Mật độ đường sức tại một điểm và biến thiên của đại lượng này theo
thời gian là đặc trưng cho những gì mà bức xạ trong không gian tác động lên
mọi hệ qui chiếu. Đẵng thức (2-5) cho ta thấy vận tốc của điểm khảo sát không
ảnh hưởng tới tốc độ biến thiên mật độ đường sức của nguồn theo thời gian tại
điểm đó. Ta có định luật biến thiên mật độ bức xạ tại một điểm bất kỳ trong
không gian, hay định luật phân bố bức xạ như sau:
Định luật phân bố bức xạ:
Tại một điểm bất kỳ trong không gian, nơi có bức xạ truyền qua, biến thiên
mật độ bức xạ theo thời gian không phụ thuộc vào vận tốc của điểm đó và
được xác định bởi công thức:
dn n.c
=−
dt R (2-6)
Trong đó : c là vận tốc truyền bức xạ, n là mật độ bức xạ tại điểm cách nguồn
phát bức xạ một khoảng cách R.

23
Giã sử có 2 nguồn phát bức xạ bản chất khác nhau với các tốc độ truyền bức xạ
khác nhau (c 1≠c 2 ) . Vì chỉ quan tâm đến tốc độ nên ta có thể coi số đường
sức N của các nguồn là như nhau. Tại điểm giữa, trên đường thẳng nối hai
nguồn và cách các nguồn này một khoảng cách R, vì hướng truyền các bức xạ
ngược chiều, coi (c 1 >c 2 ) , theo (2-1), (2-3) và (2-4) ta có:
dn c dnc 2 n
1
( c 1 +c 2 )= A( − )=−A ( c −c )
dt dt R 1 2 (e)
dn c dn c n
( c 1 +c 2 )= A( 2
− 1
)=A (c −c )
dt dt R 1 2 (f)
Chia (e) cho (f) ta có:
c1 −c 2
=−1→c1 =c 2
c1 −c 2

Nếu coi đây là hai hệ qui chiếu khác nhau, thì do vận tốc của tia tới và tia phản
xạ luôn bằng nhau tại mọi hệ qui chiếu, theo (2-5) ta có:
c 1 +c 2 =c 1 −c 2
c 1 +c 2 =c 2 −c 1
Chia hai vế cho nhau sẽ cho kết quả tương tự. Để chứng minh một cách tổng
quát, chúng ta đã giả thiết rằng các vận tốc truyền bức xạ là khác nhau
(c 1≠c 2 ) , tức vô hình chung chúng ta đã thừa nhận các bức xạ này có chuyển
động tương đối với nhau, nhưng định luật phân bố bức xạ khẳng định không có
sự chuyển động giữa các bức xạ, do vậy mà:
c 1=c 2=. . .=c n =c=const
Ta có hệ quả của định luật phân bố bức xạ về tốc độ truyền bức xạ trong
không gian như sau:
Hệ quả:
Vận tốc truyền bức xạ trong không gian là hằng số duy nhất, không phụ thuột
vào vận tốc tương đối giữa nguồn phát bức xạ với hệ qui chiếu bất kỳ .
c=const
Theo hệ quả của định luật phân bố bức xạ, khái niệm vận tốc thông thường của
chúng ta trong không gian cố định không thể áp dụng vào không gian thay đổi,
hay không gian đường sức, được. Đơn giản bởi, theo (2-1) ta có:
dn ds dn ds dn
v =A =A =
dt hay để dt dt dt dt
thì hệ số tỷ lệ A phải bằng1, tức s=n,
có nghĩa là không gian cố định đồng nhất với không gian thay đổi, điều này chỉ
có thể xãy ra trong thực tế, nếu đường sức là các đường thẳng song song với
dn
=c
quãng đường ( s ), khi đó thì dt (theo giả thuyết).

24
ds dn
= =c → v=c
dt dt (2-7)

Đẵng thức (2-7) cho chúng ta thấy rằng, nếu chuyển động với vận tốc bằng tốc
độ ánh sáng, thì mọi vật thể đều phải tồn tại dưới hình thức tương tự như là
ánh sáng.

3- Không gian vật chất là môi trường truyền bức xạ.

Không gian đóng vai trò như không gian vật chất để truyền tải các bức xạ, các
phần tử của không gian vật chất không có khối lượng quán tính, nên khi ngừng
tương tác, các phần tử không gian cũng ngừng truyền tải bức xạ, đồng thời
dính luôn vào phần tử đã gây ra tương tác. Do vậy để truyền tải các bức xạ tới
các khoảng cách xa trong không gian vật chất, thì nguồn phát bức xạ phải tác
động lên các phần tử không gian vật chất một cách liên tục và không được gián
đoạn. Chúng ta có thể phát biểu như sau:
-Tại một thời điểm, vật thể và các bức xạ do vật thể đó bức xạ ra là một thể
thống nhất, không tách rời nhau, lan truyền với tốc độ tương tác.
Để thực hiện được điều này, chỉ có chuyển động spin của các phần tử vật chất
mới có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên mà thôi. Với quan niệm hiện nay,
chúng ta không thể giải thích nổi, nguyên nhân nào để một hạt không có khối
lượng như photon lại có thể bay tự do theo quán tính với tốc độ bất biến và
hiện tượng ánh sáng khôi phục lại tốc độ khi xuyên qua các môi trường có
hằng số điện môi khác nhau, đơn cử như ánh sáng từ mặt trời xuyên qua bầu
khí quyển của trái đất, bị giảm tốc do mất động lượng, rồi bay vào không gian
với tốc độ ban đầu. Kết hợp nhận xét này và những kết quả thí nghiệm với các
chiếc gương , chúng ta đi đến kết luận như sau:
- Hiện tượng ánh sáng hay tổng quát hơn là các bức xạ trong không gian nói
chung, không phải là sự di chuyển của các phần tử vật chất, mà là sự truyền
tải động năng với tốc độ truyền tải là hằng số. Có thể mô tả hiện tượng bức xạ
truyền tải động năng bằng mô hình đường sức.
Mới nhìn thì hình như có mâu thuẩn trong kết luận, vì lẽ, nếu không có chuyển
động thì làm sao có thể truyền tải động lượng được? Điều này, buộc chúng ta
phải xem xét lại các khái niệm cơ bản về vật chất để có thể có cái nhìn khách
quan về vũ trụ và những gì tồn tại trong đó. Để giải đáp cho vấn đề này, cần
thiết phải đề cập đến một hiện tượng rất khách quan, hoàn toàn độc lập với tư
duy của chúng ta, đó là chuyển động xoay. Chuyển động là thuộc tính của vật
chất, hể đã có khối lượng là có sự vận động, tại một thời điểm, mọi chuyển

25
động bất kỳ đều có thể phân tích thành hai thành phần cơ bản, đó là chuyển
động tịnh tiến và chuyển động cong (xoay). Chuyển động tịnh tiến sẽ dẫn đến
kích thước vô hạn, trong khi các vật thể tồn tại trong vũ trụ đều có kích thước
giới nội, hơn nữa lại không thể tạo nên tương tác liên tục trong khoảng thời
gian vô hạn định được, chuyển động xoay khắc phục được những điều này của
chuyển động tịnh tiến. Khi chúng ta đề cập đến những phần tử vô cùng nhỏ bé
của vật chất mà khối lượng là không đáng kể, thì chuyển động theo quán tính
sẽ trở thành vô nghĩa, vì khi ngừng lực tác dụng thì các phần tử cũng ngừng
mọi chuyển động do lực tác dụng gây nên cho chúng, vậy chúng ta chỉ xét đến
một dạng chuyển động duy nhất, dạng chuyển động không thể phân tích thành
thành phần tịnh tiến, đó là chuyển động tự xoay nội tại và coi, đây là thuộc tính
của các phần tử khảo sát, để tiện cho việc trình bày, chúng ta gọi thuộc tính
này là “Spin”. Vì chỉ đề cập đến tương tác giữa hai Spin không kích thước.
Nên spin được hiểu như sau:
Spin là thuộc tính của các phần tử vật chất và không gian vật chất, có thứ
nguyên như thứ nguyên vận tốc góc.
Theo công thức (2-4) ta có:
dn dnc dnv dn n⃗c n⃗v
= + → = + =n ω
⃗ c +n ω
⃗v
dt dt dt dt R R
⃗c ⃗v
ω
⃗ c= ω
⃗ v=
Với : R , R (3-1)
Coi môi trường không gian vật chất truyền spin trong không gian theo phương
thức tiếp xúc trực tiếp. Theo công thức (3-1) thì, tốc độ biến thiên mật độ
đường sức tại một điểm cách nguồn một khoảng R, bằng số lượng các spin
ω⃗ c và ω⃗ v tại điểm đó, tức các spin ω⃗ c và ω⃗ v đặc trưng cho tác động của
nguồn lên điểm khảo sát. Theo công thức (2-4) thì, tại điểm khảo sát có n
phần tử đồng thời tham gia vào hai chuyển động tương đối ⃗c và ⃗v . Theo
hệ qui chiếu không gian thay đổi, thì vận tốc tương đối giữa các phần tử n
⃗c ⃗v
⃗v td( c )= ⃗v td( v )=
với nguồn sẽ là √2 và √ 2 , các phần tử n sẽ quay xung
quanh nguồn với các vận tốc góc:
⃗c v⃗
ω
√ 2 ⃗c ⃗ =ω⃗
⃗ td ( c )= = → ω ω
√ 2 ⃗v ⃗ =⃗ω
⃗ td ( v )= = → ω
td (c ) c td ( v ) v
R R R R
√2 ; √2
Vì ⃗c là vận tốc truyền bức xạ, nên ta có thể coi n ω⃗ c thể hiện sự di chuyển
với vận tốc ⃗c ra mọi hướng trên mặt cầu bán kính R của n phẩn tử, còn
⃗v là vận tốc chuyển động của hệ qui chiếu, nên ta có thể coi n ω⃗ v thể hiện sự

26
di chuyển với vận tốc ⃗v theo một hướng nào đó trên mặt cầu bán kính R
của n phần tử. Nhận xét này cũng hoàn toàn phù hợp với định luật phân bố
bức xạ, vì sự biến thiên theo thời gian của mật độ spin tại một điểm chỉ phụ
thuộc vào ω⃗ c mà thôi. Chúng ta có những nhìn nhận quan trọng về phương
thức truyền các bức xạ trong không gian vật chất như sau:
- Các bức xạ là những spin, tiếp xúc nhau và liên tục trao đổi động năng cho
nhau, sự hấp phụ và bức xạ động năng diễn ra đồng thời.
-Khi nguồn ngừng chuyển động (tắt) thì các spin bức xạ cũng tan đồng thời.
Có thể minh họa hiệu ứng của công thức (2-4) trong thực tế như sau:
Khi đi tàu hỏa, nếu chúng ta nhìn vào một cái cây trơ trọi trên cánh đồng, ta sẽ
v

thấy mọi vật như thể đều quayquanh cái cây với vận tốc góc tương đối r,

v v
nằm trong mặt phẳng tạo bởi và điểm có cái cây, trong đó là vận tốc con

tàu, r là khoảng cách từ con tàu đến cái cây theo phương vuông góc với .v

Phương tiện để ta quan sát cái cây và mọi vật là ánh sáng, nên ω⃗ c đem lại
cho chúng ta hình ảnh của cái cây và mọi vật thể trong không gian xung quanh
cái cây, còn ω⃗ v cho ta cảm giác mọi vật quay xung quanh cái cây với vận tốc
góc ω⃗ v . Do tính tương đối của chuyển động, nếu chỉ có con tàu và cái cây,
thì sẽ không thể xác định được con tàu quay quanh cái cây, hay cái cây quay
quanh con tàu, vì điều này còn tùy thuộc vào việc chúng ta chọn cái nào là hệ
qui chiếu. Nhưng cho dù chọn cái cây hay con tàu làm hệ qui chiếu, thì trong
môi trường bức xạ các khái niệm spin là tương đương, tương tự như khái niệm
mặt Trời quay quanh trái Đất tương đương với trái Đất quay quanh mặt Trời
vậy. Tại thời điểm nhìn cố định vào cái cây, chúng ta đã coi cái cây là hệ qui
chiếu, thì vận tốc

con tàu chính là thành phần vận tốc vuông góc với bán kính
 v

và có spin r.
Định luật phân bố bức xạ kết hợp với định luật quan hệ vận tốc, cho phép
chúng ta, khi khảo sát vận tốc tương đối giữa hai phần tử vật chất trong không
gian bức xạ, có thể qui đổi các chuyển động tương đối giữa hai phần tử vật
chất thành chuyển động spin với vận tốc tiếp tuyến là vận tốc tương đối giữa
hai điểm khảo sát. Phần tử vật chất được coi là tập hợp các spin tại một điểm
trong không gian

bức

xạ do các spin đó phát ra. Tại một thời điểm, sự phụ
 v
thuộc giá trị vào và r được mô tả bằng đường sức giống như các bức xạ
 
khác, do cùng chuyển động với vận tốc v , nên có thể coi  là bức xạ do một
spin vật chất có vận tốc tiếp tuyến v phát ra. Các thông số đặc trưng của bức
xạ này là tốc độ xoay, phương chiều, v.v... thay đổi phụ thuộc vào khoảng cách
và trạng thái chuyển động của spin vật chất phát ra nó. Đây chính là điều kiện,

27

cho phép ta có thể dùng khái niệm spin bức xạ  kết hợp với khái niệm mật độ
đường sức n tại một điểm, để thể hiện sự trao đổi động lượng giữa các spin bức
xạ. Bằng cách coi tổng số đường sức N của nguồn là số lượng các spin có vận
tốc tiếp tuyến c hướng ra mọi hướng, khi đó vế phải của công thức (2-6) được
coi là số lượng spin bức xạ (gồm n phần tử có spin ω⃗ c ) tại một điểm cách
nguồn một khoảng cách R. Quan niệm này cũng được áp dụng tương tự cho
mật độ đường sức tại mọi điểm trong không gian bức xạ, khi coi đây là một
nguồn gồm n spin với vận tốc tiếp tuyến c hướng ra mọi phía. Hay nói một
cách khác, từ nay về sau chúng ta sẽ coi phần tử vật chất là mật độ spin tại một
điểm trong không gian bức xạ. Khi chúng ta đề cập đến khái niệm spin, thì mọi
chuyển động đều phải được qui về chuyển động spin, tức các véc tơ vận tốc
của chuyển động bất kỳ đều là vận tốc tiếp tuyến của vận tốc góc nào đó, tùy
theo sự lựa chọn điểm khảo sát của chúng ta.
Công thức (2-4) kết hợp với công thức (3-1) cho phép chúng ta có đủ cơ sở qui
⃗v (⃗v , v ),⃗v (⃗v , v ), ⃗v (⃗v , v ). . .⃗v (⃗v , v )
đổi tập các véc tơ 1 x 1 y1 2 x
2
y
2
3 x
3
y
3
n x
n
y
n thành các spin:
ω⃗ 1 , ω⃗ 2 , ω⃗ 3 ... ω⃗ n để thực hiện các phép tính trên ⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n như sau:
Nếu tại các điểm khảo sát khác nhau có n hệ chuyển động với các vận tốc
⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n so với nguồn, theo (2-4) và (3-1) ta có:
dn dnc dnv 1 dn n⃗c n ⃗v 1
= + → = + =n ω
⃗c+nω ⃗ v1
dt dt dt dt R1 R1
dn dnc dnv 2 dn n ⃗c n ⃗
v
= + → = + 2 =n ω ⃗ c +n ω
⃗ v2
dt dt dt dt R 2 R 2
dn dnc dnv 3 dn n ⃗c n ⃗
v
= + → = + 3 =n ω ⃗ c +n ω
⃗ v3
dt dt dt dt R3 R 3
....
dn dnc dnvn dn n ⃗
c n ⃗v
= + → = + n =n ω ⃗c+nω
⃗ vn
dt dt dt dt Rn Rn
Các đẵng thức trên đã mô tả đầy đủ quan hệ vận tốc giữa các hệ khác nhau
trong vũ trụ so với hệ được chọn là nguồn, hay hệ qui chiếu tại thời điểm khảo
sát. Từ nay về sau mô hình nghiên cứu của chúng ta sẽ là các phần tử vật chất,
gồm tập hợp các spin khác nhau, trong không gian bức xạ do các phần tử vật
chất bức xạ ra. Vì vật chất và các spin bức xạ là một thể thống nhất, nên không
có chuyển động tương đối so với nhau. Ngoài ra, vì không có các khái niệm
quán tính và chuyển động tương đối, nên khái niệm động lượng phải được hiểu
tổng quát là số lượng spin nhân với vận tốc tiếp tuyến của các spin đó (động
lượng p của n ω⃗ v là p=n ⃗v ), các spin truyền động lượng cho nhau dưới
hình thức trao đổi trị số spin.

28
4-Tiên đề và các khái niệm spin.

Để tổng quát và vì sự bình đẵng của các phần tử vật chất, chúng ta chỉ có duy
nhất khái niệm spin, tức sự khác nhau duy nhất giữa các phần tử trong vũ trụ là
spin. Ngoài ra, do mọi hệ quy chiếu độc lập chỉ chịu tác động của tia tới với
vận tốc c, nên có thể coi mọi phần tử vật chất trong vũ trụ được bao bọc bởi
môi trường không gian vật chất gồm các phần tử có spin với vận tốc tiếp tuyến
c tạo thành.

Tiên đề:
- Vật chất và không gian vật chất do các phần tử vô cùng bé có spin với vận
tốc tiếp tuyến c tạo thành. Các spin vật chất luôn có giá trị nhỏ hơn spin không
gian vật chất.
- Ngoài chuyển động spin, các phần tử không gian vật chất không có chuyển
động nào khác.

Các khái niệm spin

Coi spin vật chất đóng vai trò như mọi bức xạ khác trong môi trường không
gian vật chất, tức mật độ n tại điểm tồn tại của spin vật chất là tổng đường sức
n của spin vật chất đó.
R dn dn d (nc )
t= =
Từ công thức (2-6), thay c vào dt ta có dt dR ,
Đặt: p=n . c , p là động lượng của n phần tử có vận tốc c.
Công thức (2-6) được viết dưới dạng tương đương khác như sau:

dn d ⃗p d ⃗p d ⃗p ⃗F
⃗F = d ⃗p
= =−n. ω ⃗ →ω
⃗ =− =− =−
dt d R
⃗ n .d R
⃗ n. c .dt n .c , với ( dt ).
F⃗
ω
⃗ =− → F⃗ =−n .c . ω⃗
n. c (4-1)
⃗F là lực tương tác của môi trường không gian vật chất lên phần tử vật chất
gồm n spin ω⃗ , dấu âm trong công thức (4-1) thể hiện lực tác động của môi
trường luôn ngược hướng với hướng truyền bức xạ, tức luôn có xu hướng ép
bức xạ gồm n spin ω⃗ co lại. Công thức (4-1) không làm chúng ta phải ngở
ngàng, vì lẻ, thực chất khái niệm đường sức, về mặt toán học, được dùng để
mô tả các đại lượng thay đổi cường độ theo khoảng cách so với nguồn của đại
lượng đó.
Ta có định nghĩa về spin vô hướng như sau:

29
- Các spin có vận tốc tiếp tuyến bằng vận tốc truyền bức xạ ( c  const ), được
gọi là spin vô hướng.


w =
Trị số của spin vô hướng được xác định theo định nghĩa ( ), lực tác
dụng của môi trường lên spin vô hướng được xác định theo công thức (4-1).
Với khái niệm spin vô hướng, chúng ta có những nhận xét sau:
Theo tiên đề và định luật phân bố bức xạ, thì các đại lượng vật chất là các spin
vô hướng, đóng vai trò hoặc là nguồn phát bức xạ, hoặc là mật độ spin bức xạ
tại điểm, mà đại lượng vật chất tồn tại. Do vậy chúng ta có thể hình dung spin
vô hướng như là một điểm có vận tốc bằng c hướng ra mọi phía (điểm sáng).
Vì chỉ xét spin của các phần tử vô cùng nhỏ, hơn nữa với tính chất spin được
đề cập thì các spin đều không có phương chiều cụ thể, nên sự khác nhau giữa
hai spin là trị số spin ω1 , ω2 với ω1 ≠ω 2 , khi tiếp xúc trực tiếp với nhau
các spin sẽ trao đổi spin với nhau để hình thành các spin tổng hợp ω12 . Theo
định luật bảo toàn động lượng, giá trị của ω12 được xác định:
ω 1 +ω 2
ω12 =
2

Tổng quát, spin tổng hợp ω của một hệ có n spin ω k (n, k nguyên
dương):
n
∑ ωk
ω= k=1
n (4-2)

Các phần tử không gian vật chất là spin vô hướng, nhưng không có kích thước,
nên có trị số spin bằng hằng số vận tốc c , theo (4-1) thì lực tương tác giữa
các spin không gian vật chất sẽ là:
F=−c 2 (4-3)
Ta có định nghĩa về spin có hướng như sau:
- Các spin có vận tốc tiếp tuyến v nhỏ hơn vận tốc truyền bức xạ,
v < c=const , được gọi là spin có hướng.
⃗v
ω
⃗ v=
R (4-4)
Trong đó ⃗v là vận tốc tương đối giữa hai điểm cách nhau một khoảng R.

30
Hai spin có vận tốc tiếp tuyến khác nhau, hoặc là tương tác với nhau, hoặc là

kết hợp với nhau theo kiểu hành tinh, kí hiệu w là spin hành tinh của spin
 
w w
1 quay xung quanh spin 2 :
  
w =w + w
2 1 (4-5)
Theo tiên đề, chỉ có các phần tử vật chất mới có vận tốc tương đối, hơn nữa,
phần tử vật chất và môi trường spin bức xạ do phần tử vật chất đó phát ra là
một thể thống nhất. Do vậy, khi đề cập đến vận tốc tương đối giữa hai phần tử
vật chất, chúng ta đã mặc nhiên công nhận hai phần tử này là phần tử vật chất
duy nhất với bán kính là khoảng cách R giữa hai phần tử vật chất đang khảo sát
⃗v
ω
⃗ v=
và có spin là R . Nói cách khác, đối với môi trường bức xạ thì, các phần
tử vật chất có kích thước và spin khác nhau tùy thuột vào việc chọn các phần
tử vật chất khảo sát. Với quan niệm này thì tại một thời điểm, tập hợp các
phần tử vật chất là một phần tử vật chất duy nhất với nhiều spin có hướng khác
nhau.
⃗v (⃗v , v ),⃗v (⃗v , v ), ⃗v (⃗v , v ). . .⃗v (⃗v , v )
Xét hệ gồm 1 x 1 y1 2 x
2
y
2
3 x
3
y
3
n x
n
y
n là vận tốc tương đối
trong không gian thay đổi của n phần tử vật chất khác nhau so với một phần
tử vật chất nào đó được chọn để khảo sát. Đây là tập hợp các tam giác vuông
cân đồng dạng, với các cạnh huyền ⃗v 1 ,⃗v 2 ,⃗v 3 ...⃗v n là số đo vận tốc tương đối
(⃗v , v ), (⃗v , v ),(⃗v , v ).. .( ⃗v , v )
trong không gian cố định, các cạnh bên x1 y
1
x
2
y
2
x
3
y
3
x
n
y
n là
số đo vận tốc tương đối trong không gian bức xạ giữa các hệ qui chiếu tương
ứng so với hệ khảo sát. Với khái niệm vận tốc trong hệ qui chiếu không gian
thay đổi như trên, ta có thể coi tập hợp n các phần tử đang khảo sát này là
một phần tử vật chất duy nhất với các spin có hướng lần lượt là:

    w =
w v ,w v ,...w v ,...w v n
1 2 , với
n -1 n ( n nguyên dương). Trong trường hợp
nguồn phát bức xạ chuyển động với vận tốc ⃗v td so với điểm khảo sát cách xa
một khoảng R , thì nguồn bức xạ được coi là một spin có hướng duy nhất và
⃗v td
ω
⃗ td =
có trị số là R
Tổng hợp cặp spin ( ω⃗ c , ω⃗ v ) là spin vật chất, vì là một thể thống nhất, nên
tại một thời điểm, ta có thể coi spin vật chất luôn bức xạ ra spin tổng hợp (

ω⃗ c , w v ).
Ngoài ra, trên tinh thần hệ độc lập chỉ có khái niệm “Tia tới”, không có khái
niệm “Tia phản xạ”, nên chúng ta sẽ không có khái niệm “Lực Hút” mà chỉ có
khái niệm “Lực Đẩy” mà thôi.

31
5- Lực hấp dẫn vũ trụ.

Khối lượng: Số lượng spin vô hướng có trong một phần tử vật chất.

Nếu coi M là số lượng spin vô hướng có trong một phần tử vật chất, thì spin
khối lượng của phần tử kí hiệu là ( m ) và được xác định theo (4-2) như sau:
M
∑ mk
m= k =1
M (M phần tử với spin mk tương ứng, k nguyên dương) (5-1)
Trong môi trường có spin là δ , spin bức xạ của spin khối lượng m là mk
có trị số:
m k =δ −m
Khi đặt hai spin khối lượng m1 , m2 cạnh nhau, bức xạ mà các spin này phát ra
là:
mk 1 =δ−m1 , m k2 =δ − m2

Các bức xạ kết hợp với nhau tạo thành 12 :


m k +m k δ −m1 +δ −m 2 2 δ −( m 1 +m 2 ) m1 + m 2
1 2
δ 1. 2= = = =δ −
2 2 2 (5-2)
2

Đẵng thức (5-2) cho thấy δ 12


tương đương với spin bức xạ của khối lượng
gồm 2 phần tử vật chất có spin lần lượt là m1 , m2 . Vì spin vật chất luôn nhỏ hơn
hoặc bằng spin không gian bức xạ, nên theo (5-2), khi spin bức xạ bị triệt tiêu
(trạng thái cân bằng), các spin m1 , m2 phải bằng spin  ( m 1=m2 =δ ). Lý luận
tương tự cho M phần tử với spin mk tương ứng, k nguyên dương, ta có:
M
∑ mk
k =1
m= →δ m=δ −m
M (5-3)
M
∑ mk
m= k =1 =δ
khi δ m=0 thì M (5-4)
Theo (5-4) thì môi trường spin bức xạ trong lòng khối lượng M là δ =m , hay
các spin vật chất vô hướng đều bằng nhau và có cùng trị số với spin môi
trường bức xạ.
Lý luận tương tự cho tập hợp các spin M trong vũ trụ, ta có kết luận:
- Môi trường spin bức xạ vô hướng trong vũ trụ có trị số spin bằng spin vật
chất vô hướng ( m⃗ ).
Nếu không gian bức xạ bị triệt tiêu, tức δ =o :

32
δ =c−m=0→ m=c (5-5)
Vì spin vật chất luôn nhỏ hơn spin không gian vật chất, nên theo (5-5), khi
2
không gian bức xạ bị triệt tiêu, M phải phân hủy thành năng lượng E=M . c
để trở thành spin không gian vật chất c, vì theo công thức (4-1):
 F  
m =- ® F =- m .M .c
M .c (5-6)


 =
Theo định nghĩa, là spin vô hướng nên có trị số: thay vào (5-6),
ta có năng lượng E của M :
2
E= F⃗ . ⃗R =M . c 
 
Cũng theo (5-6) thì spin khối lượng m tác động lên môi trường lực = .


Mật độ spin bức xạ của M tại khoảng cách R là:
M
n=
4 πR2
Theo công thức (2-6):
dn M 
=- 2
m
dt 4p R

Lực tác dụng của môi trường lên các spin bức xạ này là , được gọi là
M
cường độ trường hấp dẫn của , có trị số theo công thức (5-6) :
 
M .c .m
G =-
4p R 2 (5-7)

Mật độ spin bức xạ của M tại khoảng cách R và M là một thể thống nhất,
M
 n=
nên G có xu hướng ép 4 πR2 theo phương truyền bức xạ về phía M ,
M
n=
đồng thời 4 πR2
cũng tác động vào môi trường lực ép tương tự, nhưng
ngược hướng.
Khi đặt hai khối lượng M 1 , M 2 cách nhau một khoảng R, giả thiết M 1 , M 2 không
có chuyển động tương đối với nhau. Tức M 1 , M 2 và môi trường spin bức xạ
  
1
w , 2w có chung vận tốc tiếp tuyến nên không có tương tác, ta có
thể bỏ qua spin bức xạ có hướng. Theo công thức (5-7), cường độ trường hấp
dẫn của M 1 làm giảm tác động của môi trường lên M 2 lực 1 hướng về M 1 và
có trị số:
 
 M 1M .c .m
F 1 =M 2G M
=- 2
2
1
4p R (5-8)

33
Theo công thức (5-7), cường M 2 làm giảm tác động
 độ trường hấp dẫn của
của môi trường lên M 1 lực 2 hướng về M 2 và có trị số:
 
 . .
F 2 =M 1G M =- 1 2
2
4p 2
(5-9)
⃗F
So sánh (5-8), (5-9), các khối lượng bị đẩy lại gần nhau với lực đẩy hd ,
được gọi là lực hấp dẫn, có trị số:
M1 M2.c.m

⃗F =G⃗ . M=
hd
4 πR 2 (5-10)
4p
K=
Đặt c.m , rồi thay vào công thức (5-10) ta có công thức thực nghiệm quen
M1 M 2
Fhd =−K

2
thuộc của lực hấp dẫn: R

cũng là gia tốc rơi tự do của M 2 lên M 1 và ngược lại, tùy theo sự lựa chọn
một trong hai hệ này là hệ qui chiếu của chúng ta.
Nếu phần tử vật chất chuyển động với vận tốc , có nghĩa là sẽ bức xạ spin
bức xạ có hướng ω⃗ v , theo (4-4) ta có:
⃗v ⃗v
ω
⃗ v= →Mω
⃗ v =M
R R (5-11)

Khi tác F lên khối lượng M , mổi phần tử của M phải chịu lực
 động lực

= 
, theo Newton lực đồng thời cũng là gia tốc của M, phần tử sẽ
   
bức xạ spin bức xạ có hướng với vận tốc tiếp tuyến = 0+ ( 0 là tốc độ
ban đầu của phần tử), theo công thức (5-11) : 
   
 v 0 +a v0 a  F
M w v =M =M +M =M w v +
R R R 0
R (5-12)

w
Nguồn bức xạ và các bức xạ là một thể thống nhất, tức M và bức xạ là 0

một thể thống nhất. Khi chưa bị tác động của lực, vì cùng có chung vận tốc
 
w
tiếp tuyến 0 , nên M và lăn không trượt lên nhau và không có tương
0

tác, ta có thể coi M đóng vai trò như mọi spin khác trong môi trường spin bức

w 
xạ 0 . Khi M thay đổi trạng thái chuyển động, gia tốc a của M xuất hiện,
 
w w
theo (5-12) sự chênh lệch giữa spin với các spin 0 môi trường

34
 
w w
khiến cho môi
 trường bức xạ 0 tác động lên mô men quán tính

=-
có trị số ( ):  
  
=- ® =- =- .
(5-13)
Theo (5-13) thì môi trường spin bức xạcó hướng
 tác động lên M lực quán tính
F =- F
ngược chiều với lực tác động lên M, q t .
Tổng quát, mọi thay đổi trạng thái chuyển động của M đều gây ra tương tác

giữa M và spin bức xạ có hướng w .Theo công thức (5-13) thì, môi trường

spin bức xạ có hướng w thay đổi theo xu hướng chống lại sự thay đổi
trạng thái chuyển động của M , gây nên tính quán tính của khối lượng.
Mọi phần tử vật chất luôn chuyển động không ngừng, nên tại mọi thời 
điểm,
khối lượng M luôn bức xạ hai spin bức xạ là spin bức xạ vô hướng Mm với véc
 
tơ đặc trưng cho lực hấp dẫn, và spin bức xạ có hướng w đặc trưng
cho tính quán tính của khối lượng M hay lực quán tính F qt .Tại một điểm bất

 
kỳ trong không gian luôn tồn tại hai véc tơ G và w tạo ra trường Hấp
dẫn của M .
Giả sử M 2 rơi tự do về phía M 1 dưới tác dụng của cường độ trường hấp dẫn
  
G , mổi phần tử của M 2 chịu lực F =G và chuyển động với gia tốc
 
 w
= . Coi 2
là spin bức xạ có hướng ban đầu của M 2 khi chưa rơi tự
0

do. Khi rơi tự  do M 2  sẽ bức xạ spin bức xạ có hướng


  G  F
M 2w v =M 2w v + M 2
=M 2w v + h d
0
R 0
R . Tương tự như đã trình bày trong phần tính

quán tính của khối lượng ở trên, môi trường spin bức xạ có hướng w tác
động lên M 2 lực quán tính:
⃗F =−G⃗ .M
qt 2
Tổng lực tác dụng lên M 2 :
⃗Fhd + ⃗Fqt =−GM 2 +GM 2 =0
Các phần tử không gian không có khối lượng, nên không có tính quán tính, tức
dừng tác động là dừng chuyển động, do vậy để tạo được spin bức xạ có hướng,
thì tác động của các phần tử vật chất lên môi trường phải luôn tiếp xúc trực
tiếp với spin môi trường và luôn có chuyển động không ngừng. Nếu chuyển
động thẳng đều, thì vận tốc của phần tử vật chất bằng vận tốc tiếp tuyến của

35
spin bức xạ có hướng do phần tử đó truyền vào môi trường, tức lăn không
trượt, nên có thể coi tác động của phần tử vật chất lên môi trường như tác động
của một phần tử của không gian bức xạ có hướng. Khi phần tử vật chất thay
đổi chuyển động, hoặc là tốc độ, hoặc là quĩ đạo, thì spin có hướng của phần tử
“không gian bức xạ có hướng” này thay đổi theo, tức khác với các spin không
gian bức xạ có hướng khác, nên các spin trao đổi động lượng, tức tương tác với
nhau. Tác động của tương tác tương hổ giữa các spin theo xu hướng chống lại
sự thay đổi của nhau.Tác động của spin bức xạ có hướng của môi trường lên
các phần tử vật chất theo xu hướng chống lại sự thay đổi trạng thái chuyển
động của các phần tử vật chất, hoặc là tốc độ hoặc là quĩ đạo chuyển động, đây
chính là tính quán tính của vật thể có khối lượng. Từ trường của trái Đất là bức
xạ có hướng của các phần tử vật chất chuyển động không ngừng theo sự quay
tròn của trái đất, và được xác định theo công thức (5-11).
Hằng số hấp dẫn:
Hằng số hấp dẫn G phụ thuộc vào hệ đơn vị đo lường, được xác định lần đầu
tiên bởi thí nghiệm Cavendish năm 1797. Nó thường xuất hiện trong định luật
vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton và trong thuyết tương đối rộng của Albert
Einstein. Hằng số này còn được gọi là hằng số hấp dẫn phổ quát, hằng số
Newton, hoặc G Lớn. Không nên nhầm nó với "g nhỏ" (g), là trọng trường cục
bộ của Trái Đất (tương đương với gia tốc rơi tự do).
Theo định luật vạn vật hấp dẫn, lực hút hấp dẫn (F) giữa hai vật tỷ lệ thuận với
tích khối lượng của chúng (m1 và m2), và tỷ lệ nghịch với bình phương
khoảng cách, r, giữa chúng (định luật nghịch đảo bình phương):
m1 . m2
F=G .
r2
Hằng số tỷ lệ G là hằng số hấp dẫn.
Hằng số hấp dẫn là hằng số vật lý rất khó đo được với độ chính xác cao. Trong
đơn vị SI, năm 2014 Ủy ban Dữ liệu Khoa học và Công nghệ CODATA
-khuyến nghị giá trị cho G (với độ bất định tiêu chuẩn) bằng:
G=6,6740831.10−11 [ m 3 . kg−1 . s−2 ] =6,6740831.10−11 [ N . m 2 . kg−2 ]
và độ bất định tương đối bằng 4,7. 10−5
Theo lý thuyết Spin thì lực hấp dẫn được tính theo lý thuyết có công thức:
m1 . m2 4. π
F=K . 2 vớik = m. C (m spin khối lượng, C vận tốc ánh sáng), ta có:
r
4. π
k= =6,6740831. 10−11 [ N . m2 . kg−2 ]
m. C

4. π
m .C= −11
=π .1,49833315 .10 11
6,6740831.10
Theo công thức: F=n.w.C, suy ra lực ép từ không gian lên một spin khối lượng

36
(m): F=m.C= π .1,49833315 .10 11, đây là số đo của lực lên một phần tử vật chất,
nên đồng thời cũng là số đo gia tốc trong hệ SI (theo Newton F=M.a, khi M=1,
thì F=a [ m . s−2 ]). Đồng thời ta cũng xác định dược giá trị spin khối lượng m cho
toàn vũ trụ:
π . 1,49833315 .10 11
=499,4443 π [ Rad . s ]
−1
m= 8
3. 10

Qua đây mới thấy môi trường bức xạ spin khối lượng đã gánh chịu lực ép của
không gian vật chất lớn như thế nào để bảo vệ chúng ta và thế giới vật chất
được tồn tại trong vũ trụ.

6- Lực Điện-Từ.

Spin vật chất luôn bức xạ ra spin tổng hợp ( ω⃗ c , ω⃗ v ). Như trên đã trình
bày, spin bức xạ có hướng ω⃗ v phụ thuộc vào khoảng cách (kích thước) và
trạng thái chuyển động của từng phần tử có trong phần tử vật chất đang khảo
sát. Cụ thể là, phần tử vật chất gồm n phần tử với các spin có hướng lần lượt

    w =
w v ,w v ,...w v ,...w v
là: 1 2 n -1, với n ( n nguyên dương), các spin có hướng
này luôn thay đổi, tùy theo trạng thái chuyển động của các phần tử theo thời
gian.Vật thể được cấu thành từ các phần tử vật chất khác nhau với vô số spin
có hướng khác nhau và liên tục thay đổi theo thời gian. Nhưng do cấu tạo ban
đầu là từ spin vô hướng với các qui mô khác nhau của sự kết hợp, mà các phần
tử vật chất có các kích thước khác nhau, theo định luật bảo toàn động lượng,
được bổ sung thêm bởi tính quán tính của khối lượng, thì vận tốc của phần tử
vật chất phải tỹ lệ nghịch với qui mô của phần tử đó, tức qui mô càng lớn thì
tốc độ (spin có hướng) của phần tử càng nhỏ và ngược lại.Khi kích thước của
các phần tử vật chất là vô cùng nhỏ bé, ta có thể coi một phần tử vật chất nào
đó chỉ có một giá trị spin có hướng duy nhất và hướng ra mọi phía (điểm bức
xạ spin có hướng). Để dể hình dung và phân biệt với các vật thể thông thường
khác tồn tại trong vũ trụ, ta gọi các phần tử vật chất với đặc tính như là “điểm
bức xạ spin có hướng” này là “Hạt”. Do là spin của vận tốc tương đối, nên mổi
hạt (điểm bức xạ spin có hướng) đều có hạt đối (điểm bức xạ spin có hướng
đối). Tuy là spin có hướng, nhưng mọi đặc tính của spin có hướng của các hạt
hoàn toàn giống như spin vô hướng, nên thỏa mãn định luật phân bố bức xạ và
hệ quả của định luật này.

37

Theo công thức (4-1) lực tác dụng của môi trường lên spin có hướng w của
hạt là: 
 F  
w v =- ® F =- n .v .w v
n .v (6-1)
(Khác với trường hợp spin vô hướng, dấu âm trong công thức trên thể hiện lực
tác động của môi trường lên spin có hướng luôn ngược hướng với véc tơ vận
 
tốc tương đối , hay vận tốc tiếp tuyến của spin w ).
Nguyên tử là nơi tập trung mật độ các hạt (điểm bức xạ spin có hướng), nên là
điểm bức xạ spin có hướng. Theo công thức (6-1), trong môi trường spin bức

xạ có hướng của các hạt cấu thành phần tử vật chất, hạt nào có spin w v càng
lớn, hoặc có qui mô càng lớn (mật độ n) thì càng bị đẩy nhiều hơn về phía
ngoài của phần tử đó, đây chính là nguyên nhân hình thành nên cấu trúc
nguyên tử của các nguyên tố trong vũ trụ. Theo định luật quan hệ vận tốc và hệ
qui chiếu trong không gian bức xạ thì, vận tốc tương đối là cạnh huyền còn các
vận tốc thành phần là các cạnh bên của tam giác vuông cân. Các vận tốc thành
phần tương ứng trong chuyển động tương đối giữa hai phần tử luôn ngược
chiều nhau, ta có thể biểu diễn spin có hướng của một cặp spin đối (dương tử
và âm tử) như sau: 
Kí hiệu là spin có hướng của dương tử và - là spin có hướng của âm
tử. Đây chỉ là kí hiệu toán học qui ước riêng cho cặp spin đối, chỉ có ý nghĩa
khi hai spin này cùng có mặt tại thờiđiểm khảo sát, nếu tồn tại độc lập, thì hai
spin này là như nhau, cùng spin ( ) và đều thỏa mãn công thức (6-1). Với
cách biểu diễn như trên thì, những cặp spin đối nhau từng đôi một, không phát
spin bức xạ có hướng.
Vận tốc tiếp tuyến spin có hướng của nguyên tử, hoặc là cùng chiều với vận
tốc tiếp tuyến spin dương tử, hoặc là cùng chiều với âm tử, ta qui ước chọn
dương tử cùng chiều. Với cách chọn trên thì, lực tác dụng của môi trường spin
có hướng trong nguyên tử lên dương tử nhỏ hơn lên âm tử, do vậy mà các cặp
spin đối trong nguyên tử phải sắp xếp theo thứ tự, dương tử ở phía trong, âm tử
ở phía ngoài. Các hạt điện tử (Electron) luôn nằm ở phía ngoài cùng, trong khi
phần tử đối của các điện tử là các hạt dương tử (Proton) luôn nằm ở trung tâm
hạt nhân nguyên tử. Trong phạm vi nguyên tử, lực tác dụng của môi trường 
lên
các hạt theo hướng từ trong ra ngoài, nên theo (6-1) spin có hướng của
điện tử và dương tử phải
là lớn nhất trong số các spin có hướng của các hạt cấu
thành nguyên tử, spin của điện tử và dương tử được gọi là spin Điện.
Điện lượng: 
Điện lượng là số lượng Q spin điện tồn tại độc lập

38

Q =å q
 
(6-2)
Điện lượng tạo bởi các spin =- được gọi là điện tích âm, tạo bởi các spin
 
= được gọi là điện tích dương, tất nhiên khái niệm điện tích chỉ có ý
 
nghĩa, khi hai spin và p cùng tồn tại đồng thời tại thời điểm khảo sát .
Theo công thức (6-1): 
  
=- ® =- . .
.
(6-3)

 v
q = q
Thay R vào (6-3) ta có nănglượng E của Q:
 2
= . = .
  
= .
Cũng theo (6-3) thì spin điện tác động lên môi trường lực

Mật độ spin bức xạ ⃗q của Q tại khoảng cách R là:


Q dn Q 
n =- q
4 R , theo (2-6), d t
2
4p R 2

Lực tác dụng của môi trường lên mật độ spin bức xạ này là ⃗E , được gọi là
cường độ điện trường của Q , có trị số theo công thức (6-3) :
 . 
=- 2
4p (6-4)

Mật độ spin bức xạ của Q tại khoảng cách R và Q là một thể thống
Q
 n=
nhất, nên có xu hướng ép 4 πR2 theo phương truyền bức xạ về phía
Q
n=
Q , đồng thời 4 πR2 cũng tác động vào môi trường lực ép tương tự,
nhưng ngược hướng.

Khi đặt hai điện tích Q1 ,Q2 cách nhau một khoảng R. Giả thiết Q1 , Q2 không
có chuyển động tương đối với nhau, ta có thể bỏ qua spin bức xạ Từ của hai

điện tích. Spin bức xạ của Q1 là , cường độ điện trường của Q1 tại Q2 ,
theo (6-4):

 1
. .
=-
1
4p 2

39

Nếu Q2 cùng loại điện tích với Q1 thì Q 1 mang dấu dương,
 vì
Q1 , Q 2
 
cùng spin nhưng ngược hướng truyền, dẫn đến của , Q2 ngược 1

chiều nhau. Cường độ điện trường của Q1 làm tăng tác động của môi trường
lên Q2 lực 1 hướng xa Q1 và có trị số:

  2 1
. .
= =
1 2 1
4p 2

Hay môi trường tác động lên Q2 lực đẩy F hướng xa Q1 :

  2 1
. .
= =
2 1
4p 2
(6-5)

Nếu Q2 khác loại điện tích với Q1 thì 1 mangdấu âm, vì là các cặp spin

đối nhưng ngược hướng truyền, dẫn đến của 1 , Q2 cùng chiều. Cường

độ điện trường của Q1 làm giảm tác động của môi trường lên Q2 lực 2

hướng về Q1 và có trị số:



  2 1
. .
2
=- 1
=- 2
2
4p

Hay môi trường tác động lên Q2 lực đẩy F hướng về Q1 :

  2 1
. .
= =
2 1
4p 2


C=
Đặt v q .q
rồi thay vào công thức (6-5) ta có công thức tính lực tĩnh điện
Cu lông quen thuộc:
 Q Q
F c =±C 2 1

R 2 (6-6)

Nếu điện lượng Q chuyển động với vận tốc tương đối , điện lượng Q sẽ
bức xạ spin Từ B Q=Q ω
⃗ ⃗ v , vì theo công thức (3-3) ta có:
dQ  ⃗v ⃗v
=Q .w v ω⃗ v= → B⃗ Q =Q ω⃗ v=Q
dt ; R R (6-7)

40

Khi tác
 động lực lên điện lượng Q , mổi phần tử của Q phải chịu lực

=
, phần tử sẽ bức xạ spin bức xạ có hướng, được gọi là spin bức xạ Từ
  
B⃗ , với vận tốc tiếp tuyến = 0+ :
  
  v0 a  Fc
B =Q w v =Q +Q =Q w v +
R
(6-8) R 0
R
Tại một thời điểm, nguồn bức xạ và các bức xạ là một thể thống nhất, tức Q

w
và bức xạ là một thể thống nhất. Khi chưa bị tác động của lực, vì cùng
0

 
Q w
có chung vận tốc tiếp tuyến 0 , nên và lăn không trượt lên nhau và 0

không có tương tác, ta có thể coi Q đóng vai trò như mọi spin khác trong

w
môi trường spin bức xạ . Khi Q thay đổi trạng thái chuyển động, gia
0

 
tốc a của Q xuất hiện, theo (6-8) sự chênh lệch giữa spin w với các
 
w w
spin 0 môi trường khiến cho môi trường bức xạ 0 tác động lên
F F
 t
=- c
w mô men từ có trị số R R ):
 ( 
  
t
=- c
® t =- c =- .
(6-9)
Theo (6-9) thì môi trường spin Q lực từ ngược chiều
 bức xạ từ tác động lên
với lực tác động lên Q , t =- c . Cũng theo (6-9) thì lực Cu lông tác động

lên các spin điện và điện lượng Q là lực từ, và ngược lại, tức hai lực này
có cùng bản chất.

Giả sử Q2 rơi tự do về phía Q1 dưới
 tác dụng của cường độ điện trường

Q 1 ,

=
mổi phần tử của Q2 chịu lực 1 và chuyển động với gia tốc 1 . Coi

w
2 0 là spin bức xạ ban đầu của Q2 khichưa rơi tự do. Khi rơi tự do Q2 sẽ

  
2
w = 2w + 2
1
= 2w +
bức xạ spin bức xạ từ 0 0
. Môi trường spin bức

xạ từ 2
w tác động lên Q2 lực từ:  
=- . 2
1

Tổng lực tác dụng lên Q2 :    


+ =- 2
+ 2
=0
1 1

41
Tổng quát, mọi thay đổi trạng Q đều gây ra tương tác
 tháichuyển động của
giữa Q và spin = w .Theo các công thức (6-8), (6-9) thì, spin
 bức xạ từ

bức xạ Từ = w v thay đổi theo xu hướng chống lại sự thay đổi trạng thái
chuyển động của Q , gây nên hiện tượng Điện Từ.
Mọi phần tử vật chất luôn chuyển động không ngừng, nên tại mọi thời điểm,
điện lượng Q luôn bức xạ hai spin bức xạ là spin bức xạ Điện ⃗q với véc tơ

⃗E đặc trưng cho lực tĩnh điện, và spin bức xạ Từ w với vec tơ B⃗ đặc
trưng cho lực từ trường.Tại một điểm bất kỳ trong không gian luôn tồn tại hai
véc tơ ⃗E và B⃗ tạo ra trường bức xạ Điện Từ của Q .
Lý luận tương tự như lực quán tính của khối lượng, ta thấy lực Điện Từ có đầy
đủ mọi tính chất của lực quán tính của khối lượng, nên cũng có thể được gọi là
lực quán tính của điện lượng. Lực quán tính khối lượng duy trì tác động tương
tác, khi không còn lực tương tác, gây ra dao động cơ học (sóng cơ). Tương tự,
lực quán tính điện lượng gây ra dao động điện từ (sóng điện từ).

C= 9. 109 [ N . m2 . c −2 ]
Thực nghiệm xác nhận v q .q = trong hệ SI.
Ta có thể dựa trên đẳng thức này để xác định giá trị của v q và q ,khi biết được giá
trị của một trong hai đại lượng này.

7- Cấu trúc cơ bản của các phần tử vật chất.

Theo công thức (5-6), phần tử vật chất có khối lượng càng lớn, thì lực tác dụng
của môi trường lên phần tử càng lớn. Do vậy trong tập hợp các phần tử vật
chất, các phần tử có khối lượng càng lớn bao nhiêu, càng bị đẩy về phía trung
tâm bấy nhiêu. Kết quả là các phần tử vật chất tạo nên hình cầu với các phần tử
có khối lượng lớn hơn nằm về phía trung tâm, còn các phần tử có khối lượng
nhỏ hơn nằm ở bên ngoài theo thứ tự từ lớn đến bé, tính từ trung tâm hình cầu.
Theo các công thức (6-1), (6-3), lực tác dụng của môi trường spin bức xạ có
hướng của nguyên tử lên dương tử nhỏ hơn lên âm tử, nên trong tập hợp các
spin đối, âm tử bị đẩy về phía ngoài. Các dương tử phía trong và các âm tử
phía ngoài là những tập hợp các spin có hướng tồn tại độc lập với các đặc tính
của spin vô hướng, theo công thức (4-2), ta có:
n n
 

åq k

åq k
p = k =1 e = k =1
n , n

42
 
Trong đó p là spin dương tử (Proton), là spin điện tử (Electron), vì được
hình thành từ các cặp spin đối, nên số lượng dương tử và số lượng điện tử
trong một nguyên tử phải luôn bằng nhau.
Dưới tác dụng của lực tĩnh điện được xác định theo công thức (6-5), (6-9) các
điện tử phía ngoài, hoặc là rơi vào dương tử, cả hai bị hủy cặp để trở thành spin
e+ p
=m →e= p=m
bức xạ vô hướng ( 2 ), hoặc bị tương tác spin đẩy điện tử

w
văng ra xa, hoặc là chuyển động trên các quĩ đạo hành tinh với spin Từ
sao cho, vận tốc tiếp tuyến spin Từ của điện tử cân bằng với vận tốc tiếp tuyến
spin Từ của dương tử, được xác định như sau:
     
w = - = - (- ) =2
1

     
w =w - 2 =2 - (- 2 ) =4
2 1

     
w =w - 4 =4 - (- 4 ) =8
3 2

.....
 
w p l =2w p l
n ( n - 1)

Khi các tương tác cân bằng, nguyên tử được hình thành và được coi như là
điểm bức xạ spin có hướng với vận tốc tiếp tuyến spin Từ của điện tử lớp
ngoài cùng hướng ra mọi phía giống như spin vô hướng.

8-Lực tương tác hạt nhân

Theo
 công thức (5-6), phẩn tử vật chất có khối lượng M phải chịu lực
 
=- . . từ môi trường spin khối lượng ép các phần tử của M về
phía trung tâm phần tử, do đó các phần tử của M sẽ ép lên phần tử ở tâm lực ép
tổng hợp:  
=- . . 
Kí hiệu M là nguyên tử lượng của nguyên tử có bán kính r , lực F hn tác
dụng lên hạt nhân có trị số:
 2
 c c
F hn
=- m .M .c ® F hn
=- .M .c =- M
r r (8-1)

Theo công thức (8-1) thì môi trường spin bức xạ vô hướng ép lên các phần
tử của nguyên tử lực ép hạt nhân có trị số:

43
c2
Fhn  M .
r (8 -2)
9- Nhiệt độ, nhiệt lượng và các hiện tượng nhiệt

Vì vận tốc truyền bức xạ ( c ) là lớn nhất trong vũ trụ, nên theo định luật quan
hệ vận tốc, thì vận tốc tương đối lớn nhất giữa các phần tử vật chất (vận tốc
c
vmax 
tiếp tuyến của spin) chỉ có thể là 2 . Chuyển động tương đối giữa các

phần tử vật chất là rất đa dạng và gián đoạn, nên spin bức xạ có hướng ( w )

w
do chúng phát ra cũng rất đa dạng và gián đoạn, ta gọi các bức xạ v này là

bức xạ nhiệt. Khi vận tốc tiếp tuyến của spin nhiệt w đạt đến trị số v  vmax thì
sẽ bức xạ ra bức xạ ánh sáng. Các bức xạ nhiệt trong một vật thể đều là spin có
hướng, nên tương tác lẫn nhau để đạt đến trạng thái cân bằng, tức spin bức xạ

nhiệt w v cùng có chung vận tốc tiếp tuyến.
Kí hiệu vận tốc tiếp tuyến của spin bức xạ nhiệt của phần tử vật chất ở trạng

wt
 T =
wv
thái cân bằng nhiệt là , T là hệ số tỷ lệ , ta có định nghĩa về nhiệt
max

độ và nhiệt lượng của một vật như sau:


Nhiệt độ
Nhiệt độ T của một phần tử vật chất là tỷ số giữa bức xạ nhiệt của phần tử đó
với bức xạ ánh sáng.

 t
wt t
2. t
= = = =
wv max max
max

(9-1)
 
= ® =1
Khi max , ánh sáng có nhiệt độ bằng một.

Khi =0 ® =0 , vật thể không có bức xạ, hay vật Đen có nhiệt độ bằng
không.
Theo công thức (9-1) thì, nhiệt độ của các phần tử vật chất và các vật thể trong
vũ trụ phải nằm trong khoảng:
0  T 1
Nhiệt lượng

w
Nhiệt lượng K của một phần tử vật chất là số lượng spin bức xạ nhiệt (n
nguyên dương) do phần tử vật chất đó phát ra.

44

=å w
( n, K nguyên dương)
n
=1 (9-2)
 
w w
Theo định nghĩa thì nhiệt lượng K gồm vô số spin bức xạ nhiệt ( 1 , 2 ,..

w
) khác nhau. Theo công thức (9-1), khi vật thể ở trạng thái cân bằng

w
nhiệt,tuy khác nhau về trị số nhưng các bức xạ nhiệt đều có chung vận tốc

tiếp tuyến . Các nhiệt lượng có nhiệt độ khác nhau tương ứng với vận tốc

tiếp tuyến khác nhau, khi tiếp xúc nhau, các vận tốc tiếp tuyến sẽ tương tác
với nhau để tạo ra trạng thái cân bằng nhiệt với nhiệt độ T được xác định như
sau:
Giã sử một hệ gồm K1v1 , K 2 v2 ,...K n vn tiếp xúc nhau, K n vn là động lượng, theo
định luật bảo toàn động lượng, các vận tốc vn tương tác với nhau để tạo ra vt :

K1v1  K 2v2  ...  K n vn


vt 
K1  K 2  ...  K n
Theo (9-1), ta có:
n
c c c
c
K1.T1
2
 K 2 .T2
2
 ...  K n .Tn  K n .Tn
2  c . n 1
T. 
2 K1  K 2  ...  K n 2
n
K 
n 1
n

 K .T n n
T n 1
n

K n
n 1 (9-3)
Sự truyền nhiệt giữa các vật thể có nhiệt độ khác nhau, theo công thức (9-3).

Mật độ bức xạ n của K1 tại một điểm cách nguồn một khoảng cách R:

K1 K1 K1 T1.c
n  n.v1  v  .
4 R 2
4 R 2 1
4 R 2 2 (9-4)
Theo công thức (9-4) và (9-1), thì nhiệt lượng K của các bức xạ nhiệt phụ
thuộc vào khoảng cách so với nguồn nhiệt, còn nhiệt độ T không thay đổi. Các
quan niệm hiện nay của chúng ta về bức xạ nhiệt, nhiệt độ, nhiệt lượng là theo
trực giác và rất bất cập. Cụ thể tia sáng từ mặt Trời đến với chúng ta, có cùng
nhiệt độ với các tia khác ở mặt Trời, nhưng sức nóng (nhiệt độ) mà chúng ta
cảm nhận bằng trực giác, lại phụ thuộc vào khoảng cách từ chúng ta đến mặt
Trời.

45
Giã sử tồn tại K 2 .T2 cách K1.T1 một khoảng R, theo (9-3),(9-4), ta có:
K1
.T  K 2 .T2
T 4 R 2 1

K1
 K2
4 R 2 (9-5)
Sự truyền nhiệt bằng bức xạ nhiệt giữa các vật thể có nhiệt độ khác nhau, theo
công thức (9-5).

Chúng ta có kết luận:

1-Không gian và Thời gian là hai khái niệm toán học của tư duy.
2- Spin bức xạ là hình thức truyền tải và trao đổi động lượng trong không gian
vật chất.
3-Tại một thời điểm, nguồn và spin bức xạ là một thể thống nhất không thể
tách rời.
4-Khi nguồn phát sáng tắt, thì mọi ánh sáng mà nguồn đã phát đi trước đó
cũng tắt đồng thời với nguồn.
5-Chúng ta không thể nhận biết được nguồn sáng, trong trường hợp khi nguồn
đã tắt mà ánh sáng từ nguồn (spin bức xạ) vẫn chưa đến được với chúng ta.
6-Khi ánh sáng từ nguồn tới vật thể, thì cũng là lúc ánh sáng phản xạ từ vật
thể đó đến nguồn, tức tia tới và tia phản xạ luôn đồng thời. Vận tốc ánh sáng
là giới nội, nhưng hình ảnh của nguồn đến với chúng ta là tức thời.
7-Nhiệt độ bức xạ nhiệt và nhiệt độ nguồn phát bức xạ nhiệt luôn có cùng trị
số và không phụ thuộc vào khoảng cách so với nguồn.
8-Vật thể tồn tại, khi và chỉ khi tương tác giữa các phần tử vật chất của vật thể
cân bằng với tương tác spin không gian bức xạ lên các phần tử vật chất đó.
9-Spin điện có giá trị xác định và là spin lớn nhất trong tập hợp các spin vật
chất.
10 - Spin bức xạ là nguyên nhân gây ra các tương tác thông qua khoảng cách
và tính quán tính của các phần tử vật chất. Tính quán tính gây ra hiện tượng
dao động khối lượng, dao động điện từ.

10. Sự hình thành, nguyên nhân tồn tại, cấu trúc và giới hạn của Vũ trụ.

Mọi lý thuyết dùng để nghiên cứu một đối tượng nào đó, đều phải chỉ ra cho
được sự hình thành, nguyên nhân tồn tại, kích thước và giới hạn của đối tượng
nghiên cứu, nếu không chỉ ra được, thì lý thuyết sẽ bị coi là thiếu cơ sở và mơ
hồ. Cho tới nay, nền khoa học công nghệ của nhân loại, tuy đã phát triển rất
cao và đạt được những thành tựu vang dội, nhưng vẫn chưa xác định nổi hình

46
dáng và giới hạn v.v... của đối tượng Vũ trụ. Phải chăng, quan niệm của chúng
ta về tự nhiên có vấn đề? do bởi không có một chút nghi ngờ nào về phương
pháp tư duy và nền toán học hiện đại của nhân loại. Với khái niệm spin đã
được đề cập ở các phần trên, chúng ta có đủ cơ sở để xác định, sự hình thành,
nguyên nhân tồn tại, kích thước, hình dáng và giới hạn của Vũ trụ như sau:
Vật chất và không gian vật chất được hình thành từ những spin vô cùng bé, vũ
trụ được hình thành từ vật chất và không gian vật chất theo vòng tuần hoàn bất
định:
Vật chất-Không gian bức xạ-Vật chất
Vì sự hình thành của vũ trụ là vòng tuần hoàn, nên vũ trụ có thể bắt đầu, hoặc
là từ không gian bức xạ, hoặc là từ vật chất, hoặc là cùng tồn tại song hành.
Câu hỏi cái nào có trước cái nào có sau là vô nghĩa đối với vòng tuần hoàn bất
định, để tiện trình bày, chúng ta sẽ bắt đầu từ những gì đang tồn tại hiện nay
trong Vũ trụ.
Vì có giới hạn, nên có thể coi vũ trụ là một hệ cô lập, tức động lượng của vũ
trụ được bảo toàn. Do chi phối của định luật bảo toàn động lượng, các spin của
môi trường không gian bức xạ và không gian vật chất phải sắp xếp lần lượt,
theo thứ tự vật chất, không gian bức xạ, không gian vật chất, từ trong ra ngoài
cho đến tận cùng vũ trụ. Vì không có chuyển động tương đối giữa các spin
không gian, nên toàn bộ vũ trụ là một thể thống nhất duy nhất tồn tại. Theo
cách sắp xếp vừa nêu, thì môi trường không gian bức xạ do các phần tử vật
chất trong vũ trụ bức xạ vào không gian vật chất luôn gắn liền với vật chất, nếu
không có vật chất, thì vũ trụ chỉ tồn tại dưới dạng duy nhất, đó là không gian
vật chất. Tận cùng của vũ trụ, nơi không có vật chất, chỉ có sự tồn tại của môi
trường không gian vật chất tinh khiết. Sự đẵng hướng của không gian hình học,
đã khiến cho hệ cô lập gồm vật chất, không gian bức xạ và không gian vật chất
phải tồn tại dưới dạng hình cầu. Định luật bảo toàn động lượng chi phối toàn
bộ vũ trụ, nên các phần tử vật chất cùng với môi trường không gian bức xạ tập
trung tại những vùng lân cận trung tâm hình cầu với mật độ dày đặc, càng xa
trung tâm, mật độ các phần tử vật chất càng giảm. Như vậy là:
Vũ trụ có dạng hình cầu với mật độ vật chất giảm dần từ trung tâm cho đến
mặt cầu, nơi chỉ có môi trường không gian vật chất tồn tại.
Phía ngoài mặt cầu là “Chân không tuyệt đối”, không thể có thứ gì có thể thoát
khỏi vũ trụ để bay vào chân không tuyệt đối được. Như chúng ta đã biết, nếu
không có không gian vật chất, thì cũng không thể có không gian bức xạ, nên
khi tia bức xạ chạm đến mặt cầu không gian vật chất, thì đó cũng là nơi cuối
cùng của cuộc hành trình, các tia bức xạ không thể thoát khỏi mặt cầu để bay
vào chân không tuyệt đối được. Do có chuyển động quán tính, nên các vật thể
có cơ may thoát khỏi mặt cầu để bay vào chân không tuyệt đối. Nhưng trước
khi vượt qua mặt cầu, giới hạn tận cùng của vũ trụ, vật thể phải tồn tại trong

47
môi trường không gian vật chất với spin lớn hơn spin không gian bức xạ rất
nhiều, theo công thức (5-5) sức ép của môi trường sẽ phân hủy mọi spin vật
chất thành spin không gian bức xạ, vật thể sẽ nổ tung, đó là “Big-Bang” thứ
nhất, nếu vẫn tồn tại nổi sau “Big-Bang” và thoát khỏi mặt cầu để bay vào
chân không tuyệt đối, thì. Các tương tác như hấp dẫn, điện từ, hạt nhân v.v...
chỉ xuất hiện khi vật thể tồn tại trong môi trường không gian bức xạ, khi vật
thể tồn tại trong chân không tuyệt đối, các tương tác đều biến mất, vật thể sẽ
nhanh chóng tan ra để trở thành những spin như spin không gian vật chất, đó là
“Big-Bang” thứ hai.
Không ai có thể hình dung nổi mức độ to lớn của Vũ trụ, nhưng chúng ta có
thể hình dung Vũ trụ có cấu trúc như sau. Tại vùng trung tâm rộng cở vài
nghìn triệu năm ánh sáng, nơi có các vật thể vật chất và không gian bức xạ của
các vật thể này tồn tại. Đây là vùng hoạt động nhộn nhịp và náo nhiệt nhất
trong vũ trụ, đến mức mà, không thể liệt kê nổi các quá trình và các hiện tượng
xãy ra được. Nói chung, các vùng không gian bức xạ bão hòa trong vùng này
hầu như đều có spin bức xạ bằng spin khối lượng m⃗ , trừ những vùng đặc
biệt do những hiện tượng dị thường. Môi trường không gian bức xạ m⃗ đã
sinh ra và bảo vệ vạn vật cùng cõi sống, khỏi sức ép khủng khiếp của môi
trường không gian vật chất. Theo thời gian, dưới sự chi phối của lực hấp dẫn,
các vật thể bị dồn lại với nhau để hình thành nên những khối vật chất khổng lồ.
Theo công thức (8-2) vật thể càng to thì sức ép của không gian bức xạ lên các
phần tử ở trung tâm vật thể càng lớn, cùng với sự kết hợp của tính quán tính
của khối lượng, vật thể có xu hướng ngày càng trôi dần về phía trung tâm vũ
trụ, theo sự sắp xếp và điều khiển của định luật bảo toàn động lượng. Do lực
ép của môi trường lên vật thể tăng dần theo sự tăng trưởng khối lượng của vật
thể theo thời gian, nên các spin vật chất của các phần tử ở trung tâm vật thể bị
dồn nén. Sự hạn chế chuyển động tương đối giữa âm tử và dương tử phá vỡ
cân bằng spin Từ, âm tử và dương tử của các cặp spin đối tự hủy cặp để trở
thành bức xạ nhiệt, bắt đầu từ trung tâm, cho tới khi vật thể trở thành ngôi Sao
như mặt Trời và bức xạ spin nhiệt vào không gian bức xạ dưới dạng ánh sáng.
Các chuyển động tương đối giữa các phần tử vật chất bị hạn chế cho tới khi
 
spin khối lượng và spin môi trường bức xạ trong lòng vật thể w cân
bằng với spin của không gian bức xạ, lúc này mọi spin vật chất của vật thể đều
là spin bức xạ khối lượng , theo công thức (5-3),(5-4). Sự cân bằng tương
tác spin được thiết lập, vật thể trở thành vật Đen, vì ngoài spin Từ, vật Đen
không còn phát ra bất cứ một spin bức xạ nào nữa, tức hấp thụ tuyệt đối. Vật
Đen bắt đầu hấp phụ động lượng từ không gian bức xạ một cách tuyệt đối, các
phần tử không gian bức xạ không có quán tính, nên khi chạm vào bề mặt của
Vật Đen sẽ dính lại, tức ngưng tụ. Vật Đen phát triển to dần theo thời gian cho

48
tới khi không còn spin Từ nữa, vật Đen trở thành vật Đen tuyệt đối, lúc này
môi trường không gian bức xạ trở thành một khối thống nhất duy nhất là vật
Đen tuyệt đối trong môi trường không gian vật chất, sức ép của không gian vật
chất phân hủy toàn bộ khối thống nhất như một điểm Đen tuyệt đối này thành
spin không gian bức xạ, theo công thức (5-5), đó là “Big-Bang”, vậy là một
chu kỳ của vòng tuần hoàn bất định vật chất-không gian bức xạ-vật chất đã
được hoàn thành. Thời gian của quá trình phân hủy (vật chất-không gian bức
xạ) cũng dài như quá trình ngưng tụ (Không gian bức xạ-Vật chất). Cứ thế, vũ
trụ nói chung và sự tồn tại của các vật thể nói riêng, đều không ngừng sinh sôi,
phát triển và diệt vong theo nguyên nhân tuần hoàn bất định, Chuyển động-
tương tác-chuyển động.
Với quan niệm như vậy, thì sự tồn tại hiện hữu của mọi vật, đồng nghĩa với hai
vòng tuần hoàn luân hồi bất định: Vật chất-Không gian bức xạ-Vật chất và
Chuyển động-Tương tác-Chuyển động, sự tồn tại của vũ trụ cũng phải được
hình thành từ hai vòng tuần hoàn đó. Tóm lại từ các chuyển động của các phần
tử nhỏ bé nhất trong nguyên tử đến các chuyển động của các vật thể trong vũ
trụ như các hành tinh, các sao, các thiên hà v.v... và cách thức hình thành nên
chúng đều bị chi phối bởi định luật bảo toàn động lượng. Vũ trụ tự sinh, tự hủy
và biến động không ngừng, chỉ có chuyển động tuần hoàn mới tạo ra sự tồn tại
của thế giới vật chất hữu hạn trong thực tế hiện nay. Mọi quan niệm về không
gian và thời gian, kích thước và giới hạn của các vật thể đều là các quan niệm
toán học của tư duy, chỉ có giá trị để tính toán và so sánh chứ không có giá trị
để giải thích bản chất sự vật.
Mọi sự sống đang tồn tại trong vũ trụ, được các quá trình vô cùng ngặt nghèo
và cực kỳ hy hữu của tự nhiên sáng tạo ra. Hết thế hệ này đến các thế hệ nối
tiếp, mọi sinh linh phải nhọc nhằn trong đấu tranh để tồn tại và phát triển thành
nền văn minh. Không thể biết được rằng, liệu trong các chu kỳ tiếp theo của
vòng tuần hoàn bất định, tự nhiên có còn sáng tạo ra các nền văn minh như
chúng ta nữa không? Đang tồn tại hiện hữu trong cõi càn khôn, dứt khoát
chúng ta không thể cam chịu sự diệt vong không thể tránh khỏi trong tương lai,
cho dù chúng ta chỉ là giọt nước trong đại dương Vũ trụ bao la, đầy bí hiểm với
những hiện tượng dị thường vượt quá tầm tư duy của chúng ta. Nhưng sứ
mệnh của cõi sống là cải tạo thế giới tự nhiên, một khi vũ trụ có cõi sống thì
mọi tồn tại và các quá trình phải được thay đổi để phục vụ cho sự sinh tồn. Cho
dù có vĩ đại và bao la đến dường nào đi chăng nữa, thì vũ trụ vẫn phải tuân
theo các qui luật tự nhiên, còn chúng ta thì không, vì chúng ta có tư duy. Tuy
quá nhỏ nhoi và vô cùng mỏng manh, nhưng tư duy giúp chúng ta lợi dụng các
qui luật tự nhiên cho khát vọng trường tồn. Làm sao chúng ta có thể chịu đựng
nổi với ý nghĩ rằng, sự sống chỉ tồn tại một lần duy nhất, vĩnh viển không có
lần thứ hai trong cõi càn khôn. Chúng ta phải xây dựng và cải tạo lại vũ trụ như

49
những gì chúng ta đã và đang làm với môi trường và thiên nhiên trên trái Đất,
để vũ trụ mãi mãi tồn tại như hiện nay, quyết không để vòng tuần hoàn bất
định nghiệt ngã kia cuốn trôi cùng nó. Để trở nên bất diệt, chúng ta phải tìm
cho ra biện pháp chặn đứng vòng tuần hoàn bất định, với tình trạng hiện thời
và trong những thiên niên kỷ kế tiếp của vũ trụ, chỉ có một sự lựa chọn duy
nhất là ngăn chặn quá trình hình thành các điểm ngưng tụ. Để thực hiện được
điều này, chúng ta phải duy trì sự hoạt động của các ngôi sao trong Vũ trụ nói
chung và mặt Trời của trái Đất nói riêng, đồng thời từng bước phá hủy các
điểm ngưng tụ đang trong quá trình hình thành, tồn tại dưới dạng các hố Đen
và đang trôi dần về phía các vùng không gian, lân cận trung tâm Vũ trụ. Khi
các điểm ngưng tụ bị phá hủy, cũng giống như các mầm kết tinh các hạt mưa
bị phá hủy, hơi nước không thể kết tinh thành giọt nước, tương tự không gian
bức xạ không thể ngưng tụ thành không gian bão hòa. Tâm trái Đất đang dần
nóng lên, đó là quá trình ngưng tụ theo công thức (8-2), chẵng bao lâu nữa, trái
Đất rồi cũng sẽ biến thành mặt Trời. Nhiệm vụ của chúng ta là không cho trái
Đất to thêm nữa, để quá trình ngưng tụ không thể tiến triển thêm. Không gian
bức xạ mãi mãi sẽ là không gian bức xạ, để bảo vệ cho chúng ta và cho toàn vũ
trụ, hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức về các qui luật tự nhiên cho khát vọng
trường tồn của chúng ta.

TRONG LỊCH SỬ VẬT LÝ LÝ THUYẾT, CHỈ DUY NHẤT THUYẾT SPIN


LÀ VƯỢT QUA ĐƯỢC MỌI KIỂM KIỆM CỦA THỰC TẾ VÀ ĐƯỢC
THỰC TẾ GỢI Ý ĐỂ MỞ RA NHỮNG CHÂN TRỜI MỚI CHO KHOA
HỌC.

50
Ngày nay các kĩ sư của chúng ta, có sự hiểu biết và trình độ vượt xa các bật vĩ
nhân trong quá khứ, như Newton, Galile, Bo,v.v... thậm chí là cả Einstein. Đó
là chưa kể đến một số lượng hùng hậu các nhà khoa học lổi lạc trong mọi lĩnh
vực khoa học, thế mà lại vẫn còn đang loay hoay với những điều mà các nhà
khoa học trong quá khứ đã phải loay hoay. Phải chăng, quan niệm về tự nhiên
của chúng ta cũng giống như quan niệm của các nhà thông thái cổ điển về tập
số tự nhiên, đã khiến chúng ta phải diễn đạt tự nhiên càng ngày càng phức tạp.
Mỗi tư duy có một quan niệm về tự nhiên cho riêng mình, tự nhiên giống như
mọi tảng đá đều có một hình hài tuyệt phẩm trong lòng nó, đối với
Mikenlanger thì đó là bức tượng chàng Đavit, như ông đã nói: “Tôi chỉ bóc đi
phần thừa của tảng đá để chàng Đavit lộ ra mà thôi!”. Tóm lại, tự nhiên chỉ có
một, nhưng lại có vô số các quan niệm về tự nhiên, không thể khẳng định quan
niệm này là đúng, quan niệm kia là sai, vì đó là ý kiến chủ quan. Điều quan
trọng là ở chổ, quan niệm nào cho ta có được sự tư duy dễ dàng mà không bị
mâu thuẩn với tự nhiên, không những thế mà, dường như tự nhiên cũng đang
mách bảo cho chúng ta.

Công trình nghiên cứu của một cá nhân chỉ là hạt cát trong sa mạc khoa học
mênh mông của nhân loại đã phát triển trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Nhưng
khoa học như con đường, sẽ tới lúc phải có ngả rẽ, hiện nay nhân loại đang
đứng ở ngả ba của con đường, giữa một bên là nền vật lý hiện đại, một bên là
nền vật lý cổ điển được bổ sung thêm thuyết Spin với hai định luật và quan
niệm mới về không gian vật chất. Cũng xin nói thẳng, thuyết Spin đã phủ nhận
hoàn toàn các quan niệm hiện nay về không gian, thời gian, ánh sáng nói riêng
và môi trường bức xạ nói chung, kể cả quan niệm về sự tồn tại đang rất phổ
biến trong các ngành vật lý lý thuyết hiện đại. Vì vậy rất khó để cho những nhà
vật lý lý thuyết chuyên nghiệp và những ai có trình độ vật lý tầm tầm bật trung
để ý quan tâm nghiêm túc. Bởi với họ, công nhận nó chẳng khác nào tự tay bóp
nát trái tim mình. Thuyết này rất thích hợp và dễ hiểu cho những nhà bác học
lổi lạc luôn trăn trở với tự nhiên và những ai đam mê nghiên cứu khoa học,
muốn khám phá những bí ẩn của tự nhiên với quan điểm và mục đích duy nhất
là: Đúng và Sai mà thôi!
Vật lý hiện đại và thuyết Spin có những quan niệm và quan điểm hoàn toàn
khác nhau về tự nhiên, do vậy mô hình nghiên cứu và phương pháp tư duy
cũng không giống nhau. Không thể dùng kiến thức của vật lý hiện đại để nhận
xét và phê phán thuyết Spin, như các nhà vật lý lý thuyết và những người có
trình độ cao về vật lý, khi thấy những quan niệm và quan điểm trái chiều với
vật lý hiện đại là gạt phắt ngay, không thèm đọc nữa, do bởi khối óc và con tim
họ đã thuộc về vật lý hiện đại ngay từ thuở còn cắp sách tới trường. Tuy nhiên,
tất cả các lý thuyết trong vật lý hiện đại đều chỉ quan tâm giải quyết một vấn

51
đề cụ thể nào đó, chứ không bao giờ quan tâm đến sự tổng quát và nhất quán
cho toàn vũ trụ. Đơn cử như, thuyết tương đối hẹp đưa ra khái niệm về không
gian riêng, thời gian riêng phụ thuộc vào tốc độ tương đối giữa các hệ qui
chiếu chỉ để giải thích cho hiện tượng bất biến của vận tốc ánh sáng, thuyết
tương đối rộng đưa ra khái niệm Continuum không-thời gian bị uốn cong do
khối lượng chỉ để giải thích về nguyên nhân sự tồn tại của lực hấp dẫn vũ trụ.
Thuyết hạt đưa ra bảng các hạt cơ bản chỉ để giải thích cho sự tồn tại và các
tương tác vũ trụ. Thuyết lượng tử dựa trên hằng số Planck kết hợp với nguyên
lý bất định Heisenberg cũng chỉ để khoả lấp khoảng trống, mà thuyết hạt và
thuyết tương đối không thể vượt qua được, đặc biệt là các vấn đề nhiệt động
học. Cho dù đã có vô số các khái niệm mới, thậm chí là phi vật chất ra đời,
cùng với những công cụ toán học siêu cao, nhưng cho đến nay, vật lý hiện đại
vẫn chưa thể nào giải quyết nổi các mâu thuẩn giữa lý thuyết và thực tế, tồn tại
từ thời vật lý cổ điển một cách trọn vẹn, tổng quát và nhất quán cho toàn vũ
trụ. Không những thế, vật lý hiện đại đang ngày càng tạo ra khoảng trống lớn
với thực tế và dường như đang lâm vào bế tắc. Thuyết Spin chỉ với một khái
niệm duy nhất là Spin, cùng với các phép tính giải tích đơn giản, đã vượt qua
mọi thách thức của tự nhiên, giải quyết trọn vẹn các mâu thuẩn giữa lý thuyết
và thực tế một cách tổng quát và nhất quán cho toàn vũ trụ. Nếu chúng ta tạm
gác lại các kiến thức về vật lý hiện đại, để tìm hiểu về thuyết Spin thì, sau khi
đọc và thấu hiểu mọi vấn đề trong đó, các bạn sẽ thấy, quả thực vũ trụ thật là
đơn giản và gần gũi với chúng ta biết dường nào. Cảm nghĩ này như thể nâng
bạn lên một tầm cao mới để nhìn xuống các vấn đề của vật lý hiện đại, mà
hoàn thiện kiến thức về tự nhiên và vũ trụ của loài người chúng ta. Để rộng
đường cho sự lựa chọn của các bạn, tôi xin nêu một vài quan niệm khác biệt
giữa vật lý hiện đại với vật lý cổ điển và thuyết Spin như sau:
- Vật lý hiện đại quan niệm: Không có hệ qui chiếu tuyệt đối, mà chỉ có hệ qui
chiếu tương đối, tồn tại môi trường chân không tuyệt đối với cấu trúc không
gian cong đa chiều, trong đó các loại hạt không ngừng chuyển động gây nên
các tương tác như hấp dẫn, điện từ, hạt nhân,v.v... Ánh sáng là dòng hạt photon
với tính chất sóng, di chuyển trong chân không tuyệt đối với tốc độ c =const và
bất biến đối với mọi hệ qui chiếu.
- Vật lý cổ điển và thuyết Spin quan niệm:
Hệ qui chiếu tuyệt đối là môi trường ánh sáng, photon với thuộc tính spin
W=C(vận tốc ánh sáng), luôn cố định một chổ và lấp đầy vũ trụ, tạo ra môi
trường không gian vật chất, các phần tử vật chất là mật độ photon tại điểm tồn
tại của phần tử trong không gian vật chất Euclid 3 chiều. Tương tác spin giữa
spin vật chất và spin không gian vật chất đã tạo ra môi trường không gian bức
xạ, là nguyên nhân của mọi tương tác như hấp dẫn, điện từ, hạt nhân,v.v…
Nguồn phát bức xạ và không gian bức xạ do nguồn phát ra là một thể thống

52
nhất, không thể tách rời. Ánh sáng là một dạng của môi trường bức xạ liên tục,
lan truyền năng lượng trong không gian vật chất, thông qua trao đổi spin giữa
các photon không gian vật chất cố định trong không gian Euclid 3 chiều.
Đầu thế kỷ 20, các thí nghiệm của Michelson đã phát hiện ra một nghịch lý
rằng, vận tốc ánh sáng là bất biến đối với mọi hệ qui chiếu, hay không tuân
theo nguyên lý cộng vận tốc của Galilei. Hiện tượng bất biến của vận tốc ánh
sáng đối với mọi hệ qui chiếu c =const , làm cho các nhà vật lý ngỡ ngàng,
nhưng các kết quả thực nghiệm sau đó, đã khẳng định vững chắc cho hiện
tượng bất biến của vận tốc ánh sáng, khiến cho nền vật lý của nhân loại lâm
vào tình trạng vô cùng bối rối và xao xuyến. Đã có nhiều thuyết được thiết lập
nhằm giải thích cho hiện tượng này, nhưng chỉ có thuyết tương đối của
Einstein là đứng vững và là nền tảng cho mọi lĩnh vực trong vật lý hiện đại
ngày nay. Ý nghĩa toán học sự bất biến của vận tốc ánh sáng C so với n hệ qui
chiếu lần lượt có vận tốc V1 ,V2 ,V3 ,...,Vn tương ứng, được diễn đạt bằng đẵng
V1 V2 V3 V
= = =... = n
thức: c c c c . Cho đến tận hôm nay, ai cũng cho rằng, đẳng thức
này là nghịch lý, vì đã vi phạm nguyên lý Galilei, các vận tốc V1 ,V2 ,V3 ,...,Vn là
khác nhau, bởi các hệ qui chiếu đang chuyển động tương đối so với nhau. Thực
ra, loài người chúng ta đã sai, chứ ánh sáng không hề vi phạm nguyên lý
Galilei. Nếu chúng ta đứng mỗi người trên một cái mâm quay, và cho các mâm
quay với vận tốc góc W khác nhau, mỗi vận tốc góc có vận tốc tiếp tuyến
V V V V
W1 = 1 ,W2 = 2 ,W3 = 3 ...Wn = n
tương ứng là V1 ,V2 ,V3 ,...,Vn , hay R R R R (R bán kính tâm
quay). Tại mọi thời điểm, chúng ta luôn thấy người này chuyển động so với
người kia với những vận tốc tương đối khác nhau, nhưng tất cả đều đứng im so
với tâm mâm quay của họ, hay các V1 =V2 =V3 =... =Vn =0 so với tâm quay tương
ứng. Các tâm quay đứng im so với nhau, nên vận tốc ánh sáng đối với chúng là
V1 V2 V3 V
= = =... = n
như nhau, tức công thức: c c c c được thoả mãn, mà không hề vi
phạm nguyên lý cộng vận tốc của Galilei. Đẳng thức này cũng muốn lưu ý với
chúng ta rằng, khi so sánh vận tốc của hệ qui chiếu bất kỳ với ánh sáng, nhất
thiết chúng ta phải qui đổi vận tốc V của mọi hệ qui chiếu thành vận tốc góc W,
V
W=
hay spin R , tuỳ theo trạng thái chuyển động giữa các hệ được chọn để
khảo sát.
Loài người chúng ta mới chỉ hiểu được 1% thế giới tự nhiên và vũ trụ, tuy đã
đạt được những thành tựu vĩ đại trong công cuộc chinh phục thế giới tự nhiên.
Không phải bởi chúng ta kém cõi trong phương pháp tư duy, mà là do sức ỳ

53
trong nhận thức về thế giới tự nhiên và vũ trụ, đã khiến cho chúng ta như
người “Múa gậy trong bị”, cụ thể hơn là nền khoa học của chúng ta đang lanh
quanh lẩn quẩn trong cái bị nhận thức cổ điển sai lầm. Không phải bổng dưng
mà có thể nói rằng, định luật Quan Hệ Vận Tốc (QHVT) và định luật Phân Bố
Bức Xạ (PBBX) sẽ giúp loài người hiểu nốt 99% những gì chưa biết còn lại
của thế giới tự nhiên và vũ trụ, tạo ra bước đột phá vô tiền khoáng hậu trong
nền khoa học của chúng ta. Nói như vậy, không có nghĩa coi hai định luật
QHVT và PBBX là quan trọng hơn các định luật cơ bản khác, mà là hai định
luật đó là miếng ghép cuối cùng giúp chúng ta hoàn thiện kiến thức cơ bản về
tự nhiên để có thể nhìn thấy bức tranh toàn bích vũ trụ rỏ ràng hơn, cụ thể hơn.
Không thể một lúc lại có thể kể xiết những bất cập, mà sự thiếu sót của nhận
thức về hai định luật trên cùng với các quan niệm sai lầm về sự tồn tại của môi
trường chân không tuyệt đối trong vũ trụ, đã gây ra trong khoa học từ trước
cho đến nay.
Thuyết tương đối hẹp, mặc dù là sự ngộ nhận, nhưng có đôi chút dính dáng đến
định luật QHVT, cũng đã như một ngọn đèn pha cho khoa học trong thế kỷ 20,
giúp cho chúng ta tránh được khủng hoảng về nhận thức. Nhưng hậu quả của
thuyết này để lại là vô cùng nguy hiểm, nếu không mau chóng nhận ra định
luật QHVT càng sớm càng tốt.
Khi hai người A và B cùng tham gia chuyển động, nếu tốc độ của họ khác nhau
thì người này thấy người kia chuyển động theo hướng ngược chiều chuyển
động của mình (xin lưu ý, hai người ở trong hệ cô lập, nên họ chỉ có thể nhận
biết sự chuyển động của mình thông qua so sánh chuyển động với người kia).
Khoa học quan niệm hiện tượng này là vận tốc tương đối giữa A và B và biểu
diễn bằng vecto(AB) hay vecto(BA) tuỳ theo cách chọn A hoặc B làm hệ qui
chiếu. Điều này là không thoả đáng, vì hai người đều đang chuyển động đồng
thời, vì sự bình đẵng và đồng thời của chuyển động tương đối, nên vận tốc
tuyệt đối của họ phải được biểu diễn bằng hai vectoVtđ(A) và Vtđ(B) cùng có
mô đun Vtđ = V(AB)/2 và ngược chiều nhau. Mở rộng ra cho môi trường bức
xạ, ta có thể suy luận dựa trên tư duy toán học logic để thiết lập định luật
QHVT như sau:
Nếu không có sự vận động thì không có sự sống và thế giới, vũ trụ sẽ câm lặng
như một thây ma nằm bất động trong cõi vĩnh hằng. Vạn vật đều vận động, do
vậy mà khái niệm chuyển động, kéo theo nó là khái niệm vận tốc ra đời để so
sánh sự chuyển động của vật này so với vật khác là như thế nào. Không thể
cùng một lúc so sánh vận tốc của một vật với mọi vật thể khác được, vì tại
cùng một thời điểm vận tốc của nó với từng vật thể khác là khác nhau, đơn cử
như tốc độ xe máy của chúng ta so với ô tô, cái cây bên đường, hoặc với người
đi xe đạp vậy, tất cả đều chuyển động đồng thời, tại một thời điểm ta chỉ có thể
nhìn thấy và so sánh tốc độ của chúng ta với một vật thể nhất định khác mà

54
thôi. Cụ thể hơn, tại một thời điểm, chúng ta chỉ có thể so sánh vận tốc giữa
chúng ta với một vật cụ thể và đó là vận tốc tương đối, vận tốc tương đối chỉ
giúp ta nhận biết có sự chuyển động tương đối giữa ta và vật thể đó, kết hợp
vận tốc tương đối giữa chúng ta với các vật thể khác nhau, ta có thể suy ra vận
tốc tương đối giữa các vật thể với nhau, dựa trên nguyên lý cộng vận tốc của
Galilei. Nếu dựa trên sự so sánh vận tốc tương đối này với vận tốc tương đối
khác trong cùng một thời điểm như trên sẽ dẫn đến mọi quan niệm vận tốc đều
là quan niệm tương đối, không bao giờ có vận tốc tuyệt đối được, nếu có vận
tốc tuyệt đối thì chẳng khác gì ta đã trả lời được câu hỏi “Quả trứng có trước
hay con gà mái có trước?”. Đây là sai lầm hệ thống đã tạo ra lổ hổng chết
người trong nền khoa học của nhân loại cho đến tận ngày hôm nay, khiến cho
nền khoa học của chúng ta mô tả thế giới càng ngày càng thêm phức tạp, mà
chẳng giải quyết nổi điều gì cho ra hồn. Chúng ta đều biết vận tốc ánh sáng là
bất biến đối với mọi vật thể, bất chấp chúng chuyển động như thế nào, điều
này có nghĩa, vận tốc ánh sáng:
C = S (không gian)/t(thời gian) = const là vận tốc tuyệt đối, có vận tốc tuyệt
đối là có thời gian tuyệt đối, không gian tuyệt đối, vì khái niệm không gian và
thời gian là hai khái niệm toán học của tư duy, độc lập và không phụ thuộc vào
thế giới khách quan (phần sau sẽ nói rỏ điều này). Định luật Quan Hệ Vận Tốc
được phát biểu như sau:
Trong môi trường bức xạ, vận tốc tương đối giữa hai vật thể được biểu diễn
bởi vecto hiệu Vtd của hai vecto vận tốc thành phần V và có mô đun dược xác
định theo công thức: Vtd =V . 2
Định luật này được chứng minh bằng toán học, không như bất kỳ các định luật
vật lý khác được phát hiện thông qua thực nghiệm, nên đây là định luật tổng
quát và nhất quán trong mọi trường hợp. Quan niệm vận tốc tương đối như
hiện nay, các nhà khoa học luôn coi một trong hai hệ khảo sát là đứng im so
với hệ kia là đã vi phạm sự bình đẳng, sự đồng thời trong chuyển động của các
hệ qui chiếu, do vậy thiếu khách quan, không phản ảnh đúng bản chất của hiện
tượng. Nếu đã mô tả sai về chuyển động, thì mọi công việc của các nhà khoa
học từ trước đến nay, cần phải được xem xét lại. Mục đích khám phá và tìm tòi
các qui luật mới của tự nhiên là để hoàn thiện kiến thức của chúng ta về tự
nhiên, mỗi khi tìm ra một qui luật mới là chúng ta đã lấp đi một chổ trống
trong kiến thức. Thế mà từ trước cho đến nay, chúng ta đã vô tình không nhận
thấy khoảng trống lớn lao nhất trong mọi khoảng trống của kiến thức chúng ta,
do quan niệm trực giác, chủ quan của khoa học về vận tốc tương đối. Định luật
Quan Hệ Vận Tốc là định luật quan trọng, cơ bản và thiết yếu nhất so với mọi
định luật khác trong vật lý, nếu không biết đến định luật này, thì mọi nghiên
cứu của chúng ta sẽ không có tiền đồ, vì thiếu cơ sở khoa học.

55
Vận tốc ánh sáng so với chúng ta là C, theo định luật QHVT, chúng ta và ánh
C
V=
sáng cùng chuyển động đồng thời với vận tốc 2 , hay chúng ta và ánh
C
V=
sáng đang xoay tròn ngược chiều nhau với vận tốc tiếp tuyến là 2 hoặc
C
V=
đang chuyển động ngược chiều nhau với vận tốc 2 . Hai khả năng chuyển
động này đều có thể, để tổng quát, chúng ta không thể chọn bất cứ cái nào
trong hai cái, nhưng do có sự tương đương giữa hai khái niệm chuyển động,
nên chúng ta có thể qui đổi chúng cho nhau, tuỳ theo sự lựa chọn hệ qui chiếu
của chúng ta. Do C là vận tốc tuyệt đối, đương nhiên ta phải chọn ánh sáng là
hệ qui chiếu tuyệt đối, đã là hệ qui chiếu tuyệt đối thì phải đứng im tuyệt đối,
theo định luật QHVT, thì các phần tử photon của môi trường ánh sáng luôn
đứng im một chổ trong không gian và xoay tròn ngược chiều với mọi phần tử
C
V=
vật chất trong vũ trụ với vận tốc tiếp tuyến : 2
Thông thường, chúng ta tư duy về thế giới tự nhiên theo nhận thức chủ quan
bằng trực giác của mình về thế giới đó. Nếu bây giờ bạn nhắm mắt lại, liệu bạn
có cách nào nhận biết là bạn đang chuyển động hay đứng yên? Tất cả những gì
bạn nhận được từ thế giới bên ngoài là lực và môi trường bức xạ cùng với sóng
âm tác động lên bạn mà thôi. Để công bằng và khách quan với mọi dạng tồn tại
trong tự nhiên, hãy coi vũ trụ này có ánh sáng nhưng chúng ta không nhìn thấy
môi trường này và cũng không thể tự chuyển động trong không gian. Khi đó,
không gian và chuyển động sẽ không bao giờ xuất hiện trong tư duy của chúng
ta nữa. Thông qua sự cảm nhận về lực và môi trường bức xạ, chúng ta sẽ hình
dung ra một thế giới hoàn toàn khác biệt với những gì chúng ta đang hình dung
như bây giờ. Nhưng thực tế chỉ có một, tức sự hình dung của chúng ta và sự
hình dung của các vật vô tri vô giác về vũ trụ phải giống nhau hoàn toàn, hay
không bao giờ có mâu thuẩn với nhau. Chúng ta mới chỉ tư duy theo cảm nhận
chủ quan của chúng ta để hình dung ra thế giới, vậy là đã lãng phí 50% sức tư
duy, vì đã bỏ sót tư duy của phần còn lại của thế giới. Đơn cử, bạn đã bao giờ
tưởng tượng, nếu bạn tồn tại trong thế giới không khối lượng, một thế giới
không có tính quán tính thì điều gì sẽ xảy ra? Khi đó, nếu các bạn tác động một
lực liên tục lên vật thể không khối lượng, nó sẽ chuyển động, nhưng nếu dừng
tác động, nó sẽ đứng im ngay lập tức, do vậy mà sẽ không có chuyển động tự
do, không có sự tác động tương hổ giữa các vật thể với nhau, không có chuyển
động tương đối,v.v…sự tồn tại của một thế giới như vậy sẽ như thế nào đây?
Mục đích của định nghĩa một đại lượng nào đó, là người ta dùng định nghĩa để
phân biệt đại lượng này là đại lượng này, đại lượng kia là đại lượng kia và sự

56
khác nhau về lượng giữa các phần tử cùng đại lượng để có thể áp dụng toán
học, môn khoa học chuyên về lượng, như lập phương trình và áp dụng các
phép toán lên đại lượng đó, vậy thì. Nếu chỉ dựa vào định nghĩa khối lượng,
mà không dựa vào các mối liên quan giữa khối lượng với các đại lượng khác
như, lực tác dụng, gia tốc, v.v… thì có thể phân biệt được sự khác nhau giữa
các khối lượng không? Tại sao?
Cũng tương tự câu hỏi như vậy cho mọi đại lượng khác trong vật lý, như điện
lượng, điện tích, nhiệt độ, động lượng, v.v… Dường như chúng ta đang nói về
những đại lượng, mà chúng ta chưa hiểu biết thực sự bản chất về lượng của
những đại lượng đó.
Không hiểu có mấy ai, từ học sinh, sinh viên, giáo sư, tiến sĩ, v.v… cho chí các
nhà khoa học với kiến thức đầy mình, khi đọc câu hỏi này mà không khỏi suy
ngẫm đến mức phải trăn trở… Nói thật, kể cả Newton, Einstein và các nhà vật
lý lý thuyết danh tiếng lẩy lừng hiện nay cũng không thể trả lời được câu hỏi
về khối lượng như đã nêu ở trên, nếu chỉ dựa trên khái niệm nguyên thuỷ
“Khối lượng là lượng vật chất có trong một phần tử vật chất”. Với việc khái
niệm khối lượng được hiểu đại khái như trong vật lý nói riêng và khoa học nói
chung như vậy, thì mọi thành tựu khoa học kĩ thuật hiện nay của chúng ta là
kết quả của sự mày mò của các ngành khoa học thực nghiệm, chứ không phải
của các ngành khoa học cơ bản, nên đừng lấy đó làm minh chứng để tăng tính
thuyết phục và niềm tự hào cho các ngành nghiên cứu cơ bản nói chung và vật
lý lý thuyết nói riêng. Trên cơ sở định luật Quan Hệ Vận Tốc và định luật Phân
Bố Bức Xạ, lý thuyết Spin coi vũ trụ là một thể thống nhất được cấu tạo từ
Photon, photon lấp đầy không gian vũ trụ, vật chất là mật độ photon tại điểm
tồn tại, do vậy “Khối lượng là số lượng photon có trong một phần tử vật chất”.
Ta dễ dàng xác định được khối lượng, bằng cách đếm số lượng photon có trong
một phần tử vật chất, tất nhiên đây chỉ mang ý nghĩa lý thuyết, nhưng khối
lượng đã được xác định rỏ ràng, chính xác và nhất quán trên cơ sở lý thuyết.
Mọi lý thuyết khoa học ngày nay đều không thể xác định được cơ chế hút của
lực hấp dẫn trong chân không, nên đều hiểu không đúng về gia tốc trọng
trường do khối lượng M gây ra tại điểm cách nó một khoảng là R. Theo lý
thuyết spin, photon có spin là C (vận tốc ánh sáng) lấp đầy vũ trụ, chính môi
trường này tương tác với M spin vật chất đã gây nên lực hấp dẫn của khối
lượng M (M là số lượng photon trong phần tử vật chất). Mật độ bức xạ n tại
M
n=
một điểm cách M một khoảng R được xác định 4.p .R 2 , lực ép G của môi
M .m.C
G=
trường lên mật độ n này được xác định 4.p .R 2 (m giá trị spin bức xạ khối
lượng, C vận tốc ánh sáng), G được gọi là cường độ của lực hấp dẫn, hay gia

57
tốc trọng trường. Theo như cách xác định G ở trên, thì môi trường spin bức xạ
m của khối lượng M đã làm giảm lực ép từ không gian photon lên khối lượng
M ở khoảng cách R một lực G. Nếu không có môi trường spin bức xạ khối
M .C 2
F=
lượng m này, thì không gian photon sẽ ép chúng ta với lực ép R và
phân huỷ chúng ta thành môi trường như nó, đó là cơ chế của “Big – Bang”.
Ý nghĩa to lớn của việc định nghĩa chính xác, nhất quán, duy nhất về khái niệm
khối lượng, điện lượng, v.v... được minh chứng qua trường hợp cụ thể sau:
Lý thuyết spin định nghĩa khối lượng:
Khối lượng của một vật là số lượng photon có trong vật đó.
F
F =m.a ® a =
Với định nghĩa này, từ công thức m , m là số lượng photon suy ra
a là lực tác dụng lên 1 photon, hay gia tốc là lực tác dụng lên một phần tử của
vật chất, tương tự cho gia tốc điện lượng và lực điện từ. Với quan niệm gia tốc
như vậy, lý thuyết Spin đã thiết lập các công thức lực hấp dẫn, lực điện từ, lực
hạt nhân,v.v... trên cơ sở lý thuyết, hoàn toàn không thông qua thực nghiệm
như các bậc tiền bối đã làm trong quá khứ. Điều mà cho đến tận ngày nay, mọi
lý thuyết trong vật lý hiện đại dù có nằm mơ cũng không thể thực hiện nổi.
Hơn thế nữa, lý thuyết spin còn xác định được bản chất, nguyên nhân của tính
quán tính khối lượng và điện lượng, tạo ra bước đột phá trong tư duy và nhận
thức của chúng ta về thế giới tự nhiên.
Tuy cùng nghiên cứu một đối tượng duy nhất là vũ trụ, nhưng các nhà bác học
trong các kỷ nguyên trước, khó mà hiểu được các lý thuyết hiện nay của chúng
ta. Tương tự chúng ta cũng khó mà có thể hiểu nổi các lý thuyết sau này của
các thế hệ hậu duệ, cứ cái đà này, không hiểu rồi đây nền khoa học của nhân
loại sẽ đi đến bờ bến nào, liệu có trí tuệ siêu việt cở nào để có thể hiểu được nó
đây??? Trong khi những thách thức của tự nhiên với nền khoa học của chúng
ta vẫn còn đó, hầu như chưa có lời giải đáp nào là thoả đáng.
Khi biểu diễn vận tốc tương đối giữa A và B bằng vecto AB, chúng ta đều biết
rằng, có vô số phương án để phân tích vecto AB thành 2 véc tơ Va,Vb sao cho
Va-Vb = vecto AB. Điều này cũng có nghĩa rằng, có vô số khả năng chuyển
động của A và B để tạo ra vận tốc tương đối giữa chúng. Các đại lượng vật lý
cơ bản như động lượng, động năng, công, lực,v.v..đều liên quan đến vận tốc,
có vô số khả năng vận tốc, thì cũng có vô số khả năng cho các đại lượng. Mọi
tính toán của chúng ta mà so với số lượng các thông số trên, thì chẳng khác gì
con thuyền trên đại dương mênh mông không bờ không bến. Đây chính là hậu
quả cho một nền khoa học được dựa trên khái niệm tương đối mà không có
khái niệm tuyệt đối. Lý thuyết Spin dựa trên khái niệm tuyệt đối, nên mọi tính
toán đều đơn giản, rỏ ràng, tổng quát và nhất quán tuyệt đối, mở ra một kỷ

58
nguyên mới để nền khoa học nhân loại có bến có bờ. Nguyên tắc của chuyển
động tương đối là:
- Tính tương đối, các véc tơ vận tốc tương đối giữa 2 hệ là bằng nhau, nhưng
ngược chiều.
- Tính đồng thời của 2 hệ, mọi tồn tại đều phải diễn ra tại cùng thời điểm khảo
sát.
- Sự bình đẵng giữa 2 hệ, tôi thấy anh chuyển động như thế nào, thì anh thấy
tôi cũng như vậy.
Vấn đề cốt tử ở đây là: Muốn xác định vận tốc tương đối, trước hết là nhìn thấy
nhau cái đã. Khi đã nhìn thấy nhau là đo được vận tốc của nhau (như chúng ta
hàng ngày nhìn thấy sự chuyển động quanh ta). Nếu không nhìn thấy nhau
(ban đêm) để nhận biết được chuyển động, chúng ta phải tiếp xúc nhau trực
tiếp, khi đó ta cũng đo được vận tốc.
Khi tiếp xúc nhau, vận tốc tương đối giữa 2 vật là vecto AB, hoặc vecto BA (tuỳ
theo ta đứng ở vật này và coi vật đó đứng yên còn vật kia chuyển động). Điều
này là vi phạm sự bình đẳng và đồng thời, do vậy ta phải coi 2 vật cùng chuyển
động với vận tốc Va và Vb sao cho vectoVa + vectoVb =vectoAB , nếu A và B tiếp
xúc nhau trực tiếp. Còn ở trong không gian, để đảm bảo đồng thời, bình đẳng
và tương đối, hai hệ A và B phải chuyển động sao cho thoả mãn điều kiện (chi
tiết cụ thể ở phần phụ lục):
(vectoVa )2 + (vectoVb )2 =(vectoAB)2 với Va =Vb
Đây cũng chính là nền tảng của định luật Quan Hệ Vận Tốc.
Từ trước cho đến nay, không những chỉ Việt Nam, mà trên toàn thế giới đã có
rất nhiều phản biện xung quanh thuyết tương đối của nhà bác học thiên tài
Albert Einstein. Hiện nay, trung bình hằng năm, có ít nhất không dưới 200
công trình khoa học chống lại ông, bất chấp tất cả, thuyết tương đối vẫn như
ngọn đèn pha soi đường cho các nhà vật lý lý thuyết hiện đại. Mặc dù, tôi có
thể khẳng định dứt khoát, không ai trên thế giới này hiểu được thuyết tương
đối, kể cả Einstein, vì nó là sự ngộ nhận không chủ ý, thế nhưng tại sao thuyết
này vẫn sừng sửng đứng hiên ngang bất khả xâm phạm đến như vậy? Do bởi,
tất cả các công trình phản biện đều không thể đáp ứng điều kiện đầu tiên:
1- Thiết lập công thức biến đổi Lorentz, được coi là khởi nguồn cho mọi kết
luận của thuyết tương đối, bằng cách thiết lập khác để chứng minh rằng trong

t=
V2
1-
công thức biến đổi Lorentz: C 2 , với t và t’ không phải là thời gian
riêng của 2 hệ qui chiếu chuyển động với vận tốc tương đối V so với nhau.
Mà nếu có vượt qua được điều kiện 1, thì phải đương đầu tiếp với điều kiện
sau:

59
2- Thuyết tương đối coi vận tốc ánh sáng C là lớn nhất và bất biến như là tiên
đề hiển nhiên để thiết lập công thức Lorentz. Muốn chứng minh nó sai, thì phải
chứng minh cho được vận tốc ánh sáng lớn nhất và bất biến không phải là tiên
đề hiển nhiên.
Nếu vượt qua cửa ải này, thì phải đương đầu với điều kiện cuối cùng:
3- Giải thích cho được, nếu thuyết tương đối là sai, thì tại sao mọi hiện tượng
hóc búa nhất trong vật lý lý thuyết, chỉ có thể được giải quyết bằng thuyết
tương đối và luôn có kết quả lý thuyết chính xác, phù hợp với thực tế? Không
những thế, dựa trên thuyết tương đối, các nhà vật lý lý thuyết còn tiên đoán
chính xác các hiện tượng có thể xảy ra trong thực tế.
Chỉ bằng các phép tính đơn giản, trên cơ sở định luật Quan Hệ Vận Tốc
(QHVT) và định luật Phân Bố Bức Xạ (PBBX), lần đầu tiên trong lịch sử, lý
thuyết Spin đã vượt qua 3 điều kiện trên một cách dễ dàng.
Đây là ý kiến của một cá nhân vô danh, nhưng khoa học không phân biệt điều
này. Trên tinh thần cao thượng ĐÚNG &SAI trong khoa học, chúng ta hãy
cùng nhau tranh luận sòng phẳng, để lần lượt vượt qua theo thứ tự từ điều 1
đến điều 3, để có kết luận cuối cùng cho thuyết tương đối.
Đây là cách vượt qua điều 1:
Trên cơ sở định luật Quan Hệ Vận Tốc, có thể biểu diễn mối quan hệ V và C là
tam giác vuông cân, với cạnh huyền là C, các cạnh bên là V. Theo Pitago ta có:
V2
V = C 2 - V 2 ® V =C. 1-
C2 (1-1)
Chia S cho 2 vế của đẳng thức (1-1), ta có:
S S
=
V V2
C. 1- 2
C (1 - 2)
S S
=t, =t ¢
Đặt V C rồi thay vào công thức (1 – 2), ta có:

t=
V2
1- 2
C Đây là công thức biến đổi Lorentz .
Thuyết tương đối, dựa trên cơ sở lý luận thiết lập công thức biến đổi Lorentz
để giải thích cho hiện tượng bất biến của vận tốc ánh sáng, bằng cách coi t và
t’ trong công thức Lorentz là thời gian riêng cho 2 hệ qui chiếu có chuyển động
tương đối với nhau với vận tốc là V. Nhưng qua cách thiết lập công thức biến
đổi Lorentz như trên, thì t và t’ là thời gian để vận tốc ánh sáng C và vận tốc
C
V=
thành phần 2 đi hết quãng đường S như nhau. Điều kiện thứ 2 sẽ được

60
vượt qua dễ dàng trên cơ sở định luật Phân Bố Bức Xạ, kết hợp hai định luật
(QHVT và PBBX) thì điều kiện thứ 3 là đương nhiên.
Phẩm chất đầu tiên của người làm khoa học là "Hiểu rồi mới tin", thế nhưng.
Theo thời gian, hầu như tất cả chúng ta đều "Tin mà chưa kịp hiểu" như một
phong trào thời thượng...Đó mới thực sự là tai hoạ khôn lường mà khoa học
đang phải trả giá:
Ánh sáng có vận tốc giới nội là C, nên phải mất một khoảng thời gian nào đó
để đưa hình ảnh của mọi vật đến mắt chúng ta, nên chúng ta chỉ có thể nhìn
thấy hình ảnh quá khứ của mọi vật, gần thì quá khứ gần, xa thì quá khứ xa..
Trong ánh sáng ban ngày, bất kể tôi và bạn cách xa nhau bao nhiêu đi chăng
nữa, thậm chí là 2 đầu vũ trụ, hể khi nào tôi nhìn thấy bạn là bạn cũng nhìn
thấy tôi ngay lúc ấy, hay chúng ta đồng thời nhìn thấy nhau.
Trong màn đêm, khi ánh đèn pin của bạn quét tới tôi là chúng ta nhìn thấy
nhau ngay lúc ấy, chứ không phải chờ ánh sáng phản xạ lại thì mới nhìn thấy
nhau, vì khi ánh đèn pin của bạn chạm đến tôi, thì chẳng khác gì chúng ta đang
ở trong ánh sáng ban ngày, hay chúng ta nhìn thấy nhau đồng thời.
Sự đối xứng gương cũng cho thấy hình ảnh của chúng ta trong gương luôn
hành động đồng thời với chúng ta, bất chấp khoảng cách giữa chúng ta và cái
gương có xa bao nhiêu đi chăng nữa, do bởi mọi quá trình diễn ra trên tia tới và
tia phản xạ luôn đồng thời trong khoảng thời gian tia tới chạm tới mặt gương
và tia phản xạ trong gương chạm tới mặt gương. Hiện tượng này được giải
thích dễ dàng bởi định luật Quan Hệ Vận Tốc, khi tia tới chạm đến mặt gương,
thì tia phản xạ cũng xuất hiện đồng thời, vì vận tốc tương đối giữa tia tới và tia
phản xạ là C, theo định luật Quan Hệ Vận Tốc, tia tới và tia phản xạ đồng thời
C
V=
cùng chuyển động với vận tốc 2 ngược chiều nhau, hay các quá trình xảy
ra của 2 tia này luôn đồng thời.
Ánh sáng tới đâu là ta thấy tới đấy, khi ngắm nhìn bầu trời đầy sao trong màn
đêm, chỉ cần một tích tắc là ta đã có thể quét tia nhìn của chúng ta từ ngôi sao
này đến ngôi sao khác, cách xa nhau hàng tỷ năm ánh sáng, trong khi tia sáng
chỉ đi được có 300.000km/s mà thôi. Nguồn và bức xạ do nguồn phát ra là một
thể thống nhất, không thể tách rời nên nguồn và môi trường ánh sáng như một
hình cầu phát triển trong không gian với tốc độ ánh sáng C, mà trong đó tia
nhìn của chúng ta tha hồ vùng vẩy, hết đi từ chổ này sang chổ khác, tuỳ theo ý
muốn của chúng ta một cách tức thời. Nói cách khác, trong môi trường ánh
sáng, chúng ta luôn nhìn thấy mọi hiện tượng tại thời điểm hiện tại chứ không
thể nhìn thấy quá khứ và tương lai được.
Tia tới và tia phản xạ là sự tưởng tượng của chúng ta trong hình cầu nầy, nếu
môi trường ánh sáng tới A mà chưa tới B, thì B vẫn chưa nhìn thấy A và ngược

61
lại, chỉ khi nào ánh sáng tới cả 2 nơi A,B thì khi ấy cả 2 mới có thể nhìn thấy
nhau. Với những gì, vừa được đề cập về tia nhìn và tia sáng như trên, chúng ta
phải khẳng định rằng, chúng ta luôn nhìn thấy hình ảnh hiện tại của vũ trụ. Nếu
vận tốc tương đối giữa chúng ta với ánh sáng là C, theo quan niệm hiện nay,
chúng ta đang đứng yên còn ánh sáng thì đang chuyển động với vận tốc C. Để
xác định thời gian t mà ánh sáng phải mất khi đi từ A đến B, ta áp dụng công
AB BA
t= t=
thức C cho tia tới, tương tự cho tia phản xạ C . Theo quan niệm thông
thường, tia phản xạ xuất hiện sau khi tia tới từ A đến B, nên khi ta nhìn thấy B,
thì tia sáng đã đi một quãng đường là 2AB với thời gian là 2t, do vậy mà ta chỉ
có thể nhìn thấy quá khứ của B tại thời điểm trước đây một khoảng thời gian là
AB
t=
C , còn hình ảnh trong gương của chúng ta là hình ảnh chúng ta cách đây
2t.
Nếu vận tốc tương đối giữa chúng ta với ánh sáng là C, theo quan điểm bình
đẳng, đồng thời của chuyển động tương đối, chúng ta đóng vai trò là tia phản
C
V=
xạ, còn ánh sáng đóng vai trò là tia tới cùng chuyển động với vận tốc 2
ngược chiều nhau. Để xác định thời gian t’ mà ánh sáng phải mất khi đi từ A
AB
t ¢=
C
đến B, ta áp dụng công thức 2 cho tia tới và tia phản xạ, vì 2 tia này cùng
xuất hiện đồng thời, khi tia tới (ánh sáng) từ A tới B, thì tia phản xạ từ B cũng
tới A đồng thời. Điều này cũng có nghĩa, chúng ta nhìn thấy B tức thời, tại thời
điểm:
AB 2.AB
t ¢= = =2t
C C
2 , hiện tượng đối xứng gương đã khẳng định giúp chúng ta
điều này.
Để tính toán vâ ̣n tốc của ánh sáng sau nhiều cuô ̣c tranh cãi và thí nghiê ̣m, năm
1969 khi tàu Apollo 11 đáp xuống Mă ̣t Trăng, các nhà du hành đã đă ̣t trên Mă ̣t
Trăng tại mô ̣t điểm cố định là mô ̣t vách đá mô ̣t chiếc gương phẳng hướng mă ̣t
về Trái Đất. Sau đó, từ Trái Đất, các nhà khoa học đã chiếu mô ̣t chùm tia laser
lên Mă ̣t Trăng ngay vào chiếc gương và ghi nhâ ̣n thời điểm chùm tia laser
phản xạ ngược về Trái Đất. Họ ghi nhâ ̣n chu kì phát-phản xạ Trái Đất-Mă ̣t
Trăng-Trái Đất. Sau thâ ̣t nhiều lần thí nghiê ̣m phát - thu các nhà khoa học đều
nhâ ̣n được mô ̣t chu kì phát - thu chùm tia laser ứng với chu kì thời gian phát -
nhâ ̣n là như nhau: khoảng 2,5s cho mô ̣t chu kì, kết hợp với khoảng cách Trái
Đất - Mă ̣t Trăng khoảng 384.400 km họ đã tính được vâ ̣n tốc ánh sáng tương

62
đương vâ ̣n tốc ánh sáng lý thuyết đã được nêu ra bởi các nhà bác học như
Albert Einstein...là 299.792.458 m/s trong điều kiê ̣n chân không. Cách đo đạc
và tính toán này hoàn toàn không mâu thuẩn với việc, tia tới và tia phản xạ
cùng xuất hiện đồng thời, vì: Theo định luật Quan Hệ Vận Tốc, khi ánh sáng
từ trái đất (tia tới) chạm vào gương trên mặt trăng, thì tia phản xạ cũng xuất
C
Vtd =
hiện đồng thời và có vận tốc tương đối so với tia tới 2 , chiếu vận tốc 2
C C 2.S
Vhc = S =2,5s. ® =2,5s
tia lên phương khoảng cách, ta có: 2 . kết quả 2 C
.
Không cứ gì chúng ta, mà tất cả các nhà bác học lổi lạc trên khắp thế giới, từ
trước cho đến nay, đều cho rằng. Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh trong
quá khứ của mọi vật, gần thì quá khứ gần, xa thì quá khứ xa...Mặt khác, ai
cũng thừa nhận rằng. Ánh sáng sẽ đưa hình ảnh đầu tiên của một chuổi liên
tiếp các sự kiện lần lượt diễn ra trên thực tế đến các điểm khác nhau trong vũ
trụ, như cách chúng ta truyền hình trực tiếp trận bóng đá, hay chiếc đồng hồ
đang chạy ra khắp không gian vũ trụ vậy. Cụ thể hơn, tại điểm cách trái đất 45
phút ánh sáng, người ta vẫn xem trận bóng đá như khán giả trên trái đất và cái
đồng hồ cũng chỉ giờ như trên trái đất, chỉ có điều chậm hơn 45 phút mà thôi.
Đây là quan niệm sai lầm ngớ ngẫn nhất của loài người về ánh sáng! Sao
không ai chịu hiểu, tại điểm đó, người ta chỉ có thể xem được hiệp 2, còn cái
đồng hồ thì đã chạy hết 45 phút rồi? Ánh sáng có tốc độ lớn nhất, chúng ta chỉ
có thể thấy tia tới, không bao giờ thấy được tia phản xạ, vì không thể đuổi kịp
nó. Ánh sáng tới đâu là ta chỉ có thể biết tới đấy, khi ánh sáng tới B ta biết B,
tới C ta biết C. Tư duy khiến chúng ta suy luận, rồi so sánh hình ảnh ở B và C,
trong khi ta chỉ biết B mà chưa biết sự tồn tại của C, vì B là hiện tại còn C là
tương lai. Các sự kiện cụ thể chỉ xảy ra một lần duy nhất và trôi theo chiều từ
hiện tại đến tương lai, nếu C cách B 1 giờ ánh sáng, tuỳ theo chiều ánh sáng mà
C và B được coi là quá khứ hay tương lai của nhau. Nếu ánh sáng đi từ A đến
B, thì chỉ khi nào ánh sáng tới B, khi đó B mới nhìn thấy A, hay B chỉ nhìn thấy
hình ảnh hiện tại của A và ngược lại. Sẽ không bao giờ xuất hiện khái niệm
nhìn thấy quá khứ hay tương lai cũng như coi sự bất biến của tốc độ ánh sáng
đối với mọi hệ qui chiếu là nghịch lý so với nguyên lý cộng vận tốc của
Galilei, nếu loài người thay vì quan niệm vận tốc ánh sáng là 300.000km/s
bằng quan niệm: Ánh sáng là môi trường liên tục, gồm các phần tử luôn bức xạ
ra mọi phương với vận tốc bức xạ là 300.000km/s so với nguồn phát bức xạ.
Điều này cũng giống như con thỏ nhìn thấy con rùa bò với tốc độ 300.000km/s,
vì chạy tới đâu nó cũng gặp con rùa bò như thế, nhưng nếu con thỏ đứng ngoài
đàn rùa, thì nó sẽ thấy đàn rùa đang tiến về phía trước với tốc độ 300.000km/s.
Đây chỉ là lối nói ví von thông qua chuyện ngụ ngôn “Thỏ và Rùa” để dể hình

63
dung, vì mọi sự so sánh đều khập khiễng, tất cả cũng chỉ để nói lên một điều
rằng: Trong môi trường ánh sáng, thì khái niệm tốc độ ánh sáng trở nên vô
nghĩa, khi đề cập đến thời gian để A nhìn thấy B, do đó mà thời gian cũng
không còn ý nghĩa quá khứ hay tương lai nữa, mà chỉ có hình ảnh hiện tại mà
thôi.
Qua đây, chúng ta thấy rằng, chỉ cần quan niệm sai về bản chất sự việc sẽ dẫn
tới nhận thức sai lầm về tự nhiên là nghiêm trọng đến như thế nào. Khoa học
không phải chuyện tầm phào để cá nhân nào muốn nói gì thì nói, hiểu sao thì
hiểu kể cả nền khoa học đồ sộ như hiện nay, mà là vấn đề quyết định đến nhận
thức và tương lai vận mệnh của toàn nhân loại.
Vận tốc tương đối giữa chúng ta với ánh sáng là C, theo định luật Quan Hệ
C
Vtd =
Vận Tốc thì vận tốc tuyệt đối giữa chúng ta với ánh sáng sẽ là: 2 , tương
tự như vậy, cho việc xác định vận tốc thành phần của 2 hệ qui chiếu chuyển
động với vận tốc Vtđ so với nhau trong môi trường bức xạ (chi tiết trong phần
phụ lục). Trên cơ sở định luật Quan Hệ Vận Tốc, chúng ta đã thực hiện được
việc chọn ánh sáng là hệ qui chiếu tuyệt đối.
Mỗi một lý thuyết đều có cái lý của mình được suy luận từ các quan niệm và
tiên đề hiển nhiên, tranh cãi để kết luận thuyết nào đúng thuyết nào sai, là công
việc rất nhiêu khê, hầu như không có hồi kết. May thay, mọi lý thuyết đều đã
thừa nhận chỉ có tự nhiên mới đủ tư cách nói lời sau cùng. Không cần phải đi
sâu vào từng chi tiết của mọi thứ lý luận và căn cứ khoa học của nó, tự nhiên
đã đưa ra câu hỏi quyết định như sau:
Câu hỏi: Có thể nhìn thấy quá khứ và tương lai được không?
Mọi lý thuyết hiện nay đều nhanh nhẩu trả lời là “Có thể!”, vì đó là điều hiển
nhiên. Chỉ riêng lý thuyết Spin thì có câu trả lời là “Không thể!”
Đại diện cho tự nhiên là chiếc gương, đã đưa ra bằng chứng là sự đối xứng
gương. Vật và hình ảnh của vật luôn đối xứng qua mặt phẳng gương, do vậy
mọi quá trình từ vật đến gương và hình ảnh của vật trong gương đến mặt
gương luôn đồng thời với nhau, hay hình ảnh trong gương luôn đồng thời với
vật soi gương, thậm chí là cách nhau ở hai đầu vũ trụ. Nếu mắt người là cái
gương, thì tại một thời điểm, cái gương đó luôn nhìn thấy hình ảnh hiện tại của
mọi vật trong vũ trụ. Để giải thích cho hiện tượng này, chỉ có kiến thức trong
lý thuyết Spin, còn mọi lý thuyết còn lại không thể giải thích nổi được, do vậy
chỉ có lý thuyết Spin là đã được thực tế công nhận. Đừng cố biện minh để vớt
vát những quan niệm lổi thời đang sụp đổ ngay trước mắt nữa, mà hãy tự suy
ngẫm để mà phải trăn trở cho nền khoa học của chúng ta.
Trên đây chúng ta chỉ mới đề cập đến các quan niệm về vận tốc và thời gian
tuyệt đối, vậy còn không gian tuyệt đối thì sao?

64
Đã từ bao đời nay, chiếc gương dường như muốn thầm mách bảo cho chúng ta
một điều gì đó, bí ẩn của tự nhiên. Mỗi khi soi gương, chúng ta luôn thấy hình
ảnh của mình trong gương luôn có các hành động đồng thời với chúng ta, ai
cũng cho rằng, điều này là hiển nhiên, vì khoảng cách giữa họ và cái gương là
quá gần, nếu khoảng cách này quá xa, cở 1 năm ánh sáng, thì sự việc sẽ khác
đi, vì vận tốc ánh sáng là giới nội,v.v…Nhân loại đã phớt lờ sự mách bảo rất
thiết tha và kiên nhẫn hết đời này sang đời khác của chiếc gương về sự đối
xứng giữa ảnh và vật qua mặt gương. Do đối xứng, nên cho dù có quan niệm
về ánh sáng là gì đi chăng nữa, thì các quá trình từ vật đến mặt gương và từ
ảnh trong gương đến mặt gương là các quá trình đồng thời, không thể hiểu
khác đi được. Khi đề cập đến sự di chuyển của ánh sáng từ A đến B thì nhất
thiết chúng ta phải đề cập đến vận tốc ánh sáng, nhưng khi ánh sáng đã bao
phủ cả A lẫn B rồi, thì việc đề cập đến vận tốc ánh sáng là vô nghĩa, vì khi đó
ánh sáng đã là môi trường liên tục bao quanh A và B. Thông qua hiện tượng
đối xứng, chiếc gương muốn nói với chúng ta rằng, mọi thứ chúng ta đang nhìn
thấy đều là hình ảnh hiện tại, vì cho dù có cách xa nhau thế nào thì hình ảnh
vẫn luôn đồng thời với hiện tượng, hay hình ảnh của mọi cái đồng hồ trong vũ
trụ trên một cái gương, phải cùng chỉ giờ như nhau. Ngoài ra, hình ảnh vẫn
luôn cách xa chúng ta đúng như khoảng cách trong thực tế, nên không có
chuyện ánh sáng đã đưa hình ảnh đến mắt chúng ta, ánh sáng chỉ là môi trường
bức xạ, giúp chúng ta nhìn thấy hình ảnh mọi vật mà thôi. Hiện tượng này
chứng tỏ rằng tia ánh sáng do chúng ta tưởng tượng ra luôn luôn là đường
thẳng, không thể có thứ gì trong vũ trụ này có thể uốn cong nó được. Hiện
tượng thấu kính hấp dẫn làm tia sáng bị uốn cong là theo quan điểm vật lý hiện
đại, chỉ là một cách giải thích và tính toán, dựa trên giả thuyết "không gian bị
uốn cong do vật thể có khối lượng gây ra". Có thể nói rằng: Sự phát hiện ra
hiện tượng bất biến của vận tốc ánh sáng đối với mọi hệ qui chiếu có chuyển
động bất kỳ là bước ngoặt đã chuyển vật lý cổ điển sang vật lý hiện đại. Sự
phát hiện ra định luật bảo toàn hướng trục con quay tự do, đã chuyển vật lý
hiện đại về lại vật lý cổ điển.
Đã từ lâu các nhà thiên văn quan sát thấy hình ảnh biểu kiến của những cặp sao
đôi quanh quanh nhau, bất chấp chúng cách xa nhau như thế nào và khoảng
cách từ trái Đất đến các cặp sao đôi là xa bao nhiêu đi chăng nữa, thì các nhà
thiên văn của chúng ta vẫn luôn nhìn thấy hình ảnh biểu kiến của chúng luôn
quay quanh nhau theo chu kỳ và trên những quĩ đạo đúng như thực tế. Theo
quan niệm hiện nay, ánh sáng phải mất một khoảng thời gian nào đó, tuỳ theo
khoảng cách giữa người quan sát và vật thể để đưa hình ảnh của vật thể đến
mắt người quan sát, hình ảnh mà chúng ta đang quan sát thấy, là đã xảy ra
trong quá khứ và được gọi là hình ảnh biểu kiến, tức không đúng với thực tế.
Theo đó thì chúng ta phải thấy hình ảnh biếu kiến của cặp sao đôi sẽ hổn độn,

65
thậm chí không thể phân biệt nổi sao nào là sao nào. Hiện tượng này chỉ có thể
được giải thích thoả đáng, nếu theo quan niệm, chúng ta luôn nhìn thấy hình
ảnh hiện tại chứ không phải hình ảnh biểu kiến của mọi vật. Mà nếu công nhận
và theo quan niệm này thì, vật lý hiện đại phải được xem xét lại, hay. Hiện
tượng hình ảnh biểu kiến của những cặp sao đôi là hiện tượng Quyết Định cho
thuyết Spin. Nhân loại và các thế hệ các nhà khoa học từ trước cho đến nay đã
không hiểu, hay cố tình không chịu hiểu? Nếu cứ thế này, thì nền khoa học của
loài người sẽ đi về đâu?
Chính nhờ vào việc chọn ánh sáng làm hệ qui chiếu tuyệt đối, cùng với các
quan niệm về thời gian tuyệt đối và không gian vũ trụ là không gian Euclid
tuyệt đối 3 chiều, mà thuyết tổng quát vũ trụ đã mô tả vũ trụ một cách đơn
giản, rỏ ràng và nhất quán, không những thế, tự nhiên lại dường như muốn
mách bảo rất nhiều điều cho thuyết này.
Loài người chúng ta đang thụ hưởng một nền văn minh, được phát triển chủ
yếu trên cơ sở những thành tựu của khoa học thực nghiệm với những suy luận
toán học để định lượng cho những mày mò trong thực tế. Sự phát triển khoa
học đã chỉ ra rằng, mọi lý thuyết có thể đúng lúc này nhưng lại sai lúc khác,
chưa có một lý thuyết nào là tổng quát và nhất quán cho mọi hiện tượng, mọi
lúc, mọi nơi. Đó đâu phải là khoa học chính thống như chúng ta đã ngộ nhận
và coi là niềm kiêu hãnh của nền văn minh trái Đất. Bây giờ mà nêu ra những
bất cập trong quan niệm về thế giới quan của khoa học hiện đại là không cần
thiết, vì đó là tiên đề của từng quan điểm, khó mà hiểu được nhau. Hãy bắt đầu
phân tích những quan niệm về thời gian và không gian mà mọi quan điểm khác
nhau đều phải xuất phát từ đó.
Các giáo viên, sinh viên trong các trường đại học, các nhà vật lý lý thuyết cũng
như các sách giáo khoa hiện nay đều thao thao bất tuyệt một cách rất hùng hồn
như đúng rồi về cái gọi là Continuum Không-Thời gian 4 chiều. Nhưng để
hình dung, hay vẽ ra Continuum Không-Thời gian 4 chiều là cái gì? Điều gì đã
liên kết không gian, thời gian lại với nhau để hình thành nên Continuum
Không-Thời gian 4 chiều? Phải trả lời được các câu hỏi này, thì chúng ta mới
có nền khoa học chính thống được.
Nếu không có các vật thể khác xung quanh, hay nói cách khác như ta đang
nhắm mắt lại, thì khái niệm không gian sẽ không thể tồn tại trong tư duy,
tương tự nếu không có chuyển động, thì cũng không có sự so sánh nhanh hay
chậm, tức khái niệm thời gian cũng không thể tồn tại nổi. Bằng trực giác,
chúng ta đã tạo ra đại lượng vận tốc V để so sánh sự biến thiên khoảng cách S
dS
V=
giữa các vật thể với nhau trong một đơn vị thời gian t, hay dt . Với quan
niệm vận tốc là đại lượng có hướng, chúng ta luôn biểu diễn vận tốc dưới dạng
véc tơ để áp dụng lên mọi nghiên cứu khoa học, đây chính là hạn chế chủ quan,

66
thiếu tổng quát của nền khoa học hiện đại, bởi lẽ vị trí tương đối và trạng thái
chuyển động của mọi vật là khác nhau, mỗi vật có hệ qui chiếu của riêng mình,
nên mô đun, phương chiều của một vec tơ chưa nói lên được điều gì. Để tổng
quát và nhất quán cho khái niệm vận tốc, ta phải coi không gian của từng vật
thể luôn gắn liền với vật thể đó bằng cách biểu diễn một điểm bất kì trong
không gian thông qua toạ độ (x,y,z) của điểm đó, tất nhiên gốc toạ độ phải luôn
gắn với vật thể đang khảo sát. Khi đó tốc độ biến thiên của các tham số (x,y,z)
trong một đơn vị thời gian, chính là vận tốc của điểm đó. Các không gian của
các vật thể, hay hệ qui chiếu luôn chồng chất lên nhau, sự trượt lên nhau của
các không gian này, chính là vận tốc tương đối giữa các vật thể, hay hệ qui
chiếu với nhau. Cụ thể hơn, tỷ số V = d(không gian)/d(thời gian) là continuum
Không-Thời gian của hai hệ qui chiếu có vận tốc tương đối so với nhau là V
và đây là đại lượng vô hướng. Trước tiên là thông qua thực nghiệm, rồi sau đó
được chứng minh bằng lý thuyết Spin, ta đã khẳng định vận tốc ánh sáng:
d(x, y, z)
C= =const
dt =>C= d(không gian)/d(thời gian) = const là lớn nhất.
Điều này có nghĩa rằng continuum Không-thời gian tuyệt đối của vũ trụ là môi
trường ánh sáng, tương tự cho các không gian tuyệt đối khác mà chúng ta
không thể nhìn thấy được, như trường hấp dẫn, trường điện từ, trường hạt
nhân,v.v…Vì vận tốc tương đối là nguyên nhân của mọi tương tác và mọi quá
trình xảy ra trong vũ trụ. Ý nghĩa vật lý của khái niệm Continuum Không-Thời
gian này là, mọi phần tử trong không gian luôn trượt lên nhau với vận tốc là
C
Vtd =
C/2 hay quay quanh nhau với vận tốc tiếp tuyến là 2 theo mọi phương
trong một đơn vị thời gian. Định luật Quan Hệ Vận Tốc và định luật Phân Bố
Bức Xạ đã cho phép ta dùng continuum Không-Thời gian tuyệt đối của ánh
sáng làm hệ qui chiếu tuyệt đối, thống nhất cho toàn vũ trụ. Còn một điều đáng
lưu ý khác, đó là: Một khi đã đề cập đến khái niệm Continuum Không-Thời
gian tuyệt đối, thì khái niệm vận tốc dài có hướng phải được hiểu trên tinh thần
của định luật Quan Hệ Vận Tốc, tức vận tốc tiếp tuyến trong chuyển động quay
quanh nhau giữa hai phần tử khảo sát, hay spin. Với khái niệm vận tốc và
continuum Không-Thời gian như vừa được trình bày ở trên, lý thuyết spin đã
giải quyết được mọi bất cập trong khoa học và giải thích rỏ ràng các hiện
tượng và các quá trình xảy ra kể cả hình dáng và giới hạn tận cùng của vũ trụ
một cách nhất quán và thống nhất triệt để. Sau đây là cách, mà lý thuyết Spin
vượt qua khái niệm “lực hút trong chân không” nan giải đã vắt kiệt trí tuệ các
thế hệ bác học của nhân loại như thế nào:

Với quan niệm, không gian vũ trụ là môi trường chân không tuyệt đối mà trong

67
đó, vô vàn các loại hạt đóng vai trò như các bức xạ, bay loạn xạ vô định khắp
nơi... Lực đẩy giữa hai vật thể thì rất dễ hình dung và có nhiều cách lý giải,
chẳng hạn như, vật này bắn phá vật kia bằng các tia bức xạ, khiến chúng đẩy
lẫn nhau, nhưng lực hút thì lại khác, các tia bức xạ chỉ xuất phát từ nguồn ra
không gian, nên không thể là nguyên nhân của lực hút được. Các nhà vật lý cổ
điển hoàn toàn bất lực với vấn đề “Lực hút trong chân không”, nên họ chỉ còn
biết cách công nhận và coi lực hút hấp dẫn, lực hút tĩnh điện, lực hút từ, lực hút
hạt nhân,v.v.. như là một thực tế hiển nhiên. Đã không biết bao nhiêu trí tuệ
kiệt xuất của nhân loại, hết thế hệ này sang thế hệ khác cố gắng giải quyết vấn
đề lực hút trong không gian, qua đó có thể hiểu được bản chất của các tương
tác trong vũ trụ, nhưng kết quả cho đến tận ngày nay vẫn chỉ là con số 0 tròn
trĩnh. Lý thuyết Hạt đã đưa ra nhiều loại mô hình hạt cùng với khái niệm
không gian cong đa chiều nhằm để giải thích lực hút, nhưng sẽ chẳng bao giờ
thuyết phục nổi những nhà khoa học uyên thâm và khó tính. Thuyết tương đối
rộng của Einstein cố gắng đưa ra mô hình khối lượng làm cong continuum
Không-Thời gian để giải thích riêng cho trường hợp lực hấp dẫn, nhưng sự
thuyết phục của thuyết này vẫn rất không rỏ ràng và rất thiếu nhất quán, đặc
biệt là không tổng quát vì. Ngoài lực hút hấp dẫn ra, còn có lực hút điện từ, lực
hút hạt nhân,v.v... Tóm lại là, với quan niệm về thế giới vật chất như hiện nay,
khoa học sẽ chẳng bao giờ có thể giải quyết nổi vấn đề các tương tác trong vũ
trụ được.
Lý thuyết Spin quan niệm vũ trụ được lấp đầy bởi các photon đứng cố định tại
một chổ và tự xoay tròn với vận tốc tiếp tuyến bằng C, và gọi thuộc tính này
của photon là spin W = C. Các phần tử vật chất là mật độ photon tại điểm tồn
tại của nó trong không gian photon. Vì có kích thước (R), nên các phần tử cấu
C
W=
thành vật thể luôn có spin nhỏ hơn spin photon không gian, cụ thể là R
(theo định nghĩa Spin), nên các photon không gian luôn có xu hướng ép các
phần tử vật chất lại với lực F. Bằng việc giải phương trình vi phân của định
dn n.C
=-
luật Phân Bố Bức Xạ: dt R , lý thuyết này đã xác định được lực F, theo
2
n.W .C
F =-
công thức R (n là số lượng spin w tại khoảng cách R). Từ công
thức lực F hoàn toàn được xác định bằng lý thuyết, lý thuyết spin đã thiết lập
được các công thức tổng quát cho các loại tương tác trong vũ trụ chỉ bằng các
phương pháp toán học sơ cấp, ai cũng có thể hiểu được, chứ không cần tới các
phương pháp toán siêu cao cấp khó hiểu như mọi lý thuyết khác. Chính từ sự
hiểu biết về bản chất các loại tương tác trong vũ trụ, mà lý thuyết spin đã phát
hiện ra rất nhiều điều vô cùng mới mẽ và rất bất ngờ cho nhận thức của chúng

68
ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy tiền đồ cho nền khoa học nhân loại. Đơn cử
như nguyên lý đĩa bay (UFOs) sau đây:
NGUYÊN LÝ ĐĨA BAY
Khi một vật có khối lượng m di chuyển với tốc độ v so với vật nào đó, trái Đất
chẳng hạn, sẽ bức xạ ra spin Từ khối lượng B, gây nên tính quán tính của khối
m. v
lượng, được xác định theo công thức: B= r (r bán kính quay), B tạo ra lực F
chống lại áp lực môi trường bức xạ khối lượng lên m, F được xác định theo
m. v 2
công thức: F= (r là khoảng cách giữa hai vật khảo sát). Để cân bẳng với
r
lực hấp dẫn Fhd, gây bởi môi trường spin bức xạ khối lượng của trái Đất lên
m, thì m phải đạt được vận tốc:
m. v 2
F= Fhd => = m.G (G gia tốc trọng trường)suy ra vận tốc tối thiểu Vmin
r
để m lơ lững trong không trung: Vmin= √ G. r . Vận tốc tiếp tuyến của con quay
quá nhỏ, chỉ đủ để giữ cho nó ở vị trí thẳng đứng chứ không thể giúp nó bay
lên được. Tuy nhiên ta có thể dùng con quay để khẳng định nguyên lý đĩa bay
như sau:
Con quay có dạng hình xuyến, sao cho trọng lượng của con quay tập trung chủ
yếu trên vòng xuyến đó. Để loại trừ tác động của không khí lên kết quả thí
nghiệm, ta thiết kế con quay được quay bằng điện và được đặt trong hộp kín.
Đặt cái hộp có chứa con quay lên bàn cân rồi ghi trọng lượng của nó lại, sau đó
khởi động cho con quay quay với tốc độ tăng dần, quan sát chỉ số trên bàn cân
ta sẽ thấy trọng lượng con quay giảm tỷ lệ nghịch với tốc độ quay của nó.
Nếu m là cái đĩa tròn xoay quay với vận tốc tiếp tuyến V (V>Vmin), gọi mv là
khối lượng của cái đĩa có vận tốc V>Vmin, theo công thức cân bằng lực ở trên
mv . V 2 m
ta có:
r √
=G . m=¿ V = G . r .

m
mv


Nếu cái đĩa có vận tốc V> G. r . , thì cái đĩa đó sẽ thoát khỏi lực hấp dẫn để
mv
bay tự do trong không gian. Ngoài ra môi trường bức xạ spin Từ do chuyển
động xoay tạo ra, mà nhà du hành ngồi trong cái đĩa đó không bị ở trong trạng
thái phi trọng, đồng thời cũng thoát khỏi ảnh hưởng của tính quán tính khối
lượng, do vậy cũng không chịu bất cứ tác động nào từ việc thay đổi vận tốc đột
ngột của cái đĩa. Khi quay ở tốc độ cao, thì môi trường spin từ khối lượng của
cái đĩa cũng tương tự như spin từ khối lượng của trái Đất (do chuyển động tự
xoay của trái Đất) nên hai môi trường này tương tác với nhau, nếu thay đổi hợp
lý tương tác này theo chủ ý thì chúng ta sẽ bay theo mọi hướng với tốc độ bao
nhiêu tuỳ thích. Như chúng ta đã biết, trong không gian bức xạ vũ trụ luôn tồn
tại hai loại bức xạ đó là bức xạ khối lượng và bức xạ từ khối lượng, nên việc di

69
chuyển của cái đĩa trong không gian cũng tương tự như khi di chuyển trong
không gian bức xạ của trái Đất. Vận tốc tiếp tuyến lớn của đĩa bay đã hạn chế
tác động của lực hạt nhân, giúp các nhà du hành trong đĩa bay có tuổi thọ rất
cao, thậm chí là bất tử như đã được trình bày trong lý thuyết Spin:
C2
Lực hạt nhân F=M (M khối lượng, R bán kính, C vận tốc ánh sáng) là
R
nguyên nhân của mọi quá trình xãy ra trong vũ trụ, kể cả quá trình sinh lão
bệnh tử của muôn loài chúng sinh. Khi M chuyển động với vận tốc V, sẽ bức
M .V
xạ ra spin Từ khối lượng B= R , môi trường bức xạ này tạo ra lực quán tính
M .V2 M . ( C 2−V 2 )
F qt = chống lại lực hạt nhân: F t=F−F qt= làm chậm mọi quá
R R
trình do lực hạt nhân F gây ra chứ không phải thời gian co lại như thuyết tương
đối đã kết luận. Cụ thể hơn, xét tích ( C 2−V 2 ) trong đẳng thức trên ta có:
S
V2 S t '=

C . 1− 2 ; Gọi t= ,
C V
√ V 2 thời gian để √ ( C 2−V 2 ) đi hết quãng đường S,
C 1− 2
C
ta có công thức tính thời gian bị chậm bởi V gây ra:
t
t '=
V2
√ 1−
C2
hoàn toàn trùng với công thức Lorentz của Einstein.
Nhưng điều hệ trọng hơn hết thảy là lý thuyết spin đã thống nhất toán học và
vật lý thành một bộ môn khoa học như sau:
Nền toán học hiện đại của nhân loại, tuy rất đa dạng và phong phú với đủ loại
chuyên ngành khác nhau, nhưng tựu trung lại thì, toán học là một bộ môn
chuyên nghiên cứu về số lượng, không thể nào hiểu khác đi được. Khái niệm
về tập số thực, được coi là tiên đề hiển nhiên, cùng với các qui luật của nó đã
tạo ra dấu bằng trong mọi phương trình toán học, nếu thiếu dấu bằng (=) thì
toán học sẽ không còn điều gì để nói nữa. Tóm lại, tập số thực là nền tảng để
toán học phát triển và tồn tại, là môi trường duy nhất, tuyệt đối và nhất quán,
nên các định nghĩa trong toán học cũng là duy nhất, tuyệt đối và nhất quán.
Cũng giống như toán học, vật lý hiện đại cũng có vô số chuyên ngành khác
nhau, nhưng lại không có môi trường duy nhất, tuyệt đối và nhất quán như toán
học. Các ngành trong vật lý lý thuyết hiện đại, đua nhau đưa ra các khái niệm,
định nghĩa cho các đại lượng trong tự nhiên theo ý riêng của mình, mà không
bao giớ đếm xỉa tới sự nhất quán, duy nhất và tuyệt đối của các quan niệm và
định nghĩa đó, cứ thế áp dụng bừa bãi toán học vào nghiên cứu với phương
châm rất chủ quan “Tất cả đều tương đối, không có gì là tuyệt đối cả!”. Nếu cứ
như thế này, vật lý lý thuyết sẽ ngày càng thêm phức tạp, trừu tượng đến mức

70
không ai còn có thể hiểu nổi được nữa, đó là ngày vật lý lý thuyết sụp đổ như
toà lâu đài được xây trên cát. Lý thuyết Spin đã khắc phục được sự bất cập này
của vật lý lý thuyết, vì cũng giống như toán học với tập số thực, nó chỉ có duy
nhất khái niệm spin, được coi là tiên đề hiển nhiên. Mọi quan niệm và định
nghĩa của lý thuyết spin là duy nhất, tuyệt đối và nhất quán kể cả khái niệm
vận tốc tương đối, tuyệt đối. Đặc biệt, với việc giải phương trình vi phân của
định luật Phân Bố Bức Xạ để có được công thức lực tác động từ không gian lên
spin vật chất như đã đề cập ở trên, lý thuyết spin chính thức gộp vật lý lý
thuyết và toán học lại thành một bộ môn khoa học duy nhất, luôn đúng, tổng
quát và nhất quán tuyệt đối trong mọi thời đại, bất chấp thời gian, mọi lúc, mọi
nơi.
Từ vật chất mà tư duy mới có các khái niệm toán học, khác với khái niệm vật
lý có thể có nhiều định nghĩa khác nhau cho cùng một khái niệm, như khối
lượng, điện lượng, nhiệt độ,v.v… Toán học chỉ có một định nghĩa duy nhất cho
một đại lượng nào đó, chỉ có tư duy toán học mới có thể coi quả Đất, thậm chí
một thiên hà là chất điểm và quĩ đạo chuyển động của chúng là những đường
thẳng hay cong, mặt bàn, mặt nước là những mặt phẳng,v.v.. Hình học Euclid
là sản phẩm toán học của tư duy để mô tả thực tế, mọi khái niệm hình học của
nó là tổng quát, hoàn toàn độc lập với thực tế. Toán học nghiên cứu mọi khả
năng có thể xảy ra, còn vật lý chỉ nghiên cứu một khả năng duy nhất có thể xảy
ra, đó là thực tế, “Lý thuyết thì nhiều nhưng thực tế chỉ có một!”. Nhưng nếu,
không có sự khái quát hoá toán học để định lượng cho các đại lượng, vật chất
cũng như phi vật chất, tham gia trong các quá trình xảy ra trong thực tế, thì
không bao giờ chúng ta có tư duy logic toán học được, đơn cử như đại lượng
thời gian phi vật chất chẳng hạn. Sự khác nhau cơ bản, không thể vượt qua
được giữa con người và động vật là khái niệm thời gian, chỉ có tư duy mới có
khái niệm thời gian phi vật chất, chính vì điều này mà loài vật không thể tiến
hoá thành nền văn minh như loài người được. Mọi hành động của loài vật là do
bản năng sinh tồn và phản xạ tự nhiên với thế giới vật chất, đối với chúng,
không có những gì là phi vật chất. Khái niệm thời gian đã giúp loài người
chúng ta phát triển thành nền văn minh Trái Đất, nhưng cũng chính khái niệm
ấy đã khiến cho chúng ta phải luôn băn khoăn và nhói lòng, khi nghĩ đến nấm
mồ đang chờ ta ở phía cuối con đường. Còn loài vật, đối với chúng cuộc sống
là sự bất tử, vì thời gian là hiện tại, không có quá khứ mà cũng không có tương
lai, chúng không bao giờ có ý nghĩ và băn khoăn về các nấm mồ như chúng ta.
Chúng ta đã quá quen biết với khái niệm Nhiệt và số đo nhiệt độ, nhưng ít ai
lại quan tâm tới bản chất của nhiệt, ngoài khái niệm chung chung, khá mơ hồ
rằng. Nhiệt là một biểu hiện đặc trưng cho trạng thái chuyển động của những
phần tử tạo nên vật thể vật chất, các vật thể có thể truyền các trạng thái chuyển
động của mình lẫn nhau, đó là sự truyền nhiệt. Nhiệt độ là số đo mức độ khác

71
nhau của các biểu hiện đặc trưng trạng thái chuyển động khác nhau của các
phần tử của vật thể. Để giải thích về các hiện tượng nhiệt, chúng ta thường hay
viện tới khái niệm động năng và sự trao đổi động năng giữa các vật thể. Thực
ra thì, nhiệt là một biểu hiện đặc trưng cho vận tốc tương đối giữa các chuyển
động riêng của các phần tử của vật thể, còn nhiệt độ thể hiện độ lớn của các
vận tốc tương đối này trong các biểu hiện đặc trưng tương ứng, có nghĩa là
nhiệt độ càng cao thì vận tốc tương đối giữa các chuyển động riêng của phần tử
càng lớn và ngược lại. Sự truyền nhiệt là do tác động tương hổ giữa các chuyển
động riêng của các phần tử. Tuy hai khái niệm này có vẻ là tương đương,
nhưng lại rất khác nhau về bản chất, nếu hiểu sai bản chất, chúng ta sẽ không
thể nào lý giải nổi tự nhiên. Khi nói đến nhiệt độ của một vật, ta đã mặc nhiên
coi mọi phần tử của nó đều ở trong trạng thái cân bằng nhiệt, tức có nhiệt độ
bằng nhau. Để so sánh nhiệt độ của các vật thể, ta phải dùng một trạng thái
nhiệt độ nào đó để làm chuẩn, do vậy mới có các thang nhiệt độ như ngày nay.
Nhiệt độ chỉ mới có khái niệm mà chưa có định nghĩa, do vậy sự không nhất
quán về nhiệt độ chuẩn vẫn là vấn đề lớn của các nhà vật lý ngày nay, đơn cử
như bài toán về nhiệt như sau:
Nhiệt độ hôm nay cao gấp đôi ngày hôm qua, hôm nay lạnh 0 độ C, vậy hôm
qua lạnh mấy độ C?
Bất cứ nhà toán học nào cũng đều cho rằng, bài toán này phải có đáp án cụ thể.
Bất cứ nhà vật lý nào cũng đều cho rằng, đây là các trạng thái nhiệt độ khác
nhau chứ không phải là số 0 như trong quan niệm toán học thuần tuý. Thế
nhưng, không ai có thể giải được bài toán này, nếu chỉ dựa trên các quan niệm
nhiệt độ và các thang nhiệt khác nhau hiện nay.
Theo thuyết tổng quát vũ trụ, thì vận tốc lớn nhất mà các phần tử vật chất có
C
Vmax =
thể đạt được là 2 (C là vận tốc ánh sáng), tức khi đạt đến vận tốc này
thì các phần tử của vật thể sẽ bức xạ nhiệt dưới dạng ánh sáng. Mặt khác, với
việc chọn ánh sáng là hệ qui chiếu tuyệt đối, nên mọi chuyển động đều phải
qui đổi ra spin (chuyển động tự xoay và chuyển động hành tinh). Nhiệt độ T
V
T=
được đặc trưng bởi tỷ số C , trong đó V là vận tốc tiếp tuyến của spin, C là
vận tốc ánh sáng, hay 0 £T £1 . Theo đó thì, mọi trạng thái nhiệt độ phải được
thể hiện bởi một số thập phân nhỏ hơn 1 nào đó, tức nhiệt độ 0 độ C là một số
thập phân nhất định, chia đôi số này sẽ được nhiệt độ ngày hôm qua. Qua đây
mới thấy rằng tại sao các phương trình trong bộ môn nhiệt động học lại nổi
tiếng về sự phức tạp và dài dằng dặc đến như thế, phải chăng đã có sự nguỵ
biện nằm ở đâu đó trong cách lập luận để thiết lập nên các phương trình này?
Xuất phát từ mặt trời, tia sáng cũng phải có nhiệt độ như mặt trời, nếu dùng

72
thấu kính tập trung chúng lại thành một điểm thì, càng nhiều tia bao nhiêu càng
nóng lên bấy nhiêu, mà đáng lẽ ra nhiệt độ tại điểm hội tụ phải bằng nhiệt độ
của các tia sáng (bằng1), vì là tập hợp của các tia sáng có cùng nhiệt độ. Nếu kí
hiệu K là số lượng các bức xạ nhiệt T tại một điểm, hay nhiệt lượng tại điểm
đó, thì tích W=K.T thể hiện đầy đủ trạng thái nhiệt và nhiệt độ tại điểm khảo
sát. Nếu gọi số lượng bức xạ nhiệt của mặt trời là Kt, thì sức nóng của nó sẽ là
W=Kt.1, giả sử R là khoảng cách từ trái đất đến mặt trời, thì sức nóng của các
Kt
W=
tia ánh sáng tại trái đất sẽ là 4.p .R 2 . Đây là nguyên nhân khiến cho sức
nóng phụ thuộc vào khoảng cách tới nguồn. Con người thường nhìn nhận và
đánh giá thế giới hạn hẹp của mình bằng trực giác rồi suy diễn để áp đặt chân
lý của mình lên toàn vũ trụ bao la, nơi ẩn chứa những hiện tượng vượt quá tầm
tư duy kinh nghiệm của họ. Đơn cử như khái niệm nhiệt độ đang được nhân
loại hiện nay dùng để tìm hiểu vũ trụ.
Nhiệt độ là tỷ số giữa vận tốc bức xạ nhiệt với vận tốc ánh sáng, tức nhiệt độ
T của vũ trụ nằm trong khoảng 0 £T £1 , hay ánh sáng có nhiệt độ cao nhất.
M .C 2
F=
Các hành tinh bị lực ép hạt nhân R (M khối lượng hành tinh,C vận tốc
ánh sáng,R bán kính hành tinh) theo thời gian sẽ nóng dần lên để chuyển hoá
thành sao. Hành tinh càng lớn thì quá trình chuyển hoá càng nhanh và ngược
lại. Với khối lượng đủ lớn như mặt Trời chẳng hạn, các phần tử vật chất ở tâm
bị lèn chặt đến mức, không còn khả năng chuyển động để bức xạ nhiệt nên có
thể coi các phần tử này là vật đen không còn khả năng trao đổi nhiệt được nữa
và có nhiệt độ xấp xĩ bằng 0. Còn các phần tử ở tâm trái đất chịu lực ép chưa
đủ lớn, chỉ đủ để phá vỡ cấu trúc hạt nhân, nên các phần tử tồn tại ở dạng
plasma và vẫn có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ ở các nơi khác. Chúng ta thấy nhiệt
độ cao ở tâm trái Đất rồi suy diễn cho mặt Trời đã dẫn đến nhận thức sai lầm
rằng, nhiệt độ tại tâm mặt Trời cao hơn bề mặt. Nhưng thực tế thì, nhiệt độ tại
tâm mặt Trời còn thấp hơn nhiệt độ ở Bắc cực rất nhiều.
Chắc chắn các bạn sẽ coi người nói ra điều ngược đời này là thằng điên.Cho dù
vậy, tôi vẫn muốn nói với các bạn rằng:Chỉ khi nào bạn không còn một chút
mãy may nghi ngờ nào về các kiến thức Khoa học của mình, thì khi đó bạn
mới đủ tự tin và chủ động trong nghiên cứu và có khả năng để trở thành nhà
khoa học lớn của nhân loại.
Bất chấp thời gian, mặt Trời vẫn luôn bền bỉ toả sáng ra không gian vũ trụ với
một lượng nhiệt năng vô cùng khủng khiếp, vậy nhiệt năng này mặt trời lấy ở
đâu ra? Để trả lời câu hỏi này, các nhà bác học đã viện dẫn đến phản ứng nhiệt
hạch, được suy ra từ lý thuyết rằng, khi tổng hợp hai nguyên tử Hydro để tạo ra
nguyên tử Heli, thì sẽ toả ra một lượng nhiệt năng T vô cùng lớn, đại khái:

73
H + H = He + T
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhằm thực hiện phản ứng này trên trái
Đất, nhưng cho đến nay vẫn chưa có kết quả nào là được công nhận, mà hình
như đã có việc trao nhầm giải Nobel cho những công trình nghiên cứu này rồi.
Vấn đề là ở chổ, dù hình thức bên ngoài của các thí nghiệm đều rất giống với
những gì lý thuyết đã tiên đoán, nhưng chưa ai phát hiện được hạt Neutrino bắt
buộc phải có khi xảy ra phản ứng nhiệt hạch. Điều này chứng tỏ rằng, chưa
chắc, phản ứng nhiệt hạch là có thực trong thực tế. Vấn đề này có thể được giải
thích bằng cách nhìn hoàn toàn mới trên cơ sở lý thuyết Spin như sau:
Trong quá khứ, mặt Trời được hình thành từ quả cầu hoàn toàn nguội lạnh, do
có khối lượng M lớn đến một qui mô mà, theo thuyết Tổng quát về Vũ trụ, thì
các phẩn tử vật chất tại trung tâm mặt Trời phải chịu lực ép F có trị số được
M .C 2
F=
xác định theo công thức: R (Lực F bằng tích khối lượng mặt Trời M,
nhân với bình phương vận tốc ánh sáng c, rồi chia cho bán kính mặt Trời R).
Lực ép lớn như vậy, đã phá vỡ cấu trúc nguyên tử, khiến cho các hạt điện tử và
dương tử va vào nhau, tự hủy cặp để biến thành ánh sáng, các phần tử vật chất
tại trung tâm mặt Trời bức xạ nhiệt, bắt đầu từ trung tâm, theo thời gian sẽ lan
ra đến tận lớp vỏ mặt Trời, cho tới khi mặt Trời là một ngôi Sao trong Thái
Dương hệ như ngày nay. Do bị lực F lèn chặt, các spin vật chất tương tác lẫn
nhau, kết quả là giá trị spin bị giảm, một phần được chuyển hoá thành bức xạ
nhiệt, như vừa được đề cập ở trên, một phần khác thì theo định luật bảo toàn
mômen động lượng, giá trị spin bị giảm đi của các photon được chuyển hoá
thành chuyển động tự xoay của mặt Trời ta gọi chuyển động tự xoay này là
spin Từ B. Spin Từ bức xạ ra bức xạ Từ, được xác định theo công thức
M .V
B=
R (V là vận tốc tiếp tuyến của chuyển động tự xoay, R là khoảng cách
từ điểm khảo sát đến tâm vật thể). Lực F tăng dần cường độ theo thời gian, do
bởi bán kính R của mặt trời giảm dần theo thời gian từ sự co ngót của các phần
tử dưới tác dụng của lực F, kết quả là spin từ B càng ngày càng tăng, hay mặt
Trời càng ngày càng quay nhanh dần lên. Quá trình tiến triển này của mặt Trời
sẽ có sự thay đổi, khi các phần tử ở trung tâm mặt trời bị lèn chặt đến mức
không còn có bất cứ chuyển động riêng nào nữa, kể cả chuyển động spin, đó là
vật đen tuyệt đối, vì không còn bức xạ và cũng không còn có khả năng tham
gia vào các quá trình nhiệt động học nữa. Theo thời gian, qui mô vật đen ở
trung tâm mặt Trời ngày càng phát triển, cho tới khi toàn bộ spin còn sót lại
của mặt Trời được chuyển hoá thành spin từ B, vì mặt Trời không còn khả
năng tham gia vào các quá trình nhiệt động học nữa. Lúc này mặt trời đã suy
biến thành một hố đen trong vũ trụ, nó đứng đó chờ đợi cho tới khi mọi vật thể

74
khác trong vũ trụ chuyển hoá để trở thành hố đen như nó... Để rồi, mặt Trời và
tất cả những gì tồn tại trong cõi càn khôn sẽ được spin từ B gom lại thành một
điểm đen tuyệt đối trong vũ trụ, lúc này lực ép khủng khiếp F từ không gian
vật chất mới lộ nguyên hình, theo công thức:
M .C 2
F= ® A =F.R =M .C 2 =E
R , với M là khối lượng của toàn vũ trụ, đó là
“Big–Bang”. Như vậy là vũ trụ đã hoàn thành xong một chu trình của vòng
tuần hoàn bất định, hết tan lại hợp, hết hợp lại tan... Cứ thế vũ trụ vần vũ theo
nhịp điệu tự sinh tự huỷ, biến động không ngừng theo tiến trình thời gian bất
tận...
Mọi vật thể trong vũ trụ đều được cấu tạo từ các photon với đặc tính tự xoay
tròn và được gọi là spin, hay khối lượng M là số M photon có trong vật thể đó.
Photon lấp đầy vũ trụ, do vậy M có thể được coi là mật độ photon tại điểm tồn
tại của vật thể có khối lượng M. Có một bài toán cực kì quan trọng, mà từ
trước cho đến nay chưa bao giờ xuất hiện trong đầu các nhà khoa học, chứ
chưa nói gì đến việc quan tâm và tìm cách giải nó như sau:
Một điểm sáng có N tia sáng với vận tốc các tia là C. Hỏi biến thiên mật độ tia
sáng (n) tại điếm cách điểm sáng một khoảng cách R là bao nhiêu?
Trông thì có vẻ đơn giản, nhưng khi bập vào thì không ai có thể giải nổi bài
này, cho dù đó là nhà toán học thiên tài đi chăng nữa, nếu anh ta không nắm
được bản chất vật lý của hiện tượng. Kết quả của bài toán này giúp chúng ta
giải thích được bản chất bất biến của vận tốc ánh sáng, nên không thể coi hiện
tượng bất biến đó là tiên đề hiển nhiên được. Cũng thông qua kết quả này, mà
chúng ta đã có thể giải quyết được trọn vẹn các vấn đề nan giải hiện nay về các
tương tác như Hấp Dẫn, Điện Từ, Hạt Nhân, v.v…kể cả các hiện tượng Nhiệt
động lực học, cấu trúc và giới hạn tận cùng của Vũ trụ nữa. Nhưng đặc biệt
hơn hết thảy, là kết quả này đã thống nhất vật lý và một số chuyên ngành toán
học thành một bộ môn duy nhất, giúp con người dễ dàng hiểu được bản chất
của mọi hiện tượng và sự tồn tại trong tự nhiên rỏ ràng, tổng quát và nhất quán
cho toàn Vũ trụ.
Định luật Phân Bố Bức Xạ được phát biểu như sau:
Tại một điểm bất kỳ trong không gian, nơi có bức xạ truyền qua, biến thiên
mật độ bức xạ theo thời gian không phụ thuộc vào vận tốc của điểm đó và
được xác định bởi công thức:
dn n.C
=-
dt R
Trong đó : C là vận tốc truyền bức xạ, n là mật độ bức xạ tại điểm cách nguồn
phát bức xạ một khoảng cách R.
Bây giờ chúng ta hãy lưu ý tới các mối liên hệ giữa các đại lượng trong điện
học sau đây để có cái nhìn khách quan hơn cho vấn đề. Chúng ta đều biết rằng,

75
trong kĩ thuật điện, người ta đưa ra khái niệm điện áp hiệu dụng và cường độ
hiệu dụng. Các giá trị hiệu dụng Uhd, Ihd được xác định bởi quan hệ với các
đại lượng tức thời Umax, Imax theo các công thức:
U I
U hd = max , I hd = max
2 2
Trong khi đó, theo định luật Quan Hệ Vận Tốc thì, quan hệ giữa vận tốc tương
đối Vtđ và vận tốc V của các chuyển động thành phần cũng được xác định bởi
Vtd
V=
công thức: 2
Tương tự, khi có điện lượng Q chạy qua một tiết diện dây dẫn với vận tốc V, sẽ
gây ra tại điểm khoảng cách R, vuông góc với véc tơ V một cường độ từ
trường B. Công thức thực nghiệm đã xác định quan hệ giữa các đại lượng này
A.Q.V
B=
như sau: R (A là hệ số tỷ lệ phụ thuộc vào hệ đo lường).
Trong khi đó, theo định luật Phân Bố Bức Xạ thì, tốc độ biến thiên mật độ bức
dn
xạ n theo thời gian ( dt ) tại một điểm cách nguồn một khoảng cách R, được
xác định theo công thức:
dn n.C
=-
dt R (C vận tốc bức xạ).
Đặc biệt, spin có hướng (hay spin Từ) của cả khối lượng M và điện lượng Q
cũng được xác định bằng các công thức tương ứng:
M .V
Bm =
R ( M khối lượng, V vận tốc của khối lượng, R khoảng cách từ khối
lượng M đến điểm khảo sát).
Q.V
Bq =
R (Q điện lượng, V vận tốc của điện lượng, R khoảng cách từ điện
lượng Q đến điểm khảo sát).
Sự tương đồng về các quan hệ được nêu ở trên là sự trùng hợp hay là sự phản
ảnh nguyên nhân của các qui luật tự nhiên?
Vấn đề này rất đáng để các nhà khoa học và mọi người cùng suy ngẫm để
khẳng định tính tổng quát, nhất quán của lý thuyết Spin. Việc xác định nguyên
nhân và các công thức định lượng các loại tương tác trong vũ trụ cũng đều dựa
trên cơ sở của định luật này. Mọi phần tử vật chất tồn tại trong vũ trụ đều phải
tuân theo tiến trình tổng quát như sau:
Dưới sức ép của lực hạt nhân F từ không gian, được xác định theo công thức
M .C 2
F=
R ( M, khối lượng, C vận tốc ánh sáng, R bán kính vật thể), các photon

76
của phần tử vật chất bị lèn chặt lại với nhau và tương tác lẫn nhau, kết quả là
spin của các photon bị giảm đi. Theo định luật bảo toàn mômen động lượng,
giá trị spin bị giảm đi của các photon được chuyển hoá thành chuyển động tự
xoay của phần tử vật chất hay vật thể, ta gọi chuyển động tự xoay này là spin
M .V
Bm =
Từ, spin Từ bức xạ ra bức xạ Từ, được xác định theo công thức R (V
là vận tốc tiếp tuyến của M trong chuyển động tự xoay, R là khoảng cách từ
điểm khảo sát đến tâm vật thể). Do có vận tốc tiếp tuyến khác nhau cả về
phương và trị số, nên các bức xạ Từ của các phần tử vật chất khác nhau sẽ
tương tác lẫn nhau để đạt tới trạng thái cân bằng, tức các phần tử vật chất phải
chuyển động trên các quĩ đạo sao cho, vận tốc tiếp tuyến của chúng phải bằng
nhau, tức cùng phương và cùng trị số. Trạng thái cân bằng tương tác chỉ có thể
được thiết lập, khi các phần tử vật chất hay vật thể chuyển động trên các quĩ
đạo nằm trên mặt phẳng Hoàng Đạo (mặt phẳng có véc tơ chỉ phương vuông
góc với véc tơ vận tốc của vật thể).
Theo tiến trình tổng quát, đã được nêu ở trên thì, khối lượng M của các phần tử
đóng vai trò quyết định cho quá trình hình thành và chuyển hoá cấu trúc của
chúng trong vũ trụ, khối lượng càng bé quá trình chuyển hoá càng chậm, càng
to quá trình chuyển hoá càng nhanh. Sự vần vũ của vũ trụ theo thời gian dài
đến mức, mà nếu liệt kê ra sẽ là điều vô nghĩa, nên hãy bắt đầu bằng những gì
đang tồn tại tại thời điểm hiện tại. Trong thế giới Vi Mô, hầu hết hạt nhân
nguyên tử là tập hợp ít ỏi M các photon, dưới tác dụng của F và B, nó cũng chỉ
đủ sức để bắt các hạt khác quay quanh nó trên các quĩ đạo Hoàng Đạo mà thôi.
Tuỳ theo qui mô, mà với những hạt nhân của các nguyên tố nặng, đôi khi sự
cân bằng spin từ B bị phá vỡ do sự kích thích của các tác nhân bên ngoài, một
số hạt hành tinh bị rơi vào hạt nhân, và bị đẩy văng ra khỏi quĩ đạo, do spin từ
B của hạt nhân khá lớn so với các hạt nhân thông thường, gây ra hiện tượng
bức xạ hạt nhân, đây là bức xạ hạt chất thực sự, chứ không phải là bức xạ spin
thông thường. Bức xạ spin thông thường là sự trao đổi spin giữa các phần tử
vật chất, hay trao đổi năng lượng, còn bức xạ hạt nhân là sự va chạm, giữa các
phần tử vật chất với nhau, nên sẽ là sự đâm xuyên và phá huỷ các cấu trúc của
chúng. Trong thế giới Vĩ Mô, Tuỳ theo qui mô M photon, mà các thiên thể
được hình thành và tồn tại, đối với qui mô vừa phải và nhỏ thì chỉ là thiên
thạch hoặc các hành tinh, với qui mô đủ lớn thì sẽ tiến triển thành các ngôi sao,
nếu lớn hơn nữa, thì các ngôi sao sẽ dần chuyển thành sao lùn trắng, Quasar,
v.v... Nếu lớn hơn nữa sẽ suy biến thành hố đen, tất cả đều đang diễn ra theo sự
chi phối của F, B trong tiến trình theo thời gian, nhanh hay chậm là do M thao
túng, như những gì mà chúng ta đang thấy tại thời điểm hiện tại. Hình hài của
vũ trụ như thế nào, tương lai của nó ra sao, nếu muốn biết, xin các bạn hãy đọc
thuyết Tổng Quát Vũ Trụ (phần phụ lục). Tuy cùng xuất phát từ nền tảng của

77
vật lý cổ điển, nhưng do quan niệm về tự nhiên khác nhau, nên việc giải thích
các hiện tượng tự nhiên của vật lý hiện đại và thuyết tổng quát vũ trụ cũng rất
khác nhau. Vật lý hiện đại phải mô tả các hiện tượng tự nhiên bằng những
phép tính phức tạp của toán học cao cấp, càng ngày càng có nhiều quan niệm
mới và các phương pháp toán học mới ra đời để vượt qua sự kiểm chứng của
thực tế trong từng trường hợp cụ thể, do vậy mà thiếu tổng quát và không nhất
quán. Nếu cứ theo phương pháp tư duy như hiện nay, chắc chắn sẽ phải tới lúc,
mà vật lý hiện đại lâm vào bế tắc. Vật lý cổ điển và thuyết tổng quát vũ trụ, mô
tả tự nhiên bằng những phép tính đơn giản của giải tích toán học, nhưng luôn
tổng quát và nhất quán trong mọi trường hợp. Không những thế vật lý cổ điển
và thuyết tổng quát vũ trụ, đã vượt qua mọi sự kiểm nghiệm khắc nghiệt của
thực tế, mà vật lý hiện đại đã không thể nào vượt qua nổi, đơn cử như 10
trường hợp sau, như phần nhô lên mặt nước của tảng băng chìm:
1-Tại sao các hành tinh trong hệ mặt Trời đều có quĩ đạo nằm trên mặt phẳng
Hoàng Đạo?
2-Theo lý thuyết Hạt, thì các hạt cơ bản kể cả photon là các hạt vật chất, vậy
các hạt này bay theo quán tính như thế nào, khi mà khối lượng của chúng hầu
như không đáng kể? Tính sóng của hạt do đâu mà có?
3-Tại sao vận tốc ánh sáng C là lớn nhất và bất biến đối với mọi hệ qui chiếu?
4-Tại sao, khi xuyên qua môi trường có hằng số điện môi, như bầu khí quyển
trái Đất chẳng hạn, ánh sáng bị giảm tốc độ, nhưng khi ra khỏi môi trường để
bay vào chân không, thì ánh sáng lại khôi phục lại tốc độ ban đầu? Tác động
của môi trường lên ánh sáng như thế nào để tăng tốc cho ánh sáng?
5-Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất của các phần tử vật chất trong vũ trụ là bao
nhiêu?
6-Bản chất các tương tác như tương tác hấp dẫn, tương tác điện từ, tương tác
hạt nhân,v.v..? Nguyên nhân?
7- Nguyên nhân tồn tại của hạt và phản hạt? Tại sao trong cấu tạo nguyên tử,
các Electron luôn ở phía ngoài còn Proton luôn nằm bên trong?
8-Bản chất của tính quán tính khối lượng là gì? Tại sao chỉ có khối lượng mới
có tính quán tính?
2
9-Công thức năng lượng E =M .C được Einstein đưa ra do đâu mà có? Ý nghĩa
của nó là gì?
10-Sự hình thành, nguyên nhân tồn tại, cấu trúc và giới hạn của Vũ trụ là gì?

Toán học chỉ có duy nhất một định nghĩa rỏ ràng, chính xác cho một đại lượng,
còn vật lý thì lại có rất nhiều định nghĩa cho cùng một đại lượng, nhưng thiếu
rỏ ràng và chính xác, đặc biệt là không có sự nhất quán. Chính vì vậy mà, khi
toán học đã phát biểu thì đó là luật, còn vật lý thì chỉ là đại khái, hiểu như thế
nào cũng được, miễn sao phải phù hợp với thực tế. Nếu yêu cầu nhà toán học

78
nói về một đại lượng nào đó, ông ta sẽ trả lời rành rọt, dứt khoát và rỏ ràng, bất
chấp mọi thắc mắc vặn vẹo của chúng ta. Còn các nhà vật lý thì lại ấp a ấp úng
như ngậm hạt thị… cuối cùng thì im bặt. Tuy đã đạt được rất nhiều thành tựu,
nhưng suy cho cùng thì những thành tựu vĩ đại này của nhân loại đều xuất phát
từ các ngành khoa học thực nghiệm, chứ không phải là từ lý thuyết. Điều này
cũng có nghĩa, tiến trình phát triển khoa học của chúng ta vẫn còn đang trong
giai đoạn mày mò, loay hoay mà thôi! Để khoa học phát triển vững chắc và
bền vững, chúng ta phải hiểu và biết bản chất thực sự của các đại lượng trong
tự nhiên rỏ ràng, chính xác và nhất quán như các nhà toán học. Từ trước cho
đến nay, chưa có công trình vật lý lý thuyết nào đủ độ tin cậy và thuyết phục
như các công trình lý thuyết toán, lý thuyết Spin (phần phụ lục cuối sách) đã
làm được điều này.
Ngày nay, các nhà vật lý hiện đại (VLHĐ) hoàn toàn hiểu được và coi các diễn
giải về tự nhiên của các nhà vật lý cổ điển (VLCĐ) là trường hợp đặc biệt và
rất ấu trĩ. Trái lại các nhà vật lý cổ điển không thể nào hiểu nổi được cách diễn
giải tổng quát về các quá trình trong tự nhiên của các nhà vật lý hiện đại. Giữa
hai trường phái đã không còn có chung một thứ ngôn ngữ nữa rồi, ngôn ngữ
của VLCĐ là sự phụ thuộc lẫn nhau của các đại lượng vật lý trong một quá
trình nào đó phải được diễn tả bằng các phương trình tường minh như trong
Giải Tích Toán Học. Còn VLHĐ là các phương trình không tường minh, chủ
yếu là Giải Tích Véc Tơ, các toán tử, các hàm sóng cùng với các phương tiện
toán học siêu cao v.v... Sở dĩ có sự bất đồng ngôn ngữ này là do bởi. Vào
những năm đầu thế kỹ 20, định luật Rây Lây-Zin, được suy từ lý thuyết cổ điển
rất chặt chẽ và chính xác, lại không phù hợp với thực nghiệm trong vùng tử
ngoại, hơn nữa định luật này lại dẫn tới hậu quả là năng suất bức xạ toàn phần
của vật ở nhiệt độ T xác định lại bằng vô cùng. Sau đó vài năm, với các thí
nghiệm của Michelson và kết quả quan sát vệ tinh sao Mộc, các nhà KH đã
khẳng định vận tốc ánh sáng C=300.000 km/s và bất biến đối với mọi hệ qui
chiếu có chuyển động bất kỳ so với nguồn sáng đã mâu thuẩn sâu sắc, một mất
một còn với nguyên lý cộng vận tốc Galilei. Để cứu vãn lý thuyết, các nhà
khoa học buộc phải vin vào thuyết tương đối hẹp của Einstein và giả thuyết
Planck, tiêu biểu là hằng số Planck để ngụy biện cho các mâu thuẩn giữa lý
thuyết với thực nghiệm, và thế là khái niệm Lượng Tử ra đời. Chẳng bao lâu
sau, dựa trên việc tiên đoán và giải thích chính xác hiện tượng Thấu kính hấp
dẫn (tia sáng bị uốn cong khi xuyên qua vùng không gian cong do khối lượng
lớn gây ra) mà thuyết tương đối rộng của Einstein được đã được công nhận,
kéo theo đó là quan niệm về không gian cong đa chiều cũng được công nhận
và phổ biến rộng rãi cho tới tận ngày nay. Tất cả các quan niệm trên, kết hợp
với nguyên lý bất định Heisenberg, nguyên lý Pauli, phương trình sóng
Schrodinger, sóng de Broglie v.v.. đã tạo nên vật lý hiện đại. Tuy quan niệm

79
không gian khác nhau, nhưng cả 2 trường phái, vật lý cổ điển và vật lý hiện đại
đều coi sự tồn tại khoảng không trống rổng tuyệt đối là hiển nhiên, nên đều
phải dựa vào các định nghĩa về các đại lượng vật lý giống nhau và cũng tạm
thời công nhận sự tồn tại các tương tác thông qua khoảng cách bằng thực
nghiệm, mà không thể lý giải bản chất của các tương tác này, đặc biệt là tính
quán tính của khối lượng.
Sự bảo thủ dường như tỷ lệ thuận với kiến thức và trình độ của người ta, càng
học cao hiểu biết sâu và rộng về một lĩnh vực khoa học nào đó, thì người ta
càng bảo thủ, bởi lẻ. Thói đời, trong quá trình học tập, nghiên cứu và suy ngẫm
đã tạo dựng trong ta một niềm tin vững chắc vào các kiến thức của mình, nếu
có ý kiến trái ngược lại niềm tin đó, thì cũng có nghĩa là ý kiến đó sai. Tính
bảo thủ là cần thiết trong khoa học, nhưng nếu cứ bảo thủ trên niềm tin đã
được người khác chứng minh rằng niềm tin đó chưa có đủ cơ sở và căn cứ
khoa học vững chắc, thì đó là sự nguy hại cho khoa học.

- Khi ý tưởng coi một thứ gì đó đang chuyển động trong vũ trụ là đứng yên,
hay có vận tốc V = 0 làm hệ qui chiếu cho mọi thứ khác, thì được mọi người
chấp nhận ngay mà không hề có một chút băn khoăn nào. Nhưng khi ý tưởng
chọn ánh sáng có vận tốc V = C làm hệ qui chiếu, thì không ai chịu chấp nhận,
mặc dù V = C đối với mọi thứ khác là điều hiển nhiên trong thực tế.
- Khi ý tưởng ánh sáng đưa hình ảnh mọi vật đến mắt người ta, vì ánh sáng có
vận tốc giới nội nên con người chỉ có thể nhìn thấy quá khứ của sự vật mà
không thể nhìn thấy hiện tại, gần thì quá khứ gần xa thì quá khứ xa v.v… Ý
tưởng đó chỉ dựa vào cơ sở lý luận thiếu khách quan, mang tính áp đặt trực
giác, nhưng mọi người vẫn tin tuyệt đối và coi đó như chân lý hiển nhiên bất
khả xâm phạm. Thế nhưng, khi ý tưởng ánh sáng chỉ giúp ta nhìn thấy hình
ảnh của mọi vật, chứ không đưa hình ảnh đến mắt chúng ta, dựa trên cơ sở lý
luận khách quan, với lập luận vững chắc rằng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy
hình ảnh hiện tại của mọi vật, thì bị mọi người kịch liệt phản đối, cho dù không
thể phản biện nổi.
- Khi các nhà toán học đưa ra mô hình không gian cong đa chiều, rồi các nhà
vật lý áp dụng mô hình toán học đó vào thực tế, thì mọi người đều tin và coi đó
như một điều miễn tranh cãi. Nhưng khi con người phát hiện ra định luật bảo
toàn hướng trục ban đầu của con quay tự do và chứng minh rằng không gian
chuẩn của vũ trụ là không gian Euclid 3 chiều, thì chẳng ai chịu tin, mặc dù
không thể có bất cứ viện dẫn nào để phản biện được. Ai cũng tin vào sự tồn tại
của chân không tuyệt đối và lực hút trong chân không, mặc dù hai khái niệm
này là rất phản tự nhiên.
- Nhiệt độ là đại lượng vật lý dùng để so sánh mức độ nóng lạnh khác nhau của
mọi vật, tương tự như hệ qui chiếu, ý tưởng lấy nhiệt độ của vật nào đó làm

80
chuẩn thống nhất để so sánh, như hệ nhiệt độ độ C, độ K, độ F v.v…Thì cũng
được mọi người chấp nhận, mà không bao giờ tự hỏi vậy nhiệt độ cao nhất
trong vũ trụ là bao nhiêu? Làm sao thống nhất được các hệ thang nhiệt khác
nhau về một thang nhiệt thống nhất cho toàn vũ trụ? Thế nhưng khi ý tưởng so
sánh nhiệt độ của mọi vật với nhiệt độ của ánh sáng để thiết lập thang nhiệt
thống nhất với giới hạn trên và giới hạn dưới rỏ ràng thì không ai chịu tin.Nền
văn minh này, cho dù có đạt được trình độ phát triển đến như thế nào đi chăng
nữa, thì cũng không thể nào so sánh nổi với các nền văn minh khác, chứ đừng
nói gì đến việc tìm hiểu vũ trụ. Nếu biết những điều này mà không làm điều gì
đó, thì thật là vô cùng đáng tiếc… Xin được nêu lên quan niệm của lý thuyết
spin xung quanh các hiện tượng quen thuộc đối với nền vật lý hiện đại như sau:
Hỏi: Ánh sáng có phải là một dạng của sóng điện từ?
Trả lời: Khi các điện tích chuyển động sẽ sinh ra từ trường, chuyển động của
điện tích thay đổi cũng sẽ làm cho từ trường thay đối, từ trường thay đổi cũng
làm cho chuyển động của điện tích thay đổi. Tác dụng tương hổ lẫn nhau giữa
từ trường và dòng điện theo xu hướng chống lại sự thay đổi của nhau như là
tính quán tính của khối lượng, chính độ trể quán tính này là nguyên nhân của
dao động điện từ tạo ra sóng điện từ trong không gian. Như vậy có thể nói
rằng, qui mô nhỏ nhất của sóng điện từ phải là qui mô điện tích. Trong khi đó
qui mô điện tích gấp hàng trăm triệu lần qui mô photon, nếu ví điện tích là quả
bóng đá, thì photon chỉ như là hạt cát. Ánh sáng là dòng hạt photon, theo quan
niệm hạt, do vậy ánh sáng không thể là một dạng của sóng điện từ được. Hơn
nữa, sóng điện từ vẫn tồn tại một thời gian, khi tắt nguồn phát sóng (độ trể), do
dao động theo quán tính giống như dao động khối lượng, trong khi đó ánh sáng
lại tắt đồng thời với nguồn (không có độ trể), rỏ ràng đây là hai quá trình có
bản chất khác nhau.
Chúng ta đang quan niệm hai hiện tượng này có bản chất giống nhau, nên đã
gây không biết bao nhiêu điều lẫn lộn và nhầm lẫn trong nghiên cứu khoa học,
gây khó khăn và cản trở trong việc nhận thức tự nhiên và vũ trụ.

Hỏi: Bản chất dòng điện trong dây dẫn?


Trả lời: Theo lý thuyết Spin thì, spin của elclectron là spin lớn nhất trong số
các spin vật chất, nên luôn nằm bên ngoài nguyên tử, do mức độ tương tác giữa
spin điện tử với spin bức xạ từ hạt nhân là lớn nhất. Vì luôn nằm ngoài cùng,
nên có thể coi môi trường bên trong các vật thể là môi trường được tạo bởi các
electron. Do bị kích thích từ các tác nhân bên ngoài, mà một tập hợp Q nào đó
của electron cùng quay đồng bộ với vận tốc tiếp tuyến V, được xác định
Q.V
B=
R , (B spin điện có hướng, hay spin Từ, R bán kính của tập hợp Q). Sự
chênh lệch giá trị spin B1, B2,..Bn giữa các tập hợp Q1, Q2....,Qn tương ứng,

81
được gọi là hiệu điện thế giữa các tập hợp Q1,Q2...,Qn. Khi cho các tập hợp Q
tiếp xúc với nhau, tương tác spin giữa chúng xảy ra, tạo nên dòng điện trong
dây dẫn. Do vậy bản chất của dòng điện trong dây dẫn là sự trao đổi spin từ
đồng bộ Bn giữa các điện lượng có spin từ đồng bộ khác nhau.

Hỏi: Hạt và Phản hạt là gì?


Trả lời: Do tác động của lực hạt nhân (F) từ không gian lên nguyên tử:
M .C 2
F=
R (M khối lượng, C vận tốc ánh sáng, R bán kính vật thể) có xu hướng
dồn các phần tử vật chất cấu tạo nên nguyên tử về phía trung tâm, tạo ra hạt
nhân. Hạt nhân nguyên tử luôn bức xạ ra hai không gian bức xạ là không gian
bức xạ Khối Lượng và không gian bức xạ Từ (spin photon và spin tự xoay).
Vận tốc tương đối giữa các phần tử luôn bằng nhau và ngược chiều, xét theo
quan niệm tương đối, thì tập hợp các phần tử vật chất là tập hợp các cặp spin
đối, đây là nguyên nhân của khái niệm hạt và phản hạt trong tập hợp các phần
tử có các cặp spin đối nhau. Mọi spin Từ của các phần tử vật chất trong nguyên
tử, có vận tốc tiếp tuyến hoặc là cùng chiều hoặc là khác chiều với spin Từ
nguyên tử, để cân bằng tương tác spin Từ, các phần tử phải chuyển động trên
các mặt phẳng Hoàng Đạo xung quanh hạt nhân, các cặp spin đối phải sắp xếp
theo thứ tự, phần tử spin Từ cùng chiều với spin Từ hạt nhân, nằm bên trong,
vì lực tương tác với spin Từ hạt nhân yếu hơn phần tử có spin từ ngược chiều
với spin từ hạt nhân. Vì có spin Từ lớn nhất và ngược chiều với spin từ hạt
nhân, nên electron phải bị đẩy ra ngoài cùng, còn phần tử có spin Từ đối với nó
là proton tất nhiên phải nằm bên trong cùng, hay tại hạt nhân nguyên tử.
Cũng cần có đôi lời về các spin bức xạ mà các phần tử vật chất bức xạ vào
không gian, tạo nên không gian bức xạ xung quanh các phần tử đó. Do các
photon không gian không có khối lượng nên không có tính quán tính, tức
chúng sẽ dính vào các tác nhân gây tương tác và chuyển động như tác nhân, hể
tương tác dừng thì mọi chuyển động của các phần tử không gian tham gia vào
chuyển động đó cũng dừng, nên các bức xạ luôn gắn liền với các phần tử vật
chất bức xạ ra chúng thành một thể thống nhất không thể tách rời và giống hệt
như các phần tử đó. Hình ảnh trong gương của mọi vật đã mô phỏng hiện
tượng này giúp chúng ta rồi.
Tương tự như các phần tử khác trong nguyên tử, như proton, electron, notron,
v.v...hạt và phản hạt cũng bức xạ ra các spin bức xạ giống hệt như chúng để tạo
ra không gian bức xạ quanh mình. Nhưng có điều, vì hạt nằm bên ngoài còn
phản hạt nằm bên trong, giống như trường hợp electron và proton, nên chúng
ta thường phát hiện ra bức xạ của hạt, mà rất khó để phát hiện ra bức xạ của
phản hạt.
Qua đây, chúng ta có nhận xét quan trọng rằng: Hạt và phản hạt chỉ tồn tại

82
trong các nguyên tử của các chất, còn cái thứ “bay tự do theo quán tính” mà
khoa học hiện nay đang coi là hạt và phản hạt, thì thực chất đó chỉ là các bức
xạ ảnh gương của các hạt vật chất mà thôi.

Hỏi: Tại sao, khi xuyên qua môi trường có hằng số điện môi, như bầu khí
quyển trái Đất chẳng hạn, ánh sáng bị giảm tốc độ, nhưng khi ra khỏi môi
trường để bay vào chân không, thì ánh sáng lại khôi phục lại tốc độ ban đầu?
Tác động của môi trường lên ánh sáng như thế nào để tăng tốc cho ánh sáng?
Trả lời: Ánh sáng là hiện tượng truyền năng lượng giữa các photon không gian,
nên là môi trường bức xạ. Vì môi trường bức xạ và nguồn phát bức xạ là một
thể thống nhất không thể tách rời, do vậy tại mọi thời điểm, trạng thái năng
lượng của môi trường bức xạ luôn phụ thuộc vào trạng thái năng lượng của
nguồn. Khi xuyên qua môi trường điện môi, các phần tử của môi trường bức xạ
(photon) được thay thế bằng các phần tử của môi trường điện môi (phần tử vật
chất). Lúc này, sự truyền năng lượng được thực hiện bởi các phần tử vật chất,
chứ không phải các phần tử không gian, tính quán tính của các phần tử vật chất
đã gây ra độ trể trong việc truyền tải năng lượng giữa chúng, kết quả là vận tốc
truyền năng lượng bị giảm. Khi thoát ra môi trường điện môi, thì các photon
không gian sẽ thay thế các phần tử vật chất để tham gia vào việc truyền tải
năng lượng, ánh sáng lại khôi phục lại tốc độ như lúc ban đầu.

Hỏi: Trong vũ trụ có hành tinh nào to hơn mặt Trời không? Tại sao?
Trả lời: Các phẩn tử vật chất tại trung tâm các hành tinh phải chịu lực ép có trị
M .C 2
F=
số được xác định theo công thức: R (M khối lượng, C vận tốc ánh
sáng, R bán kính vật thể). Lực ép lớn như vậy, đã phá vỡ cấu trúc nguyên tử,
khiến cho các hạt điện tử và dương tử , hạt và phản hạt v.v...va vào nhau, tự
hủy cặp để biến thành ánh sáng, các phần tử vật chất tại trung tâm các hành
tinh bức xạ nhiệt, bắt đầu từ trung tâm, theo thời gian sẽ lan ra đến tận lớp vỏ
ngoài cùng, cho tới khi hành tinh là một ngôi sao bức xạ nhiệt vào Vũ trụ dưới
dạng ánh sáng. Theo công thức tính lực F, ta thấy vật thể càng lớn, tức M càng
lớn thì lực ép F càng lớn, nên các thiên thể có khối lượng lớn sẽ có quá trình
chuyển hoá thành sao nhanh hơn các thiên thể nhỏ bé hơn.Theo thời gian, ngôi
sao tiếp tục thu nạp các vật thể khác, bởi sự chi phối của lực ấp dẫn, để phát
triển ngày càng lớn, cho tới khi bị lực hạt nhân lèn chặt đến mức không thể bức
xạ ra bất cứ một thứ nào khác ngoài bức xạ Từ, ngôi sao trở thành Vật Đen, đó
là Hố Đen. Sự tồn tại của các vì sao và hành tinh,v.v... trong giai đoạn hiện
thời là kết quả của các quá trình trên. Nếu hành tinh đạt kích thước bằng một
ngôi sao, cho dù là ngôi sao nhỏ nhất trong số các vì sao đi chăng nữa, thì cũng

83
phải chuyển hoá thành sao. Do vậy mà, không thể có hành tinh nào tồn tại
trong vũ trụ hiện nay, mà có kích thước bằng mặt Trời của chúng ta được.

Hỏi: Theo lý thuyết Hạt, thì các hạt cơ bản kể cả photon là các hạt vật chất, vậy
các hạt này bay theo quán tính như thế nào? Tính sóng của hạt do đâu mà có?
Trả lời: Tuỳ theo kích thước, mà chúng ta có thể phân biệt các phần tử vật chất
khác nhau, nếu kích thước quá nhỏ thì sẽ không thể phân biệt nổi,ví dụ. Chúng
ta có thể phân biệt được từng hạt cát trong một đống cát, từng hạt bột trong
một đống bột, nhưng không thể phân biệt nổi từng giọt nước trong một cái xô
chứa đầy nước được, chính vì điều này mới có khái niệm môi trường. Tập hợp
những phần tử rời rạc, mà không phân biệt được các phần tử với nhau được gọi
là môi trường, như môi trường nước, môi trường không khí, môi trường không
gian v.v...Vì không phân biệt được, nên quan niệm sự chuyển động của một
phần tử riêng lẻ môi trường so với các phần tử khác trong cùng môi trường là
vô nghĩa. Tất nhiên quan niệm môi trường mang tính chất tương đối, tuỳ thuộc
cấp độ vi mô kích thước của các phần tử mà ta đang xem xét. Môi trường
không gian được lấp đầy bởi các photon, mọi phần tử vật chất trong vũ trụ đều
chìm trong môi trường này. Vật thể được cấu tạo từ các phần tử vật chất có
kích thước khác nhau, tương tác spin giữa các phần tử vật chất này với không
gian vật chất, bức xạ vào không gian những bức xạ có qui mô và đặc tính khác
nhau, các bức xạ này, theo quan niệm hiện nay được gọi là các hạt. Do vậy hạt
bay trong không gian, thực chất là hiện tượng truyền tải năng lượng giữa các
phần tử không gian chứ không phải là các hạt vật chất thực sự. Một khi đã đề
cập đến sự truyền tải năng lượng trong một môi trường nào đó là ta phải đề cập
đến các khái niệm về sóng. Trong môi trường nước, đơn cử như sóng nước,
trong môi trường không khí, đơn cử như sóng âm, trong môi trường không
gian, đơn cử như sóng điện từ, ngoài ra còn có các sóng khác như các bức xạ
(ánh sáng và các hạt), v.v..

Hỏi: Tại sao các hành tinh trong hệ mặt Trời đều có quĩ đạo nằm trên mặt
phẳng Hoàng Đạo?
Trả lời: Nói chung các hệ hành tinh và sao trong vũ trụ như hệ mặt Trời đều có
quĩ đạo nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo (mặt phẳng có véc tơ chỉ phương
vuông góc với vận tốc tiếp tuyến của chuyển động hành tinh). Nếu theo quan
niệm hiện nay, do có vận tốc ban đầu cộng với lực hấp dẫn từ mặt Trời, nên
các hành tinh phải chuyển động trên các quĩ đạo, sao cho lực quán tính li tâm
cân bằng với lực hấp dẫn. Vấn đề là, chúng ta không thể nêu được nguyên
nhân của vận tốc ban đầu do đâu mà có, hơn nữa, nếu do chuyển động ngẫu
nhiên, thì các hành tinh phải chuyển động trên các quĩ đạo bất kỳ, chứ không

84
nhất thiết phải trên mặt phẳng Hoàng Đạo như đang diễn ra trên thực tế. Thực
ra, mọi vật thể trong vũ trụ đều được cấu tạo từ các photon với đặc tính tự xoay
tròn và được gọi là spin, hay khối lượng M là số M photon có trong vật thể đó.
Photon lấp đầy vũ trụ, do vậy M có thể được coi là mật độ photon tại điểm tồn
tại của vật thể có khối lượng M. Dưới sức ép của lực hạt nhân F từ không gian,
M .C 2
F=
được xác định theo công thức R (M khối lượng, C vận tốc ánh sáng, R
bán kính vật thể), các photon của vật thể bị lèn chặt lại với nhau và tương tác
lẫn nhau, kết quả là spin của các photon bị giảm đi. Theo định luật bảo toàn
mômen động lượng, giá trị spin bị giảm đi của các photon được chuyển hoá
thành chuyển động tự xoay của vật thể, ta gọi chuyển động tự xoay này là spin
M .V
B=
Từ, spin Từ bức xạ ra bức xạ Từ, được xác định theo công thức R (V là
vận tốc tiếp tuyến của chuyển động tự xoay, R là khoảng cách từ điểm khảo sát
đến tâm vật thể). Do có vận tốc tiếp tuyến khác nhau cả về phương và trị số,
nên các bức xạ Từ của các vật thể khác nhau sẽ tương tác lẫn nhau để đạt tới
trạng thái cân bằng, tức các vật phải chuyển động trên các quĩ đạo sao cho, vận
tốc tiếp tuyến của chúng phải bằng nhau, tức cùng phương và cùng trị số.
Trạng thái cân bằng tương tác chỉ có thể được thiết lâp,khi các vật thể chuyển
động trên các quĩ đạo nằm trên mặt phẳng Hoàng Đạo.

Hỏi: Lổ đen là gì?


Trả lời: Chẳng ai bị cục nam châm hút cả, nhưng hỏi bất cứ ai, thì họ đều trả
lời rằng, cục nam châm có 2 cực Bắc-Nam. Còn thanh sắt non luôn bị cục nam
châm hút, nhưng nó lại không thể phân biệt đâu là cực Bắc, đâu là cực Nam
như con người chúng ta, tại sao vậy? Khi một vật quay tròn quanh tâm đối
xứng, ta luôn thấy vận tốc tiếp tuyến ở 2 phía đối diện luôn ngược chiều nhau,
nếu chúng ta cũng quay tròn như thế, thì tuỳ theo mặt tiếp xúc và tốc độ quay,
chúng ta sẽ bị đẩy mạnh hay nhẹ theo hướng ra xa nhau, nếu bị lèn sát vào
nhau và lấp đầy không gian, thì tuỳ theo tổng lực tác dụng lên chúng ta sẽ
khiến chúng ta bị đẩy đến gần hoặc rời xa nhau. Đó là nguyên lý của mọi
tương tác thông qua khoảng cách trong vũ trụ như lực hấp dẫn, lực điện từ, lực
hạt nhân,v.v...Khi ở trong từ trường của thanh nam châm, mọi phần tử của cục
sắt non phải quay như các phần tử của thanh nam châm, đó là hiện tượng cảm
ứng, kết quả là mặt hướng về phía nam châm của nó luôn ngược dấu với thanh
nam châm. Khi thanh nam châm ở trong từ trường của thanh nam châm
khác,thì từ trường của chúng tương tác với nhau theo hiện tượng cảm ứng nêu
trên, kết quả giữa chúng có sự phân biệt Bắc-Nam.Ngoài thuyết tổng quát ra,
chưa có thuyết nào hiện nay, có thể giải thích rỏ ràng, thuyết phục về sự tồn tại

85
của lổ đen cũng như các tính chất của nó. Theo đó thì, lổ đen hầu như không có
lực hấp dẫn, vì ngoài bức xạ Từ (spin bức xạ Từ B) lổ đen không có bất cứ bức
xạ nào khác (khái niệm vật đen trong vật lý). Từ trường của lổ đen có bản chất
như từ trường của thanh nam châm, nhưng do khối lượng hấp dẫn của nó
chuyển hoá thành, hiện tượng này được giải thích sơ bộ như sau. Khối lượng là
tổng số photon có giá trị spin W = C (vận tốc ánh sáng) có trong vật thể tại
điểm tồn tại của vật thể đó. Do tác động của lực hạt nhân từ không gian, được
M .C 2
F=
xác định theo công thức R , trong đó C vận tốc ánh sáng, M khối lượng
lổ đen, R bán kính lổ đen, do có khối lượng lớn mà bán kính lại nhỏ nên lực hạt
nhân đã lèn chặt và hạn chế tốc độ quay của các spin, theo định luật bảo toàn
mô men động lượng, sự giảm tốc độ quay của các spin được chuyển hoá thành
chuyển động tự quay của lổ đen, hay spin Từ B và bức xạ ra spin bức xạ Từ,
được xác định theo công thức:
M .V
B=
R (V là vận tốc tiếp tuyến của chuyển động tự xoay, R là khoảng cách
từ điểm khảo sát đến tâm vật thể).
Giống như hiện tượng cảm ứng của từ trường thanh nam châm đối với các vật
liệu từ tính, spin bức xạ Từ B của lổ đen cũng có lực hút khủng khiếp lên các
vật thể có khối lượng, thông qua hiện tượng cảm ứng như spin Từ B của thanh
nam châm.
Lổ đen và khái niệm Vật chất tối là hai hiện tượng Vũ trụ đang làm cho các
nhà khoa học ngày nay phải trăn trở. Có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhằm lý
giải cho hai hiện tượng này, chúng ta không thể không công nhận thực tế,
nhưng hoàn toàn có thể không công nhận lý thuyết giải thích cho thực tế, khi
mà lý thuyết đó không chỉ ra được nguyên nhân và sự hình thành của thực tế.
Sự hiểu biết về tự nhiên của chúng ta hiện nay còn rất nhiều hạn chế, do bởi
các quan niệm về tự nhiên của chúng ta có vấn đề, nếu không xem xét lại các
quan niệm, chắc chắn nền khoa học của chúng ta sẽ phải đi lòng vòng không
biết đến bao giờ?

Hỏi: Liệu có sự va chạm giữa các hành tinh và các sao?


Trả lời: Đồng ý rằng, cái gì có thể thì sẽ phải xảy ra. Nhưng kiến thức của
chúng ta về vũ trụ còn quá nhiều khiếm khuyết, đến mức mà bức tranh khái
quát về vũ trụ của chúng ta hiện nay là hoàn toàn sai lệch với thực tế, do vậy
sự tiên đoán dựa trên suy luận từ bức tranh đó là hoàn toàn sai lầm. Ánh sáng
có vận tốc giới nội, với tư duy trực giác, đã từ bao đời nay chúng ta luôn quan
niệm chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh của quá khứ, gần thì quá khứ gần, xa thì
quá khứ xa...Nhưng trong đêm tối, bất luận tôi và anh có xa nhau bao nhiêu đi

86
chăng nữa, thậm chí là hai đầu vũ trụ, nhưng hể ánh đèn pin của anh tới tôi lúc
nào là chúng ta nhìn thấy nhau lúc ấy. Ánh sáng giống như cái gậy phải mất
thời gian từ anh tới tôi, nhưng khi cái gậy chạm tới tôi lúc nào, thì chúng ta
nhận thấy sự tồn tại của nhau lúc ấy, hay nói một cách khác, chúng ta luôn
nhìn thấy hình ảnh hiện tại của nhau, kể từ thời điểm ánh sáng từ anh tới tôi.
Với quan niệm, ánh sáng là những hạt photon rời rạt bay tự do trong không
gian rổng tuếch, chứ không phải là môi trường liên tục, đã khiến cho chúng ta
không thể hiểu nổi bản chất của các tương tác trong vũ trụ, như Hấp dẫn, Điện
Từ, Hạt nhân,v.v...Lực hấp dẫn chi phối toàn vũ trụ, nếu chỉ có hấp dẫn không
thôi, thì trong khoảng thời gian tồn tại hàng tỷ năm, vũ trụ đã phải vón cục lại
từ lâu rồi mới phải. Để nguỵ biện cho khả năng này, chúng ta phải viện dẫn
đến khái niệm lực quán tính ly tâm đã khiến các hành tinh và các sao quay
quanh nhau cùng với khả năng các hành tinh và các sao có thể rơi hay va vào
nhau là rất cao. Nhưng thực tế tồn tại hàng tỷ năm của hệ mặt trời đã khẳng
định, bình thường, khi điều kiện cân bằng tương tác không bị phá vỡ bởi sự đột
biến, thì khả năng các hành tinh và mặt Trời va vào nhau là điều không tưởng,
vì lẽ: Khối lượng cũng giống như Điện lượng, khi chuyển động sẽ sinh ra môi
trường spin Từ, hay môi trường quán tính cản trở mọi sự thay đổi trạng thái
chuyển động của khối lượng và điện lượng. Điện lượng khi chuyển động sinh
ra Từ trường Điện Lượng, Khối lượng khi chuyển động cũng sinh ra Từ trường
Khối Lượng, từ trường của trái Đất, mặt Trời là ví dụ cụ thể của từ trường
Khối Lượng. Giá trị spin Từ điện lượng được xác định theo công thức:
Q.V
Bq =
R (Q điện lượng, V vận tốc của điện lượng, R khoảng cách từ điện
lượng Q đến điểm khảo sát).
Giá trị spin Từ khối lượng được xác định theo công thức:
M .V
Bm =
R (M khối lượng, V vận tốc của khối lượng, R khoảng cách từ khối
lượng M đến điểm khảo sát).
Các spin Từ tương tác với nhau để tạo ra trạng thái cân bằng giữ cho các hành
tinh trong hệ mặt trời quay trên mặt phẳng Hoàng Đạo (mặt phẳng có véc tơ
chỉ phương vuông góc với vận tốc tiếp tuyến tương đối với mặt Trời). Nếu vì
một nguyên nhân nào đó, khiến cho quĩ đạo của hai hành tinh cắt nhau, khi
chúng tiến gần nhau đến một khoảng cách nhất định, sự tương tác giữa hai từ
trường sẽ tạo ra trạng thái cân bằng mới, khiến chúng quay quanh nhau theo
kiểu Hành tinh trên mặt phẳng Hoàng Đạo, chứ không thể va vào nhau như
chúng ta thường tưởng tượng.

Hỏi: Sóng hấp dẫn là gì?

87
Trả lời: Nhân loại đang hân hoan vui mừng xung quanh sự phát hiện ra sóng
hấp dẫn vũ trụ, còn các nhà nghiên cứu khoa học thì đang thao thao bất tuyệt
về nó, về continuum Không-Thời gian 4 chiều bị uốn cong, vân vân và vân
vân. Liệu sự phát hiện này có lợi hay có hại cho nền văn minh Trái Đất???
Cách đây hơn 100 năm, Einstein đã đưa ra thuyết tương đối hẹp để bẻ cong và
co dãn Thời gian bằng tốc độ tương đối giữa các hệ qui chiếu khác nhau.
Chẳng bao lâu sau ông lại đưa ra thuyết tương đối rộng để bẻ cong và co dãn
nốt Không gian bằng cách đưa ra khái niệm continuum Không-Thời gian 4
chiều. Bản thân Einstein và các nhà vật lý lý thuyết lổi lạc hiện nay cũng
không có ai dám khẳng định rằng mình đã hiểu tường tận về khối lượng và lý
thuyết tương đối rộng, cũng như continuum Không-Thời gian là gì đâu, mặc dù
đã tiên đoán trước hiện tượng sóng hấp dẫn, như một kết quả tất yếu của các
quan niệm theo thuyết tương đối rộng. Rồi đây, chắc chắn các thế hệ bác học
tương lai phải mô tả vũ trụ bởi các phương trình toán học siêu phức tạp còn
hơn cả các phương trình vốn nổi tiếng là vô cùng phức tạp như trong Nhiệt-
Điện Động Lực Học Lượng Tử, khi tìm cách giải các phương trình sóng trạng
thái Shrodinger cùng với vô vàn các khái niệm trừu tượng, họ sẽ lạc vào mê
cung như những kẻ múa gậy trong bị… và nền khoa học trên hành tinh này sẽ
càng ngày càng bị sa lầy trong hổn mang và tăm tối.
Nếu thay vì coi không gian vũ trụ là continuum Không-Thời gian 4 chiều và có
thể bị uốn cong bởi khối lượng bằng việc coi nó là không gian được lấp đầy
bởi các photon, thì mọi việc sẽ trở nên vô cùng đơn giản và minh bạch, không
những đối với các nhà bác học mà cho tới cả học sinh phổ thông nữa. Lý
thuyết Spin quan niệm không gian vũ trụ được lấp đầy bởi các photon cùng với
hai định luật cơ bản, định luật Quan Hệ Vận Tốc và định luật Phân Bố Bức Xạ
đã dễ dàng khẳng định tính quán tính của khối lượng và điện lượng đã tạo ra
sóng điện từ và sóng hấp dẫn, khi các đại lượng này thay đổi trạng thái chuyển
động. Lý thuyết thì nhiều, nhưng thực tế chỉ có một, do vậy chỉ có thể tồn tại
một lý thuyết tổng quát, nhất quán duy nhất tuyệt đối cho toàn vũ trụ mà thôi.
Loài người đã từng nhiều lần mù tịt, không hề cảm nhận được môi trường vật
chất bao quanh họ, như con cá dưới nước không nhận thấy môi trường không
khí trên cạn. Đối với chúng phía trên mặt nước là chân không, còn chúng ta thì,
ngoài môi trường không khí ra là chân không???. Trong các thế kỷ trước,
không ai có thể cảm nhận được trường sóng điện từ, trường hấp dẫn,v.v… Khi
Michelson phát hiện ra sự bất biến của vận tốc ánh sáng, Einstein đã coi đây là
tiên đề hiển nhiên, mà nếu đã công nhận điều này, tức không gian và thời gian
phải thay đổi…và thuyết tương đối hẹp đã ra đời. Tuy có vẻ khó hiểu và hơi kỳ
quái, nhưng thuyết này đã được các nhà khoa học chấp nhận, như một sự thoả
hiệp, vì không còn cách nào khác để vượt qua sự khủng hoảng về nhận thức.
Một thời gian ngắn sau đó, họ lại tiếp tục thoả hiệp với giả thuyết Planck, cũng

88
dựa trên cơ sở thuyết tương đối của Einstein để vượt qua sự khủng hoảng vùng
tia tử ngoại, khi năng suất bức xạ toàn phần của một vật tiến tới vô cùng để
sáng tạo ra các ngành trong vật lý hiện đại, như Cơ Học Lượng Tử, Nhiệt Điện
động lực học lượng tử,v.v…hết sức trừu tượng và vô cùng khó hiểu đối với
một bộ óc bình thường của chúng ta.
Bây giờ đến lượt sự phát hiện ra sóng hấp dẫn, phải chăng đây là cái cớ để các
nhà vật lý lý thuyết càng thêm khẳng định sự tồn tại của Continuum Không-
Thời gian 4 chiều trong vũ trụ???. Sự thực, thì sóng hấp dẫn luôn tồn tại xung
quanh ta, dưới dạng như chúng ta hằng quan niệm là từ trường của trái Đất,
mặt Trời,v.v… chính môi trường này đã giữ cho các hành tinh trong hệ mặt
trời quay trên các quĩ đạo cố định trên mặt phẳng Hoàng Đạo (mặt phẳng có
véc tơ chỉ phương vuông góc với vận tốc tiếp tuyến của hành tinh).
Cho đến nay, những hiện tượng dị thường vượt ra ngoài hiểu biết của chúng ta
đều liên quan đến Từ Trường Khối Lượng mà nền văn minh trái Đất đã bỏ sót
và hầu như chưa có bất cứ nghiên cứu nào về nó. Tuy khác nhau về bản chất,
nhưng về nguyên lý thì Từ Trường Khối Lượng và Từ Trường Điện Lượng là
nguyên nhân của tính quán tính khối lượng và điện lượng.
Chúng ta phân biệt thế giới vi mô và vĩ mô, nhưng tự nhiên không có sự phân
biệt này, tức cái gì đã xãy ra ở thế giới vĩ mô thì cũng có thể xãy ra ở thế giới
vi mô. Hố Đen đã có trong thế giới vĩ mô, thì cũng phải có trong thế giới vi mô
chứ?
Cấu tạo và sự hình thành Hố Đen: Một vật thể có khối lượng M sẽ phải chịu
2
M .C
lực ép F từ không gian photon, được xác định theo công thức F= , theo
R
tiến trình thời gian nhanh hay chậm, tuỳ theo qui mô khối lượng M của chúng,
mà các hành tinh sẽ phát triển thành Sao (như mặt Trời chẳng hạn), rồi đến
Quaza, Hố Đen,v.v…Mọi thứ trong vũ trụ đều được cấu tạo từ photon với
thuộc tính duy nhất là spin W=C, các spin này kết hợp với nhau để tạo ra spin
C
vật chất W = R . Các vật thể có khối lượng lớn, như mặt Trời chẳng hạn, thì các
phần tử tại tâm sẽ phải chịu lực ép F cực lớn (tỷ lệ nghịch với bán kính R) phá
vỡ cấu trúc nguyên tử, khiến cho các cặp spin đối như Electron-Proton, Hạt-
Phản hạt,v.v… va vào nhau tự huỷ cặp để biến thành ánh sáng. Bắt đầu từ
trung tâm sau đó lan dần lên bề mặt, bức xạ ra ánh sáng, đó là qui trình Hành
Tinh biến thành Sao, như mặt Trời là một ví dụ. Các Sao tiếp tục bị dồn nén,
sau vài lần nổ tung ra rồi co lại, cuối cùng sẽ chuyển hoá dần thành Quaza hay
Hố Đen, tuỳ theo qui mô khối lượng. Theo định luật Bảo toàn mô men động
lượng, khi bị dồn nén các spin vật chất sẽ bị hạn chế để chuyển hoá sang
chuyển động tự xoay của vật thể (chuyển động tự quay của trái Đất cũng là do
nguyên nhân này gây ra), cứ thế cho tới khi các phần tử vật chất bị dồn nén đến

89
mức không thể chuyển động được nữa, kể cả chuyển động spin. Ngôi sao đã
trở thành Hố Đen quay với vận tốc tiếp tuyến xấp xĩ bằng C, do toàn bộ spin
vật chất có trong mình nó chuyển hoá thành, và bức xạ ra không gian bức xạ
M .C M . C2
Từ khối lượng B= R
, với lực quán tính ly tâm Fqt= , trạng thái cân
R
bằng với lực ép từ không gian Photon được thiết lập. Vì không có chuyển động
riêng, nên Hố Đen không có nhiệt độ cũng như không tham gia vào bất cứ quá
trình nhiệt nào cả. Hố Đen là vật rắn không thể phá vỡ và đen tuyệt đối, môi
trường không gian bức xạ của nó là spin bức xạ Từ khối lượng luôn cân bằng
với lực ép từ không gian Photon nên không tạo ra lực hấp dẫn. Không có bất
cứ chuyển động nào được phép tồn tại trong Hố Đen và vùng không gian bức
xạ Từ khối lượng của nó, chỉ có ở đây mới có sự ngự trị của im lặng tuyệt đối.
Nếu chúng ta rơi vào đây, thì sẽ được giữ nguyên trạng vĩnh viễn, mọi quá
trình trao đổi chất, hoạt động thần kinh đều bị ngưng trệ, trở nên vô tri vô giác
cho đến khi thoát khỏi nó, khi đó ta lại là ta cho dù thời gian đã trôi qua hàng
tỷ năm đi chăng nữa. Muốn chứng kiến vũ trụ một tỷ năm nữa, thì bạn hãy chui
vào Hố Đen, nếu bạn có cách để thoát ra nó sau một tỷ năm nữa. Vũ trụ luôn
có vô số Big-Bang khi các thiên hà xoắn ốc già cỗi suy biến thành các Hố Đen,
khi các hố đen bị lực ép từ không gian Photon dồn vào một chổ, các spin bức
xạ Từ khối lượng của chúng triệt hạ lẫn nhau, kết quả là bị suy biến (tương tự
như sự suy biến của spin vật chất trước đây), lúc này không gian Photon hầu
như tinh khiết và lộ nguyên hình với spin W=C gây ra lực ép F để thực hiện
M . C2 2
một công: F= =¿ A=F . R=M .C =E để biến toàn bộ mọi thứ thành Photon
R
như nó, đó là Big-Bang.
Đó là trên bình diện phạm vi thế giới vĩ mô, còn trong thế giới vi mô, cở như
trái Đất chẳng hạn, với từ trường khối lượng do chuyển động tự quay của
mình, trái Đất cũng có thể tạo ra những vùng không gian cục bộ có sự cân bằng
M .V2 M . C2
về lực quán tính Fqt = với lực hạt nhân F= . Đó là những Hố Đen
R R
siêu nhỏ, có thể nuốt trọn và nhả ra mọi thứ nguyên vẹn như thuở ban đầu dù
đã trải qua hàng triệu năm đi chăng nữa. Phải chăng đây là nguyên nhân của
những vụ mất tích bí ẩn, không để lại vết tích và sự xuất hiện phi thường của
những sinh linh từ quá khứ, thậm chí là từ thời cổ đại. Ở những nơi từ trường
khối lượng chưa đủ mạnh để hình thành hố đen, thì cũng tác động lên hệ thần
kinh làm cho các cơ thể sống bị nhiểu loạn sinh ra ảo giác ma quái, thậm chí bị
điên loạn. Từ trường Khối lượng yếu như dòng chảy ngầm dưới mặt đất cũng
tạo ra sự nhiểu loạn cục bộ trên mặt đất, một số người có khả năng đặt biệt đã
dựa vào hiện tượng này để phát hiện ra các mạch nước ngầm đó.

90
Hỏi: Vật chất tối là gì?
Trả lời: Nguồn phát sáng và môi trường ánh sáng do nguồn phát ra là một thể
thống nhất không thể tách rời. Nếu một nguồn, sáng rồi lại tắt theo chu kỳ, mà
trong khoảng thời gian phát sáng, ánh sáng vẫn chưa tới chúng ta, thì chúng ta
cũng không thể nhìn thấy nguồn phát sáng đó được. Với nhận xét này của
thuyết Spin, giúp chúng ta dể dàng giải thích cho quan niệm “Vật chất tối”
đang phổ biến hiện nay. Giả sử có một ngôi sao với khối lượng lớn gấp vài
trăm lần khối lượng mặt trời, nhưng lại ở rất xa chúng ta, ánh sáng từ ngôi sao
đến trái đất đã bị những hành tinh chuyển động theo chu kỳ chặn lại, giống như
hiện tượng nhật thực toàn phần, nhưng xãy ra ở những khoảng cách mà, trong
khoảng thời gian, khi không bị che khuất, thì ánh sáng từ khoảng cách đó vẫn
không thể đến trái đất được, do vậy chúng ta sẽ không bao giờ quan sát được
ngôi sao khổng lồ đó, mặc dù chúng ta vẫn cảm nhận được những tác động do
khối lượng khổng lồ của ngôi sao gây ra. Chính vì thế mà có khái niệm “Vật
Chất Tối”, được các nhà khoa học ngày nay coi là nguyên nhân gây ra hiện
tượng vũ trụ chúng ta đang dãn nở với tốc độ nhanh dần, thể hiện qua hiệu ứng
Hubble. Theo quan điểm tương đối, nếu toàn bộ vũ trụ đang co lại, thì chúng ta
vẫn quan sát thấy mọi hiện tượng xảy ra giống hệt như nó đang dãn nở vậy, kể
cả hiệu ứng Hubble. Thực ra thì, vũ trụ là một quả cầu bất động, luôn đứng im
vĩnh viễn tại một chổ chứa trong mình nó vật chất và không gian vật chất, chỉ
có vật chất là chuyển động và luôn co dần lại bởi lực ép từ không gian vật chất,
kéo theo đó là sự co lại của toàn bộ vật chất trong vũ trụ. Với tầm cỡ qui mô vũ
trụ vô cùng rộng lớn, thì những gì mà loài người quan sát được cũng chỉ như
hạt cát trong sa mạc mênh mông, do vậy mọi năng lượng của các phần tử vật
chất nếu so sánh với năng lượng của Vật Chất Tối cũng chỉ như hạt cát so với
sa mạc mà thôi.
Cũng cần phải nói thêm rằng, vũ trụ là hình cầu, nên sự tồn tại điểm trung tâm
và mặt cầu tận cùng của vũ trụ là thực tế hiện hữu. Nhưng vũ trụ rộng lớn đến
mức mà mọi vị trí trong vũ trụ đều có thể được coi là trung tâm vũ trụ, đồng
thời tại bất cứ vị trí nào trong vũ trụ, ta luôn quan sát thấy mặt cầu giới hạn của
vũ trụ suy biến thành một điểm đen cố định. Nghe thì có vẻ quá vô lý, nhưng
nếu bạn đang trên con tàu giữa đại dương mênh mông, thì việc coi con tầu
đang ở trung tâm đại dương là hoàn toàn có thể chấp nhận được. Tương tự, nếu
nhìn thấy mặt Trời như quả bóng, tập hợp các thiên hà và đại thiên hà xa xôi là
vệt sáng nhỏ nhoi, thì việc nhìn thấy mặt cầu giới hạn tận cùng của vũ trụ suy
biến thành một điểm đen cũng là bình thường. Qua đây mới thấy kích thước và
tầm vóc vũ trụ đã vượt quá tầm hiểu biết và năng lực tư duy của chúng ta biết
dường nào.

91
Tóm lại, sau đây là một số vấn đề khoa học cơ bản mà, lý thuyết Spin đã làm
được, còn vật lý lý thuyết hiện đại chưa làm được:

1)Thiết lập công thức biến đổi Lorentz khác hoàn toàn với cách của Einstein,
để chứng tỏ rằng quan niệm về Không – Thời gian của thuyết Tương Đối hẹp
là không đúng với thực tế.
2)Chứng minh được hai định luật rất cơ bản, mà khoa học hiện nay chưa phát
hiện ra. Đó là định luật Quan Hệ Vận Tốc và định luật Phân Bố Bức Xạ.
3) Xác định được hệ qui chiếu tuyệt đối.
4) Chứng minh hiện tượng vận tốc ánh sáng là lớn nhất và bất biến so với mọi
hệ qui chiếu, không phải là tiên đề hiển nhiên.
5) Định nghĩa các đại lượng vật lý chính xác và duy nhất.
6)Thiết lập các công thức tính lực tương tác như hấp dẫn, điện từ, hạt nhân
bằng lý thuyết và nêu lên được bản chất của các lực đó.
7) Giải thích được bản chất tính quán tính của khối lượng, đồng thời xác định
tính quán tính của điện lượng là từ trường.
8) Khẳng định lại, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh hiện tại của mọi tồn
tại trong vũ trụ chứ không phải là hình ảnh quá khứ.
9)Chứng minh được, không gian vũ trụ là không gian Euclid 3 chiều, mọi mô
hình không gian khác đều là mô hình không gian toán học.
10) Không gian và thời gian là hai khái niệm toán học của tư duy.
11) Chỉ ra sự bất cập về các quan niệm nhiệt và nhiệt độ như hiện nay, xác
định rỏ nhiệt độ T trong vũ trụ nằm trong khoảng 0 £T £1 .
12) Không gian bức xạ và nguồn phát bức xạ là một thể thống nhất không thể
tách rời.
13) Vũ trụ gồm vật chất và không gian vật chất được cấu tạo từ photon.
14) Khi khối lượng M phân huỷ thành photon, sẽ giải phóng ra một lượng năng
2
lượng E =M .C
15) Cấu trúc, hình dạng và giới hạn tận cùng của vũ trụ là gì.
16) Chu trình tuần hoàn bất định của vũ trụ.

Cái lớn nhất & Cái bé nhất.

Qua trao đổi với vài nhà khoa học nghiên cứu độc lập ở một số quốc gia Âu,
Mỹ trong chuyến du lịch vòng quanh thế giới, tôi thấy quả thực khoa học ngày
nay là "quân hồi vô phèng" như một cái chợ. Ai cũng muốn nói, nói và nói kể
cả khoa học được coi là chính thống hiện nay...nhưng chẳng chịu lắng nghe
người khác nói, mặc dù tôi đã đưa ra những nền tảng căn bản nhất của tư duy
để xem họ giải thích như thế nào?

92
- Dựa vào bằng chứng thực nghiệm và cơ sở lý luận nào, để khẳng định sự tồn
tại của chân không tuyệt đối trong vũ trụ?
- Chứng minh số chiều của không gian vũ trụ?- Nhiệt độ lớn nhất & bé nhất
trong vũ trụ?
- Cái lớn nhất (hình dáng và giới hạn tận cùng của vũ trụ) & Cái bé nhất trong
vũ trụ?
Tất cả đều ậm ừ rồi phớt lờ, như thể họ chưa bao giờ quan tâm đến chúng, tất
cả đều không thể phản biện nổi các chứng cứ và cơ sở lý luận của tôi. Thế
nhưng, họ vẫn cứ tiếp tục nói và nói...như thể toà lâu đài khoa học của chúng ta
đang bay lơ lững trong không khí vậy!

Kết thúc năm 2015, cộng đồng vật lý thế giới vẫn không thể thoát khỏi cuộc
tranh cãi đáng lo ngại: Liệu có phải chúng ta đang gần tới giới hạn tuyệt đối
mà khoa học có thể hiểu và giải thích về vạn vật?
Sau này, những phát hiện sẽ ngày càng khó dần lên. Khoảng cách để có một
phát kiến vĩ đại ngày càng xa. Rồi cuối cùng, con người không thể kiên nhẫn
thêm nữa, chúng ta sẽ kiệt sức và vật lý sẽ chết.
Harry Cliff, một nhà vật lý tại Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử Châu Âu
(CERN) có một buổi thuyết trình gần đây tại Geneva, Thụy Sĩ. Và điều mà ông
nói về ý tưởng trên thật đáng lo ngại: "Trong vài năm tới, có lẽ lần đầu tiên
trong lịch sử khoa học, chúng ta phải đối mặt với những câu hỏi không thể trả
lời”.
Đến một ngày, các nhà khoa học không thể kiên nhẫn thêm nữa, chúng ta sẽ
kiệt sức và vật lý sẽ chết?
Để dẫn chứng cho kết luận của mình, Cliff dẫn ra hai con số mà ông gọi chúng
là nguy hiểm nhất vũ trụ. Những con số này chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện
và sinh tồn của vạn vật, từ những hạt hạ nguyên tử cho đến các thiên hà.
Nếu những con số chỉ cần sai lệch một chút, Cliff nói, vũ trụ sẽ không tồn tại,
sẽ không có sự sống, không có chúng ta và vật lý. Vậy mà, có lẽ khoa học sẽ
chẳng bao giờ biết được giá trị chính xác của nó là bao nhiêu.
Con số thứ nhất: Sức mạnh của trường Higgs
Con số đầu tiên mà Cliff đề cập đến là giá trị đại diện cho sức mạnh của trường
Higgs. Nó là một trường năng lượng vô hình đã "thấm" vào vũ trụ khác hẳn
các trường khác.
Tất cả các hạt cơ bản đều phải “bơi” qua trường Higgs. Có vậy, nó mới có
được khối lượng để rồi tạo nên proton, neutron và electron. Cuối cùng, chúng
tạo nên các nguyên tử, phân tử, tất cả chúng ta cùng vạn vật xung quanh mình.
Nếu không có trường Higgs, chúng ta không có mặt ở đây.
Trường Higgs được nêu trên lý thuyết, nhưng chúng ta đã gần như chắc chắn
sự tồn tại của nó từ năm 2012. Sự kiện quan trọng đánh dấu là phát hiện hạt

93
Higgs của các nhà vật lý tại CERN. Theo lý thuyết, bạn không thể chỉ có hạt
Higgs mà không có trường Higgs. Tuy nhiên, vẫn có gì đó bí ẩn khiến Cliff
thấy bất ổn.
Phải nhắc lại rằng, vật lý của loài người đang được vận hành hai lý thuyết cực
mạnh. Thuyết tương đối của Einstein để giải thích cho tất cả các hiện tượng ở
quy mô cực lớn như các hành tinh, ngôi sao, thiên hà... Cơ học lượng tử để giải
thích tất cả hiện tưởng của thế giới cực nhỏ từ nguyên tử đến các hạt cơ bản.
Theo đó, sử dụng cả hai lý thuyết trên cho các nhà khoa học dự đoán về hạt và
trường Higgs trước cả khi chúng ta tìm ra nó. Chỉ duy nhất hai kịch bản có thể
xảy ra. Một là trường Higgs nên được “tắt”, có nghĩa là nó có cường độ bằng
0. Hai là nếu được “bật”, nó sẽ mang một giá trị vô cùng lớn.
Vậy mà không có kịch bản nào đúng với những gì chúng ta quan sát. “Trong
thực tế, trường Higgs rất yếu”, Cliff nói. “Nó không phải bằng 0 hẳn, nhưng
cũng nhỏ hơn 10 nghìn tỷ lần so với mức còn lại chúng ta dự đoán. Bạn hãy
tưởng tượng nó giống như một công tắc đèn đang mắc kẹt. Nó kẹt ngay sát vị
trí tắt.”
“Giá trị này rất quan trọng. Nếu nó chỉ xê dịch một chút xíu, sẽ không hề có gì
trong vũ trụ của chúng ta”, Cliff nhấn mạnh.
Sự yếu đến “lố bịch” của trường Higgs, bất chấp tất cả các dự đoán của chúng
ta khiến các nhà khoa học đau đầu. Họ vẫn đang đi tìm hi vọng cho câu trả lời.
Công việc bắt đầu từ cuối năm ngoái, khi máy gia tốc hạt khổng lồ tại CERN
quay trở lại hoạt động sau 2 năm nâng cấp.
Con số thứ 2: Sức mạnh của năng lượng tối
Con số thứ hai của Cliff được các nhà vật lý gọi với cái tên “dự đoán lý thuyết
tồi tệ nhất trong lịch sử vật lý”. Nó giải quyết các vấn đề trong sâu thẳm của
không gian sâu, với hiện tượng cực kì phức tạp gọi là năng lượng tối.
Năng lượng tối là một khái niệm chịu trách nhiệm cho việc vũ trụ của chúng ta
ngày càng mở rộng. Nó được biết đến lần đầu vào năm 1998. Tuy nhiên,
“chúng ta không biết chính xác năng lượng tối là gì”, Cliff thừa nhận. “Ý
tưởng tốt nhất, nó là năng lượng của không gian trống, năng lượng của chân
không”.
Nếu điều này là đúng, bạn có thể cộng tất cả các năng lượng của không gian
trống để có được một giá trị. Và nó đại diện cho sức mạnh của năng lượng tối.
Trên thực tế, đó là điều mà các nhà vật lý lý thuyết đã làm. Nhưng có một vấn
đề khổng lồ với câu trả lời họ nhận được:
“Năng lượng tối trên lý thuyết mạnh hơn 1012 lần so với giá trị thiên văn học
quan sát được”, Cliff nói. “Đây là một con số lớn vượt ngưỡng tâm trí chúng
ta có thể tưởng tượng. Nó lớn hơn bất kể một con số nào trong thiên văn học.
Thậm chí, lớn hơn cả số lượng nguyên tử trong vũ trụ 1 nghìn tỷ tỷ tỷ lần”.
May mắn cho chúng ta, năng lượng tối trên thực tế nhỏ hơn những gì vật lý lý

94
thuyết dự đoán. Nếu cứ lớn như vậy, nó sẽ đủ khả năng để làm tan rã vũ trụ.
Ngay cả các lực mạnh đang ràng buộc nguyên tử cũng sẽ bất lực. Chúng ta
không bao giờ có các thiên hà, ngôi sao, hành tinh và cả sự sống hiện tại.
Tuy nhiên, điều đó cũng nói lên rằng lý thuyết của vật lý đang khiến nhiều nhà
khoa học phát bực. Trong khi công nghệ hiện nay chưa đủ đế thực hiện các
phép đo năng lượng tối, lý thuyết cũng lại dậm chân tại chỗ. Cuối cùng chúng
ta không thể nào biết sức mạnh của năng lượng tối và cả trường Higgs là bao
nhiêu.
Chạm đến câu trả lời đang là điều bất khả
Cliff cho biết sẽ có những cách để chúng ta trả lời được một phần thắc mắc.
Nhưng rồi sẽ không bao giờ vật lý đủ khả năng để chứng minh điều đó.
Một số nhà khoa học đang tìm cách để chứng minh rằng vũ trụ của chúng ta
chỉ là một trong hàng chục tỷ vũ trụ khác. Cliff giả sử “đột nhiên chúng ta có
thể hiểu giá trị chính xác của hai con số trên. Những tinh chỉnh nhỏ bé nhất
của chúng cũng có thể khiến năng lượng tối xé toạc một vũ trụ. Hay trường
Higgs không đủ mạnh để hình thành nên các hạt”.
Để chứng minh điều này, các nhà vật lý cần phải khám phá ra các hạt mới.
Chúng phải hoàn toàn tuân theo những lý thuyết căn bản như lý thuyết dây, dự
đoán sự tồn tại của một đa vũ trụ. Ngay bây giờ, chỉ có một nơi trên thế giới
mà họ có thể trông đợi. Đó là máy gia tốc hạt khổng lồ tại CERN.

Máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới tại CERN là nơi cuối cùng các nhà vật lý
trông đợi
Trong khi đó, thời gian lại đang đếm ngược 2 năm, trước khi CERN đóng cửa
máy gia tốc để nâng cấp một lần nữa. Hai năm tới có thể là thời gian chúng ta
chẳng tìm ra điều gì mới mẻ, cũng như cái cách chúng ta thất vọng về hạt
Higgs.
Nó dường như báo hiệu bước khởi đầu của sự kết thúc, Cliff nói. "Chúng ta có
thể bước vào một kỷ nguyên mới trong vật lý. Nhưng đó là thời đại mà có
những sự kỳ lạ của vũ trụ, chúng ta không thể giải thích."
Đó sẽ là thời đại khoa học trở nên bất lực. Vật lý sẽ chết bởi “nó gợi ý rằng
chúng ta đang sống trong một đa vũ trụ vượt quá tầm hiểu biết. Một thời đại
mà chúng ta sẽ không bao giờ có thể trả lời câu hỏi tại sao mọi thứ lại tồn tại,
thay vì chẳng có gì”.

Nhiệm vụ đích thực của máy gia tốc LHC & CERN.

Large Hadron Collider (Máy gia tốc hạt lớn - gọi tắt là LHC) là chiếc máy gia

95
tốc hạt hiện đại lớn nhất và cung cấp gia tốc mạnh nhất trên thế giới. Chiếc
máy này đã ngốn 6,4 tỷ Euro của 15 quốc gia cùng với gần 8 nghìn nhà KH
làm việc cùng với nó, qua đó mới thấy chi phí của loài người cho việc này là
quá sức tưởng tượng. Mục đích của LHC chỉ là tạo ra va chạm của các hạt
Proton được tăng tốc lên tốc độ xấp xĩ ánh sáng. Theo lý thuyết, thì sự va chạm
này sẽ tạo ra các hạt mới, qua đó phát hiện hạt Boson Higgs và các loại hạt
khác. Trong khi ai cũng biết rằng, dù có gia tốc đến đâu đi chăng nữa, thì cũng
không thể tạo ra va chạm mạnh như là sự va chạm giữa Electron và Proton
được. Theo định luật Quan Hệ Vận Tốc, thì sự gia tốc thực chất là làm tăng
spin của Proton bằng bức xạ Từ định hướng, các proton sẽ có spin theo một
hướng nhất định, Spin càng cao thì động lượng của proton càng lớn, khi va
nhau sẽ có sức công phá vô cùng lớn, vì proton nặng hơn điện tử, nhưng không
thể mạnh bằng va chạm giữa chúng với điện tử được, vì đó là sự va chạm giữa
2 spin đối. Để tạo ra proton có động lượng cao, không cần thiết phải làm như
LHC, chúng ta chỉ cần một máy phát bức xạ Từ (nam châm điện) đủ mạnh để
tăng spin của proton, khiến chúng quay tại chổ theo 1 hướng nhất định. Bố trí
sao cho 2 nhóm proton khác nhau được định hướng theo 2 hướng đối nhau, sau
đó ghép chúng lại thì sẽ tạo ra va chạm còn mạnh hơn là của LHC. Công việc
này chỉ tốn cở nghót nghét vài chục triệu đô là cùng. Qua đây mới thấy rằng,
sự phát triển và ứng dụng lý thuyết spin là nhu cầu bức thiết của nền khoa học
của chúng ta biết chừng nào.Nhiệm vụ chủ yếu của trung tâm vật lý CERN, nơi
đặt LHC, từ trước cho đến bây giờ là chưa đạt được thành tựu nào đáng kể,
ngoài việc tạo ra các hiện tượng khác thường trong thế giới Hạt để các nhà vật
lý lý thuyết chạy theo mà giải thích theo cái cách “Đẽo chân cho vừa giày”.
Tương lai rồi cũng sẽ luôn là như vậy, cho tới khi mọi sự giải thích, mọi lý
thuyết về thế giới này bị phá sản, đó mới chính là nhiệm vụ đích thực của
CERN & LHC.

Hiệu ứng Hubble

Khi quan sát các thiên hà và quasar ở xa, các nhà thiên văn nhận thấy những
thiên thể này có phổ bị dịch chuyển đỏ, sóng điện từ phát ra từ chúng bị dịch
chuyển bước sóng. Để nhận ra điều này các nhà thiên văn thu lấy phổ của vật
thể và so sánh những dải phổ vạch phát xạ hoặc hấp thụ tương ứng với phổ
nguyên tử của nguyên tố hóa học khi cho ánh sáng truyền qua. Sự dịch chuyển
đỏ này có tính đồng nhất và đẳng hướng, phân bố đều đặn theo những thiên thể
quan sát trong mọi hướng. Nếu dịch chuyển đỏ được coi như là một kiểu dịch
chuyển Doppler, chúng ta sẽ tính được vận tốc lùi ra xa của thiên thể, và do
vậy có thể ước lượng được khoảng cách đến chúng thông qua các chuẩn
khoảng cách sẵn có. Khi các nhà khoa học vẽ đồ thị tương quan giữa vận tốc

96
lùi xa và khoảng cách đến các thiên hà họ nhận thấy có một quan hệ tuyến tính
hay chính là định luật Hubble: v = H0D, trong đó
• v vận tốc lùi ra xa của thiên hà hoặc những thiên thể ở xa,
• D là khoảng cách đồng chuyển động đến chúng
• H0 là hằng số Hubble, mà giá trị hiện tại vào khoảng 67.15 +1,3−1,4km/s/Mpc
Có hai cách giải thích cho định luật Hubble. Một là chúng ta đang ở tâm của
một vụ nổ đẩy các thiên hà ra xa mà dường như không phù hợp với nguyên lý
Copernicus, hoặc Vũ trụ với không gian đang giãn nở đều ở mọi nơi. Cách giải
thích thứ hai được nhà vật lý Alexander Friedmann tìm ra lần đầu tiên nhờ
nghiên cứu các hệ quả của thuyết tương đối rộng năm 1922 và bởi Georges
Lemaître năm 1927, trước các kết quả quan sát, phân tích của Hubble năm
1929 trên phương diện thực nghiệm. Hiện tượng không gian giãn nở vẫn là hòn
đá tảng của lý thuyết Vụ Nổ Lớn, do các nhà khoa học Friedmann, Lemaître,
Robertson, và Walker phát triển và nghiên cứu các tính chất của mêtric giãn
nở.
Mô hình đòi hỏi phương trình v = HD thỏa mãn mọi lúc, với D là khoảng cách
đồng chuyển động, v là vận tốc lùi xa, thậm chí v, H, và D có thể có giá trị biến
đổi khi vũ trụ giãn nở (do đó chúng ta viết H0 nhằm kí hiệu "hằng số" Hubble
do chúng ta quan sát ngày nay). Đối với khoảng cách nhỏ hơn kích thước của
Vũ trụ quan sát được, dịch chuyển đỏ Hubble có thể coi như dịch chuyển
Doppler tương ứng với vận tốc lùi xa v. Tuy nhiên, hiện tượng dịch chuyển đỏ
có bản chất khác với cách giải thích cổ điển của hiệu ứng Doppler, mà là ở kết
quả của sự giãn nở không gian vũ trụ giữa thời gian ánh sáng phát ra từ thiên
thể xa xôi và thời gian nó đến được thiết bị quan sát.
Mêtric giãn nở của không gian là hệ quả trực tiếp từ bằng chứng thực nghiệm
về nguyên lý vũ trụ học và cụ thể hơn nguyên lý Copernicus, mà cùng với định
luật Hubble thì không có một cách giải thích nào khác cho sự giãn nở này. Giá
trị dịch chuyển đỏ của các thiên thể cho thấy sự đồng nhất và đẳng hướng gần
hoàn hảo của không gian vũ trụ, và là bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho
nguyên lý vũ trụ học rằng khi nhìn theo mọi hướng Vũ trụ giống như nhau,
nguyên lý này còn được ủng hộ bởi các bằng chứng khác. Nếu sự dịch chuyển
đỏ là kết quả của một vụ nổ tỏa ra từ tâm nào đó thì chúng sẽ không giống
nhau khi quan sát ở những hướng khác nhau.
Kết quả khảo sát về bức xạ phông vi sóng vũ trụ trên động lực của các hệ thiên
thể là một bằng chứng thuyết phục khác cho nguyên lý Copernicus, rằng trên
cấp vĩ mô của vũ trụ, Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Các nhà
khoa học đã chứng minh bức xạ phát ra từ Vụ Nổ Lớn phải ấm hơn tại những
thời điểm sớm hơn trong lịch sử vũ trụ. Sự lạnh đi đồng đều của CMB trên
hàng tỷ năm chỉ có thể giải thích được nếu Vũ trụ trải qua sự giãn nở không
gian, và ngoại trừ khả năng chúng ta ở một trung tâm đặc biệt nào đó của vụ

97
nổ.
Qua đây chúng ta thấy, hiệu ứng Hubble chỉ có thể khẳng định chắc chắn một
điều rằng, mọi vật thể trong vũ trụ đang rời xa nhau, ngoài ra chưa nói lên điều
gì khác, kể cả hướng dịch chuyển của các vật thể. Như chúng ta đã biết, khi hai
vật thể cùng tiến về một điểm cố định, với vận tốc khác nhau thì khoảng cách
giữa chúng sẽ tăng dần theo thời gian, ngược lại khi cùng tiến ra xa điểm đó,
thì sự biến thiên khoảng cách giữa chúng vẫn giống y như trường hợp trên. Do
vậy quan niệm vũ trụ dãn nở dựa trên hiệu ứng Hubble là thiếu cơ sở khoa học
và rất chủ quan. Chắc gì vũ trụ đang dãn nở hay lại đang co lại? Nếu xét trên
bình diện tổng quát và khái quát hoá, thì không gian vũ trụ là đồng nhất và
đẳng hướng, tức không gian quanh ta và các vùng không gian xa xôi trong vũ
trụ là giống nhau, nếu không có những biến cố dị thường xảy ra. Do bởi, ánh
sáng là môi trường liên tục, gồm những phần tử luôn bức xạ ra mọi phương với
vận tốc bức xạ là 300.000km/s; (dn/dt = - n.300.000/R, thứ nguyên [n/s], n là
mật độ bức xạ tại điểm cách nguồn khoảng cách R) nên có thể coi. Trong môi
trường ánh sáng, chúng ta và mọi phần tử trong vũ trụ là một thể thống nhất.
Nếu lấy trái Đất làm hệ qui chiếu, thì chẳng khác gì chúng ta là tâm quay, còn
các thứ khác đều quay quanh tâm quay với vận tốc tiếp tuyến được phân bố
theo sơ đồ vật rắn quay quanh tâm. Tức vận tốc tiếp tuyến tỷ lệ thuận với
khoảng cách từ phần tử khảo sát đến tâm quay, càng xa tâm quay vận tốc tiếp
tuyến càng lớn. Đây mới chính là ảo giác tốc độ gây ra hiệu ứng Hubble, do
quan niệm sai lầm về ánh sáng của chúng ta, khiến cho chúng ta có ảo giác về
sự dãn nở hay co lại của không gian vũ trụ. Trong thực tế không gian cùng vũ
trụ vẫn đứng yên bất động, vĩnh viễn cùng thời gian bất tận.

Thí nghiệm quyết định:


Vật lý Lý Thuyết là kết quả của tư duy logic toán học, nên không thể có sai sót
được, đó là Luật là Hiễn Nhiên. Miễn tranh cãi!Vấn đề là ở chổ: Tự Nhiên đặt
ra bài toán, suy luận đúng cho ra kết quả đúng thì không nói làm gì. Nhưng suy
luận đúng mà cho ra kết quả sai thì mới là điều đáng phải bàn. Hoặc là đề bài
sai, hoặc là chúng ta chưa hiểu đúng đề bài? Hãy cùng nhau xem xét thí
nghiệm tưởng tượng sau để cùng nhau tự suy ngẫm kiến thức của chúng ta về
tự nhiên đã đúng hay chưa?
Đặt nguồn sáng giữa 2 chiếc gương phẳng, ánh sáng từ nguồn sẽ bay đến
gương này rồi phản xạ lên gương kia cứ như thế mãi. Vậy thì, khi tắt nguồn
ánh sáng phải lưu lại trên mặt gương trong một khoảng thời gian nào đó, thế
nhưng thực tế là khi tất nguồn ánh sáng trên mặt gương cũng tắt nay tức khắc,
mà không hề lưu lại trên gương dù là 1/tỷ giây.
Mắc nối tiếp 2 bóng đèn vào mạch điện dài 300.000km, bố trí sao cho 2 bóng

98
nằm ngay trước mắt chúng ta. Khi bật công tắt các bóng sẽ sáng đồng thời hay
lần lượt cách nhau 1 giây? (vận tốc ánh sáng C=300.000km/s). Các bóng sẽ
sáng đồng thời ngay khi bật công tắt, vì các bóng chỉ sáng khi có dòng điện
trong mạch kín, hơn nữa trong trường hợp này không thể nói bóng nào là bóng
đầu tiên bóng nào là bóng cuối được.
Môi trường điện tử tồn tại mọi nơi trong dây dẫn đã vận hành theo nguyên lý
đồng thời giữa lực và phản lực tác dụng. Ánh sáng cũng vậy, một khi đã bao
phủ từ nguồn đến mắt chúng ta, thì chúng ta cũng chỉ nhìn thấy hình ảnh hiện
tại của nguồn chứ không phải là quá khứ như các nhà vật lý ngày nay đang
quan niệm. Qua đây mới thấy rằng, không có chuyện dòng điện là sự chuyển
dời có hướng của các điện tích trong dây dẫn và ánh sáng cũng không phải là
sự chuyển dời của các photon từ nguồn đến mắt người quan sát, đó là dạng
truyền động theo nguyên lý lực và phản lực tác dụng trong môi trường vật chất.
Hiện tượng vận tốc ánh sáng bất biến đối với mọi hệ qui chiếu, tức cho dù bay
xuôi hay bay ngược với vận tốc xấp xỉ ánh sáng thì ánh sáng từ nguồn sáng
đến với người quan sát vẫn luôn là hằng số C=300.000km/s, đã khẳng đinh
chúng ta chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh hiện tại của nguồn chứ không thể nhìn
thấy hình ảnh quá khứ của nó.Theo nguyên lý cộng vận tốc của Galeileo, thì sự
bất biến của vận tốc được nêu trên là sự vi phạm toán học không thể chấp nhận
được, cho dù có biện luận thế nào đi chăng nữa, như thuyết tương đối của
Einstein chẳng hạn. Vấn đề ở đây là quan niệm của chúng ta chứ không phải là
lý luận toán học. Thực ra chúng ta, kể cả các nhà bác học lổi lạc trên thế giới
hiện nay, đã quan niệm sai về vận tốc ánh sáng. Khi nói đến vận tốc, là nói đến
sự di chuyển của các vật thể (vật chất) trong không gian, nhưng vận tốc ánh
sáng lại không phải như vậy. Hãy hình dung một dãy các bóng đèn đứng im
một chổ và được thắp sáng lần lượt, bắt đầu từ bóng đầu tiên cho đến bóng
cuối cùng với tốc độ ánh sáng, ta sẽ thấy dãy bóng đó cũng chẳng khác gì một
tia sáng, đó là cách vận hành của ánh sáng. Chính sự bất biến của vận tốc ánh
sáng đã khẳng định, photon luôn đứng im một chổ, đóng vai trò như các bóng
đèn để truyền ánh sáng từ nguồn đi khắp mọi nơi, có như thế thì cho dù có di
chuyển với bất cứ tốc độ nào ta vẫn thấy các bóng đèn photon được thắp sáng
lần lượt với tốc độ C=300.000km/s và hoàn toàn không hề mâu thuẩn với
nguyên lý Galeileo. Vì không thể phân biệt photon này với photon kia, nên
phải coi không gian là môi trường liên tục gồm các photon, truyền tương tác
theo nguyên tắc đồng thời giữa lực và phản lực tác dụng. Điều đó có nghĩa là
một khi ánh sáng từ nguốn đến với chúng ta, kể từ thời điểm đó trở đi ta luôn
nhìn thấy tức khắc hình ảnh của nguồn ngay lúc ấy.
Do vậy nền khoa học hiện nay vẫn chưa hiểu bản chất thực sự của ánh sáng là
gì, chỉ có các kiến thức mới từ lý thuyết Spin mới có thể giải quyết vấn đề này
một cách triệt để mà thôi.

99
Nhiệm vụ cho tất cả chúng ta

- Khi ý tưởng coi một thứ gì đó đang chuyển động trong vũ trụ là đứng yên,
hay có vận tốc V=0 làm hệ qui chiếu cho mọi thứ khác, thì được mọi người
chấp nhận ngay mà không hề có một chút băn khoăn nào. Nhưng khi ý tưởng
chọn ánh sáng có vận tốc V=C làm hệ qui chiếu, thì không ai chịu chấp nhận,
mặc dù V=C đối với mọi thứ khác là điều hiển nhiên trong thực tế.
- Khi ý tưởng ánh sáng đưa hình ảnh mọi vật đến mắt người ta, vì ánh sáng có
vận tốc giới nội nên con người chỉ có thể nhìn thấy quá khứ của sự vật mà
không thể nhìn thấy hiện tại, gần thì quá khứ gần xa thì quá khứ xa v.v… Ý
tưởng đó chỉ dựa vào cơ sở lý luận thiếu khách quan, mang tính áp đặt, nhưng
mọi người vẫn tin tuyệt đối và coi đó như chân lý hiển nhiên bất khả xâm
phạm. Thế nhưng, khi ý tưởng ánh sáng chỉ giúp ta nhìn thấy hình ảnh của mọi
vật, chứ không đưa hình ảnh đến mắt chúng ta, dựa trên cơ sở lý luận khách
quan, với lập luận vững chắc rằng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh hiện
tại của mọi vật, thì bị mọi người kịch liệt phản đối, cho dù không thể phản biện
nổi.
- Khi các nhà toán học đưa ra mô hình không gian cong đa chiều, rồi các nhà
vật lý áp dụng mô hình toán học đó vào thực tế, thì mọi người đều tin và coi đó
như một điều miễn tranh cãi. Nhưng khi con người phát hiện ra định luật bảo
toàn hướng trục ban đầu của con quay tự do và chứng minh rằng không gian
chuẩn của vũ trụ là không gian Euclid 3 chiều, thì chẵng ai chịu tin, mặc dù
không thể có bất cứ viện dẫn nào để phản biện được. Ai cũng tin vào sự tồn tại
của chân không tuyệt đối và lực hút trong chân không, mặc dù 2 khái niệm này
là rất phản tự nhiên.
- Nhiệt độ là đại lượng vật lý dùng để so sánh mức độ nóng lạnh khác nhau của
mọi vật, tương tự như hệ qui chiếu, ý tưởng lấy nhiệt độ của vật nào đó làm
chuẩn thống nhất để so sánh, như hệ nhiệt độ độ C, độ K, độ F v.v…Thì cũng
được mọi người chấp nhận, mà không bao giờ tự hỏi vậy nhiệt độ cao nhất
trong vũ trụ là bao nhiêu? Làm sao thống nhất được các hệ thang nhiệt khác
nhau về một thang nhiệt thống nhất cho toàn vũ trụ? Thế nhưng khi ý tưởng so
sánh nhiệt độ của mọi vật với nhiệt độ của ánh sáng để thiết lập thang nhiệt
thống nhất với giới hạn trên và giới hạn dưới rỏ ràng thì không ai chịu tin.
Nền văn minh này, cho dù có đạt được trình độ phát triển đến như thế nào đi
chăng nữa, thì cũng không thể nào so sánh nổi với các nền văn minh khác, chứ
đừng nói gì đến việc tìm hiểu vũ trụ. Nếu biết những điều này mà không làm

100
điều gì đó, thì thật là vô cùng đáng tiếc…
Vật lý hiện đại là thành tựu kiến thức của nền văn minh trái Đất, do biết bao
thế hệ các nhà bác học, các thiên tài và các vĩ nhân xây dựng nên. Sự phát triển
khoa học kỹ thuật trong thời đại ngày nay, đã minh chứng cho các thành tựu
của vật lý lý thuyết cũng như vật lý thực nghiệm về sự đúng đắn và không thể
phủ nhận. Nếu chỉ dựa trên quan điểm tương đối cùng với các quan niệm về
không gian, thời gian như trong vật lý hiện đại, thì không bao giờ loài người có
thể phát hiện ra những bất cập và sự lỏng lẻo trong định nghĩa các đại lượng
vật chất cũng như phi vật chất của vật lý lý thuyết. Đành rằng, những hiện
tượng và các quá trình mà vật lý hiện đại đề cập đều là thực tế, các định luật và
nguyên lý được đúc kết từ thực tế đó cũng là qui luật tự nhiên, nhưng những lý
thuyết để giải thích cho các qui luật tự nhiên đó thì cần phải bàn cãi, vì. Lý
thuyết thì nhiều, nhưng thực tế chỉ có một, hơn nữa vật lý hiện đại vẫn chưa
vượt qua được những thách thức sống còn của tự nhiên, mà vật lý cổ điển đã
phải bó tay. Dựa trên quan điểm tuyệt đối, tổng quát và nhất quán cho toàn vũ
trụ của lý thuyết spin, đặc biệt là hai định luật cơ bản, định luật Quan Hệ Vận
Tốc và định luật Phân Bố Bức Xạ còn khiếm khuyết trong vật lý hiện đại, thì
có thể nhận ra rằng: Nền vật lý hiện nay của nhân loại là nền vật lý thực
nghiệm chứ không phải là vật lý lý thuyết, vì thiếu tổng quát và nhất quán.
Cơ học cổ điển là mẩu mực về phương pháp nghiên cứu của con người, tương
tự như hình học Euclid vậy. Sự kết hợp hài hoà giữa khái quát hoá với toán học
đã tạo ra cơ học cổ điển, mà không ai có thể khẳng định nó là toán hay vật lý.
Nếu cơ học cổ điển có thêm quan niệm photon lấp đầy không gian vũ trụ, định
luật Quan Hệ Vận Tốc cùng với quan niệm chính xác hơn về vận tốc tương đối
trong môi trường động lực học thông thường và trong môi trường bức xạ. Nếu
loài người, thay vì quan niệm ánh sáng có tốc độ là 300.000km/s bằng quan
niệm ánh sáng là môi trường liên tục, gồm những phần tử luôn bức xạ ra mọi
phương với vận tốc bức xạ là 300.000km/s; (dn/dt = - n.300.000/R, thứ nguyên
[n/s], n là mật độ bức xạ tại điểm cách nguồn khoảng cách R) thì đây sẽ là
chân lý tuyệt đối, không có chổ cho thuyết tương đối và các lý thuyết hiện đại
chen chân vào.
Có thể ví nền vật lý hiện đại như một dung dịch chứa nhiều tạp chất, lý thuyết
Spin như hoá chất được thả vào dung dịch làm các tạp chất kết tủa để dung
dịch trở nên tinh khiết tuyệt đối. Lý thuyết Spin chỉ là bước đi sơ khai ban đầu
của một nền vật lý tuyệt đối trong tương lai, nhiệm vụ của chúng ta và các thế
hệ mai sau là phát triển nó như những gì mà cơ học cổ điển đã phát triển lý
thuyết Newton dựa trên hệ tiên đề của ông vậy. Cụ thể hơn, chúng ta phải nhìn
nhận và giải thích lại các hiện tượng, các quá trình, các định luật trong vật lý
hiện đại trên cơ sở khoa học của lý thuyết Spin. Qua kết quả giải thích của lý
thuyết được thực tế công nhận, thực tế sẽ gợi ý cho chúng ta những chân trời

101
khoa học mới, vận hội mới bao la đầy triển vọng. Với những thành tựu rực rỡ
đạt được trong gần một thiên niên kỹ qua, vật lý hiện đại đã không nhận thấy
rằng, con thuyền Vật lý lý thuyết đã và đang ngày càng lệch đích. Không thể
nào tưởng tượng nổi, nếu không có những phát hiện của lý thuyết Spin thì nền
khoa học của Nhân loại sẽ phải đi lòng vòng không biết đến bao giờ? Cho dù
lịch sử khoa học là một chuỗi liên tiếp sửa chữa các sai lầm, nhưng quả thật sẽ
vô cùng khó khăn để Thế giới công nhận công trình khoa học này, nhưng càng
chậm công nhận bao nhiêu thì họ sẽ càng tụt hậu so với chúng ta bấy nhiêu.
Mọi nghiên cứu khoa học cơ bản, nếu không có các kiến thức từ lý thuyết Spin
sẽ không có tiền đồ, vì thiếu cơ sở khoa học. Ngày nay, kiến thức của một kỹ
sư bình thường cũng hơn xa các bậc vĩ nhân thiên tài trong quá khứ, chứ chưa
nói gì đến các nhà khoa học sừng sỏ của thế giới. Thế nhưng những phát hiện
ra các qui luật, định luật của tự nhiên thì hầu như không có gì là đáng phải kể,
nếu so với những phát hiện vĩ đại của Newton, Galileo, Tesla,v.v… Khoa học
cơ bản hầu như vẫn dậm chân một chổ, mặc dù đã có vô số lý thuyết, vô số
quan niệm mới được đưa vào trong vật lý, với những phương pháp toán học
ngày càng cao siêu cùng với sự trừu tượng về những thực thể tồn tại trong vũ
trụ vô lý đến mức mà, không ai có thể hiểu nổi và hình dung ra được. Mặc dù
vậy, những thách thức sống còn mà tự nhiên đặt ra cho nền khoa học nhân loại
vẫn còn nguyên, kể từ thời vật lý cổ điển cho đến tận hôm nay, chưa ai và chưa
có lý thuyết nào giải quyết tận gốc vấn đề với sự thuyết phục hoàn toàn. Tại
sao vậy? Phải chăng chúng ta luôn thua kém người xưa? Nếu 97% các nhà
khoa học nói rằng điều gì đó là thật, liệu điều đó có là thật? Phần lớn công
chúng sẽ nghĩ như vậy. Nhưng Tiến sĩ Moddel cho biết "Đó không phải là cách
khoa học vận hành. Nó không phải là môn thể thao đồng đội. Trên thực tế,
nhiều khi những người suy nghĩ độc lập cuối cùng lại là người đúng."
"Chúng ta biết rằng dựa trên các ví dụ lịch sử, hầu hết khoa học mà hiện giờ
chúng ta đang tin tưởng rồi sẽ bị thay đổi, vì thế, không có điều gì là thực sự cố
định" ông nói "Tiến bộ khoa học bị cản trở bởi những ý kiến của số đông"
Cơ hội thì nhiều, nhưng người biết tận dụng cơ hội thì lại hiếm, mong sao các
bạn đừng nên bỏ phí cơ hội này, cho dù là một phút, một giây. Thời gian mất
đi không có cách gì lấy lại được nữa đâu!
Khi con người chưa hiểu thấu đáo về tự nhiên và vũ trụ, thì câu hỏi “Liệu ta có
hiểu được đến tận cùng thế giới tự nhiên và vũ trụ được không?” luôn thường
trực trong tâm thức, chính câu hỏi này mà mới có chuyện phân ra trình độ học
vị thấp cao. Lẽ thường, người ta chỉ quan tâm đến những điều chưa biết và khó
hiểu, chứ ít ai lại quan tâm đến những thứ mà mình đã hiểu tường tận rồi, vậy
nên ai hiểu được những điều mà người khác không hiểu là người có trình độ
cao hơn, cứ thế mà lên cao dần... cho đến khi không ai hiểu nổi chúng ta, con
người đã hiểu được cái thứ gì? Lý thuyết Spin đã cho ta thấy được tương lai

102
của trí tuệ con người, đó là: Sẽ tới lúc, trí tuệ con người hiểu tường tận mọi vấn
đề về khoa học cơ bản, đến mức mà các kiến thức trong lĩnh vực này chỉ là
kiến thức phổ thông và thứ bậc trình độ thấp cao không còn nữa. Khi đó trí tuệ
con người không còn là chuyện lo tìm hiểu nữa, mà là ứng dụng vào cuộc
sống, hay Khoa Học Kỹ Thuật. Nếu ví khoa học cơ bản như những viên thuỷ
tinh màu sắc khác nhau trong chiếc kính vạn hoa, thì khoa học kỹ thuật chính
là những cái lắc để tạo ra các hình dạng lung linh trong muôn vạn sắc màu mà
không bao giờ có hình dạnh nào trùng nhau, đó là các thành tựu phục vụ cho
cuộc sống, mục đích của con người.
Ngày xưa, các nhà bác học phát hiện ra hiện tượng mới, đó là hiện tượng điện
từ, họ đâu có ngờ rằng chính phát hiện nhỏ nhoi đó sau 100 năm đã tạo ra nền
văn minh hiện đại như ngày nay. Bây giờ lý thuyết Spin đã phát hiện ra rất
nhiều điều mới mẻ, đặc biệt là nguyên lý vận hành của đĩa bay (UFOs). Sao
không ai thấy rằng, chỉ 100 năm sau nhân loại sẽ được sống trong thế giới Đại
Đồng (xã hội loài kiến là minh hoạ cụ thể) để tận hưởng cuộc sống sung túc,
không ốm đau bệnh tật với tuổi thọ tối thiểu là 500 năm chan chứa tình yêu
thương và cùng nhau khai phá các vùng không gian xa xôi trong vũ trụ?

Hãy dành hết sức lực, trí tuệ và khả năng của mình cho công cuộc chinh phục
tự nhiên và đấu tranh để sinh tồn. Mọi thành tựu khoa học kỹ thuật của con
người hay sự phát triển của cá nhân, đều đòi hỏi phải có một quá trình!

- Không có hạnh phúc và niềm vui sướng nào lại lớn lao hơn sự hân hoan trong
thăng hoa, khi ta đã hoàn thành một bước tiến trong công cuộc khám phá thế
giới vật chất của vũ trụ.
- Không có đạo đức cao cả nào có thể sánh được với lao động và tư duy sáng
tạo để cứu rỗi cho sự sống được trường tồn trong cõi Càn khôn.
-Không thể để sự sống được sinh ra từ những quá trình hiếm hoi và ngặt nghèo
của Tự nhiên, nhọc nhằn trong đấu tranh để tiến triển thành nền văn minh, phải
cam chịu diệt vong trong chớp mắt.

103

You might also like