Professional Documents
Culture Documents
SF 30/08 /201 8
Cùng với tranh của Dofresh, eddie-mendoza, Ellysiumn, FlorentLlamas, jfliesenborghs, martydesign, przemek-duda, rich35211,
RobinTran, Tryingtofly; và phim của Guillaume Rio Fournigault, Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro & Kevin Wilson.
Ảnh bìa: Thomas Pringle.
Thực hiện bởi
SFVN (từ đây về sau gọi là “Tạp chí”) là tạp chí điện tử hoàn toàn phi lợi nhuận, ra đời với mục đích giúp độc giả Việt Nam trở nên yêu
thích hơn dòng văn khoa học viễn tưởng (còn gọi là khoa học giả tưởng, khoa huyễn). Tạp chí có sử dụng những nội dung được những
người thực hiện Tạp chí (từ đây về sau gọi là “Nhóm thực hiện”) biên tập từ nhiều nguồn và được ghi chú nguồn ở phần “Credits” của
Tạp chí. Nếu bạn là chủ sở hữu hoặc nắm giữ quyền lợi pháp lý liên quan đến các nội dung sử dụng trong Tạp chí và muốn thay đổi cách
nội dung của mình được ghi nguồn hoặc muốn Nhóm thực hiện ngưng sử dụng các nội dung của bạn trong các Tạp chí tiếp theo, hãy
liên hệ với Nhóm thực hiện qua địa chỉ thư điện tử: scifivietnam@gmail.com.
SFVN (herein called “The Magazine”) is an entirely non-profit electronic magazine, created for the sole purpose of fostering interest in the
science fiction (also called Sci Fi or SF) genre among Vietnamese readers. The Magazine features contents that were curated and edited by
the creators of The Magazine (herein called “The Creators”) from multiple sources and were given credits in the “Credits” section of The
Magazine. If you are the owner(s) of or hold legal right(s) to any of the contents featured in The Magazine and wish to change how your
content(s) are credited or want The Creators to stop using your content(s) in future issues of The Magazine, please contact The Creators
at this email address: scifivietnam@gmail.com.
Bạn đừng quên ủng hộ những nhà văn, những người nghệ
sĩ đã tạo ra những câu chuyện và bức hình có trong tạp chí
bằng cách tìm đọc truyện gốc, xem hình gốc nhé!
Link gốc của những truyện dịch và hình ảnh sử dụng được
ghi ở mục Credits.
SFVN
SỐ
22
78 Genetics Lab
82 Go your way
84 The Bows
86 Arriving
90 Tropics Sci Fi
92 Empty
94 The invasion
C
HƯA AI TỪNG THẤY MẶT CỦA TATTER
D’MaLeon. Ngay cả những người tin bà ta chỉ là một
huyền thoại cũng đồng ý rằng nhân vật này luôn đeo
mặt nạ. Đó là tất cả những gì mọi người đồng ý được với
nhau về bà ta. Mặc dù “bà ta” thường được gọi bằng đại từ
nhân xưng nữ, ngay cả giới tính của Tatter cũng không rõ
ràng, và cả việc liệu bà ta có phải là người không, tuổi tác thế
nào, và liệu bà ta có tồn tại hay không.
Đám chính trị gia muốn dùng ngày nào thì tùy, nhưng
tất cả mọi người khác đều biết trong lòng là trạm không có
ngày xuất xứ cụ thể. Và Tatter D’MaLeon đã ám mọi khung
và tháp, sàn dưới và ống dẫn, các khoang và nơi lưu giữ bị
lãng quên, kể từ những ngày đầu tiên, bất kể đó là ngày nào.
Anh không phải một người đẹp trai gì cho cam, nhưng
xét cho cùng, trong cái thời ai cũng có thể tùy ý thay đổi
ngoại hình của bản thân nếu muốn, những thứ như vậy đã
trở nên kém quan trọng hơn hẳn. Jurgen Haines sở hữu một
lòng đam mê đầy nhiệt huyết, đến mức thừa cả ra, thế nên
anh rất dễ dàng thu hút người khác, ngay cả ở đây, bên trong
một trong những quầy rượu đẳng cấp nhất của trạm.
08
“Ồ, không!” Sera Mina phản đối. Cô là một chuyên gia
thủy canh, một mùa nọ đến đây chăm lo cây cối trong bồn,
và sau đó cắm rễ luôn ở trạm. “Tatter cũng thật chẳng kém
gì cái bàn này.”
Jurgen rất lịch sự, biết rất rõ mình là người mới đến nên
không thể công khai chế nhạo, nhưng vẻ hồ nghi của anh
vẫn cứ lộ ra. Nhưng lúc nói, anh chọn cách trung lập, một
phương án không bao giờ tồi trong cộng đồng Trạm Ghép
nối, hoặc “Nối,” đa dạng này. Tất nhiên, trạm có một cái
tên chính thức, “Nơi cư trú Kỷ niệm Ngoài hành tinh John
Glenn,” nhưng khi vành đai lườn còn chưa xây xong thì biệt
danh kia đã thay thế nó rồi, và ngay cả các chính trị gia cũng
hiếm khi sử dụng tên chính thức.
Jurgen chống chế ngay lập tức. “Và chủ động chút thì
có chết ai đâu?”
09
“Tất nhiên là không sao,” Beau Fourz đáp, anh chàng
phi công cyborg nghe lỏm nãy giờ trong lúc nạo ghèn khỏi
mắt. “Thế anh tìm thấy gì lúc đi tra Tatter D’MaLeon?”
“Ôi, không đến mức thế đâu,” Beau nói, dựng một hộp
trường lực lên để có thể tiếp tục chăm móng tay mà không bị
văng rôbốt nano đi lung tung. “Luôn có một vài điểm đồng
nhất — chẳng hạn như chưa ai từng thấy mặt của Tatter
D’MaLeon.”
10
“Bà ta luôn đeo mặt nạ à?” Jurgen nói với giọng không
hẳn là chế nhạo, bởi lẽ bên dưới cái vẻ nhạo báng giả vờ của
anh lại là một sự hứng thú vô cùng. “Nghe như một câu
chuyện về siêu anh hùng: Chiến binh Vũ trụ Cô độc.”
“Như kiểu một chiếc vòng tay, mặc dù bùa của Tatter
thường nằm đâu đó trên bộ đồ của bà ta. Có ba món: một
mảnh trăng lưỡi liềm mỏng, trên gắn những mẩu đá quý
xanh kỳ lạ…”
“Quá nhạt so với ngọc lục bảo, quá xanh so với ngọc
thạch,” Beau đế thêm.
11
“Sao cũng được. Tôi từng nghe người ta tả mấy mảnh
đá gắn trên miếng trăng lưỡi liềm kia là ngọc bích xanh cắt
thành những tinh thể tí hon lởm chởm, lấp lánh hắt sáng
lại.”
“Tùy vậy.” Sera đảo cặp mắt nâu sẫm của mình. Cô
quay trở về với Jurgen. “Bùa vật còn lại của Tatter D’MaLeon
được gọi là Hai Mảnh Tám. Một mảnh là một ngôi sao tám
cánh, xòe ra quanh một tâm điểm có hình dạng như một con
mắt người. Đồng tử của nó là một viên đá quý màu hồng
đục.”
“Tôi thích mảnh còn lại hơn,” Beau chen vào. “Nó là
một chiếc la bàn, làm từ bạc và vàng, nhưng — mặc dù các
hướng đều được ghi rõ ràng — chiếc la bàn đó hoàn toàn vô
dụng, bởi lẽ nó không có kim.”
“Sao thế, mảnh này không đá quý à?” Jurgen hỏi, vẫn
cố tỏ vẻ chế nhạo, nhưng thất bại thảm hại.
12
vật Tatter kia. Căn cứ trên những gì sếp của tôi nói, tôi có
cảm tưởng cái giá là một vấn đề quan trọng.”
“Một thang giá,” Jurgen nói. “Kể cũng hợp lý, mặc dù
từ trước đến nay tôi toàn thấy mình sẽ dễ tìm việc hơn nếu
có bảng giá rõ ràng.”
“Ồ, tôi đồng ý!” Beau nói với mức hào hứng hơi cao so
với một câu tầm thường như vậy. Nếu đó có thể trở thành
xuất phát điểm để câu chuyện lái sang thị trường việc làm và
rời xa đề tài một người thậm chí có khả năng còn không tồn
tại, và nếu hai trong số ba người tham gia được cảm thấy nhẹ
nhõm, thế thì đã làm sao?
13
Mọi chuyện bắt nguồn từ một cô gái. Vấn đề sẽ luôn là
một cô gái chừng nào trên đời còn có nữ với nam và nam với
nữ và nữ với nữ và đủ kiểu kết hợp mà các bộ phận nhân tạo
và công cụ phẫu thuật có thể thực hiện được. Nhưng trong
trường hợp này, cô gái ấy chỉ là một cô gái, đơn thuần là một
cô gái thôi. Tên cô là Marguerite, nhưng cô thường được gọi
là Rita.
Anh đến Idle Hour cùng với một người ở chỗ làm. Họ
vừa mới gọi đồ uống thì Jurgen nhìn thấy Rita.
Việc cô có xinh đẹp hay không thì cũng còn tùy, bởi
lẽ vẻ đẹp là vấn đề liên quan đến quan điểm cá nhân và gu
tuổi tác. Việc Rita trông ấn tượng thì không có gì để bàn
cãi. Nó không nằm ở chỗ da cô trắng hay sậm màu, hay đầu
cô trông như thế nào hay lông mày có gì đáng chú ý không.
Chính sự tổng hòa giữa các yếu tố tạo nên toàn bộ cô gái ấy
đã khiến cho Jurgen Haines, Kỹ sư (Cấu trúc) Hạng mục
Hai, với tiềm năng trở thành Kỹ sư Hạng mục Một, bất giác
dịch tư thế để ngắm nhìn người phụ nữ vô danh trong lúc
14
cô nghiền ngẫm các file dữ liệu (hay anh đoán thế) trên một
màn hình bàn tay.
Rita là một nhà địa chất học, đồng thời rất quan tâm
đến cổ sinh vật học và sinh học vũ trụ. Cô làm việc cho một
nhóm khai khoáng tiểu hành tinh để kiếm sống, đồng thời
tìm kiếm bằng chứng người ngoài hành tinh có tồn tại. Nói
tóm lại, cô là một người mơ mộng và đầy lý tưởng, nhưng
cũng đủ thực tế để có ba bằng tiến sĩ liên kết. Sau nửa tiếng
chuyện phiếm, Jurgen Haines đã như bị sét đánh. Nếu nhớ
rằng “sét đánh” còn mang nghĩa “bị thương,” “bị ăn đòn,”
và “bị tổn hại,” bạn sẽ biết anh vừa vướng phải chuyện gì.
Tình yêu có thể khiến người tỉnh táo nhất trở nên thiếu
tỉnh táo. Hãy nhớ lấy điều này. Đây là một điểm quan trọng.
15
Khi không đi làm hay đi cùng Rita, Jurgen lang thang
khắp Trạm Nối. Khu nào càng vắng vẻ thì anh càng thích.
Có phải anh đi tìm Tatter D’MaLeon không? Nếu được hỏi,
anh sẽ không thừa nhận. Tuy nhiên bất kể là vô tình hay hữu
ý, anh đã tìm thấy bà ta.
Nhưng riêng chiếc mặt nạ thì chắc chắn chỉ có thể là của
Tatter D’MaLeon. Mặt nạ và các thứ tương tự không phải là
điều hiếm gặp trên các trạm vũ trụ. Nhiều người muốn đảm
bảo mình có bộ hỗ trợ hô hấp. Một số người thì phải làm việc
với màn hình ảo, để cho tay được thoải mái sử dụng dụng
cụ. Một số khác — chẳng hạn như viên phi công cyborg mà
Jurgen đã quên — có mấy bộ cấy giúp họ thực hiện một số
công việc được dễ dàng hơn. Khi đã gắn đủ thứ lên mặt, bất
kể có cố ý hay không, người ta sẽ đeo mặt nạ.
Mặt nạ của Tatter thì không ô hợp như vậy. Đây là một
thiết bị che kín mặt, ban đầu trắng như tuyết hay xương hay
giấy mới chưa dùng, được đúc theo dạng mặt phụ nữ cách
16
điệu. Mấy hình ôvan trông như giọt nước mắt dùng làm lỗ
nhìn là thứ duy nhất làm gián đoạn bề mặt phẳng lý, nhưng
khi nhìn kỹ hơn thì có vẻ đã có vài lỗ khác được khoan gần
mũi và miệng, chắc là để hít thở cho dễ.
Thay lời đáp, nhân vật đeo mặt nạ kia thọc một bàn tay
mang găng (găng tím với các nút ngọc trai ở cổ tay, trên vải
bê bết những vệt dầu óng ánh) vào trong một chiếc túi trên
17
bộ đồ và rút ra một thẻ dữ liệu bát giác. Với một cử chỉ điệu
nghệ, cô đưa nó cho Jurgen.
Trong lúc Jurgen còn đang đọc lại tấm thẻ, chiếc mặt
nạ nói. Giọng bà ta nghe rất khác thường, cao nhưng không
chóe, mang âm sắc nữ cao, nhưng lại có kiểu nhấn nhá khiến
cho nghe như thể tiếng Anh không phải ngôn ngữ gốc của
người này — câu hỏi đặt ra là liệu có ngôn ngữ Trái Đất nào
có vinh dự là ngôn ngữ gốc của bà ta không.
“Thế nào? Ngươi có định nói tại sao ngươi lại đến đây
không? Không phải mọi kẻ lang thang đều lạc đường, nhưng
Tatter ngạc nhiên là ngươi trông có vẻ rất không lạc lõng.”
“Cô ta chết chưa?” cái giọng ngân nga khác thường kia
đáp. “Lời lẽ của ngươi ám chỉ rằng sự thật không phải vậy.”
“Ôi, Rita vẫn còn sống, vẫn còn sống nhăn, nhưng vì
mải mê với sứ mệnh của mình mà cô ấy không chú ý gì đến
tôi. Tôi đã kể cho bà nghe về sứ mệnh đó rồi đấy.”
18
“Đam mê của cô ta là bằng chứng về người ngoài hành
tinh. Cô ta sống vì nó, nhưng ngươi không thấy thế là đủ?”
Đằng sau chiếc mặt nạ, đôi mắt lấp ló... Chúng màu
nâu à? Hay xanh? Hay pha trộn giữa cả hai? Hay giống như
chỗ đá quý trên mặt nạ, không phải cả hai? Bất kể màu sắc
của chúng có là gì, chúng cũng vừa cử động như thể chớp
mắt.
19
Không chỉ mỗi các tài liệu mở, mà ngay cả các tài liệu
lưu trong tệp tin riêng của anh cũng bị thay đổi. Đến cả in
ra cũng có vấn đề. Chỉ một phần nhỏ chữ được in lên các
tờ giấy đắt đỏ. Và ngay cả những mảnh giấy in đó cũng rất
hay biến mất. Nhưng, ngay cả với ký ức con người khiếm
khuyết và hạn chế của mình, Jurgen đã hình thành được một
hệ thống các câu chuyện mà anh tin là sự thật.
Thế nên, khi Tatter hỏi anh có muốn biến vấn đề của
mình thành vấn đề của bà ta không, Jurgen ngần ngừ, nhưng
nghe thấy bản thân bốc đồng nói, “Có.” Anh bổ sung một
cách cẩn thận hơn. “Có khi, có khi tôi muốn bà biến vấn đề
của tôi thành vấn đề của bà. Bà hiểu ‘có khi’ là sao chứ?”
“‘Có thể,’” bà ta đáp lại rất nhanh, dãn dài giọng, khiến
cho nghe giống như “cóa-thể,” “Ta hiểu. ‘Có khi’ là từ tạo
điều kiện đối với một hay nhiều giao kèo được thực hiện. Nó
tương tự với ‘có khả năng,’ ‘có thể,’ cho thấy vấn đề phức tạp
đến mức nào.”
20
“Đúng rồi,” Jurgen nói. “Để tôi giải thích. Khi tôi nói
tôi không muốn sống mà không có Rita, tôi không muốn
nói là mình muốn chết. Tôi cũng không muốn cô ấy chết.
Tôi muốn cả hai chúng tôi cùng được sống. Cùng nhau.
Không thể chia cắt. Tới lúc xuống suối vàng. Tôi muốn thời
gian xuống suối sẽ phải còn lâu mới đến.”
Thay vào đó, anh nói, “Và tôi muốn chúng tôi có cơ
hội được hạnh phúc bên nhau. Tôi không muốn một giải
pháp khiến cho cô ấy ghét tôi.”
“Cẩn thận. Hết sức cẩn thận,” Tatter D’MaLeon đáp lại
với một giọng nghe đầy tình cảm, mặc dù cái kiểu nhấn nhá
trong giọng bà ta nghe lạ đến mức khó mà biết chắc được.
“Ta chấp nhận các hạn chế này nếu ta biến vấn đề của ngươi
21
thành của mình. Bây giờ, hãy chờ một chút để Tatter thu
thập thông tin bổ trợ.”
22
Tatter quan sát, mắt bà ta ẩn đằng sau chiếc mặt nạ.
“Thú vị đấy,” bà ta nói, gập ngón tay lại quanh bùa vật.
“Đây chắc chắn cũng là một vấn đề trăng xanh.”
Bà ta tháo mảnh trăng lưỡi liềm với bàn tay còn lại ra,
sau đó nhẹ nhàng áp nó lên môi dưới của Jurgen, bên dưới lỗ
mũi của anh, bên trên mắt phải của anh, và bên trong vành
tai trái của anh. Cuối cùng, bà ta bỏ miếng mặt trăng vào mớ
bùa vật hiện đã được nắm trong lòng bàn tay.
“Đợi đã!” Jurgen nói, giơ tay lên như thể để chặn nhân
vật mang mặt nạ kỳ lạ đang đứng khựng lại trước mặt mình.
“Cái giá! Giá để bà tiếp nhận vấn đề của tôi và tìm giải pháp
cho nó là gì?”
23
Gen. Những thứ gen chúng ta có còn tinh tinh thì không?
Kiểu vậy?”
Căn cứ vào cách đôi vai khoác thổ cẩm vàng chùng
xuống, Jurgen nhận thấy lời đáp của mình đã gây thất vọng.
Anh thử trả lời lại.
“Về việc tại sao con người tồn tại, à, đó là một câu hỏi
mang tính triết học. Tôi chỉ là một kỹ sư lang bạt thôi. Không
giỏi chuyện đó đâu. Tôi tin con người tồn tại để duy trì nòi
giống, hệt như bao loài động vật khác.”
Nhưng phản ứng của Tatter lại là một tiếng thở nghe
rất rõ, một thở dài, lần đầu tiên khiến cho Jurgen cảm thấy
chắc chắn rằng đằng sau chiếc mặt nạ là một con người còn
sống. “Nếu không thể trả lời thì tức là ngươi sẽ không thể
trả lời. Tatter cũng chấp nhận các loại tiền thông dụng. Hãy
nhìn vào tấm thẻ ta đã đưa cho ngươi. Con số trên đó có
chấp nhận được không? Bây giờ hãy đặt cọc một khoản nhỏ.
Ta sẽ muốn được thanh toán đầy đủ khi ngươi chấp nhận
giải pháp ta đưa ra cho vấn đề của chúng ta.”
24
Jurgen liếc nhìn xuống tấm thẻ. Các dòng chữ ban đầu
đã biến mất, bị thay thế bởi một con số mà anh thấy thấp vô
cùng.
Anh đang bấm đồng ý đặt cọc thì Tatter D’MaLeon nói
tiếp. “Các chi phí sẽ do ngươi trả, nhưng tất cả sẽ phải được
ngươi chấp nhận trước.”
“Nếu ta tìm được một giải pháp phù hợp với ngươi thì
rồi,” Tatter nói rõ. “Giữ tấm thẻ đi. Nó sẽ cho ngươi biết
thời gian và địa điểm gặp lại ta. À, nếu quý trọng Rita của
ngươi, hãy đến một mình. Như ngươi có thể đã biết, ta rất
ngại người...”
“Đợi đã!” Jurgen gọi, dịch chân bước sang một hành
lang tối, nơi nhân vật mặc đồ lộng lẫy kia vừa quay đầu
chuẩn bị bỏ đi. “Bà sẽ sớm liên hệ lại với tôi, đúng không?
Đây chắc không phải là kiểu vấn đề mà giải pháp duy nhất sẽ
là thật nhiều thời gian đâu, đúng không?”
Tatter quay lại đối mặt với Jurgen, gần sát đến mức
chiếc mặt nạ chiếm hết toàn bộ tầm nhìn của anh. Cặp mắt
bên trong hai lỗ hình ôvan toát lên vẻ thương hại đầy lạnh
lùng. Bầu không khí cả hai cùng hít thở gợn lên với những
xoáy khí tràn ra từ các lỗ nhỏ trên chiếc mặt nạ.
25
“Chờ đợi sẽ là khôn ngoan nhất, nhưng không muốn
đợi là một phần vấn đề ngươi đưa ra cho ta. Đúng không?
Đừng lo, ta sẽ không quên vấn đề thời gian đâu. Giờ đừng đi
theo ta nữa. Chúng ta vẫn chưa đồng tình với nhau, và nếu
ngươi làm ta khó chịu, chúng ta sẽ không bao giờ đồng tình
được.”
Jurgen bước lùi lại, chân hết trượt rồi lại vấp vào các
tấm ván sàn cũ kỹ. “Tôi sẽ nhớ xem thẻ!” anh nói, nhưng
Tatter D’MaLeon đã đi mất rồi.
26
Anh kiểm tra thẻ dữ liệu thường xuyên đến mức đồng
nghiệp của anh không khỏi để ý và hỏi có phải nhà anh đang
có ai bị ốm không. Lúc anh thật thà trả lời rằng, “Tôi đợi
nhận tin từ Tatter D’MaLeon,” anh luôn nhận được một
tràng cười ha hả, hay như trong một trường hợp là vẻ thương
hại.
Lúc nó xuất hiện, bức thông điệp rất ngắn, chỉ có một
chuỗi các số hiệu, thể hiện một điểm gặp mặt và một khung
thời gian. Anh chẳng ngạc nhiên chút nào khi thấy địa điểm
thì vắng vẻ, còn thời gian thì ngay giữa ca — tức là lúc ít có
khả năng bị người khác chen ngang.
“Đó,” cái giọng bên trong mặt nạ cất lên. “Mua nó đi.
Nó sẽ giúp ngươi trở nên hấp dẫn đối với Rita đúng như
những gì ngươi muốn, và mang lại sự gắn kết ngươi khát
khao.”
“Cái cục rác kia ư?” Jurgen hỏi, cảm thấy không thể tin
được.
Jurgen sững sờ trước giải pháp đầy gọn ghẽ này. Anh
chưa bao giờ tính đến chuyện mua cho Rita một món đồ
ngoài hành tinh. Anh hiểu tại sao mình cần phải mua nó.
Nếu không mua, nó sẽ là một phần tài sản của trạm, và
muốn tiếp cận thì phải làm theo các quy định chính thức, vô
cùng hạn chế.
“Tôi sẽ cần giấy phép trục vớt,” anh nói, một phần chỉ
để bản thân mình nghe. “Rồi còn phải đảm bảo chứng minh
được rõ nguồn gốc của nó. Rita rất coi trọng điều ấy. Tôi sẽ
cần đảm bảo ghi lại được hình ảnh mình thu mảnh sao chổi
về. Hoặc hay hơn, chúng tôi có thể cùng nhau thu lấy nó...”
“Ngươi vẫn chưa biết liệu nó có thể giải quyết được vấn
đề của ngươi hay không,” Tatter phản đối. “Hay thế này,
29
ngươi đã nghĩ gì thêm về câu hỏi của ta chưa? Ngươi có biết
thế nào mới là con người không?”
“Ôi, Jurgen, tuyệt vời quá! Tại sao không anh không
nói cho tôi biết sớm hơn?”
30
“Cô còn quá mải mê với dự án kia,” anh nhắc cô, giọng
hơi có chút châm chọc, “tôi không nghĩ sẽ mời được cô đi
xem thứ tôi có.”
“Đây, giờ tôi rảnh rồi, và tôi đang rất muốn xem. Một
mảnh sao chổi... Ai mà ngờ được chứ!”
Phải mấy tuần sau họ mới xong việc, bởi lẽ Rita khăng
khăng đòi phải ghi chép lại mọi giai đoạn, bất kể tiểu tiết đến
đâu. Nhưng sau đó, họ đã nắm trong tay một khối vật liệu
mà đối với Jurgen, nó bình thường đến mức phi thường.
Anh thậm chí còn những tưởng Tatter D’MaLeon đã lừa
mình. Nhưng khi nghĩ đến việc cuộc khai quật này đã giúp
anh có mấy tuần được ở bên Rita với một cái giá thấp hơn
rất nhiều so với những bữa tối đắt đỏ mà chắc chắn anh sẽ
phải xì tiền ra chi trả, anh quyết định không nghi ngờ gì nữa.
Vâng, giấy phép khai quật không rẻ chút nào, và anh muốn
ăn một bữa tối ngon lành hơn là chui vào trong một bộ đồ
bảo hộ, nhưng...
31
Thế rồi Rita phát hiện ra dấu hiệu cho thấy chôn vùi
bên trong khối vật liệu là một thứ bất thường. Jurgen chỉ
hiểu được phân nửa những gì cô nói về chuỗi phân tử hữu
cơ và các mẫu dạng không khớp với bất cứ thứ gì bên trong
cơ sở dữ liệu khổng lồ mà cô đã tích lũy được sau bao năm
nghiên cứu. Anh chỉ hiểu là cô đang phấn khích. Anh hết
sức vui mừng khi nỗi phấn khích ấy được thể hiện thông qua
những nụ hôn, sau đó chuyển thành những cái ôm, và rồi
chuyển sang một hành động rất không mang tính khoa học,
nhưng sảng khoái vô cùng.
Rita đã mấy lần ám chỉ rằng mình rất sẵn lòng mua nó
lại từ Jurgen, nhưng anh chẳng bao giờ chấp nhận, nại cớ
mình không muốn lấy tiền của cô trong khi cô cần nó để
trang trải cho cuộc nghiên cứu đắt đỏ này. Và đúng là nó
đắt thật, thế nên họ phải cắt giảm chi phí — không cắt vào
những chỗ có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng kết quả, mà
là thực hiện một số quy trình bằng tay để đỡ phải sử dụng
thiết bị đắt tiền. Rita thậm chí còn bắt đầu nói là làm bằng
tay còn tốt hơn, bởi vì sẽ không ai phản biện được là kết quả
32
cô thu được xuất phát từ các vật liệu vi lượng trên thiết bị
hay lỗi hiệu chuẩn. Công việc của cô và Jurgen được ghi chép
lại rất cẩn thận để đề phòng bị nói là có lỗi do con người gây
ra.
Một nhóm bốn người đang tụ lại trong một văn phòng
nhỏ, kín đáo ở vành đai lườn.
34
“Chắc chắn họ vẫn nhận thức được, ít nhất là phần
nào — đặc biệt là nhận thức được nhau,” Tiến sĩ Crow đáp.
“Các tay chân của họ đan xen hết vào với nhau, và khi chúng
tôi tìm cách tách họ ra, họ cứ xoắn xít trở lại với nhau, thế
nên chúng tôi không thể tách họ mà không gây tổn thương
được.”
“Tay chân Jurgen Haines bảo vệ liên kết của họ rất kỹ,”
Sera Mina, chuyên gia thủy canh bị yêu cầu tham gia vì cặp
đôi đột biến này có thể sẽ cần được chăm sóc kiểu mới, bổ
sung. “Tôi từng gặp anh ta lúc anh ta mới đến Trạm Nối.
Chúng tôi có nói chuyện với nhau trong quán Idle Hour,
nhưng tôi chưa bao giờ thực sự làm thân với anh ta. Thế tình
trạng pháp lý của họ là như thế nào? Có tiền để chăm sóc họ
không?”
Sera Mina đẩy lùi ghế lại và đứng lên. “Rồi, nếu đã
xong xuôi, tôi sẽ đi xem có dựng được cho họ một nhà kính
không. Chào nhé!”
~
35
Ở nơi xa, đâu đó bên trong Trạm Ghép nối, Tatter
D’MaLeon biết rằng vấn đề của Jurgen không còn là của anh
hay của mình nữa. Giải pháp rất khó thực thi, nhưng, đúng
như Jurgen mong muốn, Jurgen và Rita sẽ bên nhau cho đến
trọn đời.
Thậm chí giải pháp Tatter nghĩ ra còn từng có một tiền
lệ trong văn hóa con người. Vừa đóng tệp tin về câu chuyện
của Baucis và Philemon trong thần thoại La Mã, bà ta cảm
thấy hết sức thỏa mãn vì có thể cuối cùng mình cũng đã bắt
đầu hiểu được làm con người là như thế nào.
36
Jane
Lindskold
Jane Lindskold là một nhà văn người Mỹ, chuyên
viết về thể loại Sci Fi và Fantasy. Tính đến nay,
Lindskold đã cho xuất bản 25 cuốn tiểu thuyết,
trong đó nổi tiếng nhất là bộ truyện Firekeeper và
series Artemis Awakening. Bên cạnh tiểu thuyết, bà
còn đã có hơn 70 truyện ngắn đăng tải trong các
tuyển tập cũng như các tạp chí SFF danh giá.
37
HUẤN LUYỆN VIÊN
Meg Elison
(Long Nguyễn dịch)
“
XIN CHÀO, CÔ EBERSOL! HÔM NAY CÔ KHỎE
không?”
38
“Tuyệt! Tôi là Monica ở Solstice Fitness đây, hôm nay
cô khỏe không?”
Khốn kiếp.
“Thật tuyệt vời! Phần lớn mọi người đều chỉ nói ‘ừ,’
nhưng cô dồn cả nhiệt huyết vào trong đó!”
“Vâng.”
39
“Anh ta sẽ quay trở lại, đúng không? Anh ta không
nghỉ hẳn đâu nhỉ?” Caroline cố giữ cho giọng nghe không có
vẻ e sợ, nhưng không thành công.
“Serj.”
“Rồi.” Ngưng một lúc. “Mức tích hợp thần kinh của
Serj là bao nhiêu?”
“Sáng nay khi kiểm tra thì anh ta được 98%. Đích thân
tôi là người kiểm tra.”
40
Lông mày Caroline nhướn lên, và mô cấy điện thoại
của cô khẽ bíp lên, nhận lệnh giảm âm lượng xuống. Cô phải
giãn mặt ra để chỉnh nó về bình thường.
41
Hồi ấy, cô biết rất rõ mình làm gì. Họ đã chọn cặp song
sinh nam và mang bộ thụ tinh về nhà. Vào đêm thụ thai, họ
uống sâm panh, bắt đầu sang giai đoạn tiếp theo của cuộc
đời, giai đoạn họ nghĩ mình nên có. Nhưng không ai nói
trước cho cô biết về cái sự rầu khổ, cái cảm giác căm ghét bất
thường đối với hai đứa nhóc đã khiến cho cô phải đánh mất
một phần quan trọng và không thể thay thế được của bản
thân.
Trong lúc thay đồ dưới ánh đèn xanh lạnh lẽo, cô quan
sát ảnh phản chiếu của mình.
Cái bụng đầy ngấn kia là của ai vậy? Tại sao chân con
người này béo thế?
Vụ kiếm huấn luyện viên là ý của chồng cô. Hai đứa kia
đã ba tuổi, và cô đã hoàn toàn bỏ cuộc. Cô không thích đi bộ
nữa, cho dù là đi quãng ngắn. Cô thấy mình luôn mệt mỏi,
thấy ngay cả những bài tập cơ bản nhất cũng khiến cô hết
42
hơi và khổ sở, như mình đang kẹt trong một núi thịt, không
vui vẻ chút nào hết.
Lúc anh đề xuất mua gói một năm tại Solstice, tập cùng
một huấn luyện viên, cô muốn bảo với anh rằng mình sẽ bỏ
đi. Cô sẽ gói ghém hết đồ đạc lại và không bao giờ gọi cho
anh nữa. Không bao giờ gặp hai thằng bé nữa. Cô sẽ dời cái
núi thịt này đi và bắt đầu lại từ đâu.
Không bao giờ gặp lại anh nữa. Thế sẽ dễ hơn. Không
nói cho ai biết mình từng sinh con.
“Em yêu à, anh chỉ muốn em về lại như xưa thôi. Ít nhất
thì em cũng thử đi nhé? Tiền không hoàn lại được đâu.”
43
chiếc mặt nạ phì nộn làm từ gương mặt cũ của em để anh
không nhận ra thôi.
Cô lại nôn và ngước lên nhìn bản thân mình phía bên
kia phòng. Cơ thể cô đứng đó, được Calvin đứng thẳng hẳn
lưng lên, và trông có vẻ xinh đẹp hơn nhờ sự tự tin và mạnh
dạn của anh ta, ánh nhìn trực diện của anh ta.
Sau khi hít vào một vài hơi thật sâu, cô thấy mình đã có
thể đứng lên được.
44
Cô cảm thấy nặng nề hơn, mặc dù cô biết cơ thể của
anh ta thực chất nhẹ hơn mình.
Cô duỗi thử cặp tay của anh ta và cảm thấy xấu hổ khi
cô nhận ra rằng Calvin và kỹ thuật viên đang nhìn mình.
Ngày hôm đó, họ đảo đi đảo lại để cho chắc ăn, mười
lần tất cả. Đến lần thứ mười, cô gần như chẳng cảm thấy quá
trình chuyển đổi nữa.
“Hợp đấy,” cô bồn chồn bảo anh ta. “Giờ chúng ta làm
gì…?”
Nhưng anh ta đã đặt hai ngón tay lên mô cấy điện thoại
của cô và kích hoạt phần mềm THTK cài đặt trong đó với
mã lệnh của mình.
45
Sau một chút chóng mặt, cô đã chuyển sang đứng đằng
sau ghế của mình chứ không còn ngồi trong nó nữa. Calvin
đứng dậy trong cơ thể của cô, còn cô thì ngồi xuống trong cơ
thể của anh ta.
Đúng 90 phút sau, cơ thể của Caroline được trả lại cho
cô. Nó đã được tắm rửa và khử mùi, và Calvin đã chải mớ tóc
nghiêm trang của cô về đúng như hồi cô mới đến công ty lúc
ban sáng.
Hợp đồng có một số quy tắc đơn giản nhưng bất di bất
dịch: trong lúc tích hợp với cơ thể người khác, khách hàng
không được ăn, uống, hay thực hiện bất cứ hoạt động nguy
hiểm nào cả. Nó bao gồm (nhưng không giới hạn trong)
quan hệ tình dục, lái xe, thực hiện những trò mạo hiểm, và
46
dùng chất kích thích. Tất nhiên là sẽ được phép đi nặng đi
nhẹ, nhưng Caroline luôn thấy Calvin bàn giao cho mình
một bàng quang trống rỗng, đơn giản hóa hết mọi thứ cho
cô.
47
thấy mình như phải chăm lo cho mọi người đàn ông và đứa
trẻ trên đời. Tất cả đều trông đợi cô như thể cô giữ sữa của
họ, chăn của họ, bài hát ru của họ.
Khi đi ngang qua một bồn rửa đầy bát đĩa bẩn và thậm
chí còn không nghĩ đến chuyện rửa chúng đi.
Tự do.
Lịch trình này của họ cứ thế tiếp diễn mấy tháng liên,
và Caroline trở nên rất thoải mái bên trong cơ thể võng của
Calvin. Cô háo hức chờ đợi các buổi tập luyện và bắt đầu hãi
sợ khoảnh khắc cơ thể mình được trao trả lại cho mình. Chắc
chắn nó đã trở nên gầy hơn và săn chắc hơn sau hồi cô sinh
hai đứa kia. Chồng cô thích mê, thường xuyên nói là anh
thấy đã có chuyển biến, và cô trông rất xinh.
Anh nhận lại được thứ anh đánh mất, cô nghĩ thầm.
Anh được giả vờ. Em thì chỉ được 90 phút mỗi tuần.
48
Thế nên lúc Monica bảo với cô rằng Serj đang trên
đường đến để thực hiện buổi tập đầu tiên của họ với nhau,
cô biết ngay mình sẽ làm gì.
Serj đến, với mái tóc dài, đen sẫm, và xoăn cẩn thận
buộc lại sau gáy. Cô chưa bao giờ gặp anh ta cả, nhưng anh
ta đưa bàn tay lên mô cấy của cô và quá trình THTK diễn ra
một cách hoàn hảo.
Họ gần như không nói chuyện với nhau câu nào. Anh
ta đã học được từ Calvin bí quyết không nói không rằng, bí
quyết trở thành chiếc võng. Caroline thả người vào trong
đó, biết rằng anh ta là lốt hoàn hảo cho cô. Cô chui vào trong
cơ thể của anh ta như thể đã làm cả ngàn lần rồi, biết chính
xác cảm giác ấy sẽ như thế nào.
Máy bay thì khó hơn. Cô phải giải thích rằng mình mắc
chứng sợ bay và đã được tích hợp với một cơ thể khác để
vượt qua nỗi sợ của mình. Họ chạm máy quét lên mô cấy và
thấy số hiệu của một chuyên viên giao diện thần kinh mới,
49
không rõ là làm trong ngành nào. Cô trông có vẻ lo lắng. Tốt
nhất nên để cô ta lên máy bay. Xét cho cùng, thẻ tín dụng
của cô ta vẫn hoạt động tốt.
50
Meg
Elison
Meg Elison là một nhà văn người Mỹ. Cô từng
bỏ học cấp ba, và sau đó theo học và tốt nghiệp
Đại học California, Berkeley. Tiểu thuyết đầu tay
của cô, mang đề tài hậu tận thế , The Book of the
Unnamed Midwife của cô đã được đề cử Tiptree và
giành được giải thưởng Philip K. Dick năm 2014.
51
KẾ HOẠCH DỰ PHÒNG
CHO NGÀY TẬN THẾ
S.B. Divya
(Long Nguyễn dịch)
Ngày tận thế của tôi không cưỡi ngựa hay hồi sinh
người chết hay cho mặt trời mọc thêm trên trời. Nó đến
cùng với xe tăng và máy bay không người lái, tiếng vũ khí tự
động khạc lửa, cặp mắt nhòm ngó của hàng xóm. Nó muốn
lấy mạng vợ tôi. Cả mạng tôi nữa. Tôi không nghĩ mình sẽ
sống sót được.
“Lúc họ đến bắt chúng ta,” tôi nói, sau khi Kaila ra đời,
“Anh mang lũ trẻ và ba lô và chạy ra nhà trú ẩn nhé.”
52
Cặp mắt xanh của Chula nheo lại. “Và em sẽ theo sau.
Em cũng có một ba lô. Chúng ta sẽ đi cùng nhau, như mọi
khi.”
Ánh mắt của cô dữ dội đến mức thừa sức làm tan chảy
Nam Cực. “Và nếu anh mà chết còn em không thì sao?”
Cô nhướn cặp lông mày sáng màu để chỉ trích cái sự giả
nhân giả nghĩa của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Nếu sự
tồn vong của chúng tôi phụ thuộc cả vào tôi, chúng tôi gặp
rắc rối to rồi.
Như mọi tối bình thường khác, tôi đặt đứa bé vào trong
phòng chúng tôi sau khi cho nó ăn. Đêm nhuộm sẫm bầu
trời. Chúng tôi tắt hết mọi loại đèn đóm có thể để tránh bị
người ngoài nhòm ngó. Tôi vấp phải mép tấm thảm phòng
ăn, cái mép đã cong hẳn lên vì tôi cứ mắc chân vào nó suốt.
(Sau một trận bại liệt, cơ của tôi đã trở nên rất lóng ngóng,
nhưng tôi đã tập ngã nhiều rồi. Tôi biết cách tránh bị bong
gân và gãy xương.) Tôi chống cườm tay xuống đất, tí nữa thì
sấp mặt.
Một viên đạn bay vèo qua đầu tôi và bổ vào đầu Chula.
53
Trong suốt năm giây, tôi ngừng thở.
Tâm trí tôi dứt khoát không chịu chấp nhận hình ảnh
trước mặt mình. Không. Không. Không không không.
Tôi phủ một tấm chăn lên người vợ mình và che kín tất
cả: mái tóc vàng nay đã bê bết máu, những mảnh kính bắt
ánh đèn đường, tay chân xoãi rộng như một đứa trẻ đang
ngủ, vệt bẩn đang dần loang rộng trên tấm thảm — tấm
thảm khốn nạn tôi sẽ không bao giờ còn được thấy lại.
Một sợi chỉ vàng mắc vào bản lề cổ tay giả của tôi. Màu
yêu thích của Chula. Tôi giật nó ra và nhét nó vào giữa áo
lót của mình trong lúc tôi bò sang bên kia phòng. Thêm đạn
bắn nát cửa sổ nhà chúng tôi. Một sợi dây chun đau đớn siết
chặt quanh tim và phổi của tôi.
Tôi thầm nói lời vĩnh biệt trong đầu. Nói hẳn ra thì sẽ
chẳng khác nào cấp bằng chứng cho các giác quan. Tôi ước
mình có thời gian tặng Chula một nụ hôn vĩnh biệt. Tôi ước
cô vẫn còn sống. Tôi hy vọng những kẻ bên ngoài đều nghĩ
cả hai chúng tôi đều đã chết.
54
Khi đến hành lang không cửa sổ, tôi đứng dậy và chạy.
Đôi chân mang giày của tôi nện bồm bộp lên những tấm ván
hồ đào, dự án nâng cấp nhà từ hồi nỗi sợ chưa bao trùm lên
cuộc sống của chúng tôi. Giờ chúng tôi mặc nguyên quần
áo đi ngủ và đi giày trong nhà. Ảnh chụp lướt qua trên bức
tường màu be, những mảnh ký ức in hằn trên nền đen, chỉ
thiếu đi những ký ức mới nhất: bốn người chúng tôi cùng
nằm trên giường sau khi tôi sinh Kaila. Tấm đó được tôi dán
lên chứ không treo trong khung. Chỉ cần giật nhẹ là nó bung
ra, và lọt gọn vào trong túi sau quần tôi.
Tôi chui vào trong phòng của chúng tôi và thò tay
xuống dưới khung giường cổ. Tôi lôi ba lô ra, trong nhét đầy
tám cân đồ, cùng khối lượng tôi đã đeo qua dãy Andes trong
chuyến đi Choquequirao của chúng tôi. Tôi hồi ấy trẻ hơn
một thập kỷ và cũng khỏe hơn nữa, nhưng hôm nay tôi chỉ
phải đi một quãng bằng một phần tư. Ở độ cao ngang mực
nước biển, tôi sẽ đi được. Bắt buộc phải thế thôi.
Tôi siết chặt quai đeo. Cái địu trẻ treo trên một bên góc
cũi. Kaila khẽ ư ử khi tôi đặt tấm thân quấn chăn của nó vào
sát thân mình. Tôi khóa cứng tay trong một vị trí đỡ bên
dưới nó, và tắt nó đi để tiết kiệm pin.
55
họ vượt biên. Cùng cái biên giới chúng tôi giờ đang sắp tiến
đến.
Tôi chẳng biết trả lời như thế nào. “Mẹ sẽ giải thích
sau.”
Vẻ nghi ngờ xuất hiện trên gương mặt sáu tuổi của nó,
khiến hàm nó đanh lại. Đừng có lên cơn, đừng lên cơn lúc
này, con ơi, làm ơn đi, chúng ta phải đi ngay.
56
Chúng tôi chui qua cánh cửa giấu kín chỗ rào sau, chạy
dọc một con hẻm, băng qua một bức tranh khảm làm từ đá
vụn và thủy tinh. Tôi lấy điện thoại và tăng cường độ đèn
chiếu trong các mắt kính cấy của mình lên. (Người ta bảo
đây là một công nghệ thử nghiệm, có nhiều rủi ro. Tôi bảo
họ khớp miệng lại và cứ cầm tiền của tôi đi.) Tôi bám theo
cái đường vòi tưới ngoằn ngoèo bao quanh một dây cáp dữ
liệu, câu trộm để phục vụ mấy việc làm bất hợp pháp của tôi.
Cái vòi dẫn vào một cánh cửa nhẵn trơn, gắn trên một
tòa nhà thấp lè tè. Tôi giật nó ra và quẳng lại về phía ngôi
nhà của mình. Không thể để chúng biết chúng tôi đi đâu.
Ngón cái của tôi áp vào khóa cảm biến. Một ngọn đèn bên
cạnh nó nháy đỏ. Tôi lẩm bẩm chửi thề và liếm làn da khô
cong của mình và thử lại. Bật xanh đi, bật xanh đi, bật xanh
đi — có thế chứ!
Tôi mở cửa. Myles đâu mất rồi? Nó vừa mới ở đây thôi
mà. Sao mà nó… ôi mẹ kiếp!
Lửa nuốt trọn nhà của chúng tôi và bùng ra ngoài. Ánh
sáng làm lóa hết mắt tôi, và tất cả những gì tôi có thể thấy là
một bóng đen nhỏ bay vèo đi, rời khỏi phần tường sau nhà,
về phía tôi. Myles ngã đập đầu xuống đất.
Một sợi dây chun thứ hai, sợi dây chun trách móc bản
thân, siết nghẹt tim và phổi của tôi. Tôi chạy ra chỗ cậu con
trai mình, choàng tay quanh ngực nó, và kéo nó qua cửa.
57
Tôi đặt nó xuống. Sống đi, con ơi, sống đi. Ngực nó trồi lên
hạ xuống. Tôi nhẹ nhõm đến choáng váng cả đầu óc.
Lúc bước xuống bậc thang cuối, tôi vấp chân và ngã
khuỵu gối xuống, nhưng không đè lên đứa bé. Kaila quẫy
lúc tôi đặt nó lên nền đất bên cạnh chiếc ba lô, nhưng nó
không khóc tiếng nào. Tôi cà nhắc lên đưa Myles xuống, vừa
leo vừa tháo khóa cánh tay giả của mình ra và bật nó lên.
Sau khi đã đưa được cả hai đứa xuống dưới, tôi dừng
một phút để lấy hơi và dỏng tai nghe ngóng. Không có âm
thanh nào từ bên ngoài vọng đến. Không có tiếng cửa đóng
sầm lại bên trên chúng tôi. Không có ai thét lác. Tôi nhấn
nút tắt trên tường — một thay đổi nho nhỏ chúng tôi đã lắp
đặt. Bụi đất chốt kín căn phòng bên trên. Cầu thang chẳng
dẫn đi đâu cả.
58
Chúng tôi bấy giờ đang ở trong một đường hầm đầy
những cổng truy cập mạng. Nếu được thì tôi đã kết nối với
một sợi cáp rồi, nhưng giờ thì vô ích thôi. Thay vào đó, tôi
lấy điện thoại, hiện đã gần hết pin. Gia đình chúng tôi có
một hệ thống kết nối riêng, một nhóm những trang chúng
tôi dùng để nhắn những tin trông vào sẽ tưởng linh tinh,
những người thân thì sẽ hiểu. Tôi viết: Phải đi vệ sinh. Cùng
với T. rex và raptor. Mất nhẫn rồi. Tôi kiểm tra các địa điểm
khác. Đã hơn một tuần nay anh trai tôi chẳng nhắn tin nào.
Bố mẹ của tôi và của Chula sống ở các bang tử tế, tạ ơn Chúa.
Vậy là đỡ đi hai việc cần lo.
Myles rên rỉ. Nhờ ánh sáng tỏa ra từ màn hình, tôi có
thể thấy các mảng đỏ thẫm trên da thằng bé. Đế giày của
nó đã tan chảy ra. Có dính luôn vào da chân nó không? Tôi
rùng mình và xua đuổi suy nghĩ ấy đi. Nó vẫn đang thở. Nó
vẫn còn sống. Nó sẽ không sao đâu. Nó sẽ ổn thôi, chắc chắn
là thế.
Đường hầm xao động xung quanh chúng tôi. Bụi bay
trong thứ ánh sáng nhân tạo. Tôi nhét điện thoại vào trong
túi. Chúng tôi không thể nấn ná quá lâu. Tôi kiểm tra chiếc
ba lô dùng để đi bộ ngày dài. Myles có vóc người nhỏ thó so
với tuổi. Có khi sẽ được đấy. Từ trong ba lô, mấy bộ quần
áo, một con dao đa năng, một tập giấy dán, gậy đi đường, tã
lót, sữa, đồ ăn, chai nước, một khối quan chứa đựng mọi ký
ức của chúng tôi. Mớ áo khoác hẳn được đặt trong ba lô của
Chula.
59
Tôi lấy dao khoét lỗ ở hai bên đáy ba lô, sau đó tôi
đặt Myles vào và quấn đai nén quanh cổ nó. Trong mấy túi
ngoài, tôi nhồi vào sáu chiếc tã — chúng nhẹ như không —
một bộ đồ sạch cho Kaila, ba gói sữa, hai thanh đồ ăn, một
chai nước, và khối dữ liệu. Vẫn là cái khó từ ngàn xưa: mang
nhiều hay mang nhẹ.
Con dao được đút trở lại vào túi sau của tôi, vũ khí duy
nhất của tôi trong trường hợp tôi cần đến. Đứa bé đeo ra
phía trước. Cậu con trai bốn mươi tư pound của tôi được
cõng trên lưng. Đầu nó gục lên vai tôi. Để giảm trọng lượng
mang vác, tôi tháo cánh tay giả đặt nó vào đống đồ bỏ đi trên
mặt đất.
Cây gậy leo núi giúp tôi cân bằng trọng tâm mới của
mình. Đau buồn và quyết tâm tiếp lửa cho tôi tiến bước.
Nếu tôi không sống sót, chúng cũng sẽ chết cùng với tôi.
Chula bước dọc đường hầm, Myles chạy bên cạnh. Tôi
hình dung cảnh thằng bé than là chân nó mỏi rồi. Chula bế
thốc nó dưới một bên tay, bắp gồng lên nhưng không căng.
Trong hình ảnh mình mường tượng ra, tôi là một bóng ma
lơ lửng đằng sau họ. Tất cả đều diễn ra theo đúng như kế
hoạch, và họ đã trốn thoát. Tôi không phải chịu đựng mất
mát và đau đớn. Tôi không phải mạnh mẽ.
Suốt mười hai tiếng liên, tôi cứ đi. Lê bước. Lầm lũi. Va
vấp. Cứ mỗi ba tiếng một lần, tôi dừng lại để cho Kaila uống
sữa, nửa từ ngực của tôi, nửa từ mấy gói sữa, làm trong lúc
60
đứng hoặc quỳ. Tôi nhìn vào sợi chỉ vàng nhét trong áo lót
thường xuyên chẳng kém gì cặp mắt đen của đứa con mình.
Tôi thò tay phải ra sau để kiểm tra mạch và nhịp thở của
Myles. Tôi lấy đầu ngón tay cho nước vào trong cái miệng
khô nẻ của nó, hy vọng rằng nó không bị mất nước quá
nhiều.
Nhưng đáng nhẽ ra người ở đây, lôi gia đình chúng tôi
đến nơi an toàn sẽ không phải là tôi.
Chula đã liên hệ với phe kháng chiến, đã dàn xếp tất cả.
(Chúng tôi giữ bí mật danh tính của tôi để bảo vệ bọn trẻ, và
đó cũng là lý do hiện tôi đang mang theo chúng.) Cô có tiếng
sẵn rồi: một bác sĩ, một người sở hữu kỹ năng hiếm. Tôi là
một người khai thác dữ liệu. Chẳng có gì đặc biệt cả.
61
Cuối cùng, một cây cầu thang nhô lên trước mặt. Các
sợi cáp tụ lên trên. Chân của tôi còn nặng hơn voi. Lũ voi
khốn kiếp. Tại sao chúng to thế cơ chứ? Bậc thang, bậc
thang, thêm… một… bậc thang nữa.
Tôi đã bước qua cánh cửa, vào trong một trung tâm
dữ liệu khác, trống trải không kém gì trung tâm trước. Điện
thoại của tôi đã cạn sạch pin, nhưng tôi nhớ đường đến nhà
trú ẩn. Tôi nhớ hầu hết những gì mình nhìn thấy, thói quen
sót lại từ thời còn đeo kính (và gần như mù tịt nếu không
có chúng). Bình minh tỏa rạng trên nền trời phía Đông. Nó
thắp sáng đường cho chúng tôi, dẫn chúng tôi đến một ngôi
nhà thấp, dài, sơn xám với chút trắng. Cửa bên có một ổ
khóa điện tử. Tôi nhập mã tám số vào. Một tiếng tách khẽ
báo hiệu mã đã được xác nhận.
Tôi loạng choạng bước vào bên trong. Một cặp đôi từ
phòng ngủ bước ra. Trông vẻ cảnh giác của họ là tôi biết hết
diện mạo chúng tôi trông ra sao. Một câu hỏi vọng vào tai
tôi, lọt lên đầu tôi.
“Chula Smith.” Tôi thì thầm tên cô như một lời khấn
và ngã lăn ra sàn gạch, bao quanh là những bức tường và bàn
ghế và hơi ấm. Chúng tôi đã tạm được an toàn.
Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ đầy áp phích các
ngôi sao thực tại tăng cường đã ngả màu. Họ gợi cho tôi nhớ
lại cuộc đời hồi trước của mình — rà soát trên mạng tìm dữ
liệu tử tế, xâu chuỗi chúng lại như các manh mối trong một
62
câu chuyện trinh thám. Kỹ năng ấy rất phù hợp với việc tìm
những người cần đến dịch vụ của Chula. Hầu như không ai
để ý đến những manh mối mình để lại trên internet.
Myles nằm trên chiếc giường đơn, các vết bỏng của nó
đã được chúng tôi băng bó hết mức có thvà nó đã được bón
cho nửa bát canh gà. Kaila và tôi nằm trên sàn. Một túi ngủ
để mở lót bên dưới chúng tôi. Tim của tôi bị hai sợi dây
chun siết lấy, đập liên hồi như một con bướm mắc bẫy.
Bên ngoài cửa phòng, hai người chủ nhà đang lên
giọng cãi vã với nhau. Họ xưng biệt danh với tôi — Bravo và
Foxtrot — và không hỏi tên của tôi, nhưng họ biết tôi không
phải là Chula.
63
Giọng của họ nhỏ dần. Họ không dùng chuẩn đại từ
nhân xưng để gọi tôi, nhưng trong tình cảnh hiện tại thì tôi
không có quyền yêu cầu họ sửa.
Bravo nói đúng. Myles cần một bác sĩ. Nếu Chula mà
có ở đây, cô ấy sẽ có thể lo liệu cho thằng bé. Nếu Chula mà
có ở đây, bọn họ sẽ đang trên đường ra biên giới rồi. Nếu
Chula mà có ở đây, nếu, nếu, nếu.
Kaila rên rỉ. Tôi ngồi dây để cho nó bú ngực trái của
mình, bên ngực còn lành. Tôi dựa người vào một bên tường
và dùng chân đỡ cơ thể, nhưng làm thế phải mất thời gian,
và con bé bắt đầu khóc to trước khi tôi kịp sẵn sàng. Nó
bình tĩnh lại khi chúng tôi đổi bên ngực. Cặp mắt đen của
nó nhìn vào mắt tôi, trông đầy nghiêm nghị cho đến khi nó
ngưng bú để nở một nụ cười, khiến mặt nó sáng bừng lên.
Tôi mỉm cười đáp lại, nhưng trong đầu thì tôi lại nghĩ
thầm, xin trời hãy cho con tiết đủ sữa hôm nay, cho hôm nay
và ngày mai và ngày kia nữa, cho đến khi chúng con ra được
khỏi đây, bởi chúng con đã dùng hết sữa gói rồi, và sữa được
cấp theo khẩu phần, và những người này không có con, thế
nên chúng con sẽ không thể kiếm được thêm sữa nữa đâu.
Trong vòng hai mươi phút sau khi con bé ngừng bú,
Kaila tươi tỉnh vô cùng. Lúc nó lại bắt đầu quấy, tôi cố gắng
lấy ngực lấp miệng nó, nhưng nó không chịu. Tiếng gào
khóc của nó làm mấy người chủ nhà bước vào.
64
“Cô cần cho nó nín đi,” Bravo nói. “Nhà chúng tôi trên
giấy tờ không có trẻ con.”
“Tôi cho rồi. Tôi… tôi không tiết đủ sữa cho nó, và tôi
hết sữa gói rồi.”
Hai người bọn họ nhìn nhau trước khi rời phòng. Lần
này, cuộc trò chuyện của họ không vọng vào. Tôi hình dung
Foxtrot nói, “Thế là lại thêm một vấn đề. Đúng là vô dụng.
Chúng ta cần phải tống đám kia quay trở lại ra ngoài cho
chết luôn đi,” thế là tôi ép các thớ cơ chân lảo đảo, kiệt quệ
của mình đứng dậy, và tôi nhấc đứa con của mình lên. Vai
phải tôi nhức ê ẩm vì sức nặng của nó, và cánh tay đã cụt của
tôi cứ ngứa râm ran. Tôi cắn răng đong đưa Kaila cho đến
khi nó bỏ cuộc và lăn ra ngủ, và rồi, cuối cùng, cả tôi cũng
thế.
Sáng hôm sau, tôi ngạc nhiên khi thấy Foxtrot bảo
mình hãy chuẩn bị sẵn sàng để đi. Tôi không hỏi han gì.
Chúng tôi ngồi sau một chiếc xe tải chạy xăng kiểu cổ, lái
thủ công. Myles nằm dài dưới chân tôi, còn Kaila thì đeo
trước ngực. Phần không gian còn lại trong khoang sau xe đầy
thùng rỗng, che khuất chúng tôi đi đề phòng trường hợp có
ai mở cửa. Cặp vợ chồng này nhập khẩu rau quả từ bên kia
65
biên giới. Để tuồn hàng lậu thì còn ai hợp hơn một người có
công việc hợp pháp?
“Xe tuần.”
66
Foxtrot kéo rộng khung cửa kia ra và quăng cho tôi một
thiết bị bọc giấy in hoa vàng. Mắt chúng tôi giao nhau một
giây.
Tôi khởi động phần mềm bản đồ trên điện thoại của
một bé gái đã chết, ít khả năng bị truy tìm. Nếu có bộ thiết
bị thực tế ảo, tôi sẽ làm việc được nhanh hơn. Tôi làm thủ
công những gì có thể, ngón tay lướt khắp màn hình. Dữ liệu
đè lên các biểu tượng tí hon — không phải phiên bản tôi
tùy chỉnh, nhưng không có thời gian để làm chuyện đó. Tôi
quét các nơi an toàn để giấu một chiếc xe tải. Một kho rau
quả nằm cách chúng tôi ba dặm. Thêm nữa: chúng tôi sẽ cần
luồn xuống dưới một cầu cao tốc để đến đó.
“Hai dãy nhà, sau đó rẽ trái và ngoặt phải ngay lập tức,”
tôi nói.
67
Lốp xe của chúng tôi nghiến ken két, và chiếc xe nghiêng
đi, nhưng chúng tôi vẫn giữ được phần lớn tốc độ. Foxtrot
lái gần giỏi như một chiếc xe tự động.
“Rẽ trái đoạn thứ hai, qua một đường hầm, và sau đó
vào trong đường xe ra vào và dừng lại!”
Một chiếc máy bay không người lái bay vọt qua, mười
phút sau đó lại thêm một chiếc nữa. Chúng bíp bíp xuất
hiện trên màn hình điện thoại, dưới dạng trắng những biểu
tượng đầu lâu trắng.
68
Mặt trời nhô lên phía trên nhà kho. Trong phạm vi
bán kính hai dặm, bản đồ không có hình đầu lâu và quan tài
và súng máy (biểu tượng của xe tăng và lính tuần). Tôi chờ
thêm mười lăm phút nữa cho chắc. Chúng tôi không thể chờ
lâu hơn được nữa, không thì Kaila sẽ tỉnh dậy đòi ăn trước
khi chúng tôi kịp băng qua biên giới. Nếu thế thì chúng tôi
sẽ tiêu đời mất.
Foxtrot ngồi dậy và khởi động động cơ. Tôi rất biết ơn
cô ta đã tin tưởng mình — tin rằng tôi biết mình đang làm
gì.
Lúc đến gần trạm biên phòng, tôi chỉnh lại đống thùng
gỗ để che kín chúng tôi đi. Tôi không thể nhìn thấy những
tòa nhà thấp lùn, gờ sắc, nhưng tôi nhớ những gì mình đã
thấy trong ảnh, nhớ các bức tường gắn đầy camera của chúng.
Mặt trời trút nắng như đổ lửa xuống sa mạc bất tận.
Khoang sau chiếc xe trở thành một lò nướng ngay khi chúng
tôi ngừng chuyển động. Tôi nhòm qua mớ thùng để xem
chuyện gì đang diễn ra. Chẳng thấy gì mấy.
69
Chiếc xe xóc lên lúc Foxtrot bước ra, bên ngoài tầm
nhìn của tôi.
Chúng tôi tiếp tục lái đi, băng qua hai hàng rào kẽm gai
đặt cách nhau một trăm mét, vào trong California, vào miền
an toàn. Những lời lẽ ấy nghe đầy cay đắng trong đầu tôi: nơi
an toàn kiểu gì mà lại cho những kẻ như thế canh gác biên
giới? Nhưng ít nhất ở bên này, công việc Chula và tôi làm sẽ
hợp pháp.
Nếu nhắm mắt lại, tôi sẽ thấy cơ thể cô nằm dài bên
trong nhà của chúng tôi. Tôi sẽ thấy bức ảnh người chồng
của chúng tôi nằm ngoài sa mạc, một món quà lưu niệm tàn
nhẫn đám lính gác gửi tặng. Tôi có phải là một kẻ hèn nhát
vì đã bỏ chạy không? Tôi có nên quay trở lại sau khi Kaila
đã lớn không? Không, giọng của Chula thì thầm. Không
được, giọng chồng chúng tôi thì thầm. Hãy bảo vệ lũ trẻ.
70
Hãy nuôi dưỡng chúng. Chúng tôi đã đồng ý với nhau như
vậy khi quyết định ở lại tại Arizona, trong một ngôi nhà đổ
nát, trong một cuộc đời cháy rụi thành tro.
Nửa giờ sau, chúng tôi dừng lại, đúng lúc Kaila bắt đầu
quẫy. Qua khe hở, tôi có thể thấy một nông trại một tầng
với các tòa nhà nhỏ khác đằng sau. Foxtrot mở cửa sau ra
và đẩy mớ thùng dọn đường cho chúng tôi. Tôi chớp mắt
trước ánh sáng chói lòa bất chợt. Hai người đàn ông da nâu
đặt Myles lên cáng và đưa nó về phía ngôi nhà. Tôi ép mình
nhìn vào mắt Foxtrot.
71
Chiếc xe tải rừ rừ lăn bánh trên một con đường đất, tiến
về phía một cánh đồng đầy rau quả.
Tôi bám theo con trai mình và phát hiện ra mẹ tôi đang
đợi bên trong.
“Làm thế…?”
Bà dang rộng hai tay ra cho tôi, và tôi lao vào trong đó.
Bà không nói, “Đã bảo rồi mà,” hay “Sao con lại có thể
làm vậy với mấy đứa con của mình được chứ?” hay bất cứ lời
khiển trách nào tôi hình dung ra.
Kaila kẹp giữa chúng tôi, vặn vẹo và quấy khóc. Tôi
cần cho nó ăn. Đằng sau vai mẹ, tôi thấy Myles nằm trên
giường, ngực nhô lên hạ xuống, mí mắt nó chớp chớp. Nó
chưa đủ tỉnh táo để nói gì cả. Tôi tự hỏi nó đã phải trả cái giá
gì rồi. Những gì chúng tôi làm có đáng để con trai tôi bị thế
không, có đáng để vợ chồng tôi thiệt mạng không? Có lẽ tôi
sẽ không bao giờ biết câu trả lời. Có khi chẳng có câu trả lời
nào hết.
72
Trong lúc cho con bú, mấy sợi dây chun trong người
tôi lỏng ra, đủ để hối tiếc và buồn đau và cơn giận phình lên.
Nước mắt của tôi nhỏ lên ngực Kaila. Như hiện tại thì tôi
đưa được cả nhà ra khỏi đó là đã đủ rồi. Lũ trẻ đã được an
toàn và vẫn còn sống. Tôi không muốn nghĩ đến những gì
sẽ xảy đến tiếp theo, chưa muốn vội, không phải hôm nay.
Hiện tại, sống được đã là quan trọng rồi.
73
S.B.
Divya
S.B. Divya là một người đam mê khoa học, toán,
truyện viễn tưởng, và hệ thống chấm phẩy Oxford.
Các truyện ngắn của cô đã từng được đăng trong
nhiều tạp chí danh giá, chẳng hạn như Apex, và
Tor.com. Ngoài ra, tiểu thuyết ngắn Runtime của
cô còn được lọt vào chung kết giải Nebula.
74
Sci fi muôn vẻ
SC
MU IF
ÔN I
VẺ
BENEATH THE WAVES : #01 THE ARTEFACT
Dofresh
https://bit.ly/2MofmLO
76 77
GENETICS LAB
eddie-mendoza
https://bit.ly/2vov5UL
78 79
ACROSS THE UNIVERSE
Ellysiumn
https://bit.ly/2KxqUL1
80 81
GO YOUR WAY
FlorentLlamas
https://bit.ly/2OPHKbd
82 83
THE BOWS
jfliesenborghs
https://bit.ly/2OMpGPb
84 85
ARRIVING
martydesign
https://bit.ly/2KzupAJ
86 87
130904 INTO THE ATMOSPHERE
przemek-duda
https://bit.ly/2KxsfBx
88 89
TROPICS SCI FI
rich35211
https://bit.ly/2MdDH6L
90 91
EMPTY
RobinTran
https://bit.ly/2LVW2cC
92 93
THE INVASION
Tryingtofly
https://bit.ly/2LVxxMx
94 95
INDIE SCI FI
SMOKING SPACEMAN ROBOT
Guillaume Rio Fournigault
97 98
“Smoking Spaceman Robot” là phim ngắn do Guillaume Rio
Fournigault thực hiện. Phim được làm theo phong cách phim quái
vật thập niên 1950, kể về một thành phố bị tàn phá bởi một con
rôbốt khổng lồ. Toàn bộ nền văn minh nhân loại đang bị đe dọa.
Liệu nó có thể bị ngăn chặn trước khi quá muộn không?
99 100
RIFF RUFF
Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro & Kevin Wilson
101 102
“Riff-Ruff” là phim ngắn do Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro và
Kevin Wilson thực hiện. Phim là một câu chuyện ngắn đầy cảm
động về một chú người máy vô gia cư, nghèo khó và cô độc.
Một ngày nọ, trong ngõ hẻm nơi mình vẫn hay đàn hát, chú ta
gặp một con cún với niềm đam mê âm nhạc...
103 104
NHÂN SỰ THỰC HIỆN: Guillaume Rio Fournigault
https://bit.ly/2Ojgv8X
Hương Phạm
Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro &
Dịch thuật
Kevin Wilson
https://bit.ly/2LqQ5nF
Long Nguyễn
Dịch thuật
***
Dàn trang
Thiết kế
Jane Lindskold
https://bit.ly/2uQTy4O
Meg Elison
https://bit.ly/2MQasdP
Dofresh
https://bit.ly/2MofmLO
eddie-mendoza
CREDITS
https://bit.ly/2vov5UL
TƯ LIỆU BÀI VIẾT:
Ellysiumn
https://bit.ly/2KxqUL1
Jane Lindskold - “A Green Moon
Problem”
(SẮPBẢNG (
FlorentLlamas
https://bit.ly/2OPHKbd XẾP THEO THỨ TỰ https://bit.ly/2wmIfBc
RobinTran
https://bit.ly/2LVW2cC
Tryingtofly
https://bit.ly/2LVxxMx
***
Thomas Pringle
https://bit.ly/2Nol4xT
***