Professional Documents
Culture Documents
Lời Nói Đầu: Luận văn tốt nghiệp
Lời Nói Đầu: Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THẺ TÍN DỤNG
Thẻ TD được làm bằng chất nhựa trắng có 3 lớp, lõi thẻ là lớp nhựa trắng
cứng nằm giữa 2 lớp tráng mỏng, kích thước tiêu chuẩn quốc tế là 8,5cm x
5,5cm x 0,07 cm.
Mặt trước của thẻ gồm:
- Biểu tượng. Mỗi loại thẻ có một biểu tượng riêng. Ví dụ: Amex có biểu
tượng đầu người chiến binh; Visa có biểu tượng hình chữ nhật gồm 3 màu xanh,
trắng, vàng và hình một con chim bồ câu đang bay: Masters Card có dòng chữ
“Masters Card” chạy giữa 2 vòng tròn màu da cam và đỏ lồng vào nhau...
1.1.3 Phân biệt thẻ tín dụng và các loại thẻ khác
Thẻ có nhiều loại, dựa trên tính chất thanh toán, thẻ được chia thành 3
loại: thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ rút tiền mặt. Đây là vấn đề về bản chất của
thẻ, ta cần hiểu rõ để phân biệt thẻ tín dụng và các loại thẻ khác.
Thẻ tín dụng (Credit Card): Khi sử dụng loại thẻ này chủ thẻ được cấp một
hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ
sở kinh doanh (cửa hàng, khách sạn, sân bay...) chấp nhận loại thẻ này.
Các chủ thể phát hành thẻ sẽ qui định một hạn mức tín dụng nhất định cho
từng chủ thẻ hay nói cách khác chủ thẻ chỉ được tiêu trong hạn mức đã cho.
Hàng tháng, khi nhận được sao kê (thông báo yêu cầu thanh toán của ngân hàng
theo danh sách các khoản chi đã thực hiện trong tháng), chủ thẻ chỉ phải thanh
toán số tiền họ đã chi tiêu, mà không phải trả bất cứ một khoản lãi nào nếu trả
đúng hạn quy định. Còn nếu chủ thẻ không thanh toán được hết nợ thì sẽ phải trả
số tiền còn nợ theo mức lãi suất định trước. Lãi suất này được xác định tuỳ theo
ngân hàng phát hành thẻ.
Thẻ ghi nợ (Debit Card): Muốn được sở hữu thẻ này khách hàng phải có tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng. Khi giao dịch mua bán, giá trị giao dịch sẽ được
trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt
tại cửa hàng, khách sạn..., và đồng thời ghi có vào tài khoản của cửa hàng, khách
sạn đó. Thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động
(ATM). Thẻ ghi nợ thường không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuộc vào số
dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ. Chủ thẻ chỉ chi tiêu trong phạm vi mình
có. Với tính chất như vậy, thẻ ghi nợ thường được cấp có số dư tài khoản tiền
gửi thường xuyên ghi Có. Tuy nhiên, tuỳ theo sự thoả thuận của chủ thẻ và ngân
hàng phát hành, nếu số dư trên tài khoản của chủ thẻ không đủ thanh toán, ngân
hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một mức thấu chi, thẻ ghi nợ đã giúp cho cá nhân,
doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng ngắn hạn mà không cần làm nhiều
thủ tục.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
- Thẻ on-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập
tức vào tài khoản tiền gửi của chủ thẻ.
- Thẻ off-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị của những giao dịch sẽ được khấu trừ
vào tài khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày.
Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): Loại thẻ này được dùng để rút tiền mặt tại các
máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên để rút
tiền nên chủ thẻ phải ký quĩ tiền gửi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ phải
được cấp tín dụng, thấu chi mới sử dụng được. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ
dần vào số tiền ký quỹ. Trước đây, thẻ rút tiền có hai loại, một là chỉ để rút tiền
tại những máy tự động của ngân hàng phát hành, hai là để rút tiền không chỉ ở
ngân hàng phát hành mà còn được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng khác.
Hiện nay hầu hết các loại thẻ của các ngân hàng đều rút được ở cả các máy rút
tiền của ngân hàng phát hành và ngân hàng liên kết với nó, tất nhiên ở trường
hợp thứ 2 thường phải chịu một khoản phí nhỏ.
làm giả.
Thẻ băng từ (Magneic stripe): Thẻ được dựa trên kỹ thuật những thông tin
của thẻ và chủ thẻ được mã hoá trên băng từ ở mặt sau của thẻ. Thẻ này hiện nay
đang được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên thẻ có thể bị lợi dụng gây mất tiền do
những thông tin ghi trên thẻ hẹp mang tính cố định, không thể áp dụng mã hoá
an toàn, có thể đọc được dễ dàng qua hệ thống máy vi tính. Vậy nên thế giới
đang có xu hướng chuyển sang thẻ thông minh.
Thẻ thông minh (Smart card): Là loại thẻ thế hệ mới, dựa trên kỹ thuật vi xử
lý tin học, gắn vào thẻ một “chíp” điện tử có cấu trúc như một máy tính hoàn
hảo. Thẻ có tính an toàn và bảo mật rất cao. Tuy vậy giá thành của thẻ rất cao
nên thẻ này mới chỉ phổ biến ở những nước phát triển.
1.3. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG THẺ TÍN DỤNG
- Hình thức ngân hàng (hay công ty): do một hoặc hai ngân hàng hay công ty
đứng ra tổ chức và độc quyền phát hành loại thẻ của họ. Họ trực tiếp phát hành
và quản lý thẻ, do vậy phạm vi hoạt động thường nhỏ hơn so với hình thức hiệp
hội. JCB và American Express là điển hình của hình thức tổ chức này.
thẻ phụ được thể hiện trên cùng một sao kê và được gửi cho chủ thẻ chính để
thanh toán. Chủ thẻ chính là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các khoản chi
tiêu của cả chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ có các trách nhiệm sau:
- Bảo quản thẻ không để kẻ khác lấy cắp số hoặc lợi dụng.
- Sử dụng thẻ đúng mục đích quy định.
- Không giao thẻ hoặc mật mã thẻ cho người khác, chủ thẻ phải chịu rủi ro,
không thể kiện ngân hàng phát hành thẻ khi để xảy ra việc giả mạo thẻ để rút
tiền
- Có trách nhiệm thanh toán, hoàn trả các khoản đã sử dụng và lãi cho ngân
hàng phát hành nếu là thẻ tín dụng.
- Khi mất thẻ phải báo ngay cho NHPH thẻ (tên, địa chỉ, số series ghi ở mặt
sau của thẻ) để kịp thời xử lý
để thực hiện chấp nhận thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ bằng thẻ. Cơ sở chấp
nhận thẻ có trách nhiệm:
- Chỉ chấp nhận thanh toán các thẻ đóng mẫu do Ngân hàng thanh toán và
ngân hàng phát hành hay hiệp hội thẻ qui định.
- Chỉ thanh toán các thẻ đã kiểm tra đúng mật mã, và qui định về kỹ thuật an
toàn của Ngân hàng đại lý và ngân hàng phát hành.
- Sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo thẻ, trong pham vi số ngày
làm việc qui định phải nộp biên lai thanh toán vào ngân hàng đại lý để đòi tiền.
Để quá hạn, nếu gặp rủi ro ngân hàng đại lý không chịu trách nhiệm.
- Có trách nhiệm thường xuyên trưng bày các biểu tượng của thẻ mà cơ sở
chấp nhận thanh toán.
1.4. LỢI ÍCH CỦA THẺ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ VÀ NỀN
KINH TẾ
nguồn tín dụng tự động giúp, cho các chủ thẻ khỏi phải lên ngân hàng xin vay.
Người nào có tâm lý ngại đến ngân hàng xin vay sẽ đánh giá cao tiện ích này.
Hơn thế nữa chủ thẻ có thể thanh toán một phần nhỏ và số còn lại chủ thẻ có thể
trả sau.
Thứ ba, chủ thẻ được hưởng nhiều dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm
Hiện nay, các tổ chức thẻ quốc tế đang ngày càng đa dạng hóa loại hình
phục vụ của mình nhằm đem lại độ thỏa dụng cao nhất cho khách hàng. Ví dụ
như cung cấp dịch vụ thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, điện thọai hoặc các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe…
1.4.2. Lợi ích của thẻ đối với ngân hàng phát hành thẻ
Thứ nhất, thẻ tín dụng là phương tiện tối ưu để hấp dẫn khách hàng mới.
Trong công cuộc cạnh tranh hiện nay, ngoài cách thức thông thường như
giảm lãi suất để thu hút khách hàng (một công cụ quá quen thuộc nhưng không
phải lúc nào cũng thực hiện được) các ngân hàng còn cố gắng tạo ra các sản
phẩm mới để thu hút khách hàng. Lĩnh vực thẻ thanh toán là một lĩnh vực mới
sẽ 0rất phát triển trong tương lai, nếu ngân hàng nào “tiếp cận” sớm sẽ chiếm
được thị phần lớn và nếu “chậm chân” thì việc gia nhập sẽ rất khó khăn. Thẻ là
phương tiện tối ưu bởi vì nếu khách hàng muốn phát hành thẻ phải mở tài khoản
cá nhân tại ngân hàng, khi có tài khoản tại một ngân hàng thì khách hàng hiếm
khi chuyển sang một tổ chức đối thủ cạnh tranh, điều này mang lại sự trung
thành của khách hàng với ngân hàng. Dựa vào tâm lý này của khách hàng lúc đó
ngân hàng có thể tăng lãi suất tương đối với các khoản tín dụng thanh toán thẻ.
Thứ hai, việc áp dụng thẻ tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.
Thu nhập chính của ngân hàng từ thẻ tín dụng gồm: phí từ cơ sở chấp
nhận thẻ, phí từ khách hàng (phí phát hành, phí thường niên, phí chậm thanh
toán, phí rút tiền mặt, lãi suất cho vay hiện hành, lãi vượt hạn mức tín dụng...)
và các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng khác, các khoản đầu tư kèm theo.
Ngoài ra, kinh doanh thẻ tạo một sự “hỗ trợ chéo” mà rất có hiệu quả cho ngân
hàng. Tỷ lệ lợi nhuận tương đối cao từ kinh doanh thẻ có thể dùng để bù đắp cho
những hoạt động kém sinh lời lớn của ngân hàng như kinh doanh trên tài khoản
vãng lai.
Bằng việc khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, ngân hàng sẽ
thực hiện số giao dịch séc và tiền mặt ít hơn. Điều này mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng và rất nhiều lợi ích: thực hiện số giao dịch ít hơn, những thông tin
thường cập nhật được cung cấp bởi các tổ chức thẻ quốc tế dưới hình thức điện
tử làm cho việc ghi nợ tương ứng vào các tài khoản của khách hàng được nhanh
hơn và đơn giản hơn...hoạt động của ngân hàng nhờ đó có hiệu quả hơn.
Thứ ba, phát hành thẻ là một loại tín dụng tiêu dùng hiện đại góp phần đa
dạng hoá hình thức kinh doanh của ngân hàng.
Thẻ tín dụng ra đời làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, mang đến
cho ngân hàng một phương tiện thanh toán đa tiện ích thoả mãn một cách tốt
nhất nhu cầu của khách hàng. Không chỉ có vậy, ở các nước đang phát triển phát
triển dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ, ngân hàng có thể có thêm các dịch vụ
khác song song như: đầu tư hoặc bảo hiểm cho các sản phẩm. Thông tin về dịch
vụ này đã được báo đến khách hàng sử dụng thẻ cùng với sao kê hàng tháng của
ngân hàng.
Thứ tư, thẻ mở rộng khả năng hoạt động của ngân hàng trên toàn cầu.
Trở thành thành viên chính thức của một tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay
Masters, một ngân hàng nhỏ nhất trên thế giới cũng thể cho khách hàng một
phương tiện thanh toán quốc tế có chất lượng như bất cứ đối thủ cạnh tranh lớn
nào. Ngoài ra, nhờ các mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng chỉ
phải thực hiện duy nhất một giao dịch đó là thông qua tổ chức thẻ quốc tế, ngân
hàng này chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua các tổ chức ngân
hàng khác có liên quan sẽ do Visa thực hiện. Sau lợi nhuận, khả năng cung cấp
dịch vụ toàn cầu đem lại lợi ích lớn cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Thứ năm, kinh doanh thẻ sẽ làm tăng sức mạnh thương hiệu cho ngân
hàng
Có thể nói rằng lợi ích mà ngân hàng nhận được từ hoạt động phát hành
và thanh toán thẻ tín dụng là rất lớn. Nó không chỉ dừng lại ở thu nhập của ngân
hàng mà còn là uy tín, là danh tiếng của ngân hàng. Mà trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng thì uy tín cũng như danh tiếng là điều quan trọng bậc nhất
quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng cũng như khả năng cạnh tranh
của ngân hàng trong tương lai.
1.4.3. Lợi ích của thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ
Thứ nhất, thẻ làm tăng doanh số bán hàng hoá dịch vụ và giảm chi phí
bán hàng.
Chấp nhận thanh toán thẻ nghĩa là cung cấp cho khách hàng một phương
tiện nhanh chóng tiện lợi do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên, doanh
số cung ứng hàng hoá, dịch vụ của cơ sở chấp nhận thẻ cũng tăng lên. Thẻ tín
dụng tạo ra cho cơ sở chấp nhận thẻ một khả năng cạnh tranh lớn so với đối thủ
khác. Môi trường văn minh, hiện đại trong giao dịch, mua bán khi thanh toán thẻ
là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng, đặc biệt là khách du lịch nước
ngoài và nhà đầu tư. Cùng với việc tăng doanh số bán hàng là việc giảm chi phí
bán hàng bởi cơ sở chấp nhận thẻ sẽ không phải trả các khoản chi phí cho việc
đếm, bảo quản tiền, quản lý tài chính.
Thứ hai, thẻ tiết kiệm thời gian, đảm bảo an toàn.
Khi giao dịch thẻ, với các thiết bị chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng
được sử dụng ngày càng nhiều thì rất đơn giản: người ta chỉ việc đưa băng từ
của thẻ qua thiết bị này, mọi thông tin của thẻ đều được nhận dạng, giao dịch
được thực hiện.
Giao dịch sẽ được trả tiền ngay vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ.
Ngoài ra, dù cho chưa được thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng có ít nguy
cơ bị mất cắp hơn so với séc hoặc tiền mặt. Một ngăn kéo đầy séc hay tiền mặt
có giá trị lớn dễ là mục tiêu của nhân viên thiếu trung thực hoặc kẻ trộm hơn,
nhưng cũng với số tiền như vậy để trên hoá đơn thì chẳng có ai quan tâm vì nó
chẳng có ý nghĩa với ai khác ngoài cơ sở chấp nhận thẻ.
Thứ ba, tăng vòng quay thu hồi vốn, tiền trong tài khoản được hưởng lãi.
Khi dữ liệu về giao dịch thẻ đã được truyền đến ngân hàng hoặc CSCNT
nộp hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của CSCNT được ghi có
ngay. Số tiền này họ có thể sử dụng ngay vào mục đích quay vòng vốn hoặc là
các mục đích khác. Nhanh chóng luân chuyển vốn là điểm thuận lợi hơn của thẻ
so với với séc, séc thường phải mất một thời gian nhất định mới được thanh
toán.
qua trình phát hành. Cụ thể, thẻ TDQT được phát hành dựa trên cơ sở tín chấp,
ký quỹ, thế chấp, và dựa trên khả năng tài chính của khách hàng.
Ngân hàng thương mại muốn được cung ứng dịch vụ thẻ phải thỏa mãn
một số yêu cầu như: có năng lực tài chính, đảm bảo hệ thống trang thiết bị đủ
tiêu chuẩn, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn, ….
Khi đã có đủ các điều kiện trên, ngân hàng thương mại mới được phép
phát hành thẻ theo quy trình chung như sau:
Quy trình phát hành
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ phát hành thẻ
Khách hàng đến ngân hàng đề nghị được cấp thẻ tín dụng, khi đi có mang
theo các hồ sơ cũng như giấy chứng nhận cần thiết. Đến nơi khách hàng trình
giấy tờ và ký vào các văn bản mà ngân hàng yêu cầu.
Bước 2: Ngân hàng tiến hành thẩm định lại hồ sơ
Chi nhánh phát hành tiến hành xem xét lại hồ sơ được lập đúng chưa, tình
hình tài chính (nếu là công ty) hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách
hàng (nếu là cá nhân), số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, mối quan hệ
tín dụng với ngân hàng trước đây (nếu có). Sau khi thẩm định, ngân hàng sẽ ra
quyết định chấp nhận hay từ chối phát hành.
Bước 3: Với những hồ sơ được chấp nhận, ngân hàng tiến hành phân loại
khách hàng để cấp thẻ
Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì khách hàng đã có tài
khoản tại ngân hàng. Còn đối với thẻ tín dụng, ngân hàng phải tiến hành phân
loại khách hàng để có chính sách tín dụng riêng .
Thông thường có 2 loại hạn mức tín dụng:
- Hạn mức theo thẻ vàng: Thường cấp cho khách hàng loại một và lãnh đạo
các doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, khách hàng thuộc hàng quan
chức chính phủ hoặc lãnh đạo các cơ quan nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các
cá nhân có thu nhập cao và ổn định.
- Hạn mức cho thẻ thường: Được cấp cho những khách hàng có thu nhập thấp
với hạn mức thấp hơn nhiều so với thẻ vàng.
Bước 4:Trung tâm thẻ lập hồ sơ quản lý thẻ và chuyển cho chi nhánh phát
hành thẻ.
Bước 5: Ngân hàng phát hành giao thẻ cho khách hàng
Ngân hàng phát hành yêu cầu chủ thẻ ký tên và đăng ký chữ ký mẫu ở
ngân hàng. Sau khi thẩm định và phân loại các khách hàng, ngân hàng ghi
những thông tin cần thiết về chủ thẻ đồng thời mã hoá và ấn định mã số cá nhân
(PIN) cho chủ thẻ, nhập dữ liệu về chủ thẻ vào tập tin quản lý và giao thẻ cho
khách hàng.
Quy trình phát hành thẻ có thể khái quát trong sơ đồ sau:
(2),(3)
(1)
Ngân Trung
Chủ
hàng phát tâm
thẻ (5) hành thẻ (4) thẻ
Sau khi ngân hàng giao thẻ cho khách hàng, khách hàng được gọi là chủ
thẻ, ngân hàng được gọi là ngân hàng phát hành. Trong quá trình sử dụng thẻ,
chủ thẻ có quyền sử dụng thẻ để rút tiền tại các máy ATM hoặc thanh toán tiền
mua hàng hóa, dịch vụ. Khi ngân hàng phát hành gửi sao kê cho chủ thẻ, chủ thẻ
có quyền kiến nghị nếu có thắc mắc. Ngân hàng phát hành phải giải đáp những
thắc mắc của chủ thẻ, thanh toán tiền cho ngân hàng thanh toán, các đơn vị chấp
nhận thẻ.
Trong trường hợp khách hàng yêu cầu phát hành lại thẻ, ngân hàng cần
kiểm tra lại các chi tiết trong hồ sơ khách hàng. Việc in lại thẻ cũng giống như
việc in thẻ mới.
Trong trường hợp thẻ của khách hàng hết hạn sử dụng, ngân hàng phát
hành sẽ thông báo trước cho chủ thẻ. Nếu chủ thẻ yêu cầu được tiếp tục sử dụng
thẻ, ngân hàng sẽ phát hành lại thẻ. Nếu chủ thẻ không có ý kiến gì, việc sử
dụng thẻ sẽ mặc nhiên chấm dứt.
Sau khi kết thúc nghiệp vụ phát hành thẻ,ngân hàng phải tiến hành nghiệp
vụ thanh toán thẻ vì kể từ lúc này khách hàng sử dụng thẻ trong thanh toán hoặc
rút tiền mặt.
(10)
(10)
(6) Tổ chức thẻ quốc tế ghi Có cho Ngân hàng thanh toán
Chủ thẻ NH phát hành
Tổ chức thẻ quốc tế sau khi nhận được dữ liệu từ Ngân hàng thẻ thanh toán sẽ
tiến hành ghi Có cho Ngân hàng. Dữ (9)liệu mà tổ chức thẻ quốc tế truyền về bao
(7) (8)
gồm những khoản Ngân hàng thanh toán được trả, những khoản phí phải trả cho
Tổ chức thẻ quốc tế, những giao dịch bị tra
Tổ chức thẻsoát.
(7) Tổ(1) (2) tế báo nợ cho Quốc
chức thẻ quốc Ngântếhàng phát hành.
(8) Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán nợ cho Tổ chức thẻ quốc tế
(9) Ngân hàng phát hành thẻ gửi sao kê cho chủ thẻ (6) (5)
(10) Chủ thẻ thanh toán nợ cho Ngân (3)hàng phát hành
Cơ sở chấp NH thanh
Chủ thẻ sau
nhận thẻ
khi nhận được sao kê sẽ tiến hành trả tiền cho những khoản
toán thẻ
hàng hoá, dịch vụ mà mình đã tiêu dùng.
(4)
Trong một số trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ phải liên hệ với Ngân hàng
phát hành hoặc Tổ chức thẻ quốc tế (thay mặt Ngân hàng phát hành) để cấp
phép cho giao dịch mua bán hoặc ứng tiền mặt bằng thẻ.
Các trường hợp xin cấp phép bao gồm:
- Các giao dịch ứng tiền mặt bằng thẻ tín dụng.
- Các giao dịch thanh toán hàng hoá, dịch vụ mà số tiền của giao dịch
thanh toán bằng hoặc cao hơn mức hạn mức thanh toán của cơ sơ chấp
nhận thẻ do các Tổ chức thẻ quốc tế qui định.
- Các thẻ mà cơ sở chấp nhận thẻ có nghi ngờ về hiệu lực của thẻ đối
với chủ thẻ.
- Những thẻ thanh toán không có chữ ký mẫu của chủ thẻ trên băng chữ
ký ở mặt sau của thẻ.
bảo mật trên thẻ. Tội phạm sử dụng thẻ tại các ĐVCNT thông đồng có EDC,
hoặc tại các điểm bán hàng tự động không được kiểm soát chặt chẽ.
- Thẻ bị làm giả hoàn toàn : Là loại thẻ giả hoàn chỉnh với băng từ được mã
hoá và trên phôi thẻ có đầy đủ những yếu tố như thẻ thật.
Thẻ mất cắp, thất lạc (Lost – Stolen Card)
Thẻ bị mất cắp hoặc thất lạc và bị sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông
báo cho NHPH để có các biện pháp chấm dứt sử dụng hoặc thu hồi thẻ. Thẻ bị
mất cắp, thất lạc cũng có thể bị bọn tội phạm sử dụng để làm thẻ giả (dập nổi,
mã hoá lại băng từ bằng các thông tin giả mạo) như trường hợp thẻ giả.
Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi (Never Received Issue)
Thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng thực hiện giao dịch trong quá trình
chuyển từ NHPH đến chủ thẻ.
Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng (Account Takeover)
Rủi ro này phát sinh khi NHPH nhận được những thay đổi thông tin của
chủ thẻ đặc biệt là thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không xác minh kỹ, nên
NHPH đã gửi thẻ về địa chỉ theo như yêu cầu, mà không đến tay chủ thẻ thực.
Tài khoản của chủ thẻ thực đã bị người khác lợi dụng sử dụng.
Rủi ro tín dung
Chủ thẻ sử dụng thẻ nhưng không thực hiện thanh toán hoặc không đủ
khả năng thanh toán.
1.5.3.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ:
ĐVCNT giả mạo
ĐVCNT cố tình đăng ký các thông tin không chính xác với ngân hàng
thanh toán. NHTT sẽ chịu tổn thất khi không thu được những khoản đã tạm ứng
cho những ĐVCNT này trong trưòng hợp những ĐVCNT thông đồng với chủ
thẻ hoặc cố tình tạo ra các hoá đơn hoặc các giao dịch giả mạo.
ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ
- CPP ( Common Purchase Point): là hiện tượng một ĐVCNT được xác định
là một điểm xảy ra việc đánh cắp dữ kiệu thẻ để sử dụng vào mục đích tạo các
thẻ giả hoặc giao dịch giả mạo
- POC (Point of Compromise): là hiện tượng ĐVCNT thông
đồng với chủ thẻ thanh toán thẻ giả.
Thanh toán hàng hoá dịch vụ bằng thẻ qua các phương tiện viễn thông
(MO/TO)
ĐVCNT cung cấp hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư,
điện thoại, fax hoặc internet và thanh toán trên cơ sở các thông tin như: Loại thẻ,
số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ. ĐVCNT cũng như NH thanh toán có thể chịu
tổn thất trong trường hợp chủ thẻ thực không phải là khách hàng đặt mua hàng
của ĐVCNT và giao dịch đó bị từ chối thanh toán.
Nhân viên ĐVCNT in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ (Multiple
imprint) hoặc sửa đổi thông tin trên các hoá đơn thẻ. Đây chính là rủi ro liên
quan đến đạo đức của nhân viên ĐVCNT.
- Khi thực hiện giao dịch, nhân viên của ĐVCNT đã cố tình in ra nhiều bộ
hoá đơn thanh toán thẻ, nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký để hoàn
thành giao dịch. Sau đó, nhân viên của ĐVCNT mạo chữ ký của chủ thẻ để
nộp các hoá đơn thanh toán còn lại cho NH thanh toán để lấy tiền tạm ứng của
NH.
- Nhân viên tại ĐVCNT cũng có thể sửa đổi các hoá đơn giao dịch, ghi tăng
giá trị không được chủ thẻ chấp thuận.
Đánh cắp dữ liệu băng từ (Skimming)
Các thiết bị đọc thẻ tại ĐVCNT có thể bị cài đặt thêm thiết bị để thu thập
các thông tin trên băng từ của thẻ thanh toán tại các ĐVCNT; hoặc nhân viên tại
ĐVCNT có thể câu kết với các tổ chức tội phạm đọc dữ liệu thẻ thật bằng thiết
bị chuyên dùng riêng.
Các ĐVCNT có tỷ lệ rủi ro cao (High Rish Merchant)
Các ĐVCNT có tỷ lệ rủi ro cao là các ĐVCNT kinh doanh hàng hoá dịch
vụ có giá trị lớn, có tính chất dễ chuyển đổi sang tiền mặt – nơi tội phạm hoặc
các tổ chức tội phạm thường sử dụng thẻ giả mạo.
1.5.3.3. Rủi ro nghiệp vụ
Rủi ro phát sinh tại CNPH, CNTT, NHĐL của NHNT và TTT trong việc
xử lý giao dịch, thực hiện quy trình nghiệp vụ hàng ngày.
1.5.3.4. Rủi ro kỹ thuật
Loại rủi ro này xảy ra khi hệ thống máy móc, trang thiết bị, viễn thông,
trung tâm chuyển mạch…có trục trặc, không ổn định, ngừng hoạt động hoặc gây
lỗi trong quá trình xử lý ảnh hưởng đến việc phát hành, sử dụng và thanh toán
thẻ. Trong điều kiện hiện nay, khi khối lượng giao dịch tăng lên đến mức khổng
lồ, dẫn đến việc xử lý nghiệp vụ lệ thuộc vào hệ thống máy móc, công nghệ,
cũng như việc lưu trữ chứng từ điện tử trên vật mang tin như đĩa từ, băng từ,
tape…là tất yếu. Do vậy, rủi ro chứa đựng trong khâu này cũng lớn theo.
Bên cạnh đó, việc bảo mật công nghệ, bảo mật dữ liệu lỏng lẻo cũng có
thể là nguyên nhân gây nên rủi ro vô cùng nghiêm trọng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNT Việt Nam
NHNT Việt Nam tiền thân là Cục Ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa Xã hội,
làm hậu thuẫn cho công cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, thì đòi hỏi thành lập một định chế tài chính chuyên về nghiệp vụ ngân
hàng đối ngoại. Trên cơ sở yêu cầu đó, ngày 30/10/1962, Hội đồng Bộ trưởng đã
ban hành Nghị định 115/CP thành lập NHNT Việt Nam trên cơ sở bộ máy của
Cục Ngoại hối trực thuộc NHNN Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày
01/04/1963, NHNT Việt Nam chính thức được thành lập và đi vào hoạt động.
Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ra nghị định số 53/HĐBT quy
định rõ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của HĐBT, được tổ chức
thành 2 cấp: NHNN là cấp quản lý và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc
gồm NHNT Việt Nam, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngày 14/11/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành chỉ thị số 403/CT chuyển
NHNT Việt Nam theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của HĐBT thành
“Ngân hàng thương mại quốc doanh”, lấy tên là Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam gọi tắt là Ngân hàng Ngoại thương, tên tiếng Anh đầy đủ là Bank for
Foreign Trade of Vietnam, viết tắt là Vietcombank (VCB). Với 2 pháp lệnh
ngân hàng được ban hành, NHNT Việt Nam từ vai trò độc quyền về kinh doanh
ngoại hối chuyển vào môi trường tự do cạnh tranh với các ngân hàng thương
mại khác bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên
doanh.
NHNT Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước phát triển rất quan trọng trong
hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng
thành, NHNT đã có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế của đất nước bằng việc huy động vốn trong xã hội để đầu tư phục
vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ cũng như chính sách
ngoại hối theo định hướng của Nhà nước.
Trong những năm qua, với truyền thống chuyên doanh đối ngoại, NHNT
được đánh giá một trong những ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả
nhất tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ tín dụng và thanh toán quốc tế.
NHNT Việt Nam liên tục giữ vai trò chủ lực trong hệ thống Ngân hàng Việt
Nam. Được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, NHNT
Việt Nam đồng thời là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Hiệp
hội Ngân hàng Châu Á. Trong suôt 5 năm liên tiếp kể từ năm 2000, NHNT Việt
Nam đã được tạp chí “The Banker” - một tạp chí rất có uy tín trong ngành tài
chính ngân hàng thế giới với số lượng phát hành mỗi kỳ là 15 triệu ấn bản, bầu
chọn danh hiệu “ngân hàng tốt nhất Việt Nam”.
Tính đến cuối năm 2004, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã phát
triển thành một hệ thống bao gồm:
- 26 chi nhánh cấp 1, 41 chi nhánh cấp 2, và 47 phòng giao dịch trên toàn
quốc;
- 1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài ;
- 3 công ty trực thuộc (công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản);
- Góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh
doanh bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật), 7 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng;
- Tham gia 4 liên doanh với nước ngoài.
Ngoài ra, NHNT còn có khoảng 1250 ngân hàng đại lý trên 90 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới
TRỤ SỞ CHÍNH
quản trị
P.TC cán bộ& đào tạo P.quản lý tín dụng
Ban Tổng
Trung tâm thanh toán Trung tâm tin học
giám đốc
P.TT tuyên truyền P.QL đề án công nghệ
P.quản trị
đầu mối quan trọng nhất cho cả các hoạt động liên quan đến phát hành và thanh
toán thẻ. Đầu tiên đó là những quan hệ đại lý với các tổ chức và các ngân hàng
phát hành thẻ nổi tiếng trên thế giới. Đây cũng là trung tâm xử lý dữ liệu về phát
hành, thanh toán, cấp phép và tra soát thẻ giữa các Chi nhánh NHNT, giữa
NHNT với các thành viên khác và các Tổ chức thẻ quốc tế. Tham gia mạng
thanh toán cũng như trao đổi toàn cầu của các Tổ chức thẻ quốc tế. Phòng có
các nhiệm vụ chủ yếu:
- Nghiên cứu, hướng dẫn thực hiện các chính sách và chế độ liên quan đến
phát hành và thanh toán thẻ.
- Là trung tâm xử lý, phát hành, in ấn và quản lý thẻ trắng.
- Nghiên cứu và tổ chức chương trình mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ và chủ
thẻ trên toàn hệ thống.
- Tổ chức và phối hợp với các Tổ chức thẻ quốc tế thực hiện các chương trình
quản lý rủi ro.
- Tổ chức tập huấn và đào tạo, bổ sung nghiệp vụ thẻ cho cán bộ.
- Quản lý, theo dõi và báo cáo hoạt động phát hành, thanh toán thẻ của toàn bộ
hệ thống NHNT, các chi nhánh và các ngân hàng đại lý, các cơ sở chấp nhận thẻ
và chủ thẻ. Các nhiệm vụ trên cho thấy, Phòng quản lý thẻ không trực tiếp tham
gia vào nghiệp vụ kinh doanh thẻ mà việc kinh doanh thẻ được Phòng thẻ của
Sở giao dịch và các chi nhánh thực hiện.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT Việt Nam trong những
năm gần đây
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
NHNT Việt Nam có tổng nguồn vốn tăng trưởng mạnh và liên tục trong
nhiều năm: Năm 1999 có tốc độ tăng trưởng là 34,17%, năm 2000 là 44,98%,
năm 2001 là 16,83%, năm 2002 là 6,3%, năm 2003 là 19,42%, năm 2004 là
24,53%.
Năm 2002, với sự nỗ lực và linh hoạt trong công tác điều hành vốn, tổng
nguồn vốn đạt 81.495 tỷ VND. Tuy tốc độ tăng chậm so với những năm trước
nhưng nguồn vốn vẫn đáp ứng đủ cho nhu cầu vốn tín dụng gia tăng mạnh trong
năm. Công tác huy động vốn được làm tốt là do NHNT đã chủ động làm tốt
công tác khách hàng, tăng cường một bước trong công tác điều hành, quản trị
vốn, lãi suất, quản trị rủi ro, thanh khoản và áp dụng một số sản phẩm mới dựa
trên nền tảng công nghệ. Tỷ trọng vốn bằng VND trong tổng nguồn vốn tăng
mạnh (32,9%) trong năm 2002. Cơ cấu vốn được cải thiện theo hướng tích cực,
tỷ trọng nguồn vốn VND trong tổng nguồn vốn tăng từ 27% năm 2001 lên 34%
tính đến 31/12/2002. Bên cạnh đó thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu
nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn, NHNT đã phát
hành thành công nhiều đợt kỳ phiếu và trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
trung va dài hạn đang tăng cao.
Năm 2003, công tác quản trị vốn đã không ngừng được tăng cường mạnh
cả về chất và lượng; việc điều hành quản trị lãi suất được thực hiện một cách
năng động và theo tín hiệu thị trường; cơ chế quản lý vốn tập trung toàn hệ
thống tiếp tục được củng cố và phát huy hiệu quả; các hình thức huy động vốn
được đa dạng hoá mang tính đặc trưng của NHNT (chứng chỉ tiền gửi, lãi suất
bậc thang, tiết kiệm dự thưởng Seagame, v.v...); công tác quản lý thanh khoản
đã được nâng cao và được quán triệt trong toàn bộ hệ thống. Nhờ đó công tác
huy động vốn đã đạt được những kết quả rất khả quan. Tổng nguồn vốn đến cuối
tháng 12/2003 đạt 97.521 tỷ VND, tăng 19.42% so với đầu năm, vượt kế hoạch
8% và chiếm 20,3% vốn huy động của toàn ngành ngân hàng. Trong năm hầu
hết các chi nhánh trong hệ thống đã có nhiều nỗ lực nhằm huy động vốn tại địa
bàn. Bốn đơn vị là Hội sở chính, chi nhánh HCM, Vũng Tầu, Hà Nội chiếm tới
83.8% vốn huy động toàn hệ thống. Một số chi nhánh khác có số dư huy động
vượt ngưỡng 1.000 tỷ đồng là Vinh, Đồng Nai, Tân Thuận.
Năm 2004, tổng vốn huy động của ngân hàng đạt mức 110.142 tỷ đồng.
Vốn huy động trên thị trường II đạt 22,662 tỷ đồng, tăng 58,7% so với năm
2003. Nguồn huy động từ ngân sách Nhà nước và NHNN chiếm 44,7% trong
vốn huy động trên thị trường II, so với năm 2003 là 47,3%. Tỷ lệ giữa tiền gửi
và vay từ các tổ chức tín dụng khác khá là cân bằng 52/48. Huy động vốn từ dân
cư và tổ chức kinh tế của ngân hàng có tốc độ tăng 18,8%, đạt 85,34 tỷ đồng. Cơ
cấu vốn huy động từ dân cư so với từ tổ chức kinh tế trong 2 năm 2003-2004
khá ổn định, 42%/58% năm 2004 so với 43%/57% năm 2003. Bên cạnh đó, vốn
huy động bằng ngoại tệ vẫn tiếp tục chiếm ưu thế, thể hiện ở 59% năm 2004 so
với 57% năm 2003. Cũng trong năm 2004, ngân hàng tiếp tục phát hành giấy tờ
có giá bao gồm kì phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi với nhiều kì hạn đa
dạng và các ưu đãi hấp dẫn. NHNT đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh
hoạt trên cơ sở cung, cầu vốn thị trường, đồng thời phát triển nhiều công cụ huy
động vốn mới, nhằm đối phó với những biến động thị trường, đặc biệt là đối với
USD.
2.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Từ những năm 1998-1999, NHNT được nhiều dự án khả thi, trong đó
phải kể đến việc ngân hàng đã đứng ra làm đầu mối cho nhiều dự án cho vay
đồng tài trợ lớn cùng với các ngân hàng quốc doanh và liên doanh khác như dự
án Nhiệt điện Phú Mỹ, dự án Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, trị giá mỗi dự
án trên 100 triệu USD. Năm 2000, hợp đồng tài trợ thứ hai cho dự án đường ống
dẫn khí Nam Côn Sơn được ký kết, ngoài ra ngân hàng còn tham gia các công
trình phát triển và khôi phục kinh tế lớn của Chính phủ như cho vay khắc phục
hậu quả của cơn bão số 5, cho vay thu mua lương thực và lúa gạo, cho vay phục
vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn theo chính sách của Nhà nước. Số tiền
mua tín phiếu, trái phiếu, công trái của kho bạc nhà nước là 1336 tỷ đồng.
Đến cuối năm 2001, NHNT Việt Nam đã cung ứng 41.400 tỷ đồng vốn tín
dụng cho nền kinh tế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghệ và công nghiệp
chế biến, nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Không chỉ tài trợ cho các dự án lớn của
Tổng công ty nhà nước bằng nội tệ, NHNT đã tài trợ dự án bằng ngoại tệ cho dự
án Đạm Phú Mỹ trị giá 230 triệu USD và nhiều dự án khác.
Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo đối tượng khách
hàng nhằm tạo thế ổn định lâu dài, chương trình cho vay các dự án trọng điểm,
cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, và chương trình mở rộng cho vay cá thể được khởi động từ cuối
năm 2001 và triển khai mạnh mẽ trong năm 2002. Với những chương trình này,
NHNT đã đạt được mức tăng trưởng tín dụng rất đáng kể, vượt xa tốc độ tăng
trưởng trung bình trong toàn ngành ngân hàng (30,52%). Dư nợ tín dụng đối với
khách hàng năm 2002 tăng 78% so với năm 2001 và đạt 29.295 tỷ VND. Trong
các khoản tín dụng đối với khách hàng của Ngân hàng, cho vay dài hạn bằng
ngoại tệ có tốc độ tăng trưởng mạnh 301,69% đạt 6.220.544 triệu VND; sau đó
đến cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ tăng 207,71% đạt 5.141.799 triệu VND. Đi
đôi với việc tăng trưởng mạnh về dư nợ, chất lượng tín dụng cũng được chú ý và
bảo đảm. Tỷ lệ nợ quá hạn phát sinh ở mức thấp, chỉ chiếm 2.8%. Tỷ trọng cho
vay trung và dài hạn chiếm 35%.
Tiếp tục giữ vững vai trò của một ngân hàng có thế mạnh về vốn và khả
năng làm đầu mối thu xếp vốn, Ngân hàng Ngoại thương đã rất tích cực tham
gia cam kết cho vay các dự án trọng điểm của nhà nước với tổng trị giá gần 600
triệu USD. Năm 2002 đồng thời cũng là năm Ngân hàng Ngoại thương thực hiện
giải ngân lớn nhất đối với các dự án trọng điểm của nhà nước với giá trị hơn
2.200 tỷ đồng, đóng góp quan trọng đến tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn hệ
thống. Được Chính phủ khuyến khích nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tốc
độ tăng trưởng khá cao trong hai năm gần đây. Để đáp ứng nhu cầu vốn của
nhóm doanh nghiệp này, chương trình tín dụng thêm 500 tỷ VND trong hai năm
2002 và 2003 đã được đề ra từ đầu năm. Với hoạt động hướng tới khách hàng
được tăng cường đặc biệt là nhóm khách hàng này, chương trình tín dụng thêm
500 tỷ VND đã hoàn thành chỉ trong 1 năm. Tính đến ngày 31/12/2002 dư nợ tín
dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang lại một ý nghĩa rất lớn góp phần đa
dạng hoá thành phần khách hàng, phân tán rủi ro đồng thời mở ra hướng kinh
doanh ổn định lâu dài. Tuy nhiên, so sánh với tiềm năng của thị trường thì mức
dư nợ tín dụng này còn khiêm tốn.
Bước sang năm 2003, tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức cao. Tính
đến 31/12/2003, tổng dư nợ tín dụng của toàn bộ hệ thống NHNT Việt Nam là
39.269 tỷ VND, tăng 35,2% so với năm 2002, vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra
từ đầu năm (27,1%). Thực hiện chủ trương của Ban lãnh đạo ngân hàng “năm
2003 là năm tăng cường kiểm tra, kiểm soát nâng cao chất lượng tín dụng”,
NHNT đã thực hiện nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của
toàn bộ hệ thống. NHNT đã chú trọng áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng
cao quản trị rủi ro tín dụng như: xác định giới hạn tín dụng cho hầu hết khách
hàng là doanh nghiệp, quản trị vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, tập trung vào các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Về xử lý nợ tồn đọng, trong 3 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu, NHNT đã
vận dụng tổng hợp nhiều giải pháp như dùng Quỹ Dự phòng rủi ro, khai thác và
bán các tài sản xiết nợ, tích cực thu nợ trực tiếp từ khách hàng, áp dụng giãn nợ,
tham gia vốn cổ phần để xử lý nợ tồn đọng. Tính đến cuối năm 2003, nợ quá
hạn đối với các khoản vay hiện hành chỉ chiếm 2,2% tổng dư nợ, so với 2,8%
năm 2002 và mức trung bình của ngành ngân hàng, giảm từ 1.035 tỷ năm 2002
xuống 372 tỷ năm 2003.
Năm 2004, NHNT đã áp dụng nhiều biện pháp vào trong quản trị rủi ro
tín dụng, góp phần thực hiện thành công chính sách tín dụng của năm 2004:
"Củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng". Trước tiên phải kể đến là việc chính
thức đưa hệ thống tính điểm và xếp hạng doanh nghiệp, hệ thống chấm điểm xếp
hạng tổ chức tín dụng vào áp dụng trên toàn hệ thống. Đối mặt với nhiều cơ hội
và thách thức trên thị trường, NHNT đã có những tế vào năm 2005. Tính đến
31/12/2004, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 51.773 tỷ quy đồng, tăng
30,64% so với năm 2003, vượt mức tăng trưởng kế hoạch (27,2%). Tổng nợ quá
hạn đến cuối năm 2004 là 1.451 tỷ quy đồng, chiếm tỷ trọng 2,8% trong tổng dư
nợ - chạm mức chỉ tiêu khống chế đặt ra từ đầu năm là 2,8%.
2.1.3.3. Hoạt động thanh toán quốc tế
Tiếp tục phát huy thế mạnh của một ngân hàng có truyền thống trong
công tác thanh toán quốc tế đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu. Năm 2001,
NHNT Việt Nam là ngân hàng chủ lực và dẫn đầu trong thanh toán quốc tế.
Ngân hàng chiếm 30,2% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước, vượt
chỉ tiêu đề ra (29%). Doanh số xuất nhập khẩu tăng 1,7% so với năm 2000.
Năm 2002, NHNT vẫn chiếm thị phần lớn nhất trong hoạt động thanh
toán xuất nhập khẩu với doanh số xuất khẩu 4,7 tỷ USD (28% thị phần), nhập
khẩu 5,6 tỷ USD (29% thị phần). Doanh số thu từ hoạt động thanh toán xuất
nhập khẩu tăng 10200 triệu USD tức là tăng 10% so với năm 2001 trong đó xuất
khẩu tăng 7,5% và nhập khẩu tăng 12,6%.
Năm 2003, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của NHNT đạt gần 12,5
tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 28% thị phần thanh toán xuất nhập
khẩu của cả nước. Doanh số mua bán ngoại tệ đạt 10.052 triệu USD, tăng 1.258
triệu USD hay 14.3 % so với năm 2003. Lượng ngoại tệ mua được là 5.027 triệu
USD, tăng 13.2%; bán 5.025 triệu USD cho khách hàng, tăng 15.4% so với năm
trước. Trong đó, doanh số ngoại tệ NHNT bán cho các doanh nghiệp nhập khẩu
xăng dầu đạt 1.307 triệu USD, tăng 22.3%; lượng ngoại tệ được cân đối từ Ngân
hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu xăng dầu trong năm qua là 622
triệu USD. Chênh lệch giữa số ngoại tệ bán cho mục đích xăng dầu và số lượng
được cân đối là 685 triệu USD. Doanh số mua bán ngoại tệ nước ngoài của
NHNT đạt 3.025 triệu USD, giảm 29.4% so với năm 2002. Do tình hình thị
trường quốc tế có nhiều biến động bất thường như sự mất giá của USD đối với
EUR và JPY, cho nên NHNT đã tăng cường quản lý nhằm hạn chế rủi ro đối với
hoạt động này.
Trong năm 2004, thanh toán xuất nhập khẩu thực hiện qua NHNT chiếm
28,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu
qua NHNT đạt 16,4 tỷ USD, tăng 32,3% so với năm trước. Doanh số thanh toán
xuất khẩu qua NHNT năm 2004 đạt 6.967 triệu USD, tăng 22,4% so với năm
2003, chiếm 26,7% thị phần của cả nước. Doanh số thanh toán nhập khẩu năm
2004 đạt 9.409 triệu USD, tăng 39,3% so với năm 2003 và chiếm 29,9% thị
trường cả nước. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu diễn ra mạnh nhất tại các
chi nhánh nằm trong khu kinh tế phát triển của cả nước như: Hội sở chính, chi
nhánh Tp.Hồ Chí Minh, chi nhánh Vũng Tàu, Chi nhánh Hải Phòng.
Hoạt động kinh doanh ngọai tệ của NHNT năm 2004 cũng có nhiều khởi
sắc. Đối với các giao dịch trong nước, NHNT đạt tổng doanh số mua bán là
13.601 triệu USD, tăng 36,3% so với năm 2003, lượng mua vào và bán ra tương
đối cân bằng. Lượng ngoại tệ mua vào của ngân hàng chủ yếu từ các tổ chức
kinh tế thanh toán nhập khẩu, chiếm 99,5%. Đối với các giao dịch kinh doanh
với nước ngoài, nhu cầu khách hàng tăng cao cùng với việc áp dụng rộng rãi các
hình thức mua bán ngoại tệ đa dạng giúp mảng kinh doanh này có tốc độ tăng
trưởng trên 130% đạt 7.047 triệu USD.
2.1.3.4. Công nghệ và sản phẩm mới
Trong những năm qua, nền tảng công nghệ của NHNT đã không ngừng
được củng cố và phát triển. Hệ thống thanh toán quốc tế Swift và hệ thống thẻ
tín dụng bắt đầu được triển khai vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước, sản
phẩm ngân hàng lõi “VCB Vision 2010” dược chính thức đưa vào sử dụng trong
toàn hệ thống vào năm 2001, dịch vụ ngân hàng trực tuyến “VCB Online”, hệ
thống thẻ ghi nợ “VCB Connect 24” được đưa vào năm 2002.
Năm 2003, NHNT tiếp tục phát triển nền tảng công nghệ của mình bằng
việc tiếp tục triển khai dự án Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do
Ngân hàng thế giới tài trợ.Dự án này đã hoàn tất quá trình kết nối các sản phẩm,
dịch vụ của NHNT thành 1 hệ thống tích hợp cung cấp cho khách hàng các sản
phẩm ngân hàng hiện đại với chất lượng cao nhất, đồng thời cung cấp các công
cụ quản trị tiên tiến cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. Dựa trên nền
tảng này, NHNT đã không ngừng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp
ứng nhu câu ngày càng cao của khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh của
mình trên thị trường.
Tính đến hết năm 2003, NHNT đã phát hành được 123.964 thẻ VCB
Connect 24, tăng 4 lần so với năm 2002, nâng tổng số thẻ lên 153.313 thẻ, đồng
thời phát hành được 9.832 thẻ VCB Visa và VCB Master, tăng 28% so với năm
2002. Riêng thẻ VCB Amex, tuy mới chỉ bắt đầu phát hành trong năm 2003
nhưng đã thu được kết quả khá khả quan, đạt 1.044 thẻ. Ngân hàng cũng kí liên
minh thẻ với 11 NHTM hoạt động tại Việt Nam sử dụng hệ thống máy ATM,
nhằm kết nối hệ thống ATM giữa các ngân hàng mở rộng tiện ích sử dụng thẻ
cho khách hàng, tăng hiệu quả kinh tế cho các ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi
phí đầu tư cho toàn xã hội.
Tổng doanh số thanh toán các loại thẻ quốc tế của ngân hàng đạt 150 triệu
USD, tăng 38% so với năm 2002. NHNT chiếm 50% thị phần thanh toán thẻ và
40% thị phần thanh toán thẻ quốc tế. Trong năm 2003, NHNT được tổ chức thẻ
quốc tế VISA trao giải Ngân hàng đứng đầu thị trường 2003.
Ngoài các sản phẩm đặc trưng trên, năm 2003, NHNT liên tục đưa thêm
một loạt sản phẩm phái sinh khác mang nhiều tiện ích cho khách hàng như sản
phẩm thương mại điện tử V-CBP đầu tiên trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam,
chính thức được bưu điện thành phố Hồ Chí Minh sử dụng từ tháng 8/2003, cho
phép khách hàng thanh toán hoá đơn tiền điện thoại qua hệ thống ATM được lắp
đặt khắp nơi trên toàn quốc với tính năng vượt trội, hoạt động 24/24 giờ
Năm 2004 NHNT tiếp tục triển khai giai đoạn II của đề án hiện đại hoá
ngân hàng và hệ thống thanh toán. Dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, ngân
hàng đã xây dựng được nhiều sản phẩm dịch vụ mới với các tiện ích gia tăng
nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, mở rộng và tăng cường công tác quản trị kinh
doanh trong nội bộ ngân hàng. Dịch vụ thẻ phát triển với tốc nhanh, thu hút hơn
nửa triệu khách hàng cá nhân và hàng chục nghìn khách hàng mới mỗi tháng.
Năm 2004, NHNT đã kết nối thành công mạng ATM với 6 ngân hàng thương
mại cổ phần khác, 1 ngân hàng liên doanh; kết nối và triển khai ATM với POS
với ngân hàng ngoại thương Lào. Tính đến cuối năm 2004, số máy ATM mà
NHNT đã triển khai lên tới 400 máy, đưa doanh số hoạt động đạt 8.800 tỷ VND,
mỗi ngày hệ thống ATM xử lý hơn 100 nghìn giao dịch.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng trong giai đoạn 1990
đến 2003
Trong giai đoạn này, NHNT Việt Nam đã trải qua một số cột mốc đáng
nhớ như sau: Ngày 27/6/1990, Vietcombank đã ký kết hợp đồng đại lý thanh
toán thẻ Visa Card với đại diện ngân hàng BFCE (Pháp) chi nhánh Singapore,
chính thức đặt chân vào thị trường thẻ tín dụng. Ngày 24/7/1991, tức là hơn một
năm sau đó, Vietcombank ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế
Masters Card với công ty thẻ MBF của Malaysia – công ty này đảm nhiệm vai
trò là trung gian thanh toán thẻ cho Vietcombank. Cũng trong năm 1991, ngày
18/9, Vietcombank tiếp tục ký hoạt động đại lý thanh toán thẻ JCB với chính
công ty JCB. Trong năm này, doanh số thanh toán thẻ tín dụng đạt 121,5 tỷ
VND.
Có thể nói trong những năm đầu này, hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng
phát triển khá tốt, tổng doanh số mỗi năm tăng gần gấp đôi năm trước. Tất nhiên
sự tăng trưởng mạnh này cũng một phần do kết quả tính toán dựa vào số tương
đối (tỷ lệ %), bởi nếu xét về số tuyệt đối thì thực tế cũng không lớn lắm: năm
1992 doanh số thanh toán đạt 240,5 tỷ VND và năm 1993 là 431,4 tỷ VND. Tuy
vậy đây cũng là những tiền đề quan trọng cho việc phát triển thị trường thẻ tín
dụng sau này. Trong giai đoạn này NHNT Việt Nam mới chỉ chấp nhận thanh
toán 3 loại thẻ là Visa, Masters và JCB nên cơ cấu doanh số thanh toán hầu như
không thay đổi nhiều lắm: Visa chiếm hơn 80%, Masters chiếm khoảng 15% và
JCB chỉ chiếm hơn 1% tổng doanh số thanh toán.
Tháng 2/1994, ngay sau khi Mỹ chính thức tuyên bố bỏ lệnh cấm vận đối
với Việt Nam, Vietcombank ký kết hoạt động đại lý thanh toán thẻ với tổ chức
thẻ Americain Express của Mỹ. Việc này đã tác động tích cực ngay vào doanh
số thanh toán. Vì Amex là một loại thẻ nổi tiếng của Mỹ với doanh số thanh
toán hàng năm rất lớn, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch giải trí, nên ngay trong
năm đầu thực hiện thanh toán doanh số thanh toán thẻ Amex đã đạt 161,39 tỷ
VND – cao hơn tổng doanh số thanh toán của cả 3 loại thẻ trong năm 1991,
đồng thời nâng tổng doanh số thanh toán của cả năm 1994 lên 1204 tỷ VND.
Hai năm 1995, 1996 là 2 năm đạt doanh số thanh toán thẻ cao nhất trong
giai đoạn này, thậm chí cao nhất trong 12 năm từ 1991 đến 2002. Năm 1995
tổng doanh số thanh toán đạt 1926,4 tỷ VND. Năm 1996 tổng doanh số thanh
toán đạt 1993,8 tỷ VND. Sự tăng đột biến về doanh số thanh toán là kết quả của
một loạt các sự kiện lớn của cả Việt Nam nói chung và Vietcombank nói riêng.
Cụ thể, việc Việt Nam ra nhập tổ chức ASEAN, mở rộng quan hệ trên các lĩnh
vực kinh tế – xã hội đã khiến cho lượng khách nước ngoài vào Việt Nam nhiều
hơn. Và đặc biệt, sự kiện Vietcombank phát hành chiếc thẻ tín dụng quốc tế đầu
tiên – Masters Card đã làm uy tín của ngân hàng tăng lên đáng kể.
Cần nói rõ hơn, cho đến thời điểm năm 1996, mảng dịch vụ thẻ tín dụng
của NHNT Việt Nam chỉ có hoạt động thanh toán. Trước đấy (1993, 1994,
1995) Vietcombank mới chỉ phát hành những thẻ mang tính chất thử nghiệm là
thẻ Vietcombank Card và ATM, không phải là thẻ tín dụng quốc tế, dùng trong
nội bộ hai thành phố lớn là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi trở
thành thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế Masters Card vào năm
1995, năm 1996 NHNT đưa thẻ VCB-Master Card ra công chúng, mở đầu cho
hoạt động phát hành thẻ tín dụng. Trong năm phát hành đầu tiên NHNT phát
hành 389 thẻ Master. Con số này tuy chưa phải là lớn lắm nhưng nó thể hiện sự
cố gắng nỗ lực vượt bậc của NHNT để phát hành thẻ ra thị trường Việt Nam –
một thị trường khá mới mẻ. Doanh số thẻ phát hành trong năm đạt 17065 triệu
VND. Xét trong bối cảnh kinh tế lúc đó, NHNT Việt Nam bị cạnh tranh mạnh
mẽ, nhất là từ phía NHTM cổ phần Á Châu (ACB) – là ngân hàng cùng gia nhập
tổ chức thẻ Masters Card cùng với Vietcombank. Song với năng lực và quyết
tâm của mình NHNT đã vượt trội so với ACB. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam
thời gian đó đang tăng trưởng ổn định, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, thương
mại quốc tế cũng đạt được những kết quả đáng kể nên đã thu hút được một
lượng lớn khách nước ngoài vào Việt Nam, điều này có tác động tích cực tới
hoạt động phát hành thẻ của NHNT.
Bảng 1: Tình hình phát hành thẻ tín dụng của VCB
Tổng số thẻ Tốc độ tăng Doanh số Tốc độ tăng
Năm phát hành trưởng phát hành trưởng
(thẻ) (%) (triệu đồng) (%)
1996 389 17065
1997 419 7,7 17722 3,9
1998 1645 292,6 48000 170,8
1999 1370 -16,7 65000 35,4
2000 1327 -3,1 69341 6,7
2001 3057 130,4 138390 99,6
2002 6795 152 236895 83,7
2003 9590 41,1 370741 56,5
2004 10785 12,5 611723 65
2005 15514 43,8 805685 31,7
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động thẻ của NHNT Việt Nam)
Biểu đồ 1: Số lượng thẻ tín dụng do Vietcombank phát hành qua các
năm
25000
20000
15000
10000
5000
0
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Biểu đồ 2: Doanh số phát hành thẻ tín dụng của Vietcombank qua các năm
700000
600000
500000
TriÖu ®ång
400000
300000
200000
100000
0
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
N¨ m
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á diễn ra đã gây cho
nền kinh tế nước ta những tổn thất nhất định. Số lượng khách du lịch đến Việt
Nam giảm sút rõ rệt và người dân trong nước hạn chế tiêu dùng… Điều này tác
động trực tiếp đến công tác phát hành thẻ của NHNT Việt Nam. Số lượng thẻ
phát hành trong năm chủ yếu được đưa vào thời gian của quý I và nửa đầu quý
II - khi cuộc khủng hoảng kinh tế chưa nổ ra, thời gian sau đó tốc độ phát hành
giảm đáng kể. Tổng số lượng thẻ VCB-Master Card được phát hành là 419 thẻ,
tăng 30 thẻ so với năm 1996 (tương đương 7,7%), doanh số sử dụng thẻ là
17722 triệu VND tăng không đáng kể so với năm 1996 (chỉ 3,8%).
Cuộc khủng hoảng tác động đến dịch vụ thẻ tín dụng của Vietcombank
mạnh hơn ở mảng thanh toán, tổng doanh số thanh toán thẻ của NHNT Việt
Nam giảm hẳn từ 1993,8 tỷ VND xuống 1515,3 tỷ VND. Năm này cũng bắt đầu
cho một chuỗi sa sút, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng âm trong 3 năm liên tiếp như
trong bảng dưới đây.
Bảng 2: Doanh số thanh toán thẻ tín dụng của NHNT Việt Nam
Doanh số thanh toán thẻ Tốc độ tăng trưởng
Năm
(tỷ VND) (%)
1991 121,5 100
1992 240,5 97,9
1993 431,4 79,4
1994 1204 179,1
1995 1926,4 60
1996 1993,8 3,5
1997 1515,3 - 24
1998 1245,5 - 17,8
1999 1121 - 10
2000 1227,3 0,56
2001 1365,2 21,1
2002 1720,2 26
2003 2370,1 37,7
2004 2765,1 16,7
2005 3785,1 36,9
(Nguồn: Phòng quản lý thẻ NHNT Việt Nam)
Năm 1998, doanh số thanh toán thẻ tiếp tục giảm, từ 1515,3 tỷ VND trong
năm 1997 xuống còn 1245,5 tỷ VND, tương đương với 17,8% . Nguyên nhân
lớn là vì lượng khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam vẫn tiếp tục giảm do dư
âm của cuộc khủng hoảng để lại. Hơn nữa trong thời gian này mức độ hiểu biết
về thẻ của người dân chưa nhiều, những tiện ích mà thẻ tín dụng mang lại chưa
được làm nổi rõ, vì vậy mặc dù NHNT Việt Nam tích cực mở rộng mạng lưới cơ
sở chấp nhận thẻ lên tới 1350 điểm nhưng doanh số thanh toán thẻ tín dụng vẫn
giảm.
Hiểu rõ nguyên nhân của sự giảm sút thanh toán, NHNT Việt Nam đã rất
cố gắng trong việc cải thiện tình hình với mục tiêu hướng tới sự phát triển lâu
dài. Năm 1998, NHNT đã bắt đầu phát hành thẻ VCB – Visa Card. Đây là một
cột mốc đặc biệt vì, mặc dù cả 2 loại thẻ Visa và Master Card cùng phục vụ cho
một loại khách hàng nhưng thẻ Visa là loại thẻ nổi tiếng trên thế giới, thậm chí
có thể nói đây là tập đoàn thẻ tín dụng lớn nhất thế giới. Hơn thế nữa, Visa Card
có những ưu điểm rất lớn là: Thứ nhất, đây là thời điểm tổ chức thẻ Visa Card
đang chú trọng phát triển những thị trường mới giàu tiềm năng, trong khi đó
Masters Card lại chú trọng vào thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng doanh số
lớn, giảm đầu tư vào thị trường nhỏ lẻ. Thứ hai, và đặc biệt quan trọng, thẻ Visa
có hạn mức tín dụng rất phù hợp với khả năng tài chính của người Việt Nam, vì
vậy ngay từ khi mới xuất hiện đã có được những thành công đáng kể. Ngoài ra,
với sự chuẩn bị kĩ lưỡng và kinh nghiệm trong phát hành VCB-Master Card đã
làm cho thẻ Visa ngay trong những năm đầu tiên phát hành đã nhanh chóng
chiếm lĩnh thị trường với số lượng phát hành tăng lên đến con số 1305 thẻ
(chiếm 79% số lượng thẻ VCB phát hành) và doanh số sử dụng lên tới 17 tỷ
đồng.
Sự xuất hiện của thẻ Visa đã làm cho số lượng phát hành thẻ Master Card
giảm xuống, đạt 340 thẻ (ít hơn năm trước 79 thẻ), nhưng doanh số sử dụng
Masters Card lại tăng từ 17722 triệu đồng năm 1997 lên đến 31000 triệu đồng
năm 1998 và chiếm tỷ trọng lớn là 64,6% (như số liệu ở bảng 3 và 4 dưới đây).
Như vậy ta thấy năm 1998 mặc dù số thẻ Masters Card phát hành giảm nhưng
doanh số sử dụng thẻ lại tăng. Đó là do thời gian này tỷ giá biến động tăng liên
tục và có xuất hiện cơn sốt trên thị trường. Ngân hàng Nhà nước đã hai lần điều
chỉnh nhưng tỷ giá vẫn ở mức cao. Khi đó đa số thẻ NHNT phát hành được sử
dụng ở nước ngoài và bằng ngoại tệ, và nếu qui đổi sang VND sẽ là rất lớn, do
đó mới có sự tăng lên của doanh số sử dụng thẻ. Cũng trong năm này, tốc độ
tăng trưởng doanh số sử dụng của cả hai loại thẻ Visa và Master Card đạt được
là 170,8% (tương ứng 48 tỷ đồng), đây là tốc độ tăng cao nhất mà NHNT đạt
được.
Bảng 3: Tình hình phát hành các loại thẻ tín dụng quốc tế của NHNT
Việt Nam
Visa Card Master Card Amex
Năm Số lượng Tỷ trọng Số luợng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng
(thẻ) (thẻ) (thẻ)
(%) (%) (%)
Bảng 4: Cơ cấu doanh số phát hành các loại thẻ tín dụng quốc tế của
NHNT Việt Nam
Visa Card Master Card Amex
Năm Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng
phát hành phát hành phát hành
(%) (%) (%)
(triệuVND (triệuVND (triệuVND
)
Biểu đồ 3: Cơ cấu thẻ tín dụng quốc tế phát hành của VCB
qua các năm
100%
90%
80%
70%
Tû träng
60%
50% Amex
40% Master
30% Visa
20%
10%
0%
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
N¨ m
Biểu đồ 4: Cơ cấu doanh số sử dụng thẻ tín dụng quốc tế của VCB
qua các năm
100%
90%
80%
70%
Tû träng
60%
50% Amex
40% Master
30%
20% Visa
10%
0%
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
N¨ m
Quan sát bảng 1 về tình hình phát hành thẻ của NHNT Việt Nam ta có thể
thấy, mặc dù năm 1998 đạt tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng liền sau đó trong 2
năm liên tiếp tốc độ tăng trưởng của tổng số thẻ phát hành bị âm, tức là số thẻ
phát hành ra giảm dần: Tổng số thẻ mà ngân hàng phát hành trong 2 năm 1999,
2000 lần lượt là 1370 và 1327 thẻ, ít hơn tổng số 1645 thẻ phát hành của năm
1998. Cụ thể là, năm 1999, số thẻ Visa phát hành giảm đáng kể so với năm
1998, từ 1305 giảm xuống còn 720 thẻ (44,83%). Nguyên nhân chính của sự sụt
giảm này có thể nói là do sự cố máy in thẻ Visa bị hỏng. Sự sụt giảm đó tuy lớn
nhưng cũng được bù đắp một phần bởi lượng thẻ Masters Card phát hành tăng
lên (từ 340 thẻ lên 650 thẻ - tăng 310 thẻ), do nhiều khách hàng đã chuyển từ thẻ
Visa Card sang dùng thẻ Master Card để thay thế. Đồng thời trong thời gian này
NHNT tăng cường công tác tiếp thị quảng cáo thẻ VCB - Masters Card và mở
rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ nên số lượng thẻ Masters cũng tăng lên.
Tuy tổng số thẻ phát hành trong năm này có giảm song doanh số phát
hành vẫn dương (35,4%), đạt 65000 triệu đồng. Sự tăng lên của doanh số sử
dụng thẻ do một số nguyên nhân gián tiếp, đó là việc Chính phủ ra chính sách
kích thích tiêu dùng và chính sách tỷ giá dao động. Chính sách kích thích tiêu
dùng được ban hành do vào thời điểm đó nền kinh tế Việt Nam đang trong giai
đoạn thiểu phát và Chính phủ mong đợi việc kích cầu sẽ vực dậy nền kinh tế. Về
chính sách tỷ giá, tỷ giá được dao động với một biên độ nhất định là 0,1%, tạo
sự linh hoạt cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mình. Hai chính
sách đó có thể nói đã phần nào tác động vào kết quả trên. Cũng có một nguyên
nhân mà tôi cho rằng có ít nhiều tác động, đó là tâm lí người tiêu dùng. Vì sợ sẽ
phải chịu một thời gian cho các hạn mức tín dụng lâu hơn và khả năng thanh
toán thu hẹp do sự cố máy Visa hỏng khiến cho việc các chủ thẻ tăng cường việc
chi tiêu của mình, làm cho doanh số sử dụng thẻ Visa tăng mạnh, đạt hơn 36.000
triệu đồng (tăng 111,76%), bù vào doanh số sử dụng thẻ Masters giảm không
đáng kể (giảm 6,45%), đạt 29000 triệu VND.
Cũng do tình trạng chung của nền kinh tế là đang trong giai đoạn thiểu
phát, giá cả hàng hoá dịch vụ giảm mạnh, nên mặc dù lượng khách du lịch vào
Việt Nam đã tăng so với năm 1998 song doanh số thanh toán thẻ tín dụng vẫn
giảm, chỉ đạt 1121 tỷ VND. Ngoài ra một nguyên nhân quan trọng nữa là sự
cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác đã làm thị phần của NHNT giảm
đáng kể. Đặc biệt, trong năm 1999 JCB đã kí hợp đồng thanh toán với chi nhánh
ngân hàng UOB và Hongkong Bank, làm cho lợi thế độc quyền về thẻ JCB của
NHNT giảm hẳn. Không chỉ có vậy, sự cạnh tranh gay găt của ngân hàng ACB
trong hoạt động thanh toán thẻ ngày càng ảnh hưởng đến thị phần thanh toán thẻ
của NHNT.
Sang năm 2000, mặc dù Nhà nước đã có nhiều biện pháp để khắc phục
tình trạng trên, như việc NHNN đã ban hành các qui chế về phát hành và thanh
toán thẻ tín dụng, tạo điều kiện cho các ngân hàng xây dựng kế hoạch chiến lược
mở rộng và phát triển thẻ, đổng thời Chính Phủ và Tổng cục du lịch đang thực
hiện nhiều chương trình khuyếch trương nhằm thu hút khách nước ngoài vào
Việt Nam, tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng thanh toán thẻ tín dụng. Nhưng
do tình hình thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng tới các mối quan hệ của ta,
lượng khách du lịch vào Việt Nam không đáng kể. Mặt khác, đối với NHNT,
một thiếu sót là công tác quảng bá sản phẩm làm rất kém, trong khi đó đối thủ
lớn là ngân hàng ACB lại làm rất tốt. Điều này đã làm mất rất nhiều thị trường
tiềm năng của thẻ Vietcombank. Tất cả các nguyên nhân đó đã làm cho doanh số
thanh toán thẻ tín dụng của Vietcombank gần như không tăng lên so với năm
trước.
Về hoạt động phát hành, sự cố máy in thẻ Visa hỏng đã được sửa chữa
khắc phục, do đó số lượng thẻ Visa phát hành đã tăng lên đạt tới 1143 thẻ (tăng
423 thẻ tương đương 58,75%). Nhưng bên cạnh sự tăng lên về số lượng thẻ phát
hành của Visa thì số lượng VCB - Master Card lại bị giảm đột ngột, chỉ có 184
thẻ được phát hành (giảm tới 71,69%). Đó là bởi vì, thứ nhất, máy in thẻ Visa đã
được sửa chữa và nâng cấp, không những hoạt động tốt hơn mà còn có thể in
ảnh của chủ thẻ vào thẻ. Yếu tố này đã đánh đúng vào tâm lý của các chủ thẻ vì
khi thẻ có ảnh họ sẽ cảm thấy phần nào tin tưởng và an toàn hơn. Thứ hai, bắt
đầu từ năm 2000 khi chủ thẻ sử dụng thẻ Visa do NHNT phát hành thì các giao
dịch chi tiêu hàng hoá, dịch vụ hay ứng tiền mặt của chủ thẻ sẽ được tổ chức thẻ
quốc tế bảo hộ. Trị giá bảo hộ mỗi giao dịch được tính bằng trị giá trên hoá đơn
qui ra USD tương đương theo tỷ giá hàng ngày cộng với phí phòng ngừa rủi ro.
Phí phòng ngừa rủi ro trong việc chuyển đổi ngoại tệ trước đây là 1% trị giá giao
dịch nhưng đến nay nếu khách hàng sử dụng Visa Card thì trị giá giao dịch phải
thanh toán sẽ thấp hơn. Thứ ba, những máy in thẻ Masters cũng cần phải được
nâng cấp và lại vào đúng thời điểm này cho nên trong thời gian chờ đợi nhiều
khách hàng đã chuyển sang sử dụng thẻ Visa. Các nguyên nhân trên cho thấy vì
sao lượng thẻ Visa phát hành tăng lên mà lượng thẻ Masters giảm đi, tuy nhiên
sự thay đổi này nhìn một cách tổng quát chưa đem lại bước tiến nào cho ngân
hàng trong hoạt động phát hành thẻ.
Năm 2001, lần đầu tiên số lượng phát hành của cả 2 loại thẻ đều tăng lên.
Số thẻ Visa tăng 1.288 thẻ (112,69%) đạt tới 2.431 thẻ. Số thẻ Master Card tăng
442 thẻ (240,2%) đạt tới 626 thẻ. Về doanh số phát hành thì sau một năm chỉ có
tốc độ tăng là một con số (năm 2000 là 6,7%), nay đã tăng lên gần 100%. Số thẻ
phát hành và doanh số tăng nhiều là do NHNT đã tìm cách khắc phục được
những yếu kém trước đây, đồng thời cải tiến công nghệ, đầu tư nhân lực trí tuệ
nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm mục tiêu đem đến cho khách hàng chất lượng
dịch vụ cao hơn. Hơn thế nữa, nền kinh tế Việt Nam cũng đã vượt qua giai đoạn
khó khăn và bước đầu khởi sắc. Sự thay đổi đó cũng đã đem lại những thành
công trong công tác thanh toán, khi mà trong 2 năm liên tiếp 2001, 2002 doanh
số thanh toán lần lượt đạt 1365,2 tỷ VND và 1720,2 tỷ VND, với tốc độ tăng
trưởng tương ứng là 21,1% và 26%.
Năm 2002 là một năm thành công to lớn của Vietcombank trong lĩnh vực
phát hành. Số thẻ phát hành cho hai loại thẻ Visa và Master Card là 6795 thẻ
(tăng 152%) đưa tổng số thẻ của NHNT đến hết năm 2002 lên tới gần 16000
vượt xa so với dự tính ban đầu (dự tính là 14.000 thẻ). Doanh số phát hành theo
đà năm trước cũng tăng 83,7%, đạt 236895 triệu VND, cao nhất kể từ khi bắt
đầu hoạt động. Đây quả là thành công to lớn của NHNT khi mà những năm
trước đó tình hình phát hành hai loại thẻ này liên tục giảm sút một cách đáng lo
ngại. Với số lượng thẻ phát hành gần 16.000 thẻ Vietcombank đã chiếm được
45% thị phần.
Năm 2003, có một sự kiện quốc tế đặc biệt diễn ra tại Việt Nam –
SeaGames 23. Sự kiện đó dẫn đến lượng khách du lịch nước ngoài tăng đột biến
vào dịp diễn ra SeaGames. Lúc này Vietcombank dĩ nhiên được biết đến là ngân
hàng hàng đầu Việt Nam về thanh toán quốc tế. Doanh số thanh toán thẻ tín
dụng năm đó đã đạt mức cao nhất kể từ khi bắt đầu hoạt động kinh doanh thẻ là
2370,1 tỷ VND. Con số ấn tượng này cũng là bàn đạp cho sự tăng trưởng vượt
bậc trong các năm tiếp theo, đem đến cho NHNT Việt Nam một uy tín lớn hơn
nữa về hoạt động thanh toán quốc tế. Song song với nó, công tác phát hành thẻ
tín dụng cũng đem lại những kết quả rất tốt, do công tác định hướng sản phẩm
đạt tốt, đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tuợng và đặc biệt là xu hướng tiêu
dùng hưởng ứng trong mùa SeaGames nên việc phát hành thẻ của NHNT trong
năm này đạt được kết quả hết sức khả quan, với 9590 thẻ, tăng 41,4% ; doanh số
sử dụng thẻ là 370741 triệu đồng tăng 56,5%. Đặc biệt là năm này được đánh
dấu bởi việc xuất hiện một loại thẻ mới đó là thẻ American Express. Đây là loại
thẻ phục vụ cho du lịch và giải trí hàng đầu thế giới và Vietcombank cho được
độc quyền phát hành thẻ Amex tại Việt Nam. Vì vậy số lượng thẻ phát hành tuy
chưa cao nhưng trong tương lai đang chứng tỏ là loại thẻ có tiềm năng phát triển
và hứa hẹn sẽ mang laị nguồn lợi lớn cho ngân hàng.
Trên đây là một số tóm tắt về tình hình hoạt động thẻ tín dụng của NHNT
Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2003. Tiếp theo sẽ là tình hình hoạt động của
ngân hàng trong các năm 2004, 2005, 2006. Sở dĩ tôi tách ra như vậy vì các năm
này có ảnh hưởng trực tiếp đến ưu điểm cũng như hạn chế hiện tại của
Vietcombank – chính là trọng tâm của đề tài. Tất nhiên điều đó không có nghĩa
là các tóm tắt trên không có ý nghĩa gì, mà thực chất nó cho thấy cách mà
NHNT Việt Nam đã đi để đến được những thành công trong hiện tại và sẽ là cơ
sở cho những định hướng phát triển lâu dài trong tương lai.
2.2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng từ 2004 đến nay
Kết thúc năm 2003, hoạt động thẻ tín dụng của Vietcombank đang trên đà
phát triển mạnh mẽ tạo đà cho năm 2004 số thẻ phát hành tiếp tục tăng mạnh.
Tổng số thẻ phát hành đạt 10785 thẻ, tăng 12,5% ; doanh số sử dụng thẻ là
611723 triệu đồng, tăng 65%.
Trong 3 loại thẻ mà NHNT Việt Nam phát hành, thẻ Visa là loại thẻ đạt tỷ
trọng lớn nhất về số lượng thẻ phát hành (đạt 81%; 71,4%; 69,2% tương ứng với
các năm 2002, 2003, 2004). Lý do khiến thẻ Visa được ưa chuộng như đã nói ở
phần trước, chính là do sử dụng thẻ Visa không mất phí make-up khi thanh toán
bằng tiền USD như thẻ Master Card (trong khi lượng chủ thẻ phát hành thẻ tín
dụng ở Việt Nam chủ yếu là để tiêu dùng ở nước ngoài), và ngoài ra một phần
nhỏ là do thẻ Visa có in hình chủ thẻ, tạo sự an toàn cao và tin tưởng hơn cho
người sử dụng.
Do những yếu thế về thẻ VCB - Masters Card nên NHNT đã có những
kế hoạch thay đổi cải tạo nhằm tăng cường hoạt động thẻ Masters. Vào đầu
tháng 11/2004, tại Hà Nội, NHNT Việt Nam và Tổ chức thẻ quốc tế Master
Card đã chính thức công bố phát hành hai loại thẻ mới: thẻ tín dụng mới
Vietcombank MasterCard "Cội nguồn" và thẻ ghi nợ điện tử Vietcombank
Unembossed MasterCard.
Thẻ tín dụng Masters "Cội nguồn" ra đời với những tiện ích rõ ràng dành
cho khách hàng. Đây là loại thẻ đầu tiên trên thị trường Việt Nam cho phép chủ
thẻ chi tiêu bằng cả đồng VND và USD mà không phải chịu thêm phí chuyển
đổi ngoại tệ. Điều này cũng có nghĩa là chủ thẻ cũng sẽ không phải chịu phí
chuyển đổi này ở những nước chấp nhận thanh toán bằng đồng USD. Tạo một
sự thoải mái hơn cho khách hàng chủ động trong chi tiêu, nhất là đối với những
khách hàng hay làm việc và du lịch nước ngoài. Ngoài ra, về hình thức, nét
mới của loại thẻ này là có thêm ảnh chụp của chủ thẻ nằm ở mặt sau của thẻ.
Ảnh này vừa đem lại tính an toàn cao hơn cho ngân hàng khi phát hành thẻ vì
nó giúp giảm trường hợp thẻ bị lấy cắp. Đồng thời nó có ưu điểm hơn thẻ Visa
ở chỗ, thẻ Visa có ảnh chủ thẻ ở mặt trước của thẻ, khi chủ thẻ quét thẻ qua
máy, rất dễ làm xước ảnh. Việc xước ảnh tuy không ảnh hưởng gì lắm đến việc
sử dụng thẻ nhưng lại gây khó chịu cho chủ thẻ vì thông thường họ không
muốn ảnh của mình bị hỏng. Loại thẻ Masters “cội nguồn” để ảnh của chủ thẻ
ở mặt sau bên dưới của thẻ, thuộc phần không đi qua khe của máy, vậy khi
thanh toán sẽ không ảnh hưởng gì đến ảnh chủ thẻ. Chính những thay đổi đó đã
tác động không nhỏ, giúp cho doanh số phát hành thẻ Master của năm 2005
tăng gần gấp đôi so với năm 2004.
Tất nhiên thẻ ghi nợ điện tử Vietcombank Unembossed MasterCard
không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài nhưng cần nói thêm rằng việc phát
hành loại thẻ này đã góp phần quảng bá cho MastersCard, gián tiếp giúp tăng
doanh số sử dụng thẻ tín dụng.
Với phương châm lấy việc phục vụ tối đa cho khách hàng để đạt được
mục tiêu lợi nhuận, năm 2005, NHNT Việt Nam đã tích cực nghiên cứu và
tung ra các sản phẩm mới. Điển hình là việc ra đời của thẻ tín dụng Bông Sen
Vàng - Vietcombank Vietnam Airlines American Express, gọi tắt là thẻ tín
dụng Bông Sen Vàng. Thẻ được chính thức tung ra thị trường vào tháng
4/2005, là sản phẩm liên kết của NHNT Việt Nam, Tổng công ty Hàng không
Việt Nam (Vietnam Airlines) và Tập đoàn tài chính American Express. Đây là
một liên minh thẻ tín dụng cao cấp hàng đầu ở Việt Nam hiện nay, giữa một
ngân hàng hàng đầu với một hãng hàng không lớn nhất tại Việt Nam và được
chấp nhận tại mạng lưới thanh toán trên toàn cầu của Tập đoàn American
Express. Sản phẩm thẻ tín dụng Bông Sen Vàng ra đời nhằm tới đối tượng là
khách hàng đi lại thường xuyên bằng đường hàng không. Các chủ thẻ sẽ được
tham gia vào Chương trình Khách hàng thường xuyên GLP – đây là chương
trình cộng điểm của Vietnam Airlines khi mua vé máy bay, và hơn nữa, được
công nhận là thành viên của Chương trình GLP khi sử dụng thẻ tín dụng Bông
Sen Vàng mà không cần phải thực hiện các chuyến bay cộng điểm của
Vietnam Airlines. Điểm thưởng tích luỹ sẽ mang đến cho chủ thẻ cơ hội được
sử dụng những chuyến bay, những đêm nghỉ miễn phí và sử dụng các dịch vụ
miễn phí của các đối tác tham gia các chương trình của Vietnam Airlines.
Ngoài ra, khi sở hữu thẻ tín dụng Bông Sen Vàng, các chủ thẻ còn được hưởng
dịch vụ bảo hiểm tai nạn du lịch trị giá 5.000 USD, dịch vụ bảo hiểm sức khỏe
du lịch trị giá lên đến 5.000 USD và bảo hiểm hành lý trị giá 1.000 USD.
Thẻ tín dụng Bông Sen Vàng là loại thẻ tín dụng đầu tiên trên thị trường
không yêu cầu phần lớn các chủ thẻ phải thế chấp với ngân hàng. Đồng thời,
đây cũng là loại thẻ đầu tiên mà chủ thẻ có thể có được những điểm thưởng của
hãng hàng không đối với mỗi giao dịch chi tiêu. Các chủ thẻ sẽ có được số
điểm thưởng gấp đôi khi sử dụng thẻ tín dụng Bông Sen Vàng để thanh toán và
sử dụng các dịch vụ của Vietnam Airlines và các đối tác của Vietnam Airlines.
Đối với các chủ thẻ có mức chi tiêu tối thiểu là 5.000.000 VND/tháng sẽ được
cộng 4 điểm thưởng cho mỗi 10.000 VND chi tiêu bằng thẻ. Trong 3 tháng đầu
tiên phát hành thẻ tín dụng Bông Sen Vàng các hội viên hạng Vàng của
chương trình GLP sẽ được miễn phí thường niên, các hội viên hạng Bạc sẽ
được giảm 50% phí thường niên. Trong vòng 4 tháng kể từ ngày khai trương
thẻ tín dụng Bông Sen Vàng, các chủ thẻ sẽ được tặng ngay 1.000 điểm thưởng
vào tài khoản GLP.
Việc phát hành thẻ Amex Bông Sen Vàng là một vấn đề có tính chiến
lược của NHNT Việt Nam. Với nhiều ưu điểm nổi trội, kết hợp với chính sách
thắt chặt trong phát hành, đã thực sự tạo ra sự thay đổi: so với năm 2004, lượng
thẻ Amex phát hành chỉ tăng 6% tương đương với 34 chiếc, song doanh số
phát hành thẻ Amex lại tăng tới 105%, tương đương 61789 triệu VND. Đây
thực sự là một bước đột phá lớn. Nguyên nhân của nó chính là do Vietcombank
đã đánh trúng tâm lý người tiêu dùng khi đề cao phương châm của thẻ Amex là
“chúng tôi phục vụ những người có tiền”, kết hợp với nó là việc thẩm định hồ
sơ một cách chặt chẽ, khiến việc trở thành một chủ thẻ Amex mới như là đứng
trên một “đẳng cấp” cao hơn bình thường.
Qua hai bảng 3 và 4 về tình hình phát hành các loại thẻ của
Vietcombank ta có thể thấy, bên cạnh những thành công về thẻ Amex, năm
2005 cũng chứng kiến thẻ Masters Card phát hành ra tăng đột biến về số lượng
do những thay đổi của loại thẻ này vào cuối năm 2004. Lượng thẻ Masters năm
2005 tăng gần như gấp đôi so với năm 2004, từ 2781 lên 5510 thẻ. Bên cạnh đó
thẻ Visa Card vẫn chứng tỏ sự ổn định cũng như thông dụng của nó khi lượng
phát hành ra cũng tăng tới 2000 thẻ so với năm trước. Tổng cộng, lượng thẻ
phát hành ra trong năm 2005 lớn hơn năm 2004 những hơn 5000 thẻ, một con
số chưa từng có kể từ khi bắt đầu hoạt động. Cụ thể số thẻ đạt tổng cộng là
15514 thẻ, doanh số phát hành đạt 805685 triệu đồng, cũng là con số lớn nhất
từ trước đến nay.
Về thanh toán thẻ, năm 2004 và 2005 là 2 năm có doanh số thanh toán
thẻ cao vượt bậc so với các năm trước. Cụ thể, năm 2004, doanh số thanh toán
đạt 2923,5 tỷ VND, năm 2005 đạt 4001,6 tỷ đồng. Sự phát triển này nói do rất
nhiều nguyên nhân, có thể nói thành 2 nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, uy tín
của NHNT Việt Nam đang ngày càng tăng lên trên thị trường quốc tế nhờ vào
những thành công trong phục vụ khách du lịch đến SeaGames 23. Và uy tín đó
càng tăng hơn nữa sau ngân hàng phát hành các loại thẻ có chất lượng cao như
trên. Thứ hai, phải kể đến chính sách mở cửa của Nhà nước. Với mục tiêu ra
nhập vào WTO - Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đã đẩy mạnh hội nhập
trên nhiều phương diện cả về kinh tế lẫn văn hóa xã hội. Một mặt tăng cường
xuất khẩu, mặt khác phát triển tối đa tiềm năng du lịch, đưa Việt Nam trở thành
điểm đến thiết thực của không chỉ các nhà đầu tư mà còn của mọi khách du
lịch trên toàn thế giới. Những hành động đó chính là nguyên nhân đã đem lại
cho Vietcombank những thành công vượt bậc trong lĩnh vực thanh toán thẻ tín
dụng.
Bên cạnh những thành công đó còn có một số vấn đề nổi cộm về thẻ tín
dụng được nhắc đến khá nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cụ thể,
vấn đề được nói đến nhiều nhất là vấn đề an ninh. Hàng loạt vụ việc về rò rỉ
thông tin thẻ tín dụng trên thế giới được công bố, bao gồm khoảng 13,9 triệu
chiếc MasterCard, gần 20 triệu thẻ Visa và số còn lại thuộc loại khác, trong đó
Nam đang sử dụng, nếu còn để xảy ra việc dùng thẻ giả - thậm chí là thẻ tín
dụng phát hành ở nước ngoài, để rút tiền thì chính ngân hàng sẽ phải chịu tổn
thất. Như vậy, yêu cầu về công nghệ thẻ lúc này đã là một yêu cầu hết sức cấp
thiết với các ngân hàng của Việt Nam nói chung và của Vietcombank nói riêng.
Với những thông tin ngày càng nhiều về vấn đề an ninh thẻ tín dụng cũng
như đòi hỏi của các tổ chức thẻ quốc tế, hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam đều
ý thức được rằng việc chuyển đổi công nghệ thẻ là một xu thế tất yếu để tồn tại
và phát triển lâu dài. Tuy nhiên trên thực tế, đây là một vấn đề không dễ gì giải
quyết một sớm một chiều. Nói riêng về vấn đề phát hành thẻ, chi phí phát hành
thẻ không phải là quá lớn, thậm chí cả chi phí cho việc chuyển đổi thẻ từ đã phát
hành sang thẻ chíp cũng vậy. Vấn đề ở đây là hệ thống chấp nhận thẻ chip. Đó là
yêu cầu đầu tư hệ thống máy ATM và điểm chấp nhận thẻ (POS) đa hệ với chi
phí khá lớn. Và khó khăn hơn khi sự đầu tư này phải mang tính đồng bộ không
chỉ trong bản thân mỗi ngân hàng mà còn phải cả trong những liên minh thẻ ở
Việt Nam hiện nay.
Là một trong những ngân hàng lớn nhất Việt Nam, và hiện đang dẫn đầu
về thị phần thẻ tín dụng (51%), vai trò của NHNT Việt Nam trong việc tiên
phong chuyển đổi là tất nhiên. Thực tế, việc đổi thẻ chip đã được Vietcombank
tính đến từ lâu. Ngay từ đầu Vietcombank đã chọn những thiết bị ATM và các
thiết bị thanh toán thẻ (POS) có thể chấp nhận thẻ chip. 90% máy ATM và 70%
máy POS của VCB hiện nay đã sẵn sàng chấp nhận được thẻ chip. Tuy nhiên
vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết như hoàn thiện công nghệ, cơ cấu
pháp lý, tăng cường dịch vụ,… nên NHNT đã dự kiến sẽ tung ra sản phẩm thẻ
chip đầu tiên vào cuối năm sau (2006) và hoàn tất việc chuyển đổi trong vòng
hai năm sau đó. Trong thời gian đó NHNT sẽ xúc tiến việc tăng thêm nhiều tiện
ích cho thẻ chip như: trả phí điện thoại, trả tiền các điểm bán xăng dầu, phí giao
thông... Kế hoạch đổi thẻ của Vietcombank sẽ thực hiện từ từ theo kiểu cuốn
chiếu và ngân hàng sẽ thông báo cụ thể tới từng khách hàng.
Năm 2005 đã có nhiều số liệu thống kê cho thấy thị trường thẻ Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng bình quân chung mỗi năm lên tới 300%, một tốc độ mà có
thể nói không có loại hình dịch vụ nào ở Việt Nam địch nổi. Trên thực tế sự tăng
trưởng đó phần lớn do các ngân hàng trong nước đua nhau phát hành thẻ ATM,
lĩnh vực thẻ tín dụng tuy tăng khá mạnh song vẫn chưa thể đạt được tốc độ đó.
Chính vì thế vào thời điểm này thẻ tín dụng đang là xu hướng được các ngân
hàng đẩy mạnh bởi thị trường còn quá rộng. 90% doanh số thanh toán bằng thẻ
tín dụng ở Việt Nam bắt nguồn từ du khách và người nước ngoài. 90% các
khoản chi tiêu cá nhân tại Việt Nam vẫn đang sử dụng tiền mặt. Trong tổng dân
số hơn 83 triệu của Việt Nam mới có khoảng 6 triệu người sử dụng dịch vụ ngân
hàng. Tất cả các con số thống kê trên cho thấy tiềm năng lớn lao và tất nhiên
cùng với nó là những thách thức không nhỏ của thị trường.
Vào thời điểm hiện tại những số liệu về tình hình hoạt động của hoạt động
thẻ tại Vietcombank năm 2006 chưa thể cập nhật đầy đủ và chính xác để có thể
nêu ra trong đề tài. Tuy vậy trong quá trình nghiên cứu, tôi có thể đánh giá rằng
Vietcombank cũng đang có những bước tiến chắc chắn và ổn định để tiến tới
mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu trong khu vực. Về tổng quát,
tiến trình cổ phần hoá của Vietcombank đang diễn ra khá thuận lợi khi trái phiếu
tăng vốn – trái phiếu phát hành nhằm tăng vốn điều lệ và mở đường cho cổ phần
hoá – được các nhà đầu tư đánh giá rất cao, thậm chí không có để bán trên thị
trường. Về lĩnh vực thẻ tín dụng, đã có những thông tin từ phía NHNT Việt
Nam cho thấy việc chuyển đổi thẻ chíp sang thẻ từ sẽ diễn ra sớm hơn dự kiến,
có thể là vào đầu quí 3 năm 2006. Song song với hoạt động nhằm chuyển đổi
thẻ, NHNT cũng đã tiến một bước lớn khi trở thành đầu mối thanh toán các giao
dịch thẻ Visa thực hiện trong nước. Cụ thể, quyết định số 331/QĐ-NHNN của
Ngân hàng Nhà nước đã cho phép NHNT Việt Nam được thực hiện thí điểm
thanh toán bù trừ nội địa thẻ Visa. Theo Quyết định này, Vietcombank được thí
điểm làm đầu mối thanh toán đối với các giao dịch thẻ Visa thực hiện trong
nước, hoạt động với tư cách là ngân hàng thanh toán bù trừ nội địa các giao dịch
thẻ Visa của các thành viên trong nước qua tài khoản của các ngân hàng thành
viên mở tại Vietcombank. Điều đó sẽ đem lại một số lợi ích cho không chỉ
Vietcombank mà còn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Bởi vì theo
Ngân hàng Nhà nước, việc thực hiện thanh toán bù trừ thẻ Visa nội địa giữa các
ngân hàng thành viên sẽ tiết kiệm được chi phí hoạt động do không phải trả phí
chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch thẻ nội địa cho Visa (hiện nay là
1,1%); chủ thẻ sẽ không phải chịu phí chuyển đổi ngoại tệ và chênh lệch tỷ giá
đối với các giao dịch trong nước. Ngoài ra, việc thanh toán bù trừ này cũng sẽ
tạo điều kiện cho việc phát triển các phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt ở Việt Nam. Việc thí điểm sẽ diễn ra trong vòng 1 năm.
ACB
39%
ANZ
25%
VCB EXB
32% 4%
EXB ICB
ACB
3% 1%
14% NH kh¸ c
29%
VCB
53%
thế giới sau hội nhập. Cụ thể đối với hệ thống ngân hàng nói chung với NHNT
nói riêng, việc lượng khách du lịch vào Việt Nam tăng đột biến trong 3 năm gần
đây nhờ những hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới như Festival ,
hội hè… đã làm cho doanh số thanh toán của ngân hàng tăng đáng kể. Hơn thế
nữa, vào thời điểm hiện nay, chính sách bảo hộ của Nhà nước đối với hệ thống
ngân hàng – tài chính vẫn còn hiệu lực. Ví dụ như yêu cầu ngân hàng nước
ngoài muốn mở 1 chi nhánh tại Việt Nam sẽ phải nộp 14.000.000 USD. Đây là
điều kiện rất tốt để NHNT Việt Nam cũng như các ngân hàng khác tranh thủ
thời gian chiếm thị phần cũng như tạo dựng uy tín hơn nữa ở thị trường trong
nước cũng như quốc tế.
Yếu tố thứ hai cần nói đến là xu thế của xã hội Việt Nam về việc sử dụng
thẻ. Cuối năm 2005, NHNN Việt Nam quyết định không phát hành và liên tục
thu lại tiền giấy mệnh giá nhỏ. Vào thời điểm đó mặc dù tiền xu đã được phát
hành nhưng chưa được công chúng chấp nhận nhiều. Điều đó đã gây rất nhiều
khó khăn cho người dân Việt Nam vốn quen mua bán bằng tiền mặt. Còn đối
với những người quen sử dụng thẻ thì hầu như không có vấn đề gì. Điều đó tạo
nên một suy nghĩ mới và đồng nghĩa với sự đòi hỏi về thẻ của người dân nhiều
hơn nhằm giảm bớt sự bất tiện của tiền mặt trong sinh hoạt.
Bên cạnh đó, xu thế nở rộ và phổ cập Internet trên toàn cầu đã tác động
rất lớn vào Việt Nam. Đồng nghĩa với nó là các dịch vụ mua bán qua mạng và
thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể đánh giá về thị trường này rất có tiềm năng
vì, ngay khi mới bắt đầu hoạt động thanh toán qua mạng cho khách hàng, lượng
khách hàng giao dịch qua mạng đã là 30%. Về lâu dài, khi công nghệ thông tin
của thế giới đã phát triển đồng bộ và rộng khắp thì một tất yếu sẽ xảy ra là tất cả
hàng hóa đều được mua bán qua mạng. Đây có thể coi là một lợi thế về thời đại
của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.
Yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan ở đây có thể nói đến tiềm năng và năng lực hiện tại của
ngân hàng. NHNT Việt Nam có một đội ngũ lãnh đạo tốt, có tầm nhìn, nên ngay
từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á ban lãnh đạo ngân hàng đã đồng ý
dồn sức tập trung cho việc phát triển nghiệp vụ kinh doanh thẻ tín dụng. Bởi vì
đối với một ngân hàng hiện đại việc phát triển thẻ sẽ tạo tiền đề vững chắc cho
sự phát triển của ngân hàng. Có thể hiểu một cách đơn giản, các chủ thẻ là
doanh nghiệp, công ty lớn sau khi mở tài khoản thẻ ở ngân hàng thì sẽ có xu
hướng gửi tiền và vay tiền ở ngân hàng đó. Việc phát hành thẻ sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng theo dõi tình hình tài chính của khách hàng để hạn chế rủi ro
trong hoạt động tín dụng đến mức tốt nhất. Ngoài ra, nắm bắt được xu thế của
thời đại, NHNT Việt Nam đã tiến hành một số hình thức liên kết bán hàng hóa
qua mạng. Tuy doanh số chưa cao do chỉ là thử nghiệm nhưng đã có những dấu
hiệu rất tốt, nhất là trong việc mua bán hàng hóa xuyên quốc gia do
Vietcombank đã có uy tín trong vấn đề này.
Yếu tố chủ quan thứ hai, tất nhiên bắt nguồn từ yếu tố thứ nhất, là NHNT
Việt Nam có công nghệ rất tiến bộ về thẻ. Trong khi các ngân hàng khác khi gia
nhập thị trường thẻ phải tốn rất nhiều tiền bạc và thời gian cho việc chỉnh sửa và
đồng nhất hệ thống, thì ngay từ đầu ban lãnh đạo NHNT đã xác định phải tạo lập
một hệ thống công nghệ hiện đại cho hoạt động thẻ. Đồng thời liên tục bảo
dưỡng, cập nhật công nghệ tiên tiến trên nền tảng sẵn có. Điều này tạo ra sự
khác biệt trong chât lượng dịch vụ của NHNT so với các ngân hàng khác, đồng
thời cho thấy thực lực của NHNT Việt Nam là cao hơn so với các ngân hàng
trong nước. Ngoài ra, so sánh về ưu điểm, NHNT còn có ưu điểm hơn các ngân
hàng nước ngoài trong việc phát triển thị trường. Các ngân hàng nước ngoài như
ANZ thu phí giao dịch rất lớn. Còn NHNT thì không thu phí giao dịch. Đìều đó
đi kèm với một sự tương đồng về chất lượng dịch vụ thì tất nhiên sẽ kéo khách
hàng tới NHNT nhiều hơn là tới các ngân hàng nước ngoài khác.
đúng mức về thẻ tín dụng, chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích của
mình cũng như chưa có điều kiện sử dụng nó. Số lượng chủ thẻ ít sẽ khiến cho
thị trường thẻ tín dụng khó phát triển vì có cầu thì mới có cung, thị trường mới
sôi động được. Nguyên nhân của hạn chế trên là:
Thứ nhất, do Việt Nam trình độ dân trí chưa cao nên người dân chưa nhận
thức đầy đủ tầm quan trọng và lợi ích thực sự to lớn từ việc sử dụng thẻ, thậm
chí một bộ phận khá lớn dân cư chưa biết và chưa quan tâm tới hoạt động ngân
hàng nên cũng không có hiểu biết về các công cụ thanh toán. Vì vậy, các công
cụ như: thẻ, séc…đối với nhiều người dân vẫn còn xa lạ. Hơn nữa, Việt Nam
hiện nay vẫn là một thị trường thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, tuy một số
phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như thẻ tín dụng, séc, chuyển tiền
qua ngân hàng đã được áp dụng trong một số giao dịch nhưng vẫn chưa đạt đến
mức xã hội hoá. Thêm vào đó, là thói quen tích trữ và dùng tiền mặt hàng ngày
của người dân để thanh toán cho mọi khoản chi tiêu từ nhỏ như mua rau, thực
phẩm…đến lớn như mua xe, nhà đất…Thói quen này không dễ thay đổi ngay cả
khi có những điều kiện thuận lợi cho họ. Trên thực tế ngân hàng không cần phải
tìm giải pháp trực tiếp cho nguyên nhân này bởi nó là xu hướng của thế giới và
việc người dân sử dụng các phương pháp thanh toán không dùng tiền mặt chắc
chắn sẽ diễn ra , vấn đề là nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc vào Nhà nước
Việt Nam và sự tác động của thị trường thế giới vào Việt Nam.
Thứ hai, do những nguyên nhân từ phía các ngân hàng nói chung và
NHNT Việt Nam nói riêng trong công tác marketing giới thiệu các sản phẩm
của mình tới người tiêu dùng. Thực tế, NHNT Việt Nam trước khi bắt đầu tung
ra một sản phẩm nói chung và một sản phẩm thẻ tín dụng mới nói riêng, cũng đã
tiến hành nghiên cứu và phân tích thị trường để nắm được nhu cầu của khách
hàng. Tuy nhiên những hoạt động marketing đó mới chỉ ở từng đề án riêng rẽ
chứ chưa đạt tầm tổng thể, chiến lược chung trong toàn hệ thống. Việc phân
đoạn thị trường, chiến lược phát triển và mở rộng thị phần đối với từng phân
đoạn chưa được hoạch định cụ thể. Ngoài ra việc giới thiệu sản phẩm còn hạn
chế. Chỉ khi khách hàng có nhu cầu rồi đến ngân hàng để tìm hiểu thì họ mới
biết được những sản phẩm thẻ của ngân hàng, còn nói chung, những tiện ích và
thông tin về thẻ vẫn chưa được đa số người dân biết đến. Chính vì việc để cho
khách hàng đến tìm mình hơn là tìm đến với khách hàng nên cũng làm cho đối
tượng sử dụng thẻ tín dụng còn ít bởi tâm lý ngại ngần của người dân, dẫn đến
sản phẩm thẻ của ngân hàng chưa được sử dụng ở mức tối đa.
Thứ ba, do mức ký quỹ của NHNT Việt Nam là khá cao. Khi khách hàng
muốn có thẻ tín dụng của Vietcombank và đến ngân hàng xin cấp thẻ thì phải
thế chấp tại ngân hàng một khoản tiền (có thể bằng USD hoặc VND) hoặc các
giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao như sổ tiết kiệm, kỳ phiếu... Khoản thế
chấp này ngân hàng sẽ giữ trong suốt quá trình sử dụng thẻ tín dụng và không
được dùng để trả cho các chi tiêu của thẻ. Giá trị thế chấp phải bằng 125% so
với hạn mức tín dụng yêu cầu, tức là nếu khách hàng muốn yêu cầu một hạn
mức tín dụng là 10 triệu VND/tháng thì phải ký quỹ 12,5 triệu VND. Như vậy,
với quy định này thì chủ thẻ lại phải bỏ ra một số tiền lớn hơn so với số tiền mà
mình mong muốn sử dụng qua thẻ, mặc dù số tiền này vẫn được ngân hàng tính
lãi nhưng người dân lại nhìn thấy sự phức tạp khi đến ngân hàng. Đồng thời,
mức ký quỹ này là tương đối cao và có vẻ như là không phù hợp với tâm lý
khách hàng.
2.3.2.2. Hệ thống ATM và hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tín dụng của
Vietcombank vẫn còn chưa nhiều và còn nhiều bất cập.
Đây được xem là yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến doanh thu thanh toán thẻ
tín dụng của Vietcombank, cũng là một trong những nguyên nhân của hạn chế
về đối tượng tiêu dùng đã nói ở trên.
Về hệ thống máy ATM, mặc dù hệ thống máy ATM của NHNT thuộc
diện hiện đại nhất và nhiều nhất nhưng dường như vẫn còn chưa đủ nếu nhu cầu
sử dụng thẻ ngày càng tăng. Mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ còn hạn chế.
NHNT Việt Nam hiện mới có gần 5000 ĐVCNT, các đơn vị này chủ yếu phân
bố ở các thành phố, các điểm du lịch có nhiều khách quốc tế. Trong khi đó, Việt
Nam chỉ có khoảng 20 triệu dân sống ở thành thị nên số lượng ĐVCNT phân bố
như vậy là quá ít và không đồng đều. Thêm vào đó, các đơn vị này mới chỉ hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn nhà hàng, sân bay…; phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt rất ít, còn xa lạ với phần đông người Việt Nam. Nói tóm
lại, cơ sở để phát triển hoạt động thẻ đang thiếu rất nhiều, vậy nguyên nhân của
vấn đề này là ở đâu ?
Trước hết cần phải nói rõ tình trạng của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
hiện nay trong lĩnh vực thẻ. Ta biết rằng, để phát triển hoạt động thanh toán thẻ
đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có một công nghệ thanh toán hiện đại, an
toàn, nhanh chóng và đồng bộ. Nhưng hiện nay các ngân hàng đang phát triển
thị trường thẻ một cách hoàn toàn tự phát, mạnh ngân hàng nào ngân hàng đó
làm, yếu tố quan trọng nhất chỉ là khả năng về tài chính của ngân hàng mà thôi.
Nhưng thực tế đối với hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì
không phải ngân hàng nào cũng có đủ điều kiện về vốn và công nghệ thẻ để xây
dựng một hệ thống thanh toán thẻ hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, hệ thống ATM và
hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tại Việt Nam vẫn còn quá ít và còn nhiều bất
cập. Ngay cả NHNT Việt Nam có hệ thống ATM hiện đại nhất và nhiều nhất
nhưng vẫn chưa đủ khi nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng cao. Hệ thống các
đại lý chấp nhận thẻ chỉ có tại các siêu thị hoặc nhà hàng lớn và một số cửa hàng
phục vụ khách du lịch, còn lại các điểm bán lẻ khác chưa có. Hơn nữa, hệ thống
thanh toán thẻ ATM của các NHTM rất cục bộ. Nghĩa là, thẻ ATM do ngân
hàng nào phát hành thì chỉ sử dụng được trong hệ thống máy ATM của ngân
hàng đó mà thôi và cũng không thể chuyển khoản cho người khác nếu không
cùng mở tài khoản trong cùng một hệ thống ngân hàng. Chính sự cạnh tranh
mang tính độc quyền này của các NHTM Việt Nam đã làm các ngân hàng lãng
phí tiền đầu tư cho các hệ thống máy ATM của mình thay vì có thể sử dụng
chung một máy.
Như vậy tổng kết lại, nguyên nhân của hạn chế này chính là do các ngân
hàng đã không liên kết với nhau để cùng tạo nên một mạng lưới cơ sở vững chắc
nhằm phát triển dịch vụ của cả hệ thống. Đối với NHNT Việt Nam, vấn đề liên
kết các ngân hàng lại đã được tính đến từ lâu và hiện nay NHNT đang đứng đầu
liên minh gồm 18 ngân hàng lớn nhỏ. Tuy vậy liên minh này mới chỉ tập trung
phần lớn trong công tác thanh toán đơn thuần chứ chưa chặt chẽ trong công nghệ
áp dụng cũng như phương pháp quản lý và phân bổ.
2.3.2.3. Rủi ro phát sinh trong khâu thanh toán thẻ tín dụng.
Trong khâu thanh toán thẻ tín dụng của ngân hàng rủi ro vẫn xảy ra, gây
tổn thất nhất định cho ngân hàng mà chưa có giải pháp khắc phục. Nguyên nhân
chính của vấn đề này là do:
Về luật pháp, do lĩnh vực thẻ còn là mới mẻ đối với thị trường Việt Nam
nên những quy định pháp lý nhằm bảo vệ cho cơ quan phát hành thẻ, đơn vị
chấp nhận thẻ, đơn vị thanh toán thẻ tín dụng còn lỏng lẻo và nhiều thiếu sót.
Quan hệ khách hàng – ngân hàng chưa có đủ những cơ sở pháp lý để giải quyết
thoả đáng nên làm hạn chế sự phát triển của thị trường bằng những tranh chấp
xảy ra. Bên cạnh đó, có những trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ của Vietcombank
có hành vi gian dối hoặc ngại xin cấp phép, cơ sở chấp nhận thẻ chia giá trị một
giao dịch thẻ làm nhiều hoá đơn thanh toán có giá trị nhỏ để tránh xin cấp phép
từ trung tâm thẻ của ngân hàng. Ngân hàng mặc dù biết điều đó song không đủ
cơ sở pháp lý để xử lý. Các cơ sở chấp nhận thẻ cũng chưa có nhận thức đầy đủ
về các quy định thanh toán thẻ tín dụng và chưa có kinh nghiệm trong việc thực
hiện nghĩa vụ của các bên trong thương mại quốc tế, nhất là quá trình giao nhận
hàng hoá nên rất nhiều trường hợp NHNT phải chấp nhận yêu cầu đòi bồi hoàn
cho ngân hàng phát hành.
Thẻ tín dụng là một hình thức ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao nên việc
tội phạm sử dụng thẻ giả mạo trùng với thẻ đang lưu hành của Ngân hàng Ngoại
thương là nằm ngoài khả năng phòng chống của Vietcombank. Vấn đề này đã
được đề cập đến trong phần thực trạng. Đây là loại rủi ro đặc biệt nguy hiểm và
khó quản lý nhất hiện nay đối với hầu hết các ngân hàng.
Có thể nhận thấy đây là một vấn đề mang tính toàn cầu khi các thông tin
về thẻ tín dụng được rao bán rất nhiều trên Internet. Trong thời đại khoa học
phát triển chóng mặt hiện nay, việc lấy cắp các thông tin về thẻ và chủ thẻ được
diễn ra với rất nhiều hình thức tinh vi. Ví dụ, chúng theo dõi khách hàng rút tiền
để biết mã PIN, thậm chí chúng lắp đặt camera quay lén ngay trong máy ATM
của các ngân hàng. Bọn tội phạm còn lập ra những trang web giống y hệt trang
web của ngân hàng rồi bắt khách hàng khai báo thông tin ngay trên mạng. Với
những thông tin bị lấy cắp, bọn chúng có thể dễ dàng làm giả thẻ tín dụng khi
ngân hàng thanh toán còn áp dụng công nghệ thẻ từ, bởi vì vào thời điểm hiện
nay việc sản in thẻ từ đã trở thành đơn giản đến mức khó tin, chỉ bằng một thiết
bị nhỏ như quyển sách và một cái thẻ trắng là đã có thể cho ra đời một thẻ mới y
hệt thẻ của khách hàng. Và khi khách hàng phát hiện ra tài khoản của mình bị
lấy cắp thì đã muộn. Tất cả diễn biến trên đang diễn ra liên tục trên khắp thế giới
và nếu không giải quyết càng sớm càng tốt thì các ngân hàng của Việt Nam
trong đó có Vietcombank sẽ phải gánh chịu những hậu quả lớn hơn nhiều.
2.3.2.4. Rủi ro trong khâu phát hành
Lĩnh vực phát hành thẻ tín dụng của ngân hàng Ngoại thương cũng như
của rất nhiều những ngân hàng khác đang phải đối mặt với một rủi ro lớn, đó là
tình trạng thẻ “chết “ - loại thẻ không hoạt động (non active), không có giao dịch
rút tiền ra và nạp tiền vào trong một thời gian dài sau khi mở tài khoản. Khoảng
20-30% trong số 2 triệu thẻ phát hành ở VN được liệt vào dạng "chết", trong đó
mảng thẻ tín dụng là rất đáng lo ngại vì tỉ lệ thẻ chết cao hơn nhiều so với mức
bình quân. Đối với Vietcombank, dù đang chiếm hơn 50% thị phần thẻ song
cũng vấp phải nhiều khó khăn tương tự khi phát triển thẻ tín dụng quốc tế bởi tỷ
lệ non active ở mảng sản phẩm này hiện là 30%.
Nguyên nhân của tình trạng này là, tuy dùng thẻ tín dụng rất có lợi khi
khách hàng được sử dụng vốn của ngân hàng không mất phí, song tâm lý người
tiêu dùng Việt Nam vẫn ngại mang tiếng vay tiền ngân hàng để tiêu. Vậy nên
các chủ thẻ tín dụng chủ yếu chỉ dùng đến thẻ khi đi công tác nước ngoài. Trong
tổng số 252 tỷ đồng doanh số sử dụng thẻ quốc tế quý I, tỷ lệ chi tiêu ở nước
ngoài chiếm tới 85%. Trước tình trạng chi tiêu tiền mặt nhiều của các chủ thẻ
Việt Nam, các nhà cung cấp dịch vụ và các tổ chức thẻ quốc tế như Visa Card
hay Masters Card đã phải chuyển sang ưu tiên phát triển thẻ ghi nợ nội địa và
quốc tế, điều đó làm cho hoạt động thẻ tín dụng phải giảm đi.
Mặc dù tình trạng thẻ chết chưa đến mức đáng lo ngại và là chuyện
thường xảy ra ở các thị trường mới phát triển. Song nếu không sớm khắc phục
sẽ gây lãng phí thời gian và công sức quản lý của ngân hàng, dù chi phí để phát
hành một chiếc thẻ không lớn. Để giải quyết vấn đề có lẽ các nhà cung câp dịch
vụ phải giải quyết từ gốc nguyên nhân của nó: Đó là tình trạng người tiêu dùng
Việt Nam chưa biết rõ các tính năng tiện ích của chủ thẻ, và đặc biệt, dù đã biêt
song việc sử dụng lại khó khăn do các tính năng còn hạn chế do nguyên nhân từ
phía ngân hàng. Đồng thời cũng cần phải có những cơ sở pháp lý để giải quyết
những ràng buộc về việc duy trì hoạt động thẻ của chủ thẻ đối với ngân hàng.
Trên đây là những thành công mà NHNT Việt Nam đã đạt được trong thời
gian quan cùng với những hạn chế và nguyên nhân. Ngân hàng cần nhìn nhận
vào thức tế tồn tai để đưa ra các chiến lược và giải pháp đúng đắn nhằm tăng
cường hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng cho hiện tại và tương lai.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
3.2. GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM TĂNG CƯỜNG HỌAT ĐỘNG PHÁT
HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Dựa trên những hạn chế đã trình bày ở chương 2, tôi xin được trình bày
phương hướng giải pháp cho từng vấn đề đó.
3.2.1. Giải pháp nhằm tăng cường đối tượng sử dụng thẻ tín dụng
Nguyên nhân của việc hạn chế đối tượng sử dụng thẻ như đã trình bày ở
trên gồm có sự hạn chế về trình độ dân trí và tập quán thanh toán dùng tiền mặt,
công tác Marketing của ngân hàng và nguyên nhân do chính bản thân dịch vụ.
Về trình độ dân trí và tập quán thanh toán không dùng tiền mặt thì có thể nói đây
là vấn đề nhạy cảm và khó tác động một cách trực tiếp để làm thay đổi nó. Sự
hội nhập kinh tế quốc tế và sự tăng trưởng của thị trường tài chính Việt Nam sẽ
làm thay đổi những tập quán này. Việc mà các ngân hàng như Vietcombank có
thể làm là đóng góp một cách tích cực vào sự phát triển của thị trường tài chính
bằng các hoạt động như nâng cao chất lượng dịch vụ và marketing.
Về công tác marketing và quảng bá sản phẩm, NHNT Việt Nam cần phải
có những chiến lược rõ ràng dựa trên cách làm việc khoa học. Trước hết cần
phải phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu cho sản phẩm, sau đó
phải có những chiến lược riêng cho từng nhóm khách hàng. Cụ thể như sau:
Đối với công tác phân đoạn thị trường, trước hết cần phải quan tâm đánh
giá lại những đặc điểm của thị trường Việt Nam. Thứ nhất, đối với 70% dân số
Việt Nam sống ở nông thôn và gần 60% lao động trong nông nghiệp với mức
thu nhập thấp và không ổn định, đa phần là dân trí thấp. Họ còn chưa hiểu và
hình dung được khái niệm thẻ như thế nào huống chi nói đến sử dụng. Vì vậy,
trong điều kiện hiện nay Ngân hàng Ngoại thương không nên tập trung chú ý,
hướng dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế vào phục vụ đối tượng này.
Thứ hai, đối với dân số ở thành thị cũng nên được phân loại thành 2 đối
tượng: những đối tượng có thu nhập trung bình trở xuống và những đối tượng có
thu nhập khá trở lên. Tất nhiên để phân biệt 2 đối tượng này ngân hàng có thể
thông qua các công ty làm nhiệm vụ điều tra thị trường hoặc tự điều tra nhưng
phải dựa trên những phương pháp khoa học, linh hoạt và kết hợp với tình hình
thực tế của đất nước và của từng khu vực, bởi vì thực tế việc điều tra về thu
nhập của một người bao giờ cũng là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Ví dụ, đối
tượng có thu nhập trung bình là những người có mức thu nhập bình quân từ 2
triệu đồng/tháng trở xuống. Đó là những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công,
công nhân, sinh viên,...Việc mua sắm hàng hoá và chi trả dịch vụ của những
người dân này là những khoản nhỏ lẻ, phải tính tới hàng tháng, hàng năm mới có
được 1 lần mua các đồ dùng đắt tiền...Trong số họ cũng có người đi du lịch xa
bằng máy bay, ăn nghỉ tại khách sạn, v.v... Song đó là kết quả của một quá trình
tích luỹ tiết kiệm lâu dài, hay một khoản tài chính đột xuất như quà biếu, tiền
lương, không phải là thường xuyên. Do vậy, việc phát hành thẻ cho đối tượng
này thực tế khá khó khăn và có thể nói là không kinh tế. Tuy vậy thực tế họ là
lượng khách hàng có tiềm năng do dễ được tiếp xúc với những phương tiện
thông tin đại chúng và nhiều thành phần kinh tế, nên NHNT có thể tiếp thị tới họ
những sản phẩm khác của ngân hàng hiện đại ví dụ như thẻ ghi nợ nội địa. Đây
sẽ là một cách làm khôn ngoan để nắm giữ khách hàng mà không lo lắng nhiều
về những rủi ro có tính kinh tế lớn.
Cũng trong ví dụ trên, đối tượng thứ hai sẽ là đối tượng có thu nhập khá
trở lên, tức là những người có thu nhập bình quân trên 2 triệu đồng/tháng. Đó là
những người làm việc ở trong các cơ quan nước ngoài, hay cơ sở liên doanh đầu
tư nước ngoài, hoặc một số ngành có thu nhập cao như: dầu khí, ngân hàng, bưu
điện, hàng không...; chủ doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, có
nhu cầu hay có điều kiện thường xuyên đến các siêu thị, nghỉ tại khách sạn, đi
máy bay, đi du lịch... Rõ ràng đây là đối tượng chính và có xu hướng tăng lên
trong việc sử dụng thẻ mà Vietcombank cần tập trung khai thác.
Thứ ba, đối tượng cuối cùng là người nước ngoài, bao gồm cả người cư
trú và người đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, người của các tổ chức quốc tế ở
Việt Nam, đồng thời những người không cư trú như Việt kiều về thăm tổ quốc,
khách du lịch, thương gia nước ngoài đến tìm hiểu thị trường Việt Nam, người
nước ngoài đến làm việc ngắn ngày. Đối tượng này có nhu cầu dùng thẻ thực sự
và khá đông, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm. Đây hiện đang là thị trường
lớn nhất của Vietcombank. Tuy vậy, nhóm này hay sử dụng thẻ do ngân hàng
nước ngoài phát hành, ngân hàng thường chỉ phục vụ họ hoạt động thanh toán.
Vậy nên tăng cường nâng cao chất lượng phục vụ thanh toán để thu hút họ và
phần nào có thể kéo họ sử dụng thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành.
Tóm lại, NHNT Việt Nam cần phân tích chi tiết cụ thể các tầng lớp dân
cư, các đối tượng nước ngoài cư trú và không cư trú để tìm ra được những nhóm
khách hàng tiềm năng. Từ đó có những biện pháp đẩy mạnh marketing phù hợp
để những khách hàng tiềm năng thực sự trở thành khách hàng của ngân hàng.
Sau công tác phân loại thị trường, công tác quảng cáo và tiếp thị cần phải
được quan tâm nhiều hơn nữa. Rất nhiều người dân biết rằng NHNT là một ngân
hàng tốt, chất lượng hàng đầu Việt Nam, song lại không hề biết gì về các sản
phẩm thẻ tín dụng cũng như nhiều sản phẩm khác của ngân hàng. Điều này cho
thấy công tác tiếp thị, quảng cáo thẻ và các dịch vụ về thẻ của NHNT còn chưa
hiệu quả. Đơn cử như việc, tới thời điểm hiện nay, chưa hề có thông tin quảng
cáo nào về thẻ của Ngân hàng Ngoại thương được xuất hiện trên truyền hình, và
việc in ấn các tờ rơi để giới thiệu với khách hàng về các dịch vụ chào bán, thủ
tục giao dịch... cũng thực hiện ở diện hẹp. Các đợt quảng cáo chỉ chủ yếu được
triển khai theo yêu cầu củng cố mối quan hệ giữa các báo là chính chứ không
phải nhằm mục đích hướng tới khách hàng. Thực trạng đó đòi hỏi phải có hướng
giải quyết ngay. Tôi xin đề xuất một vài ý kiến sau:
Thứ nhất, phải có từng chiến lược quảng cáo riêng đối với từng nhóm
khách hàng dựa vào kết quả phân đoạn thị trường
Trước hết đối với nhóm khách hàng mục tiêu, ngân hàng phải có những
hoạt động tiếp thị cụ thể, giới thiệu cho họ hiểu rõ về các tiện ích mà thẻ tín
dụng đem lại. Ngân hàng có thể cử một số nhân viên đến các doanh nghiệp và
công sở, nơi mà ở đó nhân viên có thu nhập cao và ổn định, để giới thiệu về thẻ
và những vấn đề liên quan đến thẻ. Đội ngũ này phải được tập huấn trước để cho
việc giới thiệu có tính thuyết phục. Nếu đội ngũ tiếp thị của ngân hàng quá
mỏng, không đủ khả năng làm việc đó, thì ngân hàng có thể sử dụng đội ngũ
sinh viên ở các trường đại học, bởi công việc tiếp thị này không đòi hỏi phải có
chuyên môn sâu về ngân hàng, Ngân hàng chỉ cần đào tạo ngắn hạn là đội ngũ
sinh viên hoàn toàn có thể đảm nhận công việc này. Việc này đã được áp dụng
tại nhiều doanh nghiệp khác nhau và thu được kết quả đáng kể, đồng thời sẽ
giảm được nhiều chi phí. Khi khách hàng đã hiểu rõ về thẻ, những tiện ích của
nó, cùng những sự phù hợp về mặt kinh tế, khách hàng sẽ không ngần ngại khi
sử dụng loại hình dịch vụ mới mẻ này.
Với những nhóm khách hàng còn lại mà ta gọi là nhóm khách hàng tiềm,
việc quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng là hết sức cần thiết. Hoạt
động này sẽ đưa thẻ dần dần thâm nhập vào nhận thức của các tầng lớp nhân
dân, tạo đà phổ biến thẻ sau này ở thị trường Việt Nam. Tất nhiên chi phí cho
mỗi lần quảng cáo là không nhỏ. Để giảm bớt chi phí quảng cáo, ngân hàng có
thể quảng cáo chung với cơ sở chấp nhận thẻ. Như thế vừa quảng cáo cho dịch
vụ thẻ của ngân hàng, vừa giới thiệu được các cơ sở chấp nhận thẻ, lại giảm chi
phí quảng cáo cho cả hai bên. Việc quảng cáo trên những phương tiện thông tin
đại chúng tuy nhiều khi không được cách đầy đủ, nhưng nhiều khi nó lại kích
thích sự tìm hiểu của họ. Thẻ là một phương tiện thanh toán hoàn toàn mới,
người Việt Nam mới hiểu biết nó qua kênh truyền hình và sách báo, coi nó như
một sản phẩm của thế giới phát triển. Khi biết thẻ đã xuất hiện ở Việt Nam,
người dân sẽ cảm thấy tò mò, và như thế kích thích được người dân tự tìm hiểu
về thẻ thanh toán.
Thứ hai, cần xây dựng hình ảnh của ngân hàng mình như một người
bạn thật sự tin cậy đối với khách hàng.
Các chương trình quảng cáo cho ngân hàng phải được chuẩn bị thật kỹ
càng, lôi cuốn và phải thực hiện liên tục. Ngoài ra các thông tin về các loại dịch
vụ chào bán, lãi suất, thủ tục giao dịch nên được thông tin dưới dạng các tờ rơi
và chuyển đến từng hộ gia đình. Hoạt động chăm sóc khách hàng cũng phải
được đẩy mạnh, bởi vì, để khách hàng đến với ngân hàng mình đã khó, làm cho
khách hàng trở thành khách hàng trung thành càng khó hơn. Chính vì vậy,
NHNT nên tổ chức thường xuyên hơn các hội nghị khách hàng, nhằm lắng nghe
ý kiến đóng góp của khách hàng, đồng thời cũng là tạo ra hình ảnh đẹp trong
công chúng về ngân hàng. Trong các dịp Lễ, Tết, hội họp nên tặng quà nhỏ xinh
xắn cho khách hàng. Tránh các món quà bị trùng lắp quá nhiều như bút bi, giây
đeo chìa khoá, áo sơ mi chất lượng kém, mẫu mã không đẹp vì có thể việc này
gây ấn tượng xấu đối với khách hàng.
Ngoài các hoạt động trên, NHNT nên tham gia nhiều hơn nữa vào các
hoạt động xã hội, như tặng quà cho trẻ em nghèo, tham gia các chương trình thể
thao văn nghệ, có quỹ học bổng giành cho sinh viên xuất sắc ở các trường đại
học, cử cán bộ chuyên môn đến nói chuyện với sinh viên ở các trường đại học.
Việc tổ chức các buổi nói chuyện này thường không tốn nhiều kinh phí, lại thu
hút được nhiều người nghe. Sinh viên là một tầng lớp rất thích tiếp thu cái mới,
hiện đại và đây cũng là một nhóm khách hàng tiềm năng của ngân hàng trong
tương lai. Sinh viên lại xuất phát từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, vì thế
có thể qua tầng lớp này phổ biến thẻ đến nhiều người khác nữa.
Trên đây là các ý kiến đóng góp của tôi vào hoạt động Marketing của
NHNT. Tất nhiên với những ưu thế và tiềm lực của ngân hàng trong thời điểm
này thì những hoạt động này không phải là khó. Vấn đề là ngân hàng phải bắt
tay vào hoạt động ngay.
Trong các nguyên nhân về sự hạn chế đối tượng sử dụng thẻ, có nguyên
nhân xuất phát từ mức ký quĩ của ngân hàng quá lớn. Ngân hàng cũng nên xem
xét vấn đề này để đưa thẻ tín dụng của Vietcombank đến gần với người tiêu
dùng hơn, tất nhiên sự thay đổi nếu có vẫn phải nằm trong lộ trình phát triển lâu
dài của ngân hàng.
3.2.2. Giải pháp cho vấn đề phát triển hệ thống ATM và các điểm chấp
nhận thẻ của NHNT
Trước khi trình bày nội dung giải pháp, tôi cần phải nói rõ rằng: Tuy thẻ
ATM không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, đồng thời đối với ngân hàng,
cụ thể là NHNT Việt Nam thì thường không khuyến khích dùng thẻ tín dụng để
rút tiền qua máy ATM (chính vì lẽ đó nên ngân hàng tính phí rút tiền mặt khá
cao), tuy nhiên, xét trong tình hình của thị trường tài chính Việt Nam với xu
hướng chung của người tiêu dùng là vẫn ưa thích tiền mặt như hiện nay, việc
nâng cấp hoàn hảo hệ thống ATM – máy rút tiền tự động là thực sự cần thiết.
Bởi ngoài việc phục vụ cho hoạt động của thẻ ATM, việc có thể rút tiền ở khăp
nơi với thẻ tín dụng nhờ một hệ thống máy ATM hiện đại sẽ thúc đẩy mạnh mẽ
lượng khách hàng tham gia.
Như phần trình bày ở chương 2 đã cho thấy rằng, thị trường thẻ tín dụng ở
Việt Nam cần phải có sự thay đổi: đó là liên kết lại. Việc thiếu liên kết giữa các
ngân hàng về mặt cơ sở vật chất, cụ thể trong hệ thống máy ATM và hệ thống
cơ sở chấp nhận thẻ, sẽ gây ra lãng phí lớn khi các ngân hàng đã phải tốn một
khoản tài chính khổng lồ để đầu tư trang thiết bị, công nghệ, nhân lực để quản lý
và vận hành cho một hệ thống máy mà mỗi máy chỉ phục vụ cho vài trăm thẻ.
Việc kết nối rời rạc cũng tạo ra sự bất tiện cho người tiêu dùng. Người sử dụng
thẻ ATM của ngân hàng này không thể giao dịch với thiết bị của ngân hàng
khác. Và nếu sử dụng chiếc thẻ chỉ để rút tiền và một vài dịch vụ khác nhưng
phải đi tìm cho được chiếc máy ATM của chính ngân hàng phát hành thẻ mới
giao dịch được, sẽ khiến cho khách hàng nản lòng vì bất tiện hơn giao dịch tiền
mặt. Vì vậy, khách hàng sẽ không còn muốn dùng thẻ nữa. Điều đó thực sự trái
với những cố gắng làm tăng đối tượng sử dụng thẻ đã nói ở trên.
Không phải các ngân hàng không nhìn thấy được sự lãng phí và bất tiện
khi chơi một mình một sân, một số ngân hàng đã liên kết với nhau. Hiện tại có 4
hệ thống liên kết chính là Connect24 của Vietcombank với 18 ngân hàng liên
kết với nhau, Công ty chuyển mạch tài chính BankNet do ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) được chọn làm đầu mối, Liên minh
Sacombank - ANZ, và Liên minh thẻ VNBC hiện có 4 thành viên. Dù đây là
những dấu hiệu cho thấy các ngân hàng đã có khuynh hướng hợp tác với nhau,
song theo nhận xét của các nhà quản lý và của chính các ngân hàng, sự liên kết
này cũng chỉ mới mang tính tự phát. Việc kết nối vẫn cứ mang tính cục bộ theo
nhóm nhỏ, và vì thế vẫn chưa phát huy được hết những dịch vụ tiện ích của máy
ATM.
Như vậy có thể nói rằng mục tiêu của phần lớn các ngân hàng là tìm ra
một sự phương thức liên kết hoàn hảo càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, với đặc thù
của Việt Nam thì còn nhiều vấn đề cần phải bàn. Bởi trước khi liên kết, các ngân
hàng đều cho rằng quan trọng nhất là giữa các ngân hàng phải có một nền tảng
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đồng nhất để có thể kết nối. Trong khi đó với
điều kiện của Việt Nam hiện nay, không phải ngân hàng nào cũng có đầy đủ
điều kiện về hệ thống kỹ thuật, nghiệp vụ và nhân sự để triển khai dịch vụ thẻ.
Chính vì vậy, giải pháp kết nối toàn hệ thống do NHNN làm đầu mối và đóng
vai trò trung tâm thanh toán bù trừ là giải pháp tốt nhất cho thị trường thẻ Việt
Nam phát triển.
Khi NHNN trở thành trung tâm thanh toán bù trừ về thẻ, hệ thống ngân
hàng sẽ có nhiều lợi ích. Một là, tiết kiệm được chi phí cho các ngân hàng khi
đầu tư mua sắm hệ thống ATM và POS. Khi đó, một máy ATM tại 1 điểm giao
dịch nào đó có thể sử dụng tất cả các loại thẻ của tất cả các ngân hàng, và mỗi
cơ sở chấp nhận thẻ chỉ cần trang bị 1 máy POS thay vì phải trang bị rất nhiều
máy của nhiều ngân hàng như hiện nay. Với các chi phí đầu vào như vậy,
NHNN có thể phân bổ cho các ngân hàng tuỳ theo số lượng thẻ của các ngân
hàng được giao dịch trên máy. Thứ hai, hệ thống thanh toán thẻ thống nhất tạo
sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vì có thể sử dụng thẻ tại bất cứ nơi nào với
mức phí thống nhất. Vấn đề còn lại của các ngân hàng là công tác Marketing và
chăm sóc khách hàng để phát hành được nhiều thẻ hơn các khác. Ba là, có hệ
thống thanh toán thẻ thống nhất mới giải quyết được yêu cầu cơ bản hiện nay là
giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Các NHTM sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp trả lương qua tài khoản và thẻ, có chính sách giảm phí cho các cá nhân
sử dụng thẻ chi trả các phí dịch vụ trong gia đình…Cũng như giảm phí thanh
toán cho các cơ sở chấp nhận thẻ...
Như vậy với NHNN mang vai trò trung tâm thanh toán, chắc chắn sẽ
được các NHTM hợp tác vì sự phát triển của thị trường, đưa dịch vụ thẻ đến với
khách hàng, từng bước xã hội hóa dịch vụ thẻ, giúp người dân làm quen với
thanh toán không dùng tiền mặt, đặt nền tảng cho việc tạo dựng nền văn minh
thanh toán tại Việt Nam.
Đây là một trong những đề xuất của tôi lên chính phủ với mục tiêu giải
quyết khó khăn về cơ sở kĩ thuật của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong đó có
Vietcombank.
Riêng đối với Vietcombank, ngân hàng chiếm hơn 50% thị phần thẻ nội
địa, chiếm đến gần 60% lượng máy ATM trên cả nước thì vai trò đầu tàu trong
chiến lược phát triển của cả nền tài chính sẽ là đương nhiên. Tất nhiên sự liên
kết này sẽ đem lại thuận lợi rất lớn cho các ngân hàng nhỏ, nhưng không vì thế
mà NHNT sẽ bị mất thị phần. Hơn thế nữa, việc liên kết với các ngân hàng trong
cả nước sẽ làm cơ sở cho mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính lớn. Vì vậy
Vietcombank một mặt phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, một mặt sẽ phải
là người đứng ra nắm vai trò liên kết các ngân hàng lại. Đây là một nhiệm vụ
khó khăn, tuy nhiên với khả năng của mình, chắc chắn NHNT Việt Nam sẽ
thành công.
3.2.3. Giải pháp cho vấn đề rủi ro phát sinh trong khâu thanh toán.
Với các vấn đề rủi ro trong khâu thanh toán, giải pháp trước hết là phải
kiến nghị lên NHNN nhanh chóng ban hành một hệ thống pháp lý chặt chẽ và
minh bạch nhằm bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng và chủ thẻ. Vấn đề này cần
phải được triển khai càng sớm càng tốt để làm cơ sở giải quyết những tranh chấp
giữa các bên tham gia. Đồng thời phải có những biện pháp xử lý mạnh mẽ đối
với những chủ thẻ hoặc cơ sở chấp nhận thẻ cố tình làm trái gây ra tiêu cực
trong hoạt động. Cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép NHTM được lập
quỹ phòng ngừa rủi ro cho nghiệp vụ thẻ thành lập quỹ dự phòng rủi ro cho
nghiệp vụ thẻ tín dụng, thành lập bộ phận quản lý phòng ngừa rủi ro chung cho
các ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán thẻ và nên nằm trong trung tâm
phòng ngừa rủi ro của NHNN. Qua đó, các NHTM Việt Nam có thể tham khảo
được các thông tin cần thiết về khách hàng liên quan đến phát hành và thanh
toán thẻ. Bộ phận này cũng là đầu mối quan hệ chống tội phạm trong nước và
quốc tế để có sự phối hợp giúp đỡ cho các ngân hàng một cách kịp thời khi gặp
các trường hợp rủi ro hay giả mạo. Hiện tại ở NHNT đã thiết lập quỹ phòng
ngừa rủi ro nhưng quỹ này chủ yếu là bù đắp những khoản rủi ro tín dụng.
Ngoài ra cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước phải thường xuyên hơn nữa
tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về phòng chống rủi ro
trong thanh toán thẻ tín dụng cho các ngân hàng thương mại cùng tham gia; giới
thiệu để các ngân hàng thương mại thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ,
cùng các ngân hàng thương mại trao đổi kinh nghiệm, giải quyết khó khăn phát
sinh trong quá trình thực hiện. Đồng thời trong thời kỳ chuẩn bị cho việc gia
nhập nền kinh tế thế giới, đề nghị NHNN cho phép các ngân hàng thương mại
Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định nhằm tăng tính cạnh
tranh cho các ngân hàng Việt Nam trong phát hành và thanh toán các loại thẻ tín
dụng trước khi các ngân hàng lớn của nước ngoài chính thức vào Việt Nam.
Riêng đối với vấn đề thẻ giả thì trên thực tế, thậm chí tại các quốc gia có
thị trường tài chính và khoa học kỹ thuật cực kỳ phát triển cũng chưa thể tìm ra
một biện pháp nào về mặt công nghệ có độ an toàn 100%. Bọn tội phạm với
năng lực ngày càng cao không thua kém gì các chuyên gia công nghệ ngân hàng,
cộng với thủ đoạn vô cùng tinh vi và đa dạng, thực sự có khả năng ăn cắp tiền
trên các tài khoản thẻ tín dụng. Khi tại Việt Nam chỉ mới xuất hiện hình thức lắp
đặt máy camera vào ATM để ăn cắp thông tin rồi làm giả thẻ từ, thì trên thế giới
bọn tội phạm đã có thể đánh cắp dữ liệu của khách hàng trên đường truyền dữ
liệu từ đơn vị chấp nhận thẻ (tức là nơi bán hàng hoá, dịch vụ về ngân hàng)
hoặc cả trên tổng đài điện thoại nơi ngân hàng phải thuê đường truyền (wire
tapping). Và sau khi đã mất cắp dữ liệu trên thẻ thì việc cho ra đời một thẻ giả,
thậm chí là thẻ chip, chỉ còn là công đoạn thủ công. Nói như vậy để thấy rằng
đây thực sự là một vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều. Và tạm thời,
chúng ta vẫn phải chấp nhận công nghệ hàng đầu trên thế giới hiện nay là công
nghệ thẻ chip.
Công nghệ thẻ chip ( SmarCard) đã được đề cập đến trong chương 2, về
cơ bản có thê tóm tắt lại như sau: Với một con chip nhỏ xíu gắn trên thẻ, lưu giữ
toàn bộ thông tin về khách hàng cũng như số liệu về tài khoản của khách hàng
như một máy vi tính nhỏ, thẻ chip cho phép bảo mật cao đối với tài khoản của
khách hàng hơn rất nhiều lần so với thẻ từ. Các giao dịch thực hiện ngay tại các
đại lý không kết nối trực tuyến với ngân hàng phát hành vẫn được chấp nhận,
điều này giúp hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Bên cạnh đó cơ chế quản lý thông
tin giao dịch của thẻ chip giúp cho ngân hàng phát hành vẫn có thể kiểm soát
đầy đủ các đại lý, dù nền tảng viễn thông thấp hơn. Điều đó tạo điều kiện thuận
lợi triển khai mở rộng qui mô dịch vụ. Đồng thời thẻ chip còn làm giảm giá
thành duy trì hoạt động của hệ thống hỗ trợ giao dịch. Cụ thể, do khối lượng các
giao dịch trực tuyến là rất lớn, mà chủ yếu là phụ thuộc vào chi phí viễn thông.
Việc giảm thiểu số lượng giao dịch trực tuyến sẽ hạn chế đáng kể các chi phí
này. Khi sử dụng thẻ chip, không những chất lượng thẻ được cải thiện, mà còn
nâng cao hiệu quả việc xử lý các giao dịch loại trừ, giao dịch thanh toán, tăng
cường lợi nhuận
Vietcombank đã đưa ra lộ trình chuyển toàn bộ thẻ bao gồm thẻ tín dụng
và thẻ ghi nợ làm bằng công nghệ từ sang thẻ chip. Tuy vậy nhiều khả năng phải
đến hết năm 2008 lộ trình mới hoàn tất. Và chúng ta cũng biêt rằng do thẻ chip
chưa phải là công nghệ hoàn hảo nên ngay từ bây giờ NHNT sẽ phải áp dụng
các biện pháp sau:
- Trung tâm thẻ của ngân hàng luôn đưa lên và cập nhật Danh sách thẻ
cấm lưu hành thuộc khu vực phát hiện ra việc sử dụng thẻ giả với thời gian tối
thiểu 60 ngày. Khi cần thiết, có thể đưa thẻ lên Danh sách thẻ cấm lưu hành của
3.2.4. Giải pháp cho vấn đề rủi ro trong khâu phát hành
Rủi ro trong khâu phát hành đã để cập đến ở chương 2, chính là tình trạng
“thẻ chết” phổ biến hiện nay. Tình trạng này băt nguồn từ nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân lớn là do khâu marketing tuyên truyền của các ngân hàng
còn yếu kém dẫn đến việc khách hàng không biêt hết tính năng tiện ích của thẻ,
thậm chí cho rằng thẻ tín dụng chỉ dùng để rút tiền khi đi ra nước ngoài. Còn dối
với những khách hàng hiểu về thẻ tín dụng và cũng thực sự có nhu cầu thì lại
gặp phải han chế là mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ chưa rộng rãi, các dịch vụ đi
kèm còn ít, thậm chí thanh toán hàng hoá, dịch vụ còn phải chịu phụ phí. Tất cả
những nguyên đó đã khiến cho nhiều chủ thẻ để thẻ “chết”.
Vấn đề cải thiện hoạt động marketing và tăng cường cải tiến chất lượng
dịch vụ đi kèm đã được nói đến ở phần trên, tôi không đề cập lại nữa. Còn một
vấn đề là những đòi hỏi về pháp lý để làm cơ sở cho việc giải quyết những ràng
buộc về việc duy trì hoạt động thẻ của chủ thẻ đối với ngân hàng, xin được đề
nghị lên Ngân hàng Nhà nước. Mong NHNN sẽ sớm hoàn thành không chỉ luật
về vấn đề này mà còn về toàn bộ hoạt động thẻ tín dụng của ngân hàng để thuận
tiện hơn cho các NHTM trong việc phát triển hoạt động thẻ.
Ngoài ra cần nhấn mạnh rằng đây là một vấn đề lớn của cả chung hệ
thống ngân hàng, trong đó NHNT Việt Nam ảnh hưởng nhiều nhất. Vì vậy ngoài
việc cải thiện tình trạng bằng các biện pháp trên, NHNT cũng cần phải phối hợp
với các ngân hàng trong công tác quảng bá hay tăng cường dịch vụ. Điều đó sẽ
giúp cho các khách hàng có thái độ tích cực hơn trong việc sử dụng thẻ, thực sự
đem lại sự phát triển về chất cho thị trường.
KẾT LUẬN
Thẻ tín dụng ngày càng khẳng định vai trò và những ưu thế so với phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác. Thanh toán bằng thẻ tín dụng không
chỉ đem lại lợi ích cho các chủ thể phát hành (ngân hàng, các công ty tài chính),
cơ sở chấp nhận và người sử dụng thẻ, mà còn đem lại những lợi ích quan trọng
đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Việc sử dụng thẻ tín dụng đã làm giảm khối
lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá và tiền
tệ, tăng cường khả năng kiểm soát của các cơ quan chức năng của Nhà nước,
hạn chế tiêu cực xã hội và là một bước tiến tới xã hội văn minh.
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, việc đẩy mạnh và
phát triển thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam là đúng thời điểm và rất cần
thiết. Là một trong những ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt Nam,
NHNT đã chú trọng và có những đầu tư đặc biệt cho hoạt động phát hành và
thanh toán thẻ. Thành công bước đầu cho thấy, Ngân hàng có số lượng khách
hàng sử dụng thẻ là cao nhất; đồng thời, đây cũng là Ngân hàng luôn dẫn đầu về
doanh số phát hành cũng như thanh toán. Tuy nhiên để đáp ứng cho yêu cầu
tăng cường hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, NHNT cần tiếp tục khuyến
khích đầu tư cũng như nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp đã được đề cập.
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................1
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THẺ TÍN DỤNG.............2
1.1.1 Khái niệm...............................................................................................2
1.1.2 Đặc điểm cấu tạo của thẻ tín dụng.........................................................2
1.1.3 Phân biệt thẻ tín dụng và các loại thẻ khác............................................3
1.3. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG THẺ TÍN DỤNG......5
1.3.1. Tổ chức thẻ quốc tế..............................................................................5
1.3.2. Ngân hàng phát hành thẻ......................................................................6
1.3.3. Chủ thẻ.................................................................................................6
1.3.4. Ngân hàng thanh toán thẻ.....................................................................7
1.3.5. Cơ sở chấp nhận thẻ.............................................................................7
1.4. LỢI ÍCH CỦA THẺ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ VÀ NỀN
KINH TẾ............................................................................................................8
1.4.1. Lợi ích của thẻ đối với chủ thẻ.............................................................8
1.4.2. Lợi ích của thẻ đối với ngân hàng phát hành thẻ.................................9
1.4.3. Lợi ích của thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ.......................................11
1.4.4. Lợi ích của thẻ đối với nền kinh tế.....................................................11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM..............................................20
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM..............................................30
2.2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng trong giai đoạn 1990
đến 2003........................................................................................................30
2.2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng từ 2004 đến nay.......42
2.3. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NHNT VIỆT NAM.....................................49
2.3.1. Thành công.........................................................................................49
2.3.2. Hạn chế..............................................................................................53
2.3.2.1. Đối tượng sử dụng thẻ tín dụng còn hạn chế................................53
2.3.2.2. Hệ thống ATM và hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tín dụng của
Vietcombank vẫn còn chưa nhiều và còn nhiều bất cập............................55
2.3.2.3. Rủi ro phát sinh trong khâu thanh toán thẻ tín dụng.....................56
2.3.2.4. Rủi ro trong khâu phát hành.........................................................57
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
VIỆT NAM.........................................................................................................59
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM..............................................59
3.1.1. Phát triển sản phẩm mới.....................................................................59
3.1.2. Về xúc tiến khách hàng......................................................................59
3.1.3. Phát triển công nghệ...........................................................................60
3.2. GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM TĂNG CƯỜNG HỌAT ĐỘNG PHÁT
HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM.....................................................................................60
3.2.1. Giải pháp nhằm tăng cường đối tượng sử dụng thẻ tín dụng.............60
3.2.2. Giải pháp cho vấn đề phát triển hệ thống ATM và các điểm chấp
nhận thẻ của NHNT.......................................................................................64
3.2.3. Giải pháp cho vấn đề rủi ro phát sinh trong khâu thanh toán............67
3.2.4. Giải pháp cho vấn đề rủi ro trong khâu phát hành.............................69
KẾT LUẬN.........................................................................................................71