Professional Documents
Culture Documents
DI ĐỘNG TẾ BÀO
Năm 1946, hệ thống điện thoại di động thương mại đầu tiên đã được
đưa vào hoạt động ở thành phố Saint Louis- Hoa Kỳ, sử dụng băng tần 150
MHz với khoảng cách kênh là 60 KHz và số lượng kênh bị hạn chế chỉ tới 3.
Tuy nhiên dịch vụ này vừa chỉ mới bắt đầu thì những nhược điểm cố hữu
của nó đã bộc lộ. Tất nhiên nhược điểm chính là do những nguyên nhân về
can nhiễu cùng kênh nên đòi hỏi phải phân cách về mặt vật lý quá lớn.
Năm 1947, phòng thí nghiệm điện thoại Bell bắt đầu bắt tay vào khảo
sát một khái niệm tái sử dụng tần số nhờ sử dụng các tế bào nhỏ (cell) với
các máy di động công suất thấp. Các tế bào này có thể liên kết với nhau nhờ
sử dụng một máy tính, cho phép thuê bao có thể di động trong khi số lượng
thuê bao cùng một lúc gia tăng đáng kể mà hệ thống vẫn có thể phục vụ
được. Tuy nhiên, thực tế các nước khác đã đưa mạng tế bào hoạt động như
một dịch vụ thương mại trước cả Hoa Kỳ. Cụ thể, dịch vụ mạng tế bào
thương mại đầu tiên được bắt đầu ở Nhật Bản vào năm 1979. Và rất nhanh
sau đó nó được phát triển ở nhiều khác trên thế giới.
Mặc dù các dịch vụ mạng tế bào phát triển rất mạnh, nhưng không hề
có khả năng tương hợp giữa các dịch vụ trên phạm vi toàn cầu. Hệ thống ở
Hoa Kỳ dựa trên thiết kế ban đầu của AT&T và Motorola, được gọi là
AMPS (Advanced Mobile Phone Service- dịch vụ điện thoại di động
tiên tiến). AMPS được sử dụng ở khoảng 70 nước khác trên thế giới và nó là
tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Ngoài ra phải kể đến một số
các tiêu chuẩn thông dụng khác là: NMT (Nordic Mobile Telephone- điện
thoại di động Bắc Âu), TACS (Total Access Communications Service- dịch
vụ truyền thông hoàn toàn truy nhập) và hệ thống GSM (Global System for
Mobile- hệ thống di động toàn cầu). Hệ thống NMT ban đầu đã được thiết
kế cho các mạng tương đối nhỏ gồm 20.000- 30.000 thuê bao và cung cấp
180 kênh, mỗi kênh sử dụng dải thông 25 hoặc 30 KHz trong dải tần 450
MHz. Một thế hệ sau này của NMT cung cấp dung lượng lớn hơn ở dải tần
900 MHz, nó có khả năng cung cấp 1.000 kênh, mỗi kênh sử dụng dải thông
25 KHz hoặc 2.000 kênh, mỗi kênh có dải thông12,5 KHz. Và hiện tại có
khoảng 30 nước đã sử dụng hệ thống NMT. Hệ thống TACS được sử dụng ở
Châu Âu, Anh Quốc và khoảng vài chục nước khác. Một dạng chuyển hoá
của TACS được sử dụng ở Nhật Bản gọi là JTACS, cung cấp 1.320 kênh,
mỗi kênh chiếm dải thông 25 KHz. Còn sự ra đời của GSM có thể nói là do
các nước khác nhau ở Châu Âu sử dụng các tiêu chuẩn mạng tế bào khác
nhau, cho nên cần có một tiêu chuẩn duy nhất để cung cấp khả năng chuyển
vùng (Các tiêu chuẩn khác nhau không chỉ sử dụng các giao thức khác nhau
mà còn hoạt động ở các tần số khác nhau, vì vậy không thể có tính tương
thích tòn cầu). Do vậy hệ thống GSM đã được phát triển như một dịch vụ số
hoá hoàn toàn có thể dùng được ở Châu Âu và nhiều nước khác. GSM được
thiết kế để làm việc ở băng tần 900 MHz và qui định tám khe thời gian cho
mỗi kênh rộng 200 KHz.
Đường dây
dành riêng
(Đếndo
Với hệ thống này, máy
cáccác thu)phát thường có công suất lớn hơn nhiều
máy
(500 w) so với các máy di động (25 W). Và đương nhiên anten của máy di
động thường ở mức thấp hơn nhiều so với anten phát. Để cự ly thông tin của
hệ thống được như nhau theo cả hai chiều, người ta thường dùng các trạm
đầu xa chứa các máy thu. Các trạm đầu xa này sẽ thu nhận tín hiệu phát của
máy di động và gửi chuyển tiếp tín hiệu đó trở lại bộ điều khiển hệ thống để
xử lý.
Trong khi đó, đối với mạng tế bào người ta lại bố trí các máy thu/phát
trong vô số các tế bào nhỏ trong phạm vi của vùng bao phủ. Các máy
thu/phát được điều khiển bởi một bộ xử lý trung tâm hoặc một tổng đài, sao
cho thuê bao có thể di chuyển giữa các cell mà dịch vụ vẫn được duy trì.
Điều này cho phép tái sử dụng lại tần số và tạo điều kiện để mạng tế bào có
tiềm năng dung lượng lớn hơn nhiều so với các hệ thống thông tin di động
trước đây.
Cell A ...
Để làm tăng dung lượng của dải vô tuyến dùng trong một lĩnh vực nào
đó, chẳng hạn như trong thông tin di động thì người ta phải sử dụng kỹ thuật
ghép kênh. Hiện nay có rất nhiều loại ghép kênh, nhưng ba hình thức thông
dụng nhất là:
FDMA (Frequency Division Multiple Access- Đa truy nhập
phân chia theo tần số).
TDMA (Time Division Multiple Access- Đa truy nhập phân
chia theo thời gian).
CDMA (Code Division Multiple Access- Đa truy nhập phân
chia theo mã).
Liên quan đến việc ghép kênh là dải thông mà mỗi kênh hoặc mỗi
mạch chiếm trong một băng tần nào đó. Trong mỗi hệ thống ghép kênh đều
sử dụng khái niệm đa truy nhập, điều này có nghĩa là các kênh vô tuyến
được nhiều thuê bao dùng chung chứ không phải là mỗi khách hàng được
gán cho một tần số riêng.
2. FDMA
Đối với các hệ thống tế bào hiện đang sử dụng kỹ thuật ghép kênh
FDMA, đều chia toàn bộ băng tần được phân phối cho một nhà khai thác
mạng tế bào (Khoảng 25 MHz) thành các kênh rời rạc. Vì mỗi kênh thường
có độ rộng dải là 30 KHz, cho nên hệ thống có tất cả 832 kênh khả dụng.
Mỗi cuộc đàm thoại cần sử dụng hai tần số, cho nên mỗi nhà khai thác có
416 cặp tần số khả dụng. Mỗi cặp có thể gán cho một thuê bao mạng tế bào
vào bất kỳ lúc nào.
Thiết bị di động sử dụng kỹ thuật FDMA ít phức tạp hơn so với các
thiết bị sử dụng các kỹ thuật ghép kênh khác và nói chung giá thành cũng rẻ
hơn. Tuy nhiên, do mỗi kênh cần dùng một máy phát và một máy thu riêng
biệt. Cho nên FDMA đòi hỏi rất nhiều thiết bị tại vị trí trạm gốc. Kỹ thuật
FDMA có khả năng sử dụng được với cả các hệ thống truyền dẫn số
(Digital) lẫn các hệ thống truyền dẫn tương tự (Analog).
Sau đây là minh hoạ về kỹ thuật FDMA sử dụng cho hệ thống tế bào
analog ở Hoa Kỳ:
Như vậy, mỗi kênh chiếm dải thông và đáp ứng cho một cuộc đàm
thoại. Tần số của mỗi kênh tuy khác nhau nhưng nhiều máy vô tuyến có thể
truy nhập tới được.
3. TDMA
Với TDMA mỗi kênh vô tuyến được chia thành các khe thời gian.
Từng cuộc đàm thoại được biến đổi thành tín hiệu số và sau đó được gán cho
một trong những khe thời gian này. Số lượng khe trong một kênh có thể thay
đổi bởi vì nó là một nhiệm vụ của thiết kế hệ thống. Có ít nhất là hai khe
thời gian cho một kênh, và thường thì nhiều hơn, điều đó có nghĩa là TDMA
có khả năng phục vụ số lượng khách hàng nhiều hơn vài lần so với kỹ thuật
FDMA với cùng một đại lượng dải thông như vậy.
TDMA là một hệ thống phức tạp hơn FDMA, bởi vì tiếng nói phải
được số hoá hoặc mã hoá, sau đó được lưu trữ vào một bộ nhớ đệm để gán
cho một khe thời gian trống và cuối cùng mới phát đi. Do đó việc truyền dẫn
tín hiệu là không liên tục và tốc độ truyền dẫn phải lớn hơn vài lần tốc độ mã
hoá. Ngoài ra, do có nhiều thông tin hơn chứa trong cùng một dải thông nên
thiết bị TDMA phải được sử dụng kỹ thuật phức tạp hơn để cân bằng tín
hiệu thu nhằm duy trì chất lượng của tín hiệu.
Hình vẽ dưới đây minh hoạ kỹ thuật TDMA, các kênh analog 30 kHz
dùng cho mạng tế bào hỗ trợ được ba kênh digital. Các đường truyền âm
thanh analog của mỗi cuộc đàm thoại đi qua bộ biến đổi A/D và sau đó
chiếm một khe thời gian trong kênh analog 30 kHz.
(1) Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến 30 kHz kênh 1
(2)
đổi A/D
.
(3) Bộ biến .
đổi A/D .
(4) Bộ biến
đổi A/D
30 kHz kênh 832
(5) Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến
(6)
đổi A/D
4. CDMA
Trong kỹ thuật CDMA, tín hiệu mang tin ( ví dụ như tiếng nói) được
biến đổi thành tín hiệu digital, sau đó được trộn với một mã giống như mã
ngẫu nhiên. Tín hiệu tổng cộng, tức tiếng nói cộng với mã giả ngẫu nhiên,
khi đó được phát trong một dải tần rộng nhờ một kỹ thuật gọi là trải phổ.
(1)
(20)
(20)
(1)
Không giống FDMA hay TDMA, truyền dẫn trải phổ mà CDMA sử
dụng đòi hỏi các kênh có dải thông tương đối rộng (Thường là 1,25 MHz).
Tuy nhiên theo tính toán lý thuyết thì CDMA có thể chứa được số thuê bao
lớn gấp khoảng 20 lần mà FDMA có thể có trong một dải thông tổng cộng
như nhau .
đổi A/D
đổi A/D
đổi A/D
đổi A/D
Bộ biến
Bộ biến
Bộ biến
Bộ biến
Tạo
Tạo
Tạo
Tạo
mã
mã
mã
mã
kênh 20
1,25 MHz
kênh 1
1,25 MHz
.
.
.
Hình vẽ trên là một minh hoạ của kỹ thuật CDMA. Dải thông tăng từ
30 kHz lên 1,25 MHz, nhưng trong dải thông này bây giờ còn xấp xỉ 20 cuộc
đàm thoại. Mỗi đường thoại analog trước hết được biến đổi thành digital nhờ
bộ biến đổi A/D đúng như với TDMA. Tuy nhiên sau đó thêm một bước nữa
là chèn một mã đặc biệt qua một bộ tạo mã. Sau đó tín hiệu được phát đi, trải
rộng thêm 1,25 MHz dải thông chứ không chiếm một khe thời gian riêng
trong dải này.
Các đặc tính tiên tiến của thông tin di động sử dụng kỹ thuật CDMA:
5. So sánh các công nghệ FDMA, TDMA với CDMA ứng dụng trong
thông tin di động tế bào:
Trong FDMA mỗi một khe tần số được dành riêng cho một người sử
dụng và người này sẽ dùng khe tần số này suốt quá trình cuộc gọi . Trong sơ
đồ TDMA mỗi người dùng được cấp cho một khe thời gian trong quá trình
gọi. Số lượng người dùng được quyết định bởi số lượng các khe thời gian
hay tần số khác nhau có sẵn. Trong sơ đồ CDMA tất cả các người dùng phát
đồng thời và trên một tần số. Tín hiệu được phát đi chiếm toàn bộ dải thông
của hệ thống và các dãy mã được sử dụng để phân biệt người sử dụng này
với người sử dụng kia.
CDMA hơn hẳn so với các kỹ thuật đa truy nhập khác. Nó có thể tính
được phương sai trong hàm truyền của kênh gây ra bởi bộ chọn lọc tần số.
Các máy thu CDMA được thiết kế để tận dụng ưu điểm từ đặc tính nhiều
đường liên quan đến fading chọn lọc tần số và để làm giảm tối thiểu ảnh
hưởng của chúng đến dung lượng của hệ thống.
Ưu điểm chủ yếu về dung lượng của CDMA có được trong môi
trường vô tuyến đa tế bào. Trong thông tin di động trước đây một trạm gốc
công suất lớn được sử dụng để phủ sóng cho một vùng rộng lớn. Hệ thống
này bị hạn chế khắt khe về mặt băng tần và không thể đáp ứng các dịch vụ di
động. Trong hệ thống điện thoại di động tế bào, máy phát của trạm gốc đơn
lẻ được thay thế bởi rất nhiều các trạm gốc có công suất nhỏ hơn, mỗi máy
phát phủ sóng cho một vùng có dạng tổ ong, gọi là một tế bào. Trong các hệ
thống FDMA hay TDMA mỗi tế bào được chia cho một phần tử của dãy tần
số có sẵn. Dãy tần được dùng trong một tế bào có thể được sử dụng lại trong
tế bào khác cách đó đủ xa sao cho tín hiệu trong hai tế bào này không gây
nhiễu đến nhau. Số K tế bào sử dụng hết toàn bộ phổ tần có sẵn được gọi là
cluster (cụm). Các cluster được bố trí như hình vẽ sau:
B
B G C
G C A
A F D
F D E
E B
B G C
G C A
A F D
F D E
E B
G C
A
F D
E
Hình vẽ: Cấu trúc cơ bản của hệ thống tế bào
Những tín hiệu cơ bản của người sử dụng khác đồng thời trên cùng
băng tần sẽ gây ra nhiễu đồng kênh. Nhiễu đồng kênh là một tham số giới
hạn của hệ thống vô tuyến di động. Phương pháp tái sử dụng tần sổ trong
TDMA/FDMA và FM/FDMA gây ra nhiễu đồng kênh vì có cùng một dải
tần được sử dụng lại ở một tế bào khác. Việc sử dụng các cluster 7 tế bào
trong nhiều hệ thống vô tuyến di động là không đủ để tránh hiện tượng nhiễu
đồng kênh. Có thể tăng K lớn hơn 7 để giảm nhiễu đồng kênh nhưng sẽ làm
giảm số lượng các kênh trong một tế bào, do vậy sẽ làm giảm dung lượng
của hệ thống. Tương tự nếu giữ nguyên hệ số tái sử dụng là 7 và chia tế bào
thành những vùng nhỏ hơn. Mỗi tế bào được chia thành ba hoặc sáu vùng
nhỏ sẽ sử dụng ba hoặc sáu anten định hướng tương ứng tại trạm gốc phục
vụ cho cả thu lẫn phát. Mỗi vùng nhỏ này sử dụng một dải tần riêng, khác
với dải tần của các vùng kia. Thí dụ, nếu một tế bào được chia thành ba vùng
nhỏ thì nhiễu thu được trên anten định hướng chỉ sấp xỉ một phần ba của
nhiễu thu được trên anten vô hướng đặt tại trạm gốc. Sử dụng tế bào chia
nhỏ thành ba vùng thì số lượng người dùng trong một tế bào có thể tăng
thêm gấp ba lần trong cùng một cluster.
Một vấn đề quan trọng khác trong việc tăng dung lượng của hệ thống
là tính tích cực của thoại. Trong một cuộc thoại giữa hai người, mỗi người
chỉ nói khoảng 35% đến 40% thời gian và nghe hết thời gian còn lại. Trong
hệ thống CDMA tất cả những người sử dụng cùng chia sẻ một kênh vô
tuyến. Khi những người sử dụng trên kênh đang liên lạc không nói thì những
người sử dụng đang đàm thoại khác sẽ chỉ chịu ảnh hưởng rất nhỏ của nhiễu.
Do vậy việc giám sát tính tích cực của tiếng nói làm giảm nhiễu đa truy nhập
đến 65%. Điều này dẫn đến việc tăng dung lượng của hệ thống lên hệ số 2,5.
Trong đa truy nhập FDMA hoặc TDMA việc người sử dụng được
phân chia tần số hoặc thời gian trong thời gian diễn ra cuộc gọi và hệ thống
cấp lại hai tài nguyên này cho hai người khác trong khoảng thời gian rất
ngắn khi kênh ấn định yên lặng là không thực tế vì điều này yêu cầu phải
chuyển mạch rất nhanh giữa những người sử dụng khác nhau. Trong FDMA
và TDMA việc tổ chức tần số là yêu cầu khó khăn vì nó kiểm soát nhiễu
đồng kênh. Trong hệ thống CDMA chỉ có một kênh chung nên không cần
thực hiện tổ chức tần số.
Trong FDMA và TDMA, khi máy di động ra khỏi vùng phủ sóng của
tế bào trong quá trình đàm thoại thì tín hiệu thu được sẽ bị yếu đi và trạm
gốc sẽ yêu cầu chuyển giao (handover). Hệ thống sẽ chuyển mạch sang một
kênh mới khi cuộc gọi tiếp tục. Trong CDMA các tế bào khác nhau, khác
nhau ở chỗ sử dụng các dãy mã khác nhau nhưng giống nhau là đều sử dụng
cùng phổ tần. Do đó không cần phải thực hiện handover từ tần số này qua
tần số khác. Chuyển giao như vậy được gọi là chuyển giao mềm (soft
handover).
Trong hệ thống CDMA không có một giới hạn rõ ràng về số lượng
người dùng như trong FDMA và TDMA. Tuy vậy chất lượng hoạt động của
hệ thống đối với tất cả những người sử dụng giảm ít nhiều khi số lượng
người sử dụng cùng liên lạc tăng lên. Khi số người sử dụng tăng lên đến
mức độ nào đó thì sẽ khiến cho nhiễu có thể làm cho tiếng nói trở nên khó
hiểu và gây mất ổn định hệ thống. Tuy nhiên trong CDMA ta quan tâm đến
điều kiện “phong toả mềm”, có thể giải toả được trái với điều kiện “phong
toả cứng” như trong TDMA và FDMA khi mà tất cả các kênh đều bị chiếm.
Hệ thống CDMA cũng có một vài nhược điểm. Hai nhược điểm nổi
bật là: hiệu ứng tự nhiễu và hiệu ứng xa gần. Hiệu ứng tự nhiễu do các dãy
mã không trực giao gây ra. Trong hệ thống vô tuyến di động các máy di
động truyền tin độc lập với nhau, tín hiệu của chúng không đến trạm gốc
một cách cùng lúc. Do trễ thời gian của chúng là phân bố ngẫu nhiên nên sự
tương quan chéo giữa các tín hiệu thu được từ những người sử dụng là khác
không. Để nhận được nhiễu có mức thấp tất cả tín hiệu phải có tương quan
chéo nhỏ và mọi trễ thời gian tương đối. Tương quan chéo giữa các ký tự có
được bằng việc thiết kế một tập các dãy trực giao. Tuy nhiên không có một
tập dãy mã nào được biết là hoàn toàn trực giao khi được dùng trong hệ
thống không đồng bộ. Các thành phần không trực giao của tín hiệu của
những người sử dụng khác sẽ xuất hiện như là nhiễu trong tín hiệu điều chế
mong muốn. Nếu sử dụng máy thu có bộ lọc thích ứng trong hệ thống như
vậy thì số lượng của người sử dụng bị hạn chế bởi nhiễu gây ra bởi những
người sử dụng khác. Điều này khác với trong các hệ thống TDMA và
FDMA, trong các hệ thống này tính chất trực giao của tín hiệu thu được bị
duy trì bằng việc chọn lọc và đồng bộ chính xác.
Hạn chế chính của CDMA là hiệu ứng xa gần. Hiện tượng này xuất
hiện khi một tín hiệu yếu từ một máy di động ở xa thu được tại trạm gốc bị
chèn ép bởi tín hiệu mạnh từ nguồn nhiễu đó. Tín hiệu nhiễu với công suất
lớn hơn n lần công suất tín hiệu mong muốn sẽ tác dụng gần như là n tín
hiệu nhiễu có công suất bằng công suất của tín hiệu. Để khắc phục hiệu ứng
xa gần trong hầu hết các ứng dụng CDMA người ta sử dụng các sơ đồ điều
khiển công suất. Trong hệ thống tế bào điều khiển công suất được thực hiện
bởi các trạm gốc, các trạm này định kỳ ra lệnh các máy di động điều chỉnh
công suất máy phát sao cho tất cả các tín hiệu thu được tại trạm gốc với mức
công suất là như nhau.
4
3 1
4 2 4
3 1 3 1 6
2 4 2 6 7 3
3 1 7 3 4
2 4 5 1
5 1 2
K= 4 2 6
7 3
4
5 1
2
K= 7
Ngoài ra còn có các mẫu tái sử dụng tần số ứng với K= 12 hoặc 19.
Qua hình vẽ cho ta thấy các cụm mẫu tái sử dụng tần sốcủa các BS với tất cả
các băng tần có thể, số lượng cell trong cụm đó gọi là yếu tố tái sử dụng tần
số (K).
Trong trường hợp này thì hiệu quả tái sử dụng tần số nếu một anten
định hướng được sử dụng tại BS, vì giao thoa tần số chỉ ảnh hưởng đến các
BS sử dụng cùng một kênh trong anten phát xạ định hướng. Và vì vậy giao
thoa ở các kênh chính tăng (Thông thường sử dụng vùng phủ sóng 120 0- sử
dụng 3 sector trong một cell).
Khi xuất hiện trạng thái chuyển vùng thì tín hiệu đã được kết nối với
BS có khả năng thu nhận tín hiệu tốt. Trong trạng thái chuyển vùng thì kênh
bị ngắt trong khoảng thời gian ngắn (150 ms) và chuyển vùng sẽ bị trì hoãn
hoặc bị cản trở trong trường hợp không có kênh trong cell. Dịch vụ chuyển
vùng ngoài hệ thống thông thường được cung cấp trong một vùng phục vụ
khác, do một hệ thống khác điều khiển mà thuê bao nói đến không đăng ký.
Thiết bị nén dãn 2:1 Syllabic 2:1 Syllabic 2:1 Syllabic Không
Kế hoặc cell 4,7,12 4,7,12 7,9,12 7
Đ iều chế kênh
điều khiển (ĐK) FSK FSK FFSK FFSK
SS AUC
AUC
PSPDN MSC
PSPDN MSC
CSPDN
CSPDN BSS OMC
PSTN
PSTN
BTS
BTS
PLMN
PLMN
MS
MS
2. Hệ thống GSM
Hệ thống này được chia thành hệ thống chuyển mạch SS và hệ thống
trạm gốc BSS, mỗi hệ thống này có một số chức năng tại đó thực hiện tất cả
các chức năng của hệ thống. Và những khối chức năng này được thực hiện ở
các thiết bị khác nhau.
Hệ thống được thực hiện như một mạng gồm nhiều cell vô tuyến cạnh
nhau để cùng đảm bảo toàn bộ vùng phủ sóng của vùng phục vụ. Mỗi cell có
một trạm vô tuyến gốc BTS làm việc ở một tập hợp các kênh vô tuyến. Các
kênh này khác với các kênh được sử dụng ở các cell lân cận để tránh nhiễu
giao thoa.
+ Một bộ điều khiển trạm gốc BSC sẽ điều khiển một nhóm BTS.
BSC điều khiển các chức năng như chuyển giao và điều khiển công suất.
+ Một MSC (trung tâm chuyển mạch các dịch vụ di động ) phục vụ
một số bộ điều khiển trạm gốc, MSC điều khiển các cuộc gọi tới và đi từ
mạng chuyển mạch điện thoại công cộng PSTN, mạng số liên kết đa dịch vụ
ISDN, mạng di động mặt đất công cộng PLMN và các mạng số liệu công
cộng PSDN, và có thể là các mạng riêng.
Các khối nói trên đều tham gia vào việc nối thông giữa một trạm di
động MS và một thuê bao di động ở PSDN. Nếu không thể thực hiện một
cuộc gọi đến MS ta sẽ không cần bất cứ một thiết bị nào khác. Vấn đề nảy
sinh khi ta muốn thực hiện một cuộc gọi kết cuối ở MS .người gọi hầu như
không biết MS được gọi ở đâu. Vì thế cần có một số cơ sở dữ liệu mạng để
theo dõi MS. Cơ sở dữ liệu quan trọng nhất là bộ đăng ký thường trú HLR.
Khi một thuê bao di động mua một đăng ký từ một hãng khai thác GSM,
thuê bao di động này sẽ được đăng ký ở HLR của hãng này. HLR chứa các
thông tin về thuê bao như các dịch vụ bổ xung và các tần số nhận thực,
quyền thâm nhập của thuê bao, các dịch vụ mà thuê bao đăng ký, các số liệu
động về vùng mà ở đó đang chứa thuê bao của nó (Roaming), trong HLR
còn tạo báo hiệu số 7 trên giao diện với MSC. Ngoài ra sẽ có thông tin về vị
trí của MS tức là hiện thời vị trí của MS ở đâu thuộc MSC nào. Thông tin
này thay đổi khi MS di động. MS sẽ gửi thông tin về vị trí thông qua
MSC/HLR đến HLR của mình, nhờ vậy đảm bảo phương tiện để thu một
cuộc gọi.
Khối IWF:
Để kết nối MSC với một số mạng khác cần phải thích ứng các đặc
điểm truyền dẫn của GSM với các mạng này. Các thích ứng này gọi là chức
năng tương tác IWF. IWF bao gồm một thiết bị để thích ứng giao thức và
truyền dẫn. IWF có thể thực hiện trong cùng chức năng MSC hay có thể ở
thiết bị riêng, ở trường hợp hai giao tiếp giữa MSC và IWF được để mở.
Khối HLR :
Giữ các thông tin liên quan tới việc cung cấp các dịch vụ viễn thông
không phụ thuộc vào vị trí hiện thời của thuê bao và chứa các thông tin về vị
trí hiện thời của thuê bao. Thường HLR là một máy tính đứng riêng không
có khả năng chuyển mạch nhưng có khả năng quản lý hàng trăm ngàn thuê
bao. Một chức năng con của HLR là nhận dạng trung tâm nhận thực thuê
bao AUC.
Khối BTS:
Một BTS gồm các thiết bị thu phát, anten và xử lý tín hiệu đặc thù cho
giao diện vô tuyến. Có thể coi BTS là các Modem vô tuyến phức tạp có
thêm một số các chức năng khác. Một bộ phận quan trọng của BTS là
TRAU là khối chuyển đổi mã và thích ứng tốc độ. TRAU là thiết bị mà ở đó
quá trình mã hoá và giải mã tiếng đặc thù riêng cho GSM được tiến hành, tại
đây cũng thực hiện thích ứng tốc độ trong trường hợp truyền số liệu. TRAU
là một bộ phận của BTS, nhưng cũng có thể đặt cách xa BTS và thậm chí
còn đặt trong BSC và MSC.
Khối TRAU:
Khối thích ứng và chuyển đổi mã thực hiện chuyển đổi giữa tiếng
64kbit/s luật A và tiếng RPE LTP 13 kbit/s cũng như thích ứng tốc độ giữa
các khung 3.6, 6, 12 kbit/s sử dụng ở giao diện vô tuyến. TRAU được điều
khiển bởi BTS. Nếu nó được đặt bên ngoài BTS thì việc điều khiển được
thực hiện bởi báo hiệu trong băng bằng cách sử dụng một số bit dự trữ ở
trong khung 320 bit của các kênh lưu lượng 16 kbit/s trong đó chỉ có 13
kbit/s được sử dụng cho việc truyền lưu lượng các bít dự trữ nói trên là các
bit điều khiển.
Khối BSC:
BSC có nhiệm vụ quản lý tất cả giao diện vô tuyến thông qua các lệnh
điều khiển từ xa BTS và MS. Các lệnh này chủ yếu là lệnh ấn định, giải
phóng kênh vô tuyến và chuyển giao. Một phía BSC được nôí với BTS còn
phía kia nối với MSC của SS. Trong thực tế BSC là một tổng đài nhỏ có khả
năng tính toán đáng kể. Vai trò chính của nó là quản lý các kênh ở giao diện
vô tuyến và chuyển giao. Giao diện giữa BSC và MSC là giao diện A, còn
giao diện giữa BTS và BSC là giao diện Abit.
Vùng mạng:
Tổng đài vô tuyến cổng GMSC kết nối các đường truyền giữa mạng
GSM/PLMN và mạng PSTN/ISDN khác hay các mạng PLMN khác sẽ ở
mức tổng đài trung kế quốc gia hay quốc tế. Tất cả các cuộc gọi vào cho
mạng GSM sẽ được định tuyến đến một hay nhiều tổng đài vô tuyến cổng
GMSC.
Ô (cell):
Vùng định vị được chia thành một số ô, là một vùng bao phủ vô tuyến
được nhận dạng bằng nhận đạng ô toàn cầu (CGI).
Trạm di động tự nhận dạng một ô bằng cách sử dụng mã nhận dạng
trạm gốc (BSIC).
GSM là một hệ thống rất phức tạp, cần phải được quy hoạch và tổ
chức cả ở việc qui định và việc thực hiện thực tế của nó. Một mô hình để
xây dựng các mạng thông tin số liệu thông thường đã được tổ chức các tiêu
chuẩn quốc tế (ISO) cung cấp ở dạng mô hình liên kết các hệ thống mở
(OSI). Các chi tiết kỹ thuật của GSM hay các khuyến nghị đã được định
nghĩa đầy đủ ở ba lớp dưới của mô hình OSI này.
Số TT Tên lớp Mô hình tương đương ở GSM Nhiệm vụ
5 Phiên / Mạng
4 Giao vận
Hình vẽ: Mô hình OSI và việc sử dụng ba lớp dưới ở hệ thống GSM
+ ở lớp thấp nhất (Lớp 1), qui định các đặc tính vật lý của truyền dẫn
hay môi trường đường truyền vô tuyến. Trong phạm vi của đường truyền vô
tuyến GSM, các qui định này bao gồm không chỉ các kiểu điều chế tần số
mà còn bao hàm cả cấu trúc các cụm và các khung hoàn toàn trong một
mạch truyền dẫn ghép kênh phân chia theo thời gian. Do việc lớp này chịu
trách nhiệm về việc hiệu chỉnh lỗi của các bít đơn trong truyền dẫn nên yếu
tố mã hoá bảo vệ chống lỗi cũng thuộc lớp này.
+ Lớp 2, lớp liên kết dữ liệu, bao gồm các thực thể linh hoạt chịu
trách nhiệm bảo vệ thông tin của các tin báo có nghĩa hoặc các khung giữa
các trạm vô tuyến. Phân đoạn truyền dẫn sẽ cấu trúc các bản tin của lớp cao
hơn phù hợp với các qui định vật lý của môi trường lớp 1 và đòi hỏi mọi tình
huống một sự thừa nhận từ đầu thu. Các bản tin tại đầu thu sẽ được cấu trúc
lại từ các khung thu được và các thừa nhận sẽ được định dạng để phát lại.
+ Lớp 3, lớp mạng, chịu trách nhiệm về quản lý tất cả các cuộc gọi và
được tới hoạt động của mạng vô tuyến. Các nhiệm vụ này được chia nhỏ
hơn thành các lớp con để quản lý việc điều khiển cuộc gọi đã thiết kế, quản
lý di động và tài nguyên vô tuyến.
+ Các lớp cao hơn được áp dụng tới tất cả các hệ thống thông tin,
không đề cập ở hình vẽ trên. Sau đây sẽ mô tả qui luật OSI biến đổi theo
hoạt động của MS ở các lớp thông tin.
Speech Speech
Layer 3
Signalling Signalling
. . . . . .
Layer 2
Equalization
Transmitter Receiver
5. Các đặc trưng của GSM
Trong các hệ thống điện thoại di động hiện có cung cấp cho các thuê
bao và nhà khai thác nhiều ưu điểm hơn một mạng điện thoại tiêu chuẩn.
Nhưng ở đó còn nhiều hạn chế. GSM đã khắc phục được những hạn chế đó
và được thể hiện qua các đặc trưng sau.
Vậy MobiFone là :
Hệ thống thông tin di động số GSM
Hệ thống thông tin di động phủ sóng toàn quốc với chất lượng
cao nhất, dịch vụ đa dạng nhất.
Hệ thống thông tin di động cho phép các thuê bao sử dụng cùng
một số thuê bao tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.
Hệ thống thông tin di động với dịch vụ chăm sóc khách hàng
24/24.
Hệ thống thông tin di động phát triển nhanh với vốn đầu tư tốt
Mọi lúc mọi nơi.
Nói tóm lại, chỉ sau 7 năm MobiFone có quyền tự hào là một mạng
thông tin di động lớn nhất tại Việt Nam, có vùng phủ sóng lớn nhất tại Việt
Nam.
Dịch vụ MobiFone:
Đây là dịch vụ thông tin di động trả sau, là dịch vụ cơ bản do VMS-
MobiFone cung cấp. Các thuê bao di động có thể sử dụng MS của nó để
nhận và thực hiện tất cả các cuộc gọi tại những nơi mà MobiFone phủ sóng
(kể cả ở nước ngoài ) và thuê bao MobiFone có thể sử dụng tất cả các dịch
vụ phụ do MobiFone đang cung cấp.
Dịch vụ Mobicard:
Đây là loại hình thông tin di động trả trước đầu tiên VMS-MobiFone
giới thiệu tại Việt Nam. Khi sử dụng loại hình dịch vụ này thì MS phải có
một thẻ SIM (khối giao diện thuê bao) và một thẻ Mobicard và đã có thể hoà
mạng thông tin di động MobiFone và có thể thực hiện nhận tất cả các cuộc
gọi.
3. Các dịch vụ giá trị gia tăng hiện đang được cung cấp cho thuê bao
MobiFone và Mobicard
Chuyển vùng trong nước: (cung cấp cho thuê bao MobiFone và
Mobicard)
Dịch vụ này giúp các thuê bao di động nhận và thực hiện cuộc gọi tại
61/61 tỉnh và thành phố trên toàn quốc.
Hiển thị số thuê bao chủ gọi: (cung cấp cho thuê bao MobiFone và
Mobicard)
Dịch vụ này giúp thuê bao di động thấy được số điện thoại trên màn
hình máy di động.
Cấm hiển thị số thuê bao chủ gọi: (cung cấp cho thuê bao MobiFone )
Dịch vụ này khiến người mà thuê bao chủ gọi tới không thấy được số
thuê bao của máy này trên màn hình máy di động.
Dịch vụ giữ cuộc gọi: (cung cấp cho thuê bao MobiFone)
Dịch vụ này giúp thuê bao di động đặt cuộc gọi ở chế độ chờ và gọi
tơí một số máy khác.
Dịch vụ chờ cuộc gọi: (cung cấp cho thuê bao MobiFone )
Dịch vụ giúp thuê bao di động trả lời cuộc điện thoại thứ hai ngay cả
trong lúc thuê bao di động đang nói chuyện với người gọi thứ nhất.
Dịch vụ chuyển tiếp cuộc gọi: (cung cấp cho thuê bao MobiFone )
Dịch vụ giúp thuê bao di động chuyển cuộc gọi tới một số máy khác
khi máy của thuê bao di động bận ngoài vùng phủ sóng hoặc không hoạt
động.
Dịch vụ nhắn tin ngắn: (cung cấp cho thuê bao MobiFone và Mobicard)
Dịch vụ này giúp thuê bao di động gửi đi những bản tin nhắn dưới
dạng chữ viết trong những tình huống không tiện nói trên điện thoại, ví dụ
như đang ở nơi ồn ào, hay không muốn người khác biết được nội dung trao
đổi.
Dịch vụ chuyển vùng quốc tế: (cung cấp cho thuê bao MobiFone )
Dịch vụ chuyển vùng quốc tế cho phép MS thực hiện các cuộc gọi đi
và nhận các cuộc gọi đến bằng máy điện thoại di động của mình tại tất cả
các nước có ký thoả thuận chuyển vùng quốc tế với MobiFone mà không
cần thay đổi thẻ SIM và số máy điện thoại di động của mình. Hiện nay
MobiFone đã mở dịch vụ tới 43 nhà khai thác tại 28 quốc gia và vùng lãnh
thổ khác nhau trên thế giới.
Dịch vụ sau bán hàng: (cung cấp cho thuê bao MobiFone và Mobicard)
VMS-MobiFone đã thíêt lập một hệ thống cửa hàng và đại lý rộng
khắp trong cả nước tạo điều kiện cho khách hàng đến giao dịch. Ngoài hệ
thống cửa hàng và đại lý, các đội bán hàng trực tiếp và thu cước trực tiếp
cũng được thành lập tại nhà khi khách hàng yêu cầu.
Bên cạnh đó, các trung tâm dịch vụ khách hàng tại Việt Nam, Đà
Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh cũng là những địa chỉ tin cậy của
MobiFone nơi khách hàng có thể tới đăng ký dịch vụ, được hướng dẫn và
giải đáp tất cả các thắc mắc về máy di động về dịch vụ sửa chữa và bán
hàng.
Băng tần lên (Uplink Band): với dải tần từ 890-915 MHz cho
các kênh vô tuyến từ trạm di động tới hệ thống trạm gốc.
Băng tần xuống (Downlink Band): với dải tần từ 935-960 MHz
cho các kênh vô tuyến từ hệ thống trạm gốc tới các trạm di
động.
Băng tần của hệ thống GSM cơ bản được chia thành hai băng sóng,
mỗi băng có độ rộng 25 MHz bao gồm 124 sóng mang. Do vậy khoảng cách
giữa các kênh (khoảng cách giữa hai tần số sóng mang của hai kênh liền
nhau) là 200 KHz. Mỗi kênh sử dụng hai tần số riêng biệt: một dùng cho
truyền từ trạm di động và một cho truyền từ MS. Các kênh này được gọi là
kênh song công, khoảng cách giữa hai tần số nói trên được gọi là cự ly song
công (Duplex distance). Cự ly này không đổi và bằng 45 MHz. Kênh vô
tuyến này mang 8 khe thời gian TDMA và mỗi khe thời gian là một kênh vật
lý trao đổi thông tin giữa mạng và trạm di động MS.
Vùng mạng PLMN được chia thành nhiều cell vô tuyến nhỏ có bán
kính từ 350m đến 35 Km. Kích thước thực tế của các cell phụ thuộc vào địa
hình và lưu lượng thông tin.
Mỗi cell vô tuyến tương ứng với một trạm thu phát gốc BTS. Tuỳ theo
cấu tạo của anten mà ta phân loại BTS khác nhau. BTS liên lạc vô tuyến với
tất cả các máy thuê bao di động MS có mặt trong cell. Hình dạng của các
cell phụ thuộc vào kiểu anten và công suất ra của từng trạm BTS.
Omni cell:
Cell này sử dụng anten vô hướng phát đẳng hướng, hình tròn trên biểu
thị vùng phủ sóng của anten này, đường biên tương ứng với quĩ tích các
đỉêm có cùng cự ly đến vị trí mà tại đó cường độ tín hiệu đã suy giảm đến
giá trị tối thiểu yêu cầu của máy thu (độ nhạy máy thu).
Cell kiểu này được quy hoạch cho vùng có mật độ thấp.
Cellular network:
Mạng sẽ sử dụng rất nhiều cell tùy theo vùng có mật độ thấp hay cao
mà người ta lựa chọn các kiểu cell.
Để sử dụng triệt để băng tần trong GSM cần phải sử dụng lại tần số:
băng tần sẵn có được chia thành 124 tần số song công, các tần số này được
chia thành các nhóm tần số, nhóm tần số này được ấn định cho một vùng
nào đó bao gồm nhiều trạm BTS. Cùng mẫu tần số này có thể đem áp dụng
cho vùng bên cạnh mà không gây ra hiện tượng nhiễu giao thoa đồng kênh
khi đạt được khoảng cách đủ lớn giữa hai trạm BTS sử dụng chung một tần
số. Do vậy, tuỳ vào anten là vô hướng hay định hướng mà ta có mẫu sử dụng
lại tần số khác nhau. Nhờ việc sử dụng lại tần số ta có thể tăng dung lượng
cho toàn mạng.
Nhóm các A1 B1 C1 D1 A2 B2 C2 D2 A3 B3 C3 D3
tần số
84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95
Các kênh 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107
108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119
120 121 122 123 124