Professional Documents
Culture Documents
Bước hội nhập đầu tiên của Việt Nam với mạng di động được đánh dấu bằng
công nghệ GSM (Global System for Mobile Communication) được sử dụng trên
điện thoại di động (khoảng đầu năm 2006), và cũng trùng với thời điểm Internet
xuất hiện trên toàn cầu.
Là thế hệ kết nối thông tin di động mang tính cải cách cũng như khác hoàn
toàn so với thế hệ đầu tiên, mạng 2G sử dụng các tín hiệu kỹ thuật số thay cho tín
hiệu analog của thế hệ 1G và được áp dụng lần đầu tiên tại Phần Lan. Do đó, cũng
không lấy làm ngạc nhiêu khi hầu hết điện thoại 2G được sử dụng trên thế giới
thời bấy giờ lại là những chiếc Nokia "huyền thoại", đã làm mưa làm gió suốt một
thời gian dài cho tới khi bị thay thế hoàn toàn bởi smartphone.
Mạng 2G mang tới cho người sử dụng 3 tính năng vượt trội so với 2 công
nghệ tiền nghiệm 0G, 1G: mã hoá dữ liệu theo dạng kỹ thuật số, phạm vi kết nối
rộng hơn 1G và đặc biệt là sự xuất hiện của tin nhắn dạng văn bản đơn giản –
SMS. Theo đó, các tin hiệu thoại khi được thu nhận sẽ đuợc mã hoá thành tín hiệu
kỹ thuật số dưới nhiều dạng mã hiệu (codecs), cho phép nhiều gói mã thoại được
lưu chuyển trên cùng một băng thông, tiết kiệm thời gian và chi phí. Với công
nghệ dịch vụ vô tuyến gói tổng hợp (GPRS), mạng 2G cung cấp tốc độ truyền tối
đa theo lý thuyết là 50 kbit/s (40 kbit/s trên thực tế). Với công
nghệ EDGE (Enhanced Data Rates for GSM Evolution), tốc độ truyền tối đa theo
lý thuyết là 1 Mbit/s (500 kbit/s trên thực tế).
Công nghệ 2G phổ biến nhất là công nghệ đa truy nhập phân chia theo thời
gian TDMA (Time Division Multiple Access), dựa trên GSM, khởi nguồn từ
Châu Âu nhưng được sử dụng ở hầu hết các thế giới, ngoài Bắc Mỹ. Hơn 60 nhà
mạng GSM cũng đã sử dụng CDMA2000 trong dải tần số 450 MHz (CDMA450).
Song song đó, tín hiệu kỹ thuật số truyền nhận trong thế hệ 2G tạo ra nguồn
năng lượng sóng nhẹ hơn và sử dụng các chip thu phát nhỏ hơn, tiết kiệm diện
tích bên trong thiết bị hơn… Cũng trong giai đoạn này, người ta bắt đầu thấy
những chiếc điện thoại di động có kích thước nhỏ nằm gọn trong lòng bàn tay,
kiểu dáng đa dạng,... Cho tới nay thì mạng 2G vẫn được sử dụng làm phương thức
liên lạc chính để phục vụ nhu cầu gọi điện, nhắn tin.
Với sự phát triển của 2G, mạng 2.5G được sử dụng để mô tả các hệ thống 2G
đã triển khai thêm các vùng chuyển mạch gói (packet-switch domain) bên cạnh
các vùng sử dụng chuyển mạch kênh (circuit-switch domain). Nó không nhất thiết
phải cung cấp dịch vụ nhanh hơn vì gói thời cũng được sử dụng cho các dịch vụ
dữ liệu chuyển mạch kênh (High-Speed Circuit-Switched Data HSCSD). Mạng
GPRS phát triển thành mạng 2.75G hay EDGE (Enhanced Data Rates for GSM
Evolution) với việc giới thiệu mã hóa 8PSK. Mặc dù mã hóa vẫn giữ nguyên ở
270.833 mẫu trong một giây, mỗi ký hiệu mang ba bit thay vì một bit. Các công
nghệ EDGE, Enhanced GPRS (EGPRS) hoặc IMT Single Carrier (IMT-SC) là
công nghệ điện thoại di động kỹ thuật số tương thích ngược (backward-
compatible digital mobile phone technology) cho phép cải thiện tốc độ truyền dữ
liệu, như là một phần mở rộng trên mạng GSM tiêu chuẩn. EDGE đã được triển
khai trên các mạng GSM bắt đầu vào năm 2003, ban đầu bởi AT &T tại Hoa Kỳ.
Đây là giao thức viễn thông làm tiền đề cho sự phát triển của 3G và 4G sau này,
tuy có tốc độ kết nối internet chậm nhưng giao thức này vẫn còn phổ biến vì nó
là nền tảng phát triển cho 3G và 4G thậm chí là 5G trong tương lai.
2.3.Mạng thông tin di động 3G
3G, viết tắt của 3rd Generation/ UMTS (Universal Mobile Telecomm.
System), đóng vai trò là thế hệ truyền thông di động thứ ba, tiên tiến hơn hẳn các
thế hệ trước đó. Nó cho phép người dùng di động truyền tải cả dữ liệu thoại và dữ
liệu ngoài thoại (tải dữ liệu, gửi email, tin nhắn nhanh, hình ảnh, âm thanh, video
clips…
Trong số các dịch vụ của 3G, điện thoại video thường được miêu tả như là lá
cờ đầu. Giá tần số cho công nghệ 3G rất đắt tại nhiều nước, nơi mà các cuộc bán
đầu giá tần số mang lại hàng tỷ Euro cho các chính phủ. Bởi vì chi phí cho bản
quyền về các tần số phải trang trải trong nhiều năm trước khi các thu nhập từ
mạng 3G đem lại, nên một khối lượng vốn đầu tư khổng lồ là cần thiết để xây
dựng mạng 3G. Nhiều nhà cung cấp dịch vụ viễn thông đã rơi vào khó khăn về
tài chính và điều này đã làm chậm trễ việc triển khai mạng 3G tại nhiều nước
ngoại trừ Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi yêu cầu về bản quyền tần số được bỏ qua
do phát triển hạ tâng cơ sở IT quốc gia được đặt lên làm vấn đề ưu tiên nhất. Và
cũng chính Nhật Bản là nước đầu tiên đưa 3G vào khai thác thương mại một cách
rộng rãi, tiên phong bởi nhà mạng NTT DoCoMo. Tính đến năm 2005, khoảng
40% các thuê bao tại Nhật Bản là thuê bao 3G, và mạng 2G dần đi vào lãng quên
trong tiềm thức công nghệ tại Nhật Bản. Trong khi đó tại Việt Nam, dù xuất hiện
nhiều trong các đề án hồi cuối năm 2006 đến đầu 2008, nhưng mãi tới tháng
10/2009, mạng 3G mới lần đầu tiên được phủ sóng bởi VinaPhone ở 13 tỉnh, thành
phố trên cả nước là: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa
Thiên Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Tp.HCM, Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương và
Vũng Tàu. Vào tháng 12/2009, MobiFone cũng tiếp bước VinaPhone để phủ sóng
3G tại nhiều tỉnh thành trên cả nước.
Ban đầu 3G được dự kiến là một chuẩn thống nhất trên thế giới, nhưng trên
thực tế, thế giới 3G đã bị chia thành 4 phần riêng biệt, đó là UMTS (W-CDMA),
CDMA 2000, TD-SCDMA, và Wideband CDMA. Ngoài ra, người dùng còn quen
thuộc với biểu tượng H, hay H+ xuất hiện khá nhiều. Đây thực chất là mạng
HSPA, hay 3.5G ( 3G tăng cường). Đây chính là giao thức chuẩn 3G khi nó đạt
tốc độ internet lên tới 7,2Mbps, giúp cho các thiết bị có hỗ trợ chuẩn này có thể
dễ dàng lướt web một cách mượt mà. Với HSPA, người dùng có thể xem video
trên YouTube mà không cần bộ nhớ đệm. Còn H+ là viết tắt của (Evloved High
Speed Packet Access) – tăng cường của HSPA giúp cải thiện khoảng 40% so với
kí hiệu H bình thường.
2.4.Mạng thông tin di động 4G
4G, hay 4-G, viết tắt của fourth-generation, là công nghệ truyền thông không
dây thế hệ thứ tư, cho phép truyền tải dữ liệu với tốc độ tối đa trong điều kiện lý
tưởng lên tới 1 - 1,5 Gbit/s. Trong năm 2017, 4G đã được phủ sóng tại nhiều
tỉnh thành trên cả nước Việt Nam. Tuy nhiên nhìn rộng hơn thì công nghệ này
đã được thế giới công nhận và sử dụng tử rất lâu.
Công nghệ 4G được hiểu là chuẩn tương lai của các thiết bị không dây. Các
nghiên cứu đầu tiên của NTT DoCoMo cho biết, điện thoại 4G có thể nhận dữ
liệu với tốc độ 100 Mbit/s khi di chuyển và tới 1 Gbit/s khi đứng yên, cũng như
cho phép người sử dụng có thể tải và truyền lên các hình ảnh, video clips chất
lượng cao. Mạng điện thoại 3G hiện tại của DoCoMo có tốc độ tải là 384 Kbit/s
và truyền dữ liệu lên với tốc độ 129 Kbit/s.
Sự khác biệt đáng chú ý của LTE so với những công nghệ trước chính là
thay đổi tần số và băng thông sử dụng. Một lượng lớn băng tần 4G LTE dành
cho chuẩn này, được sử dụng tùy thuộc vào mỗi quốc gia và thậm chí cả công
nghệ cụ thể của mỗi nhà mạng.
Các tần số được chia thành Frequency Division Duplexing (FDD) và Time
Division Duplexing (TDD). Phổ tần của FDD yêu cầu băng thông kép, một dành
cho đường lên và một dành cho đường xuống. Trong khi TDD sử dụng một
băng tần duy nhất cho cả đường lên và đường xuống tại cùng một tần số nhưng
tách biệt thời gian. Có 31 cặp băng tần LTE hoạt động từ 452MHz và 3600MHz
và 12 băng tần TDD nằm từ 703MHz đến 3800MHz. Các tần số cao hơn cho
phép truyền tải nhanh hơn trong các lĩnh vực xây dựng, trong khi tần số thấp
hơn cung cấp khoảng cách phủ rộng hơn nhưng có băng thông hạn chế hơn. Các
băng tần cụ thể thường nằm từ 10 và 20MHz để truyền dữ liệu.
LTE sử dụng 2 đường vô tuyến khác nhau cho đường lên và đường xuống –
từ tháp sóng tới thiết bị và ngược lại.
Đối với đường xuống, LTE sử dụng OFDMA (Đa truy nhập phân tần trực
giao), yêu cầu MIMO. MIMO viết tắt của Multiple Input, Multiple Output, sử
dụng hai hoặc nhiều ăng ten để giảm đáng kể độ trễ và tăng tốc độ trong một
kênh nhất định. LTE chuẩn có thể chứa tới sắp xếp 4x4 (chữ số đầu chỉ số ăng
ten phát và số thứ hai chỉ số lượng ăng ten thu).
Đối với đường lên (từ điện thoại lên tháp sóng), LTE sử dụng tín hiệu SC-
FDMA (Đa truy nhập phân chia theo tần số). Với sự phát triển và yêu cầu ngày
càng cao về tốc độ đường truyền. Một công nghệ mới đã được nghiên cứu và phát
triển dựa trên công nghệ LTE đó là LTE-A ( LTE Advanced) với 8×8 MIMO cho
đường xuống và 4x4 đối với đường lên, cho phép nhiều băng tần sóng mang sẽ
được tổng hợp lại với nhau, để cải thiện cường độ tín hiệu và băng thông.
Tính tới tháng 8/2017, hơn 80.000 trạm thu phát sóng 4G đã và đang được
triển khai nhằm mục tiêu phủ sóng 4G trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, đồng thời
triển khai nhiều gói cước hấp dẫn có giá thậm chí rẻ hơn mạng 3G truyền thống,
hướng đến một tương lai tất cả người dùng chuyển sang sử dụng mạng 4G, và
thậm chí là 5G trong những năm tới.
5G hay thế hệ mạng di động thứ 5 là thế hệ tiếp theo của công nghệ truyền
thông di động sau thế hệ 4G, hoạt động ở các băng tần 28GHz, 38GHz và
60 GHz. Theo các nhà phát minh, mạng 5G sẽ có tốc độ nhanh hơn khoảng 100
lần so với mạng 4G hiện nay, giúp mở ra nhiều khả năng mới và hấp dẫn. Lúc đó,
xe tự lái có thể đưa ra những quyết định quan trọng tùy theo thời gian và hoàn
cảnh. Tính năng chat video sẽ có hình ảnh mượt mà và trôi chảy hơn, làm cho
chúng ta cảm thấy như đang ở trong cùng một mạng nội bộ. Các cơ quan chức
năng trong thành phố có thể theo dõi tình trạng tắc nghẽn giao thông, mức độ ô
nhiễm và nhu cầu tại các bãi đậu xe, do đó có thể gửi những thông tin này đến
những chiếc xe thông minh của mọi người dân theo thời gian thực.Mạng 5G được
ghi nhận với những sự khác biệt:
Một mạng di động siêu hiệu quả mang lại một mạng lưới hiệu suất tốt hơn
cho chi phí đầu tư thấp. Nó đề cập đến các nhà khai thác mạng di động nhu cầu
bức thiết để xem các đơn vị chi phí vận chuyển dữ liệu xuống xấp xỉ tốc độ tương
tự như khối lượng dữ liệu nhu cầu đang tăng lên. Nó sẽ là một bước nhảy vọt
trong hiệu quả dựa trên các nhu cầu IET chu đáo Network (DAN).
Một mạng di động siêu nhanh bao gồm các thế hệ tiếp theo của các tế bào nhỏ
đông nhóm lại với nhau để cung cấp cho một phạm vi tiếp giáp trên ít nhất là đô
thị khu vực và thế giới để được biên giới cuối cùng cho sự thật "khu vực rộng di
động". Nó sẽ yêu cầu quyền truy cập vào phổ dưới 4 GHz có thể thông qua việc
thực hiện toàn cầu đầu tiên của thế giới.
Một mạng lưới sợi dây hội tụ mà sử dụng, lần đầu tiên truy cập Internet không
dây, các băng sóng mm (20–60 GHz) để cho phép các kênh vô tuyến băng thông
rộng có thể hỗ trợ tốc độ truy cập dữ liệu lên tới 10 Gbit / s. Các kết nối cơ bản
bao gồm các liên kết "ngắn" không dây ở đầu của sợi cáp quang tại địa phương.
Nó sẽ có thêm một "du mục" dịch vụ (như WiFi) chứ không phải là một khu vực
rộng lớn "di động" dịch vụ.
Mạng 5G được xem là chìa khóa để chúng ta đi vào thế giới mạng lưới vạn
vật kết nối Internet (IoT), trong đó các bộ cảm biến là những yếu tố quan trọng
để trích xuất dữ liệu từ các đối tượng và từ môi trường. Hàng tỷ bộ cảm biến sẽ
được tích hợp vào các thiết bị gia dụng, hệ thống an ninh, thiết bị theo dõi sức
khỏe, khóa cửa, xe hơi và thiết bị đeo. Tuy nhiên, để cung cấp 5G, các nhà mạng
sẽ cần phải tăng cường hạ tầng cơ sở mạng lưới (gọi là trạm gốc). Họ mới có thể
thể bắt đầu bằng cách khai thác dải phổ hiện còn trống. Sóng tín hiệu với tần số
đo MHz sẽ được nâng cao lên thành GHz hay thậm chí nhanh hơn. Tần số giao
tiếp của điện thoại hiện nay ở dưới mức 3 GHz nhưng mạng 5G sẽ yêu cầu những
băng tần cao hơn. Mạng 5G được tung ra vào năm 2020 để đáp ứng nhu cầu kinh
doanh và người tiêu dùng.
Với hệ thống này, do các máy phát thường có công suất lớn hơn nhiều (500
w) so với các máy di động (25 W). Và đương nhiên anten của máy di động thường
ở mức thấp hơn nhiều so với anten phát. Để cự ly thông tin của hệ thống được
như nhau theo cả hai chiều, người ta thường dùng các trạm đầu xa chứa các máy
thu. Các trạm đầu xa này sẽ thu nhận tín hiệu phát của máy di động và gửi chuyển
tiếp tín hiệu đó trở lại bộ điều khiển hệ thống để xử lý.
Số lượng thuê bao ngày càng tăng lên trong khi hệ thống thông tin di động
trước đây không đáp ứng kịp về số lượng thuê bao cũng như chất lượng dịch vụ.
Đây là sức ép đối với các nhà cung cấp dịch vụ, bắt buộc họ phải tìm giải pháp
mới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển thuê
bao di động tăng nhanh. Phổ tần số dành cho thông tin di động là có hạn, do đó
sử dụng hiệu quả tần số trong hệ thống thông tin di động tế bào là rất
cần thiết. Các tham số hệ thống như số lượng, kích thước các cell, sử dụng lại
tần số, quá trình chuyển tiếp cuộc gọi giữa các cell (handover) là khác nhau tuỳ
theo vùng địa lý cụ thể, nông thôn hay thành phố.
Các tế bào: Cell (tế bào) là đơn vị địa lý cơ bản của hệ thống thông tin vô
tuyến theo mô hình tế bào. Các vùng phủ sóng bởi các trạm có dạng tế bào
nên người ta gọi là hệ thống thông tin theo mô hình tế bào. Các cell là các
trạm gốc phát sóng đến một bán kính địa lý xung quang và vùng phủ sóng
có dạng gần giống hình lục giác. Kích thước phủ sóng mỗi cell thay đổi tuỳ
theo vùng.
Nhóm các tế bào (Cluster): là một nhóm các cell. Các kênh không được
tái sử dụng tần số trong một cluster.
Sự chuyển dao (Handoff- hay Handover): Trở ngại cuối cùng trong việc
phát triển mạng thông tin di động tế bào là vấn đề phát sinh khi một thuê
bao di động di chuyển từ cell này sang cell khác. Các khu vực kề nhau
trong hệ thống tế bào sử dụng các kênh vô tuyến có tần số khác nhau, khi
thuê bao di động di chuyển từ cell này sang cell khác thì cuộc gọi hoặc bị
rớt hoặc tự động chuyển từ kênh vô tuyến này sang một kênh khác thuộc
cell khác.
Thay vì để cuộc gọi bị rớt, quá trình Handoff giúp cho cuộc gọi được
liên tục. Quá trình Handoff xảy ra khi hệ thống thông tin di động tự động
chuyển cuộc gọi từ kênh vô tuyến này sang kênh vô tuyến khác khi thuê
bao di động di chuyển từ cell này sang cell khác liền kề với nó. Trong qúa
trình đàm thoại, hai thuê bao cùng chiếm một kênh thoại. Khi một thuê
bao di động chuyển động ra khỏi vùng phủ sóng của cell cho trước, tín hiệu
đầu thu của cell này sẽ giảm. Khi đó, cell đang sử dụng sẽ yêu cầu một
Handoff (chuyển giao) đến hệ thống. Hệ thống sẽ chuyển mạch cuộc gọi
đến một cell có tần số với cường độ tín hiệu thu mạnh hơn mà không làm
gián đoạn cuộc gọi hay gửi cảnh báo đến người sử dụng. Cuộc gọi sẽ được
tiếp tục mà người sử dụng không nhận thấy quá trình diễn ra.
Như vậy, mỗi kênh chiếm dải thông và đáp ứng cho một cuộc đàm thoại. Tần
số của mỗi kênh tuy khác nhau nhưng nhiều máy vô tuyến có thể truy nhập tới
được.
Các đặc tính tiên tiến của thông tin di động sử dụng kỹ thuật CDMA:
Tái sử dụng tần số: Trong các hệ thống thông tin di động TDMA, mỗi tần
số được tái sử dụng lại tại các tế bào cách nhau một cự ly nhất định. Nhưng
trong hệ thống sử dụng kỹ thuật CDMA, một tần số được sử dụng trên cc
tế bào kề nhau. Với việc tái sử dụng tần số, ở mức độ giao thoa cho phép
có thể đạt dung lượng của hệ thống cao hơn nhiều so với các hệ thống di
động dùng kỹ thuật FDMA hoặc TDMA.
Dung lượng đạt cao hơn: Trong hệ thống di động CDMA, khoảng 27 cuộc
gọi tốc độ 9,6 Kb/s có thể làm việc đồng thời trong một sector và 18 cuộc
gọi tốc độ 14,4 Kb/s đồng thời cho một sector. Dung lượng của hệ thống
CDMA lớn gấp 13,5 lần so với hệ thống di động AMPS, và lớn gấp 5 lần
so với hệ thống di động TDMA.
Khả năng chuyển vùng mềm: Quá trình máy di động di chuyển trong vùng
phủ sóng có thể xảy ra ba loại chuyển vùng khác nhau là: Chuyển vùng
cứng (Máy di chuyển giữa các LA kề nhau hay giữa các BSC), chuyển
vùng mềm (Máy di chuyển giữa các BTS của cùng một BSC) và chuyển
vùng mềm hơn (Máy di chuyển giữa các sector của cùng một BTS).
Trong khi hệ thống di động TDMA sử dụng kỹ thuật chuyển vùng cắt trước
khi nối thì trong công nghệ CDMA lại sử dụng kỹ thuật nối trước khi cắt. Khi
đang di chuyển, máy di động vẫn tiếp tục dò tìm tín hiệu dẫ đường của các trạm
thu phát bên cạnh. Nó so sánh tín hiệu thu được của các trạm lân cận với tín hiệu
của trạm đang kết nối. Khi cường độ thu của trạm lân cận đạt đến một mức ngưỡng
nào đấy thì việc chuyển vùng mềm có thể sẽ được thực hiện. Lúc này, máy di
động gửi bản tin đến trạm điều khiển trung tâm (BSC). Trạm trung tâm thực hiệ
kết nối máy di động và trạm thu phát mới trong khi vẫn giữ đường kết nối ban
đầu. Chỉ sau khi thực hiện thành công việc kết nối rồi mới cắt liên lạc với trạm
cũ. Ưu điểm nổi bật của chuyển vùng mềm và chuyển vùng mềm hơn là loại trừ
được các hiện tượng rơi cuộc gọi hay gán đoạn thông tin trong khi máy di động
di chuyển trong vùng giáp danh giữa các BTS hoặc giữa các sector trong cùng
một BTS.
Đa dạng phân tập: Phân tập là một phương pháp hiệu quả để giảm fading. Có
ba loại phân tập:
Phân tập theo thời gian dùng kỹ thuật chèn mã, tách lỗi và sửa sai.
Phân tập theo khoảng cách: thiết kế nhiều cặp antenthu tại một trạm
gốc BTS, thiết lập nhiều đường báo hiệu (chuyển vùng mềm) để kết nối
với máy di động đồng thời với hai hoặc nhiều BTS.
Loại phân tập dùng phương pháp thu đa đường là phân tập cao nhất
nhờ đặc tính duy nhất của CDMA là thu/phát dùng mã PN mà các hệ
thống vô tuyến di động khác không có. Nhờ có bộ tương quan song
song mã PN, nó xác định tín hiệu thu theo mỗi đường sau đó tổ hợp và
giải điều chếcc tín hiệu thu được. Fading có thể xuất hiện trong mỗi tín
hiệu thu được nhưng không có tác động đến các đường thu khác nếu
không có sự tương quan PN giữa các đường thu. Vì vậy tổng tín hiệu
thu được có độ tin cậy rất cao vì khả năng có fading đồng thời trong tất
cả các tín hiệu là rất thấp.
Loại phân tập dùng phương pháp thu đa đường là phân tập cao nhất nhờ đặc
tính duy nhất của CDMA là thu/phát dùng mã PN mà các hệ thống vô tuyến di
động khác không có. Nhờ có bộ tương quan song song mã PN, nó xác định tín
hiệu thu theo mỗi đường sau đó tổ hợp và giải điều chếcc tín hiệu thu được. Fading
có thể xuất hiện trong mỗi tín hiệu thu được nhưng không có tác động đến các
đường thu khác nếu không có sự tương quan PN giữa các đường thu. Vì vậy tổng
tín hiệu thu được có độ tin cậy rất cao vì khả năng có fading đồng thời trong tất
cả các tín hiệu là rất thấp.
Điều khiển tự động công suất phát: Công suất phát của máy di động được
tự động điều chỉnh sao cho tất cả các máy di động trong một vùng phục vụ
có thể thu được với đọ nhạy trung bình tại bộ thu của trạm gốc BTS. Bộ
thu CDMA của trạm gốc BTS chuyển tín hiệu thu được từ máy tương ứng
thành thông tin số băng hẹp. Khi đó tín hiệu thu được của các máy di động
còn lại là tín hiệu nhiễu của băng rộng. Thủ tục thu hẹp băng nhằm nâng
cao tỷ số S/N lên đến mức cao nhất. Dung lượng của hệ thống đạt được là
lớn nhất khi tín hiệu thu được tại BTS từ các máy di động có tỷ số S/N đạt
giá trị cao nhất. Trạm BTS cung cấp chức năng mở mạch điều khiển công
suất qua việc cung cấp cho máy di động một hằng số công suất. Hằng số
này liên quan đến các yếu tố như tải, tạp âm của BTS, tăng ích của anten
và khuếch đại công suất. Các thông tin này được gửi tới máy di động như
một bản tin thông báo, thông qua mạch đóng trạm gốc BTS điều chỉnh
cống suất mạch mở để máy di động giữ được công suất phát tối ưu nhất.
Trạm gốc cứ sau khoảng thời gian 1,25 ms lại so sánh tín hiệu thu được từ
máy di động với giá trị ngưỡng biến đổi và BTS điều khiển máy di động
điều chỉnh công suất phát đến khi đạt kết quả tốt. Mục đích của việc điều
khiển công suất phát của trạm gốc còn đạt mục tiêu giảm công suất phát
của máy di động mỗi khi ở trạng thái rỗi hoặc ở vị trí gần BTS. Với kêt
quả này công suất sẽ tập trung cung cấp cho các máy ở vùng có nguy cơ
thu gián đoạn hay máy di động đang ở vị trí xa BTS.
Công suất phát thấp: Việc giảm tỷ số S/N không những làm tăng dung
lượng hệ thống mà còn có tác dụng giảm công suất phát đẻ khắc phục tạp
âm và giao thoa. Khi giảm công suất phát, sẽ giảm được giao thoa Và
bán kính phục vụ của một trạm gốc có thể đạt lớn hơn, số lượng trạm gốc
BTS cần ít hơn so với các hệ thống di động TDMA.
Bảo mật cuộc gọi: Hệ thống CDMA cung cấp chức năng bảo mật thông
tin rất cao vì tạo được mã PN riêng biệt cho mỗi máy, vì vậy dùng máy
thu khác để nhận dạng hay tìm kiếm là rất khó khăn.
5.So sánh các công nghệ FDMA, TDAM với CDMA ứng dụng trong thông
tin di động tế bào
Trong FDMA mỗi một khe tần số được dành riêng cho một người sử dụng và
người này sẽ dùng khe tần số này suốt quá trình cuộc gọi . Trong sơ đồ TDMA
mỗi người dùng được cấp cho một khe thời gian trong quá trình gọi. Số lượng
người dùng được quyết định bởi số lượng các khe thời gian hay tần số khác nhau
có sẵn. Trong sơ đồ CDMA tất cả các người dùng phát đồng thời và trên một tần
số. Tín hiệu được phát đi chiếm toàn bộ dải thông của hệ thống và các dãy mã
được sử dụng để phân biệt người sử dụng này với người sử dụng kia.
CDMA hơn hẳn so với các kỹ thuật đa truy nhập khác. Nó có thể tính được
phương sai trong hàm truyền của kênh gây ra bởi bộ chọn lọc tần số. Các máy thu
CDMA được thiết kế để tận dụng ưu điểm từ đặc tính nhiều đường liên quan đến
fading chọn lọc tần số và để làm giảm tối thiểu ảnh hưởng của chúng đến dung
lượng của hệ thống.
Ưu điểm chủ yếu về dung lượng của CDMA có được trong môi trường vô
tuyến đa tế bào. Trong thông tin di động trước đây một trạm gốc công suất lớn
được sử dụng để phủ sóng cho một vùng rộng lớn. Hệ thống này bị hạn chế khắt
khe về mặt băng tần và không thể đáp ứng các dịch vụ di động. Trong hệ thống
điện thoại di động tế bào, máy phát của trạm gốc đơn lẻ được thay thế bởi rất
nhiều các trạm gốc có công suất nhỏ hơn, mỗi máy phát phủ sóng cho một vùng
có dạng tổ ong, gọi là một tế bào. Trong các hệ thống FDMA hay TDMA mỗi tế
bào được chia cho một phần tử của dãy tần số có sẵn. Dãy tần được dùng trong
một tế bào có thể được sử dụng lại trong tế bào khác cách đó đủ xa sao cho tín
hiệu trong hai tế bào này không gây nhiễu đến nhau. Số K tế bào sử dụng hết toàn
bộ phổ tần có sẵn được gọi là cluster (cụm). Các cluster được bố trí như hình vẽ
sau:
Hình 2.4: Cấu trúc cơ bản của hệ thống tế bào
Những tín hiệu cơ bản của người sử dụng khác đồng thời trên cùng băng tần
sẽ gây ra nhiễu đồng kênh. Nhiễu đồng kênh là một tham số giới hạn của hệ thống
vô tuyến di động. Phương pháp tái sử dụng tần sổ trong TDMA/FDMA và
FM/FDMA gây ra nhiễu đồng kênh vì có cùng một dải tần được sử dụng lại ở một
tế bào khác. Việc sử dụng các cluster 7 tế bào trong nhiều hệ thống vô tuyến di
động là không đủ để tránh hiện tượng nhiễu đồng kênh. Có thể tăng K lớn hơn 7
để giảm nhiễu đồng kênh nhưng sẽ làm giảm số lượng các kênh trong một tế bào,
do vậy sẽ làm giảm dung lượng của hệ thống. Tương tự nếu giữ nguyên hệ số tái
sử dụng là 7 và chia tế bào thành những vùng nhỏ hơn. Mỗi tế bào được chia
thành ba hoặc sáu vùng nhỏ sẽ sử dụng ba hoặc sáu anten định hướng tương ứng
tại trạm gốc phục vụ cho cả thu lẫn phát. Mỗi vùng nhỏ này sử dụng một dải tần
riêng, khác với dải tần của các vùng kia. Thí dụ, nếu một tế bào được chia thành
ba vùng nhỏ thì nhiễu thu được trên anten định hướng chỉ sấp xỉ một phần ba của
nhiễu thu được trên anten vô hướng đặt tại trạm gốc. Sử dụng tế bào chia nhỏ
thành ba vùng thì số lượng người dùng trong một tế bào có thể tăng thêm gấp ba
lần trong cùng một cluster.
Một vấn đề quan trọng khác trong việc tăng dung lượng của hệ thống là tính
tích cực của thoại. Trong một cuộc thoại giữa hai người, mỗi người chỉ nói
khoảng 35% đến 40% thời gian và nghe hết thời gian còn lại. Trong hệ thống
CDMA tất cả những người sử dụng cùng chia sẻ một kênh vô tuyến. Khi những
người sử dụng trên kênh đang liên lạc không nói thì những người sử dụng đang
đàm thoại khác sẽ chỉ chịu ảnh hưởng rất nhỏ của nhiễu. Do vậy việc giám sát
tính tích cực của tiếng nói làm giảm nhiễu đa truy nhập đến 65%. Điều này dẫn
đến việc tăng dung lượng của hệ thống lên hệ số 2,5.
Trong đa truy nhập FDMA hoặc TDMA việc người sử dụng được phân chia
tần số hoặc thời gian trong thời gian diễn ra cuộc gọi và hệ thống cấp lại hai tài
nguyên này cho hai người khác trong khoảng thời gian rất ngắn khi kênh ấn
định yên lặng là không thực tế vì điều này yêu cầu phải chuyển mạch rất nhanh
giữa những người sử dụng khác nhau. Trong FDMA và TDMA việc tổ chức tần
số là yêu cầu khó khăn vì nó kiểm soát nhiễu đồng kênh. Trong hệ thống
CDMA chỉ có một kênh chung nên không cần thực hiện tổ chức tần số.
Trong FDMA và TDMA, khi máy di động ra khỏi vùng phủ sóng của tế bào
trong quá trình đàm thoại thì tín hiệu thu được sẽ bị yếu đi và trạm gốc sẽ yêu
cầu chuyển giao (handover). Hệ thống sẽ chuyển mạch sang một kênh mới khi
cuộc gọi tiếp tục. Trong CDMA các tế bào khác nhau, khác nhau ở chỗ sử dụng
các dãy mã khác nhau nhưng giống nhau là đều sử dụng cùng phổ tần. Do đó
không cần phải thực hiện handover từ tần số này qua tần số khác. Chuyển giao
như vậy được gọi là chuyển giao mềm (soft handover).
Trong hệ thống CDMA không có một giới hạn rõ ràng về số lượng người
dùng như trong FDMA và TDMA. Tuy vậy chất lượng hoạt động của hệ thống
đối với tất cả những người sử dụng giảm ít nhiều khi số lượng người sử dụng
cùng liên lạc tăng lên. Khi số người sử dụng tăng lên đến mức độ nào đó thì sẽ
khiến cho nhiễu có thể làm cho tiếng nói trở nên khó hiểu và gây mất ổn định hệ
thống. Tuy nhiên trong CDMA ta quan tâm đến điều kiện “phong toả mềm”, có
thể giải toả được trái với điều kiện “phong toả cứng” như trong TDMA và
FDMA khi mà tất cả các kênh đều bị chiếm.
Hệ thống CDMA cũng có một vài nhược điểm. Hai nhược điểm nổi bật là:
hiệu ứng tự nhiễu và hiệu ứng xa gần. Hiệu ứng tự nhiễu do các dãy mã không
trực giao gây ra. Trong hệ thống vô tuyến di động các máy di động truyền tin
độc lập với nhau, tín hiệu của chúng không đến trạm gốc một cách cùng lúc. Do
trễ thời gian của chúng là phân bố ngẫu nhiên nên sự tương quan chéo giữa các
tín hiệu thu được từ những người sử dụng là khác không. Để nhận được nhiễu
có mức thấp tất cả tín hiệu phải có tương quan chéo nhỏ và mọi trễ thời gian
tương đối. Tương quan chéo giữa các ký tự có được bằng việc thiết kế một tập
các dãy trực giao. Tuy nhiên không có một tập dãy mã nào được biết là hoàn
toàn trực giao khi được dùng trong hệ thống không đồng bộ. Các thành phần
không trực giao của tín hiệu của những người sử dụng khác sẽ xuất hiện như là
nhiễu trong tín hiệu điều chế mong muốn. Nếu sử dụng máy thu có bộ lọc thích
ứng trong hệ thống như vậy thì số lượng của người sử dụng bị hạn chế bởi nhiễu
gây ra bởi những người sử dụng khác. Điều này khác với trong các hệ thống
TDMA và FDMA, trong các hệ thống này tính chất trực giao của tín hiệu thu
được bị duy trì bằng việc chọn lọc và đồng bộ chính xác.
Hạn chế chính của CDMA là hiệu ứng xa gần. Hiện tượng này xuất hiện khi
một tín hiệu yếu từ một máy di động ở xa thu được tại trạm gốc bị chèn ép bởi tín
hiệu mạnh từ nguồn nhiễu đó. Tín hiệu nhiễu với công suất lớn hơn n lần công
suất tín hiệu mong muốn sẽ tác dụng gần như là n tín hiệu nhiễu có công suất
bằng công suất của tín hiệu. Để khắc phục hiệu ứng xa gần trong hầu hết các ứng
dụng CDMA người ta sử dụng các sơ đồ điều khiển công suất. Trong hệ thống tế
bào điều khiển công suất được thực hiện bởi các trạm gốc, các trạm này định kỳ
ra lệnh các máy di động điều chỉnh công suất máy phát sao cho tất cả các tín hiệu
thu được tại trạm gốc với mức công suất là như nhau.
CHƯƠNG III: KIẾN TRÚC BÁO HIỆU CHO HỆ THÔNG DI
ĐỘNG TOÀN CẦU GSM
1.Giới thiệu chung
1.1 Lịch sử phát triển
Những năm đầu 1980, hệ thống viễn thông tế bào trên thế giới đang phát triển
mạnh mẽ đặc biệt là ở Châu Âu mà không được chuẩn hóa về các chỉ tiêu kỹ
thuật. Điều này đã thúc giục Liên minh Châu Âu về Bưu chính viễn thông CEPT
(Conference of European Posts and Telecommunications) thành lập nhóm đặc
trách về di động GSM (Groupe Spécial Mobile) với nhiệm vụ phát triển một chuẩn
thống nhất cho hệ thống thông tin di động để có thể sử dụng trên toàn Châu Âu.
Ngày 27 tháng 3 năm 1991, cuộc gọi đầu tiên sử dụng công nghệ GSM được
thực hiện bởi mạng Radiolinja ở Phần Lan (mạng di động GSM đầu tiên trên thế
giới).
Năm 1989, Viện tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu ETSI (European
Telecommunications Standards Institute) quy định chuẩn GSM là một tiêu chuẩn
chung cho mạng thông tin di động toàn Châu Âu, và năm 1990 chỉ tiêu kỹ thuật
GSM phase I (giai đoạn I) được công bố.
Năm 1992, Telstra Australia là mạng đầu tiên ngoài Châu Âu ký vào biên bản
ghi nhớ GSM MoU (Memorandum of Understanding). Cũng trong năm này, thỏa
thuận chuyển vùng quốc tế đầu tiên được ký kết giữa hai mạng Finland Telecom
của Phần Lan và Vodafone của Anh. Tin nhắn SMS đầu tiên cũng được gửi đi
trong năm 1992.
Những năm sau đó, hệ thống thông tin di động toàn cầu GSM phát triển một
cách mạnh mẽ, cùng với sự gia tăng nhanh chóng của các nhà điều hành, các mạng
di động mới, thì số lượng các thuê bao cũng gia tăng một cách chóng mặt.
Năm 1996, số thành viên GSM MoU đã lên tới 200 nhà điều hành từ gần 100
quốc gia. 167 mạng hoạt động trên 94 quốc gia với số thuê bao đạt 50 triệu.
Năm 2000, GPRS được ứng dụng. Năm 2001, mạng 3GSM (UMTS) được đi
vào hoạt động, số thuê bao GSM đã vượt quá 500 triệu. Năm 2003, mạng EDGE
đi vào hoạt động.
Cho đến năm 2008 số thuê bao di động GSM đã lên tới con số 2 tỉ với trên
700 nhà điều hành, chiếm gần 80% thị phần thông tin di động trên thế giới. Theo
dự đoán của GSM Association, năm 2010 số thuê bao GSM sẽ đạt 2,5 tỉ.
1.2 Khái niệm
Hệ thống thông tin di động toàn cầu GSM (Global System for Mobile
Communications) là một công nghệ dùng cho mạng thông tin di động. Dịch vụ
GSM được sử dụng bởi hơn 2 tỷ người trên 212 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các
mạng thông tin di động GSM cho phép có thể roaming với nhau do đó những máy
điện thoại di động GSM của các mạng GSM khác nhau ở có thể sử dụng được
nhiều nơi trên thế giới.
GSM là chuẩn phổ biến nhất cho điện thoại di động (ĐTDĐ) trên thế giới.
Khả năng phú sóng rộng khắp nơi của chuẩn GSM làm cho nó trở nên phổ biến
trên thế giới, cho phép người sử dụng có thể sử dụng ĐTDĐ của họ ở nhiều vùng
trên thế giới. GSM khác với các chuẩn tiền thân của nó về cả tín hiệu và tốc độ,
chất lượng cuộc gọi. Nó được xem như là một hệ thống ĐTDĐ thế hệ thứ hai
(second generation, 2G). GSM là một chuẩn mở, hiện tại nó được phát triển bởi
3rd Generation Partnership Project (3GPP).
Đứng về phía quan điểm khách hàng, lợi thế chính của GSM là chất lượng
cuộc gọi tốt hơn, giá thành thấp và dịch vụ tin nhắn. Thuận lợi đối với nhà điều
hành mạng là khả năng triển khai thiết bị từ nhiều người cung ứng. GSM cho phép
nhà điều hành mạng có thể kết hợp chuyển vùng với nhau do vậy mà người sử
dụng có thể sử dụng điện thoại của họ ở khắp nơi trên thế giới.
Khối BTS:
Một BTS gồm các thiết bị thu phát, anten và xử lý tín hiệu đặc thù cho
giao diện vô tuyến. Có thể coi BTS là các Modem vô tuyến phức tạp có thêm
một số các chức năng khác. Một bộ phận quan trọng của BTS là TRAU là
khối chuyển đổi mã và thích ứng tốc độ. TRAU là thiết bị mà ở đó quá trình
mã hoá và giải mã tiếng đặc thù riêng cho GSM được tiến hành, tại đây cũng
thực hiện thích ứng tốc độ trong trường hợp truyền số liệu. TRAU là một bộ
phận của BTS, nhưng cũng có thể đặt cách xa BTS và thậm chí còn đặt trong
BSC và MSC.
Khối TRAU:
Khối thích ứng và chuyển đổi mã thực hiện chuyển đổi giữa tiếng
64kbit/s luật A và tiếng RPE LTP 13 kbit/s cũng như thích ứng tốc độ giữa
các khung 3.6, 6, 12 kbit/s sử dụng ở giao diện vô tuyến. TRAU được điều
khiển bởi BTS. Nếu nó được đặt bên ngoài BTS thì việc điều khiển được thực
hiện bởi báo hiệu trong băng bằng cách sử dụng một số bit dự trữ ở trong
khung 320 bit của các kênh lưu lượng 16 kbit/s trong đó chỉ có 13 kbit/s được
sử dụng cho việc truyền lưu lượng các bít dự trữ nói trên là các bit điều khiển.
Khối BSC:
BSC có nhiệm vụ quản lý tất cả giao diện vô tuyến thông qua các lệnh
điều khiển từ xa BTS và MS. Các lệnh này chủ yếu là lệnh ấn định, giải phóng
kênh vô tuyến và chuyển giao. Một phía BSC được nôí với BTS còn phía kia
nối với MSC của SS. Trong thực tế BSC là một tổng đài nhỏ có khả năng tính
toán đáng kể. Vai trò chính của nó là quản lý các kênh ở giao diện vô tuyến
và chuyển giao. Giao diện giữa BSC và MSC là giao diện A, còn giao diện
giữa BTS và BSC là giao diện Abit.
4.4.Hệ thống khai thác và hỗ trợ (OSS)
Được nối tới tất cả các thiết bị ở hệ thống chuyển mạch và nối đến BSC. OSS
có các chức năng chính sau:
Quản lí mạng tế bào:
Tại PLMN lớn cần xử lý rất nhiều số liệu, các thủ tục chi tiết, các công cụ
quản lý phụ thuộc cơ quan chịu trách nhiệm về mạng.
Số liệu tổng đài và số liệu hệ thống điện thoại di động, cơ sở dữ liệu này
chứa tất cả các nội dung của cơ sở dữ liệu về dữ liệu đang được giữ tại
MSC/BSC. Có thể kiểm tra tại chỗ trước đưa nó vào hoạt động.
Số liệu cell: chứa tất cả các dữ liệu ở các cell PLMN.
Bao gồm các hoạt động đăng ký thuê bao. Nhiệm vụ đầu tiên là nhập và
xoá thuê bao khỏi mạng, đăng ký thuê bao rất phức tạp gồm nhiều dịch vụ và
tính năng bổ xung. Nhà khai thác phải có thể thâm nhập tất cả các thông số
nói trên. Một nhiệm vụ quan trọng khác của khai thác là tính cước các cuộc
gọi.
Quản lí chất lượng:
Có một số chức năng đo đạc ở GSM, nội dung chức năng đo đạc sơ cấp
này được thực hiện ở phần tử mạng chịu trách nhiệm về đối tượng đo, chẳng
hạn các số liệu định hướng theo cuộc gọi được thực hiện ở MSC sau, đó số
lượng đo sơ cấp được gửi tới OSS và được lưu trữ ở đấy.
Các phép đo đó là:
+ Đo lưu lượng các tuyến.
+ Đo lưu lượng các loại lưu lượng.
+ Đo về độ phân tán lưu lượng.
Đối tượng chính để đo ở mạng vô tuyến là cell.
5.cấu trúc địa lý mạng
Mọi mạng điện thoại cần một cấu trúc nhất định để định tuyến các cuộc gọi
vào tổng đài cần thiết và cuối cùng đến thuê bao bị gọi, ở một mạng di động cấu
trúc này rất quạn trọng do tính lưu thông của các thuê bao trong mạng.
Vùng mạng:
Tổng đài vô tuyến cổng GMSC kết nối các đường truyền giữa mạng
GSM/PLMN và mạng PSTN/ISDN khác hay các mạng PLMN khác sẽ ở mức
tổng đài trung kế quốc gia hay quốc tế. Tất cả các cuộc gọi vào cho mạng
GSM sẽ được định tuyến đến một hay nhiều tổng đài vô tuyến cổng GMSC.
Vùng phục vụ MSC/VLR:
Vùng MSC là một bộ phận của mạng được một MSC quản lý. Để định
tuyến một cuộc gọi đến một thuê bao di động, đường truyền qua mạng sẽ
được nối đến MSC ở vùng phục vụ MSC nơi thuê bao đang ở.
Vùng phục vụ như là một bộ phận của mạng được định nghĩa như một
vùng mà ở đó có thể đạt đến trạm di động nhờ việc MS này được ghi lại ở
một bộ định vị khác (VLR).
Một vùng mạng GSM được chia thành một hay nhiều vùng phục vụ
MSC/VLR.
Vùng định vị (LA – Localtion Area):
Mỗi vùng phục vụ MSC/VLR được chia thành một số vùng định vị. Vùng
định vị là một phần của vùng phục vụ MSC/VLR mà ở đó một trạm di động
có thể chuyển động tự do mà không cần cập nhật thông tin về vị trí cho tổng
đài MSC/VLR điều khiển vùng định vị này. Vùng định vị này là một vùng
mà ở đó thông báo tìm gọi sẽ được phát quảng bá để tìm một thuê bao di động
bị gọi. Vùng định vị có thể có một số cell và phụ thuộc vào một hay vài BSC
nhưng nó chỉ phụ thuộc vào một MSC/VLR.
Hệ thống có thể nhận dạng vùng định vị bằng cách sử dụng nhận dạng
vùng định vị LAI.
Vùng định vị được hệ thống sử dụng để tìm một thuê bao đang ở trạng
thái hoạt động.
Ô (cell):
Vùng định vị được chia thành một số ô, là một vùng bao phủ vô tuyến
được nhận dạng bằng nhận đạng ô toàn cầu (CGI).
Trạm di động tự nhận dạng một ô bằng cách sử dụng mã nhận dạng trạm
gốc (BSIC).
6.Mô hình tham chiếu OSI
GSM là một hệ thống rất phức tạp, cần phải được quy hoạch và tổ chức cả ở
việc qui định và việc thực hiện thực tế của nó. Một mô hình để xây dựng các
mạng thông tin số liệu thông thường đã được tổ chức các tiêu chuẩn quốc tế (ISO)
cung cấp ở dạng mô hình liên kết các hệ thống mở (OSI). Các chi tiết kỹ thuật
của GSM hay các khuyến nghị đã được định nghĩa đầy đủ ở ba lớp dưới của mô
hình OSI này.
STT Tên lớp Mô hình tương ứng ở GSM Nhiệm vụ
7 Ứng dụng Người sử dụng
6 Trình bày
5 Phiên Mạng
4 Giao vận
3 Mạng Quản lý cuộc gọi
Quản lý di động
Quản lý RR(*)
2 Liên kết Tập trung
Phân đoạn Mạng GSM
Thừa nhận
1 Vật lý Phát hiện lỗi
Mã hóa kênh
Điều chế
Lớp 1, quy định các đặc tính vật lý của truyền dẫn hay môi trường đường
truyền vô tuyến. Trong phạm vi của đường truyền vô tuyến GSM, các qui định
này bao gồm không chỉ các kiểu điều chế tần số mà còn bao hàm cả cấu trúc các
cụm và các khung hoàn toàn trong một mạch truyền dẫn ghép kênh phân chia
theo thời gian. Do việc lớp này chịu trách nhiệm về việc hiệu chỉnh lỗi của các
bít đơn trong truyền dẫn nên yếu tố mã hoá bảo vệ chống lỗi cũng thuộc lớp này.
Lớp 2, lớp liên kết dữ liệu, bao gồm các thực thể linh hoạt chịu trách nhiệm
bảo vệ thông tin của các tin báo có nghĩa hoặc các khung giữa các trạm vô tuyến.
Phân đoạn truyền dẫn sẽ cấu trúc các bản tin của lớp cao hơn phù hợp với các qui
định vật lý của môi trường lớp 1 và đòi hỏi mọi tình huống một sự thừa nhận từ
đầu thu. Các bản tin tại đầu thu sẽ được cấu trúc lại từ các khung thu được và các
thừa nhận sẽ được định dạng để phát lại.
Lớp 3, lớp mạng, chịu trách nhiệm về quản lý tất cả các cuộc gọi và được
tới hoạt động của mạng vô tuyến. Các nhiệm vụ này được chia nhỏ hơn thành các
lớp con để quản lý việc điều khiển cuộc gọi đã thiết kế, quản lý di động và tài
nguyên vô tuyến.
Các lớp cao hơn được áp dụng tới tất cả các hệ thống thông tin, không đề
cập ở hình vẽ trên. Sau đây sẽ mô tả quy luật OSI biến đổi theo hoạt động của
MS ở các lớp thông tin.
Hình 3.4: Quy luật OSI biến đổi theo hoạt động của MS
Mạng thông minh IN là mạng viễn thông độc lập dịch vụ. Mạng IN cho phép
các hệ thống chuyển mạch và các hệ thống điều khiển dịch vụ xuất xứ từ các nhà
cung cấp khác nhau làm việc với nhau một cách độc lập và trơn tru. Điều này
cung cấp cho các nhà điều hành mạng các phương tiện để phát triển và điều khiển
dịch vụ hiệu quả hơn. Các dịch vụ mới có thể đƣợc giới thiệu một cách nhanh
chóng trong mạng và dễ dàng đƣợc thiết lập phù hợp với nhu cầu của khách hàng
mà không phải thay đổi cấu trúc của các nút chuyển mạch trong mạng.
Trong những năm gần đây, Nghành Viễn thông ở nước ta đã phát triển với
tốc độ rất nhanh. Các loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng. Sự đúng đắn trong
việc lựa chọn công nghệ tiên tiến, hợp xu thế đã đưa Việt Nam trở thành một
trong những nước có dịch vụ viễn thông phát triển và tiên tiến nhất trên thế giới.
Dịch vụ điện thoại cố định là dịch vụ có mặt lâu đời nhất ở nước ta. Cho đến
nay tuy dịch vụ này phát triển khá nhanh, đáp ứng được các nhu cầu thông tin cơ
bản, nhưng sự đa dạng của dịch vụ này vẫn còn khiêm tốn. Các nhà khai thác dịch
vụ cố định mới cũng ra đời vùng với các dịch vụ mới trên công nghệ VoiIP với
giá cước thấp hơn.
Năm 1993, Dịch vụ di động của Mobifone ra đời dựa trên công nghệ GSM,
Đây là mạng di động đầu tiên ở nước ta, đánh dấu một bước phát triển đầu tiên
của viễn thông Việt Nam trong lĩnh vực di động. Hai năm sau, mạng di động thứ
2 ở Việt Nam- VinaPhone(GSM) bắt đầu đưa vào khai thác, môi trường cạnh
tranh trong lĩnh vực thông tin di động bắt đầu hình thành. Trong thời kỳ này dịch
vụ di động đơn giản chỉ dồm dịch vụ trả sau với giá cước cao, thủ tục đăng ký
hòa mạng khá phức tạp, dành cho những người có thu nhập khá. Các chức năng
cơ bản như thoại, nhắn tin và một số dịch vụ giá trị gia tăng khác được ứng dụng
chủ yếu trong thời điểm này.
Năm 1998, dịch vụ trả trước được đưa vào khai thác tại Mobifone và
VinaPhone. Đay là dịch vụ thông minh đầu tiên trong lĩnh vực di động được sử
dụng tại Việt Nam mang lại lợi ích và hiệu quả cao. Chính vì sự đơn giản trong
thủ tục, giá cước ngày càng hấp dẫn, các dịch vụ phong phú của dịch vụ trả trước
đã làm cho thông tin di động ngày càng gần gũi với mọi thành phần trong xã hội.
Tốc độ phát triển thuê bao của dịch vụ trả trước ngày càng nhiều theo cấp số nhân.
Tổng số thuê bao di động của nước ta vào thời điểm 2016 là 148 triệu thuê bao
trong đó có khoảng 20 triệu thuê bao 3G. Mật độ điện thoại di động Việt Nam
đang ở mức 1,5 thuê bao/người dân. Đây là tỷ lệ điện thoại di động khá cao so
với nhiều quốc gia có mức kinh tế như Việt Nam.
Nhìn chung trong lĩnh vực dịch vụ thông minh chủ yếu là dịch vụ trả trước.
Ở các nước khác trên thế giới có rất nhiều loại dịch vụ thông minh được sử dụng.
Trong lĩnh vực cố định truyền thông. Dịch vụ IN mới chỉ bắt đầu được chú trọng
phát triển.
3.Mô hình mạng
Mô hình mang tính khái niệm về mạng thông minh bao gồm 4 mặt phẳng.
Mỗi mặt phẳng tượng trưng cho một quan điểm trừu tƣợng khác nhau về các khả
năng được mạng cấu trúc theo kiểu IN. Các quan điểm này lần lượt nhằm vào các
khía cạnh dịch vụ, tính năng tổng thể, tính năng phân phối và các khía cạnh vật
lý của mạng IN.
Mặt phẳng dịch vụ: Mặt phẳng dịch vụ minh hoạ cho các dịch vụ cung cấp
bởi mạng IN (Chẳng hạn dịch vụ Prepaid, Freephone ,Tevoting…). Một dịch vụ
bao gồm nhiều đặc tính dịch vụ SF (Service Feature) và có thể được tăng cường
vào các đặc tính dịch vụ khác. SF có 2 loại: lõi dịch vụ và tùy chọn dịch vụ. Một
đặc tính dịch vụ SF là phần tử nhỏ nhất của một dịch vụ mà người sử dụng dịch
vụ có thể nhận thức được. Những SF đóng vai trò trong việc đặc tả và thiết kế các
dịch vụ mới phức tạp hơn, muốn tạo ra một dịch vụ chỉ cần tạo ra SF phần lõi và
khi muốn nâng cấp dịch vụ thì chỉ cần kết hợp thêm các SF tùy chọn. Nhờ vậy
mà các dịch vụ trong mạng IN sẽ được cung cấp một cách nhanh chóng và đa
dạng hơn.
Mặt phẳng chức năng tổng thể GFP (Global Function Plane): GFP tạo ra mô
hình chức năng mạng từ quan điểm tổng thể. Vì vậy mạng có cấu trúc IN đƣợc
nhìn nhận như là một thực thể đơn trong GFP. Trong mặt phẳng này, dịch vụ và
các SF được định nghĩa lại về mặt chức năng mạng rộng, những chức năng này
không phải là dịch vụ hay đặc tính dịch vụ riêng biệt nữa mà được tham chiếu
như là các khối xây dựng dịch vụ độc lập. Khối xây dựng dịch vụ độc lập xử lý
cuộc gọi cơ sở và chương trình Logic - dịch vụ tổng thể GSL (Global Service
Logic). GSL mô tả các khối xây dựng dịch vụ độc lập kết hợp với nhau như thế
nào được sử dụng để mô tả đặc tính dịch vụ SF.
Mặt phẳng chức năng phân phối DFP (Distributed Functional Plane): DFP
gồm các thực thể chức năng FE (Functional Entity). Một chương trình logic dịch
vụ (SLP) trong GFP được đại diện bởi một nhóm các SIB phân phối tại các FE.
Đặc biệt, mỗi SIB được thực hiện trong DFP bởi một chuỗi các hoạt động của
thực thể chức năng cụ thể FEA (Functional Entity Action) được thực hiện trong
các FE. Một số trong các FEA này tạo ra luồng thông tin giữa các FE; có nghĩa
trao đổi bản tin giữa các FE sẽ thông qua FEA.
Mặt phẳng vật lý: Mặt phẳng vật lý của mô hình mạng thông minh bao gồm
các thực thể vật lý PE khác nhau và sự tương tác giữa chúng. Mỗi PE gồm một
hoặc nhiều FE xác định chức năng trong mạng IN. Có thể đặt một hoặc nhiều
thực thể chức năng FE trong một PE. Ngoài ra một FE không thể được tách ra
giữa hai PE, một FE được ánh xạ hoàn toàn trong một PE. Cuối cùng, trường hợp
bản sao của một FE có thể được ánh xạ đến các PE khác mặc dù không cùng PE.
Ở đây, CCF thực hiện chức năng điều khiển chuyển mạch cơ bản của các tổng
đài hiện có để kết nối các đường truyền thông và hệ thống quản lý cuộc gọi cơ
bản (BCSM). Khi có 1 cuộc gọi được yêu cầu thiết lập thì BCSM sẽ dò tìm cuộc
gọi cơ bản và các yếu tố điều khiển kết nối mà có thể dẫn tới yêu cầu tính logic
dịch vụ IN hoặc được thông báo các trường hợp logic dịch vụ IN ở trạng thái tính
cực. Như vậy BCSM xác định một chuỗi các hoạt động kết nối và phục vụ cho
cuộc gọi cơ sở trong chức năng CCF và chỉ ra các hoạt động này tương tác với
nhau như thế nào để xử lý một cuộc gọi và thực hiện một kết nối cơ bản. BCSM
cung cấp một cơ cấu: để mô tả các sự kiện của cuộc gọi/kết nối có thể dẫn tới sự
yêu cầu và logic dịch vụ IN, để mô tả các dịch vụ(IN) được gọi trong tiến trình
xử lý cuộc gọi/kết nối mà tại đó những sự kiện trên được phát hiện, để mô tả
những điểm trong xử lý cuộc gọi/kết nối khi có thể xảy ra dự chuyển giao điều
khiển cho SCF.
Các thành phần của 1 BCSM được mô tả như sau:
Thiết lập đại lý cung cấp độc lập: Một tiêu chuẩn chủ yếu cho những nhà cung
cấp dịch vụ đó là những phần mềm phải được phát triển nhanh chóng và rẻ. Để
hoàn thành được điều này, những người cung cấp hệ thống phải kết hợp được
những phần mềm thương mại sẵn có để tạo ra những ứng dụng do các nhà cung
cấp dịch vụ yêu cầu.
Tạo ra những giao diện mở: những giao diện mở cho phép những nhà cung cấp
dịch vụ đưa ra các nhân tố mạng nhanh chóng để cá nhân báo những dịch vụ
của khách hàng. Phần mềm phải chỉ ra những giao diện chung giữa các sản
phẩn của những đại lý cung cấp khác nhau, trong khi đó vẫn duy trì được những
tiêu chuẩn vận hành mạng một cách nghiêm ngặt. Những nhà cung cấp dịch vụ
không thể dựa vào một hoặc hai đại lý cung cấp để cung cấp thiết bị và phần
mềm để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng.
CHƯƠNG V: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG VIỄN THÔNG DI
ĐỘNG TOÀN CẦU UMTS
1.Giới thiệu chung
Hệ thống viễn thông di động toàn cầu UMTS (Universal Mobile
Telecommunications System) là một trong các công nghẹ di động 3G. UMTS
dựa trên nền tảng CDMA băng rộng (WCDMA), được chuẩn hóa bởi Tổ chức
các tác phát triển 3G (3GPP), vả là lời đáp của Châu Âu cho yêu cầu phát triển
3G đối với hệ thống di động tổ ong của tổ chức ITU IMT2000. UMTS đôi khi
còn được gọi là 3GSM, để chỉ sự kết hợp về bản chất công nghệ 3G của UMTS
và chuẩn GSM truyền thống.
Tại thời điểm đó, nhu cầu thương mại mạng tăng lên nhanh chóng nên các
nhà điều hành mạng và cung cấp thiết bị cần phải hiểu được việc xử lý và phân
tích các thủ tục báo hiệu trong UMTS để có thể điều hành mạng, phát hiện lỗi và
xử lý. UMTS được triển khai trên mạng GSM sẵn có. UMTS hỗ trợ tốc độ truyền
dữ liệu lên đến 21Mbps. Thực tế, hiện nay, tại đường xuống, tốc độ này chỉ có
thể đạt 384 kbps (với máy di động hỗ trợ chuẩn R99), hay 7.2Mbps. Tốc độ này
lớn hơn khá nhiều so với tốc độ 9.6kbps của 1 đơn kênh GSM hay 9.6kbps của
đa kênh trong HSCSD (14.4 kbit/s của CDMAOne) và một số công nghệ mạng
khác. Mạng UMTS đầu tiên triển khai năm 2002 nhấn mạnh tới các ứng dụng di
động như TV di động hay thoại Video. Hiện tại, tốc độ truyền dữ liệu cao của
UMTS thường dành để truy cập Internet.
2.Kiến trúc hệ thống UMTS
UMTS là sự phát triển lên 3G của họ công nghệ GSM (GSM, GPRS &
EDGE), là công nghệ duy nhất được các nước châu Âu công nhận cho mạng 3G.
GSM và UMTS cũng là dòng công nghệ chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường
thông tin di động.
Các mạng ngoài không phải là bộ phận của hệ thống UMTS, nhưng chúng
cần thiết để đảm bảo truyền thông giữa các nhà khai thác. Các mạng ngoài có thể
là các mạng điện thoại như: PLMN (Public Land Mobile Network: mạng di động
mặt đất công cộng), PSTN (Public Switched Telephone Network: Mạng điện
thoại chuyển mạch công cộng), ISDN hay các mạng số liệu như Internet, có thể
là chuyển mạch kênh hoặc gói. Gồm 2 mạng ngoài:
Mạng CS: Mạng kết nối cho các dịch vụ chuyển mạch kênh.
Mạng PS: Mạng kết nối cho các dịch vụ chuyển mạch gói.
3.Kiến trúc giao thức của UTRAN
Các giao diện UTRAN gồm tập các lớp theo chiều nằm ngang và chiều thẳng
đứng. Có 5 khối giao thức cơ bản được thể hiện:
Các kênh mang báo hiệu: truyền tải báo hiệu lớp cao và các thông tin điều
khiển . Chúng được thiết lập bởi các hoạt động O&M.
Các kênh mang dữ liệu: là các giao thức khung được sử dụng để truyền tải
dữ liệu người dùng. Mặt bằng điều khiển của mạng truyền tải thiết lập chúng.
Các giao thức ứng dụng: được dùng để thực hiện điều khiển và báo hiệu
trong UTRAN như thiết lập kênh mang trong lớp mạng vô tuyến.
Chuỗi dữ liệu: là dữ liệu người dùng được truyền tải một cách trong suốt
giữa các phần tử mạng. Dữ liệu người dùng gồm dữ liệu của cá nhân thuê
bao, thông tin quản lý tính năng di động được trao đổi ngang cấp giữa MSC
và UE.
Phần ứng dụng điều khiển đường truy nhập (ALCAP – Access Link
Control Application Part). Thuộc mặt bằng điều khiển mạng truyền tải. Nó
thực hiện việc thiết lập, duy trì, giải phóng kênh mang dữ liệu. Mặt bằng TN-
CP có ở các giao diện Iu-CS, Iur và Iub. Trong các giao diện không có báo
hiệu ALCAP thì kênh mang dữ liệu được cấu hình từ trước.
Kiến trúc mạng UMTS được chia thành 3 lớp:
Lớp truyền tải ( Transport Network Layer): Gồm các chức năng các giao
thức năng , các giao thức lớp vật lý và lớp truyền tải sử dụng để cung cấp tái
nguyên cho AAL2 cho phép truyền thông giữa UTRAN và CN.
Lớp mạng vô tuyến ( Radio Network Layer): Gồm các chức năng và các
giao thức cho phép quản lý giao diện vô tuyến và truyền thông giữa hai thành
phần UTRAN hay UTRAN và UE.
Lớp mạng hệ thống (System Network Layer): Các giao thức NAS cho phép
truyền thông giữa CN và UE.
Mỗi lớp lại được chia thành các mặt bằng điều khiển và mặt bằng người dùng:
Mặt bằng điều khiển (Control plane): Truyền tải thông tin báo hiệu điều
khiển. Mặt điều khiển được sử dụng cho tất cả các báo hiệu điều khiển đặc
thù của UMTS, bao gồm: giao thức ứng dụng và lớp mạng báo hiệu để truyền
tải các bản tin giao thức ứng dụng. Giao thức ứng dụng được dùng để thiết
lập các kênh mang tới UE (ví dụ: kênh mang truy nhập vô tuyến trên IU và
sau đó là kết nối vô tuyến trên Iur và Iub).
Mặt bằng người dùng (User plane): Truyền tải lưu lượng dữ liệu người
dùng. Tất cả thông tin nhận được và gửi đi bởi người sử dụng nhưu thoại được
mã hóa trong một cuộc gọi thoại hoặc các gói dữ liệu trong 1 kết nối Intrernet
được truyền tải thông qua mặt dịch vụ. Mặt dịch vụ bao gồm các luồng dữ
liệu và các kênh mang dữ liệu cho các luông dữ liệu. Mỗi luồng dữ liệu được
mô tả bởi 1 hoặc nhiều giao thức khung đặc thù cho giao diện đó.
AAL2 và AAL5: Trên lớp ATM, chúng ta thường thấy một lớp thich ứng
ATM gọi là AAL.Chức năng của nó là để xử lý dữ liệu từ các lớp cao hơn
của truyền tải ATM. Tại đầu phát, dữ liệu được AAL chia thành các gói 48-
byte và tại đầu thu, dữ liệu sẽ được ráp lại để tai tạo khung dữ liệu ban đầu.
Có 5 loại AAL khác nhau (0, 1, 2, 3/4, và 5). AAL0 nghĩa là không cần thích
ứng. Cac lớp thich ứng khác có các đặc tính khác nhau dựa vào ba loại tham
số: yêu cầu về thời gian thực, tốc độ bit khong đổi hoặc thay đổi và truyền tải
dữ liệu hướng kết nối hoặc không hướng kết nối.
Từ hình 5.7a ta có thể thấy, các giao diện của mạng truy nhập UMTS-UTRAN,
gồm:
Giao diện Uu: Là giao diện mà qua đó UE truy cập các phần tử cố định của
hệ thống mà vì thế nó là giao diện mở quan trọng nhất của UMTS.
Giao diện Iu: Giao diện này nối UTRAN với CN, nó cung cấp cho các nhà
khai thác khả năng trang bị UTRAN và CN từ các nhà sản xuất khác.
Giao diện Iur: Cho phép chuyển giao mềm từ các RNC của các nhà sản
xuất khác nhau.
Giao diện Iub: Giao diện cho phep kết nối tới một nút B tới một RNC.
Giao diện Iub nằm giữa RNC và một node B. RNC điều khiển node B thông
qua Iub một số tác vụ như: thỏa thuận tài nguyên vô tuyến, bổ sung hoặc loại bỏ
các tế bào khỏi node B, hỗ trợ các kiểu truyền thông khác nhau và các liên kết
điều khiển.
Giao diện Iub cho phép truyền dẫn liên tục chia sẻ giữa giao diện Abis/GMS
và giao diện Iub, tối thiểu số lượng tùy chọn có sẵn trong phần chức năng giữa
RNC và node B. Bên cạnh chức năng điều khiển các ô, thêm hoặc loại bỏ các liên
kết vô tuyến trong các ô thuộc quản lý của các node B, Iub hỗ trợ các chức năng
O&M của node B. Iub cho phép chuyển mạch giữa các kiểu kênh khác nhau nhằm
duy trì kết nối. Các chức năng chi tiết của Iub như sau:
Tái định vị bộ điều khiển mạng dịch vụ vô tuyến SRNC (Serving Radio
Network Controller): Chuyển chức năng SRNC cũng như các nguồn tài
nguyên liên quan tới Iu từ một RNC này tới một RNC khác.
Quản lý kênh mang truy nhập vô tuyến RAB (Radio Access Bearer): Bao
gồm thiết lập, quản lý và giải phóng kênh mang truy nhập vô tuyến.
Yêu cầu giải phóng RAB: gửi yêu cầu giải pháp kênh mang truy nhập vô
tuyến tới mạng lõi CN.
Giải phóng các tài nguyên kêt nối Iu: Giải phóng toàn bộ tài nguyên liên
quan tới một kết nối Iu. Gửi yêu cầu giải phóng toàn bộ kết nối Iu tới mạng
lõi CN.
Quản lý các tài nguyên truyền tải Iub: Quản lý liên kết Iub, quản lý cấu
hình ô, đo hiệu năng mạng vô tuyến, quản lý sự kiện tài nguyên, quản lý
kênh truyền tải chung, quản lý tài nguyên vô tuyến, sắp xếp cấu hình mạng
vô tuyến.
Quản lý thông tin hệ thống và lưu lượng các kênh chung: Điều khiển chấp
nhận, quản lý công suất, truyền dữ liệu.
Quản lý lưu lượng của các kênh cố định: Quản lý và giám sát liên kết vô
tuyến, chỉ định và giải tỏa kênh, báo cáo thông tin đo kiểm, quản lý kênh
truyền tải dành riêng, truyền dữ liệu.
Quản lý lưu lượng các kênh chia sẻ: Chỉ định và giải tỏa kênh, quản lý công
suất, quản lý kênh truyền tải, truyền dữ liệu.
Quản lý đồng bộ và định thời: Đồng bộ kênh truyền tải, đồng bộ khung,
đồng bộ giữa node B và RNC, đồng bộ giữa các node B.
1.2.Các bước tiến hành xử lý cuộc gọi
Hình 6.1: Thủ tục trao đổi thông tin báo hiệu qua Iub
Bước 1: Một yêu cầu kết nối điều khiển tài nguyên vô tuyến RRC (Radio
Resource Controller) được gửi từ UE tới RNC.
Bước 2: Nguồn tài nguyên vô tuyến cần cung cấp cho quá trình thiết lập
một kênh truyền tải cố định DCH (Dedicated Channel) để mang các kênh
điều khiển logic dành riêng DCCH (Dedicated Control Channel), các
DCCH được sử dụng để truyền các bản tin của RRC và NAS (NonAccess
Stratum).
Bước 3: Khi DCH và DCCH không khả dụng, các bản tin báo hiệu để
thiết lập kết nối cho RRC được truyền nhờ RACH (Random Access
Channel) hướng đi và FACH (Forward Access Channel) hướng về
Bước 4: Thủ tục mã hóa/nhận thực được yêu cầu từ mạng được sử dụng
để kiểm tra lần hai nhận dạng UE và chuyển mã giữa RNC và UE nếu
cần.
Bước 5: Thiết lập cuộc gọi thoại bắt đầu bởi bản tin SETUP trong lớp
MM/SM/CC. Bản tin Setup gồm con số thiết bị bị gọi và chuyển tới RNC
tới miền mạng chuyển mạch kênh.
Bước 6: Vùng mạng chuyển mạch kênh định nghĩa QoS cho cuộc gọi
thoại.Các giá trị QoS là các tham số trong kênh mang truy nhập vô tuyến
RAB.RAB gán thủ tục tương thích với thiết lập kênh mang trong mạng
SS7. RAB cung cấp một kênh cho thoại gói giữa thiết bị đầu cuối và thiết
bị chuyển mạch trong vùng mạng chuyển mạch kênh.
Bước 7: Tái cấu hình liên kết vô tuyến cung cấp nguồn tài nguyên để thiết
lập kênh mang vô tuyến trong bước tiếp theo.
Bước 8: Bên cạnh việc thỏa thuận tham số trong thủ tục gán RAB, một
kênh vô tuyến mới được thiết lập để mang các kênh lưu lượng dành riêng
DTCH. Nếu sử dụng mã AMR để mã hóa thoại, ba kênh DTCH được
thiết lập gồm: lớp A, lớp B, lớp C.
Bước 9: Giải phóng cuộc gọi thoại được thực hiện ngay sau khi RRC
được giải phóng nếu không còn dịch vụ nào được kích hoạt. Cả hai kênh
điều khiển và lưu lượng dành riêng được giải phóng. Cuối cùng, RNC
giải phóng tài nguyên vô tuyến bị khóa cho cả hai kênh để dành cho các
cuộc gọi khác.
2.Báo hiệu tại giao diện Iur và Iu
2.1Báo hiệu tại giao diện Iur
2.1.1.Mặt bằng điều khiển/người dùng Iur
Hình 2.2 Ngăn xếp giao thức cho giao diện Iur( RNC với RNC)
Giao thức Iur giữa các RNC cho thấy 2 giải pháp trên mạng truyền tải: SCCP
và các bản tin RNSAP chạy trên nền của SSCOP hoặc SCCP trên nền của M3UA
nếu lớp truyền tải là lớp IP
Hình 2.3 Mặt bằng điều khiển/người dùng Iur
Các giao thức sử dụng trong Iur-User/Control Plane đảm nhiệm các chức năng
sau:
IP (Internet Protocol): Giao thức internet cũng cấp các dịch vụ phi kết nối
giữa các mạng gồm các tính năng đánh địa chỉ, xác lập kiểu dịch vụ, phân
mảnh ghép gói tin và hỗ trợ bảo mật.
SCTP (Stream Control Transmission Protocol): Giao thức truyền dẫn điều
khiển luồng cung cấp chức năng xác nhận lỗi cho luồng dữ liệu. Các vấn
đề ngắt dữ liệu, tổn hao dữ liệu hay trùng lặp được xác nhận bởi số thứ tự
và trường kiểm tra tổng. SCTP cho phép truyền lại nếu pháy hiện ra lỗi
gây ngắt nguồn dữ liệu.
MTP3-B (Message Transfer Part Level 3- Broadband): Phần chuyển bản
tin mức 3 dàng cho mạng băng rộng, cung cấp nhận dạng và truyền các
bản tin mức cao, đồng thời cung cấp chức năng định tuyến và chia tải.
M3UA (MTP3 User Adaptation layer): Lớp tương thích người dùng MTP
mức 3 tuong đương các chức năng của MTP3. M3UA được mở rộng để
truy cập tới các dịch vụ MTP3 cho các ứng dụng điều khiển từ xa dựa trên
IP
SCCP (Signaling Connection Control Part): Phần điều khiển kết nối báo
hiệu cung cấp dịch vụ truyền bản tin giữa hai điểm báo hiệu bất kỳ trong
cùng một mạng
Giao diện Iu kết nối UTRAN với CN. Iu là một giao diện mở để chia sẻ hệ
thống thành UTRAN đăc thù và CN, CN xử lý chuyển mạch, định tuyến và điều
khiển dịch vụ. Giao diện Iu có thể có hai trường hợp khác nhau:
Iu-cs (Iu chuyển mạch kênh) để kết nối UTRAN với CN chuyển mạch
kênh.
Iu-ps ( Iu chuyển mạch gói ) để kết nối UTRAN với CN chuyển mạch
gói.
Vùng chuyển mạch kênh liên quan tới một tập các thực thể xử lý lưu lượng
người dùng cũng như các báo hiệu liên quan. Tại đây gồm các thành phần MSC,
GMSC, VRL và chức năng liên kết liên mạng IWF tơi mạng PSTN.
2.2.2.Mặt bằng điều khiển/người dùng Iu-PS
Vùng chuyển mạch gói gồm các thực thể liên quan tói truyền dẫn gói SGSN,
GGSN và cổng biên BG. Lưu lượng IP được truyền tải trên AAL5 của ATM. Vì
vậy không tồn tại các lớp ALCAP trong mặt bằng điều khiển để thiết lập và xóa
bỏ các kết nối ảo chuyển mạch của lớp AAL2.
2.2.3.Giao thức báo hiệu ở Iu (RANAP)
Giao thức RANAP là giao thức báo hiệu ở Iu chứa tất cả thông tin được định
nghĩa cho lớp mạng vô tuyến. Chức năng của RANAP được thực hiện bởi các thủ
tục cơ bản RANAP (RANAP EP: RANAP Elementary Procedures ). Các chức
năng của RANAP:
Ấn định lại: chức năng này xử lý cả việc ấn định lại SRNS và chuyển giao
bao gồm cả trường hợp giữa các hệ thống tới từ GMS.
Ấn định lại SRNS: chức năng này của RNS dịch vụ được ấn định lại từ một
RNS sang một RNS khác mà không thay đổi tài nguyên vô tuyến và gián
đoạn luồng số liệu của người sử dụng.
Quản lý vật mang truy nhập vô tuyến (RAB- radio access bearer ). Chức
năng này kết hợp tất cả các xử lý RAB:
Thiết lập RAB, gồm cả khả năng xếp hàng đợi thiết lập.
Thay đổi đặc tính của RAB hiện có.
Xóa RAB hiện có,kể cả trường hợp khởi xướng bởi RAN (radio access
network-mạng truy nhập vô tuyến ).
Giải phóng Iu.
Báo cáo phát không thành công số liệu: cho phép CN cập nhật các bản ghi
tính cước của mình bằng cách thông tin từ UTRAN nến phần số liệu phát
đi không tới được UE.
Quản lý ID chung: nhận dạng cố định của UE được phát từ CN đến UTRAN
để cho phép kết hợp tìm gọi từ hai vùng CN khác nhau.
Tìm gọi: chức năng này được CN sử dụng để tìm gọi một UE rồi cho yêu
cầu dịch vụ kết nối cuộc gọi UE. Bản tin tìm gọi được phát từ UE đến
UTRAN với nhận dạng chung UE (ID cố định ) và vùng tìm gọi.
Truyền báo hiệu UE-CN: chức năng này đảm bảo truyền trong suốt các bản
tin báo hiệu UE-CN không cần diễn giải ở UTRAN trong ba trường hợp:
Truyền bản tin UE đầu tiên từ UTRAN tới UE: có thể hoặc là một trả
lời tìm gọi,một yêu cầu cuộc gọi khởi xướng UE,hay chỉ là đăng ký
đến một vùng mới. Nó khởi đầu kết nối báo hiệu cho Iu.
Truyền trực tiếp sử dụng để mang tất cả bản tin báo hiệu liên tiếp trên
kết nối báo hiệu Iu ở cả hai đường lên xuống.
Phát quảng bá thông tin CN: cho phép CN thiết lập thông tin hệ thống
cần phát quảng bá đến tất cả người sử dụng trong một vùng đặc thù.
Quản lý quá tải: quá trình này được sử dụng để điều khiển tải ở giao diện
Iu phòng ngừa quá tải,chẳng hạn do quá tải ở bộ xử lý CN hoặc UTRAN.
Một cơ chế đơn giản được sử dụng để từng bước giảm tải hoặc khôi phục
lại bằng các khởi động bộ định thời.
Khởi động lại: thao tác này được sử dụng để khởi động lại CN hay phía
UTRAN của giao diện Iu trong tình trạng xuất hiện lỗi. Một đầu của Iu có
thể chỉ cho đầu kia là nó đang phục hồi lại bằng một khởi động lại và đầu
kia có thể loại bỏ tất cả các kết nối trước đó.
Báo cáo vị trí: chức năng này cho phép CN nhận được thông tin về vị trí
của một UE cho trước. Nó bao gồm hai thủ tục cơ bản : một để điểu khiển
bán cáo vị trí ở RNC và một để phát báo cáo này đến CN.
Bước 1: Thiết lập kết nối RRC giữa thiết bị người dùng và RNC.
Kết nối RRC giữa UE và RNC sẽ được thiết lập thông qua quá trình UE gửi
yêu cầu kết nối RRC qua CCCH (Common Control Channel-Kênh điều khiển
chung) mà cụ thể là RACH-Radom Acess Channel (Kênh truy cập ngẫu nhiên)
trong hướng lên. Bản tin này có chứa một số thông tin chính bao gồm: IMSI hoặc
TMSI,LAI,RAI and lý do yêu cầu kết nối RRC
RNC xác thực lý do cho yêu cầu nhằm mục đích chuẩn bị tài nguyên cho kênh
kết nối sẽ là kênh chung hay riêng. Sau đó, RNC tiếp tục quá trình thành lập một
sóng mang Iub bằng cách gửi đi bản tin thiết lập đường kết nối vô tuyến NBAP
đến Node B. Bản tin này chứa những thông tin như ID giao dịch, ID trao đổi,mã
xáo trộn và mã số kênh FDD-DL. Node B sẽ xác thực qua bản tin phản hồi NBAP
radio link setup response. Bản tin phản hồi sẽ chứa thông tin liên quan đến địa
chỉ lớp giao vận như là địa chỉ AAL2. SRNC sẽ thiết lập được sóng mang Iub
thông qua ALCAP trong tầng giao vận mạng và thông tin nó nhận được từ Node
B như là đường AAL và số ID của kênh. Sóng mang Iub này sẽ ràng buộc gắn
với các giao dịch cùng với DCH. SRNC sau đó tiến hành đồng bộ hóa giao thức
kết nối frame (Frame Protocol) bằng cách gửi đi bản tin đồng bộ FP với đường
xuống. RNC sẽ trả lời với UE là đã hoàn thành kết nối RRC bằng cách gửi bản
tin RRC connection setup message. Bản tin này chứa thông tin như định dạng
kiểu vận chuyển, điều khiển công suất và mã xáo trộn. UE cũng gửi bản tin phản
hồi- RRC connection setup complete để xác thực kết nối RRC.
Bước 2: Xác thực và bảo vệ.
Sau khi bước kết nối với RNC hoàn thành,UE gửi đi bản tin RRC initial direct
transfer ( bắt đầu chuyển giao trực tiếp). Bản tin này sẽ được gửi với đích đến là
mạng core. Nhưng khi tới RNC nó sẽ thêm một số thông tin cần thiết để thiết lập
cuộc gọi và đặt lại là bản tin RANAP UE initial. Sau đó nó sẽ được gửi tới 3G
MSC. Những thông tin mà bản tin này mang đi bao gồm số xác thực UE, địa
điểm, và thiết lập cần thiết cho kết nối.
Trong khi nhận các yêu cầu về dịch vụ từ UE, MSC bắt đầu thủ tục bảo vệ.
Nó bao gồm các quá trình xác thực UE và thay đổi các khóa mã hóa. MSC sẽ gửi
các yêu cầu xác thực trong bản tin RANAP direct transfer ( giao dịch trực tiếp
RANAP). RNC sẽ ánh xạ và chuyển bản tin yêu cầu xác thực cho UE bằng bản
tin RRC direct transfer( giao dịch trực tiếp RRC). UE sẽ thực hiện thuật toán xác
thực và gửi kết quả trở lại bằng bản tin trả lời xác thực tới MSC. RNC lúc này sẽ
đóng vai trò như một đơn vị vận chuyển. Giả sử các quá trình xác thực của UE
thành công, MSC sẽ gửi đến RNC chế độ điều khiển bảo vệ tức nghĩa là các giao
dịch giữa UE và UTRAN sẽ cần mã hóa. RNC lúc này sẽ gửi bản tin chế độ điều
khiển bảo vệ tới UE. Bản tin này sẽ truyền lại thuật toán mã hóa, quá trình mã
hóa và khóa toàn vẹn. UE sẽ bắt đầu mã hóa mọi giao dịch tới UTRAN và thông
báo cho RNC bằng bản tin RRC chế độ bảo vệ hoàn thành. RNC sẽ tiếp tục gửi
nó cho MSC để báo quá trình mã hóa đã hoàn tất.
Bước 3: Thiết lập kênh mang truy nhập vô tuyến và thiết lập cuộc gọi
Hình 2.8: Quá trình thiết lập kênh mang truy nhập vô tuyến
Sau khi quá trình mã hóa và bảo vệ hoàn thành, UE gửi bản tin thiết lập
điều khiển cuộc gọi tới MSC. MSC xác nhận rằng UE đã chấp nhận cho yêu cầu
dịch vụ, MSC bắt đầu quá trình thiết lập kênh mang cho lưu lượng của người sử
dụng( lưu lượng thoại trong trường hợp này). Điều này đạt được bằng cách MSC
gửi một yêu cầu RAB assignment (phân công ) tới RNC. Yêu cầu này sẽ bao gồm
số hiệu RAB và thông số về QoS để thiết lập. RNC sau khi nhận được bản tin sẽ
kiểm tra tài nguyên và thiết lập kênh mang tại Iu. Kênh mang thực này sẽ được
thiết lập bằng cách sử dụng ALCAP trong tầng giao vận mạng. RNC tiếp tục thiết
lập kênh mang vô tuyến giữa RNC và UE bằng cách sử dụng bản tin thiết lập
kênh mang vô tuyến. Bản tin này sẽ có những thông tin về chỉ định kênh mang
như định danh kênh mang vô tuyến. UE sẽ phản hồi bằng bản tin hoàn thành thiết
lập kênh mang vô tuyến. RNC gửi bản tin phản hồi RAB assignment (phân công)
về cho MSC. Với việc thủ tục này được hoàn thành sẽ xuất hiện một kênh mang
cho việc truyền tải dữ liệu từ UE tới MSC. Từ lúc này quá trình gọi sẽ như bình
thường. Bản tin điều khiển cuộc gọi sẽ được sử dụng như việc thiết lập cuộc gọi
GSM.
Bước 4: Giải phóng cuộc gọi và RAB.
Ngay khi cuộc gọi được giải phóng bởi bất kì bên nào, dữ liệu cần được giải
phóng. Khi nhận được bản tin mất kết nối từ UE và bản tin giải phóng cuộc gọi
được trao đổi tiếp theo. MSC sẽ phát ra một điều khiển giải phóng Iu tới RNC.
RNC nhận được bản tin và RNC sẽ giải phóng kênh mang vô tuyến qua giao diện
Iub và thông báo với MSC bằng cách gửi bản tin hoàn thành việc giải phóng. Lúc
này RNC phải giải phóng kết nối RRC bằng cách gửi bản tin giải phóng kết nối
RRC tới UE. UE cũng xác nhận lại bằng bản tin giải phóng kết nối hoàn thành.
Việc cuối cho RNC là giải phóng tài nguyên giao diện Iub. Quá trình này được
nói tới trong hingh 2.10, MSC sẽ gửi bản tin xóa đường dẫn vô tuyến NBAP tới
Node B. Node B cũng phản hồi bằng bản tin xóa đường dẫn vô tuyến hoàn thành
để báo rằng tài nguyên giao diện Iub được hoàn toàn giải phóng.
TỔNG KẾT