You are on page 1of 91

22

SF 30/08 /201 8

VN TẠP CHÍ KHOA HỌC VIỄN TƯỞNG VIỆT NAM

MỘT VẤN ĐỀ HUẤN LUYỆN VIÊN KẾ HOẠCH DỰ PHÒNG


TRĂNG XANH Meg Elison CHO NGÀY TẬN THẾ
Jane Lindskold S.B. Divya

Cùng với tranh của Dofresh, eddie-mendoza, Ellysiumn, FlorentLlamas, jfliesenborghs, martydesign, przemek-duda, rich35211,
RobinTran, Tryingtofly; và phim của Guillaume Rio Fournigault, Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro & Kevin Wilson.
Ảnh bìa: Thomas Pringle.
Thực hiện bởi

SFVN (từ đây về sau gọi là “Tạp chí”) là tạp chí điện tử hoàn toàn phi lợi nhuận, ra đời với mục đích giúp độc giả Việt Nam trở nên yêu
thích hơn dòng văn khoa học viễn tưởng (còn gọi là khoa học giả tưởng, khoa huyễn). Tạp chí có sử dụng những nội dung được những
người thực hiện Tạp chí (từ đây về sau gọi là “Nhóm thực hiện”) biên tập từ nhiều nguồn và được ghi chú nguồn ở phần “Credits” của
Tạp chí. Nếu bạn là chủ sở hữu hoặc nắm giữ quyền lợi pháp lý liên quan đến các nội dung sử dụng trong Tạp chí và muốn thay đổi cách
nội dung của mình được ghi nguồn hoặc muốn Nhóm thực hiện ngưng sử dụng các nội dung của bạn trong các Tạp chí tiếp theo, hãy
liên hệ với Nhóm thực hiện qua địa chỉ thư điện tử: scifivietnam@gmail.com.

SFVN (herein called “The Magazine”) is an entirely non-profit electronic magazine, created for the sole purpose of fostering interest in the
science fiction (also called Sci Fi or SF) genre among Vietnamese readers. The Magazine features contents that were curated and edited by
the creators of The Magazine (herein called “The Creators”) from multiple sources and were given credits in the “Credits” section of The
Magazine. If you are the owner(s) of or hold legal right(s) to any of the contents featured in The Magazine and wish to change how your
content(s) are credited or want The Creators to stop using your content(s) in future issues of The Magazine, please contact The Creators
at this email address: scifivietnam@gmail.com.
Bạn đừng quên ủng hộ những nhà văn, những người nghệ
sĩ đã tạo ra những câu chuyện và bức hình có trong tạp chí
bằng cách tìm đọc truyện gốc, xem hình gốc nhé!

Link gốc của những truyện dịch và hình ảnh sử dụng được
ghi ở mục Credits.
SFVN
SỐ

22

TRUYỆN 07 Một vấn đề trăng xanh


SCI FI
38 Huấn luyện viên

52 Kế hoạch dự phòng cho ngày


tận thế

SCI FI 76 Beneath the waves : #01 The


MUÔN VẺ artefact

78 Genetics Lab

80 Across the Universe

82 Go your way

84 The Bows

86 Arriving

88 130904 into the atmosphere

90 Tropics Sci Fi

92 Empty
94 The invasion

INDIE 97 Smoking Spaceman Robot


SCI FI
101 Riff Ruff

CREDITS 105 Nhân sự thực hiện

105 Tư liệu hình ảnh

106 Tư liệu bài viết


U Y Ệ N
Truyện sci fi T R
NGẮN
I
SCI F
MỘT VẤN ĐỀ
TRĂNG XANH
Jane Lindskold
(Hương Phạm dịch)

C
HƯA AI TỪNG THẤY MẶT CỦA TATTER
D’MaLeon. Ngay cả những người tin bà ta chỉ là một
huyền thoại cũng đồng ý rằng nhân vật này luôn đeo
mặt nạ. Đó là tất cả những gì mọi người đồng ý được với
nhau về bà ta. Mặc dù “bà ta” thường được gọi bằng đại từ
nhân xưng nữ, ngay cả giới tính của Tatter cũng không rõ
ràng, và cả việc liệu bà ta có phải là người không, tuổi tác thế
nào, và liệu bà ta có tồn tại hay không.

Nhưng bất kể có tin hay không, gần như không ai không


thích các câu chuyện về bà ta. Các nhà nhân chủng học đã cố
gắng xác định xem chính xác thì các câu chuyện về Tatter
D’MaLeon lần đầu xuất hiện từ khi nào, nhưng những câu
chuyện ấy cổ xưa chẳng kém gì Trạm Nối — thậm chí còn cổ
hơn — bởi lẽ xác định được ngày tháng của cái cấu trúc rối
rắm, đa chiều ấy còn khó hơn đi tìm Tatter D’MaLeon.
07
Trong các bài phát biểu của các chính trị gia, họ sử dụng
ngày hai đầu vành đai lườn của trạm được nối vào với nhau,
nhưng thế còn những con tàu đã bị tích hợp vào trong trạm,
trở thành phòng thí nghiệm, ổ súng, bệnh viện, vân vân?
Hoặc các cấu trúc cổ đã bị xây đè len và gắn vào phần nào đó
khác trong cái tổ hợp không ngừng phát triển này?

Đám chính trị gia muốn dùng ngày nào thì tùy, nhưng
tất cả mọi người khác đều biết trong lòng là trạm không có
ngày xuất xứ cụ thể. Và Tatter D’MaLeon đã ám mọi khung
và tháp, sàn dưới và ống dẫn, các khoang và nơi lưu giữ bị
lãng quên, kể từ những ngày đầu tiên, bất kể đó là ngày nào.

“Vậy Tatter là một hồn ma à?” Jurgen Haines hỏi. Anh


là một kỹ sư lang bạt mới đến, lên đây với hy vọng sẽ được xơ
múi chút tiền tài mà người ta đôi khi sẽ kiếm được trên Trạm
Nối, đặc biệt là nếu sở hữu đúng kỹ năng trạm đang cần.

Anh không phải một người đẹp trai gì cho cam, nhưng
xét cho cùng, trong cái thời ai cũng có thể tùy ý thay đổi
ngoại hình của bản thân nếu muốn, những thứ như vậy đã
trở nên kém quan trọng hơn hẳn. Jurgen Haines sở hữu một
lòng đam mê đầy nhiệt huyết, đến mức thừa cả ra, thế nên
anh rất dễ dàng thu hút người khác, ngay cả ở đây, bên trong
một trong những quầy rượu đẳng cấp nhất của trạm.

08
“Ồ, không!” Sera Mina phản đối. Cô là một chuyên gia
thủy canh, một mùa nọ đến đây chăm lo cây cối trong bồn,
và sau đó cắm rễ luôn ở trạm. “Tatter cũng thật chẳng kém
gì cái bàn này.”

Jurgen rất lịch sự, biết rất rõ mình là người mới đến nên
không thể công khai chế nhạo, nhưng vẻ hồ nghi của anh
vẫn cứ lộ ra. Nhưng lúc nói, anh chọn cách trung lập, một
phương án không bao giờ tồi trong cộng đồng Trạm Ghép
nối, hoặc “Nối,” đa dạng này. Tất nhiên, trạm có một cái
tên chính thức, “Nơi cư trú Kỷ niệm Ngoài hành tinh John
Glenn,” nhưng khi vành đai lườn còn chưa xây xong thì biệt
danh kia đã thay thế nó rồi, và ngay cả các chính trị gia cũng
hiếm khi sử dụng tên chính thức.

“Tôi lần đầu nghe nhắc đến Tatter D’MaLeon,” Jurgen


nói, “hồi trưởng phi hành đoàn của tôi chửi thề, sau đó nói
rằng chúng tôi gặp phải một vấn đề mà chỉ Tatter D’MaLeon
mới giải quyết được — và cái giá là quá đắt.”

“Anh tưởng Tatter là một dịch vụ,” cô chuyên viên thủy


canh nói với một nụ cười ranh mãnh, “như ExtendaReach
hay RamOut. Anh kiểm tra xem họ có đội kỹ thuật nào
không, đề phòng sếp của anh muốn thuê bọn họ.”

Jurgen chống chế ngay lập tức. “Và chủ động chút thì
có chết ai đâu?”

09
“Tất nhiên là không sao,” Beau Fourz đáp, anh chàng
phi công cyborg nghe lỏm nãy giờ trong lúc nạo ghèn khỏi
mắt. “Thế anh tìm thấy gì lúc đi tra Tatter D’MaLeon?”

“Thấy như có ai bày trò trêu tôi,” Jurgen nói. “Giống


kiểu sai kỹ thuật viên mới đi tìm neo bay trái ấy. Tôi đoán
mình chắc sẽ bị yêu cầu đi tìm cái nhân vật D’MaLeon này.
Tôi tính xem mình sẽ làm gì nếu bị sếp sai thật. Ý tôi là, đôi
khi khôn qua cũng không hay.”

“Nhưng không ai sai anh đi đâu hết,” Beau nói, đồng


thời bôi một ít chất đánh bóng lên ngón tay mạ crôm của
mình. “Và anh cứ băn khoăn mãi.”

“Và vì là người thông minh đầy nhiệt huyết,” Sera nói,


mỉm cười để anh chàng mới đến này hạ hỏa, “anh nghiên
cứu thêm. Anh phát hiện ra điều gì?”

“Tôi phát hiện ra gì không quan trọng, quan trọng là


tôi phát hiện ra quá nhiều thứ, và tất cả đều khó hiểu vô
cùng.”

“Ôi, không đến mức thế đâu,” Beau nói, dựng một hộp
trường lực lên để có thể tiếp tục chăm móng tay mà không bị
văng rôbốt nano đi lung tung. “Luôn có một vài điểm đồng
nhất — chẳng hạn như chưa ai từng thấy mặt của Tatter
D’MaLeon.”

10
“Bà ta luôn đeo mặt nạ à?” Jurgen nói với giọng không
hẳn là chế nhạo, bởi lẽ bên dưới cái vẻ nhạo báng giả vờ của
anh lại là một sự hứng thú vô cùng. “Nghe như một câu
chuyện về siêu anh hùng: Chiến binh Vũ trụ Cô độc.”

“À thì, có ai nói là đã nhìn thấy mặt bà ta đâu,” Beau


nhẹ nhàng đáp.

“Ồ, có chứ,” Sera Mina chỉnh lại, “nhưng vì chẳng ai tả


giống ai, tôi sẽ chấp nhận lời giải thích ‘Chưa bao giờ thấy
mặt.’ Nhưng có một yếu tố luôn xuất hiện: ba bùa vật.”

“Bùa vật?” Jurgen đã đọc về chúng, nhưng quyết định


giả ngơ để xem có biết thêm được gì không. “Như kiểu phép
thuật hay một chiếc vòng tay gì đó hả?”

“Như kiểu một chiếc vòng tay, mặc dù bùa của Tatter
thường nằm đâu đó trên bộ đồ của bà ta. Có ba món: một
mảnh trăng lưỡi liềm mỏng, trên gắn những mẩu đá quý
xanh kỳ lạ…”

“Quá nhạt so với ngọc lục bảo, quá xanh so với ngọc
thạch,” Beau đế thêm.

“Giống màu nước đọng đầy tảo hay bèo.”

“Đúng là một nhà sinh vật học...” Beau dợm nói.

“Chuyên gia thủy canh!”

11
“Sao cũng được. Tôi từng nghe người ta tả mấy mảnh
đá gắn trên miếng trăng lưỡi liềm kia là ngọc bích xanh cắt
thành những tinh thể tí hon lởm chởm, lấp lánh hắt sáng
lại.”

“Tùy vậy.” Sera đảo cặp mắt nâu sẫm của mình. Cô
quay trở về với Jurgen. “Bùa vật còn lại của Tatter D’MaLeon
được gọi là Hai Mảnh Tám. Một mảnh là một ngôi sao tám
cánh, xòe ra quanh một tâm điểm có hình dạng như một con
mắt người. Đồng tử của nó là một viên đá quý màu hồng
đục.”

“Tôi thích mảnh còn lại hơn,” Beau chen vào. “Nó là
một chiếc la bàn, làm từ bạc và vàng, nhưng — mặc dù các
hướng đều được ghi rõ ràng — chiếc la bàn đó hoàn toàn vô
dụng, bởi lẽ nó không có kim.”

“Sao thế, mảnh này không đá quý à?” Jurgen hỏi, vẫn
cố tỏ vẻ chế nhạo, nhưng thất bại thảm hại.

“Không,” Beau nghiêm túc đáp, rút bàn tay mạ crôm


sáng loáng ra khỏi hộp trường lực và thấy hài lòng.

Jurgen quyết định mình có thể góp chuyện mà không


nghe ngớ ngẩn quá. “Trưởng phi hành đoàn của tôi có
nhắc đến việc Tatter D’MaLeon giải quyết vấn đề, thế nên
tôi kiểm tra thử. Tôi tìm thấy một số câu chuyện rất hoang
đường. Điều lạ lùng là không ai đả động gì đến giá của nhân

12
vật Tatter kia. Căn cứ trên những gì sếp của tôi nói, tôi có
cảm tưởng cái giá là một vấn đề quan trọng.”

Lần đầu tiên, viên phi công cyborg và cô chuyên gia


thủy canh trông có vẻ không thoải mái. Họ liếc nhau một
cái thoáng qua. Jurgen im lặng chờ đợi với vẻ đầy kỳ vọng.

“À, cái giá,” Beau nói, khi trông rõ là Jurgen sẽ không


đủ tế nhị để thay đổi đề tài. “Đây chỉ là những câu chuyện
thôi. Hiển nhiên, cái giá sẽ thay đổi tùy theo người kể.”

“Tôi thực sự không biết gì về chuyện rổ giá đâu,” Sera


đế thêm, “nhưng tôi nghe bảo là giá của Tatter tùy người sẽ
khác.”

“Một thang giá,” Jurgen nói. “Kể cũng hợp lý, mặc dù
từ trước đến nay tôi toàn thấy mình sẽ dễ tìm việc hơn nếu
có bảng giá rõ ràng.”

“Ồ, tôi đồng ý!” Beau nói với mức hào hứng hơi cao so
với một câu tầm thường như vậy. Nếu đó có thể trở thành
xuất phát điểm để câu chuyện lái sang thị trường việc làm và
rời xa đề tài một người thậm chí có khả năng còn không tồn
tại, và nếu hai trong số ba người tham gia được cảm thấy nhẹ
nhõm, thế thì đã làm sao?

13
Mọi chuyện bắt nguồn từ một cô gái. Vấn đề sẽ luôn là
một cô gái chừng nào trên đời còn có nữ với nam và nam với
nữ và nữ với nữ và đủ kiểu kết hợp mà các bộ phận nhân tạo
và công cụ phẫu thuật có thể thực hiện được. Nhưng trong
trường hợp này, cô gái ấy chỉ là một cô gái, đơn thuần là một
cô gái thôi. Tên cô là Marguerite, nhưng cô thường được gọi
là Rita.

Jurgen Haines, bấy giờ không còn là một kỹ sư lang bạt


nữa, mà đã trở thành một kỹ sư thường trực, bởi lẽ anh đã
tìm thấy công việc hợp với tài năng của mình và kiếm được
bộn tiền, lần đầu gặp Rita tại quán Idle Hour. Anh vẫn ngồi
ở chiếc bàn nơi mình đã nói chuyện về Tatter D’MaLeon với
Beau và Sera — hai người mà từ đó đến nay anh chưa gặp
lại, và như mọi cuộc gặp thoáng qua khác, họ đều đã bị lãng.

Anh đến Idle Hour cùng với một người ở chỗ làm. Họ
vừa mới gọi đồ uống thì Jurgen nhìn thấy Rita.

Việc cô có xinh đẹp hay không thì cũng còn tùy, bởi
lẽ vẻ đẹp là vấn đề liên quan đến quan điểm cá nhân và gu
tuổi tác. Việc Rita trông ấn tượng thì không có gì để bàn
cãi. Nó không nằm ở chỗ da cô trắng hay sậm màu, hay đầu
cô trông như thế nào hay lông mày có gì đáng chú ý không.
Chính sự tổng hòa giữa các yếu tố tạo nên toàn bộ cô gái ấy
đã khiến cho Jurgen Haines, Kỹ sư (Cấu trúc) Hạng mục
Hai, với tiềm năng trở thành Kỹ sư Hạng mục Một, bất giác
dịch tư thế để ngắm nhìn người phụ nữ vô danh trong lúc

14
cô nghiền ngẫm các file dữ liệu (hay anh đoán thế) trên một
màn hình bàn tay.

Ngay khi đã ngồi đủ lâu để không bị bất lịch sự, và có


khi còn hơi sớm so với mức ấy, Jurgen rời đi, giả vờ vào nhà
vệ sinh (và đúng là anh đã vào thật) nhưng thực chất là để
anh được đi nói chuyện với cô gái mà vài phút sau anh biết
tên là Rita Lathrop.

Rita là một nhà địa chất học, đồng thời rất quan tâm
đến cổ sinh vật học và sinh học vũ trụ. Cô làm việc cho một
nhóm khai khoáng tiểu hành tinh để kiếm sống, đồng thời
tìm kiếm bằng chứng người ngoài hành tinh có tồn tại. Nói
tóm lại, cô là một người mơ mộng và đầy lý tưởng, nhưng
cũng đủ thực tế để có ba bằng tiến sĩ liên kết. Sau nửa tiếng
chuyện phiếm, Jurgen Haines đã như bị sét đánh. Nếu nhớ
rằng “sét đánh” còn mang nghĩa “bị thương,” “bị ăn đòn,”
và “bị tổn hại,” bạn sẽ biết anh vừa vướng phải chuyện gì.

Rita Lathrop chẳng có vấn đề gì cả, chỉ có điều mặc dù


cô rất biết cách yêu, yêu theo cái kiểu Jurgen Haines muốn,
cô lại không thể. Mặc dù cô hoàn toàn có khả năng gần gũi
với bất kỳ người đàn ông hay đàn bà hay bất cứ tổ hợp nào
của hai giớ, đam mê của cô dồn hoàn toàn cho sứ mệnh của
mình.

Tình yêu có thể khiến người tỉnh táo nhất trở nên thiếu
tỉnh táo. Hãy nhớ lấy điều này. Đây là một điểm quan trọng.

15
Khi không đi làm hay đi cùng Rita, Jurgen lang thang
khắp Trạm Nối. Khu nào càng vắng vẻ thì anh càng thích.
Có phải anh đi tìm Tatter D’MaLeon không? Nếu được hỏi,
anh sẽ không thừa nhận. Tuy nhiên bất kể là vô tình hay hữu
ý, anh đã tìm thấy bà ta.

Lần đầu tiên anh nhìn thấy Tatter, bà ta chỉ là một


bóng mờ cuối một hành lang dài, chẳng có gì ngoài các ống
dẫn. Thân trên của bà ta phủ trong một tà áo dài làm từ lụa
thổ cẩm Trung Quốc vàng nhạt điểm xuyết những bông hoa
mảnh mai đong đưa trong gió và chim nhạn đang cất cánh.
Cái viền áo rách rưới phủ xuống tận gối, nhưng nó được xẻ
ra, để lộ cái quần màu kim loại đồng và đôi giày da nai tua
rua. Đôi dày được buộc bằng một sợi dây xám bạc, lờ mờ lấp
lánh trong ánh sáng tù mù tỏa ra từ các trang thiết bị.

Nhưng riêng chiếc mặt nạ thì chắc chắn chỉ có thể là của
Tatter D’MaLeon. Mặt nạ và các thứ tương tự không phải là
điều hiếm gặp trên các trạm vũ trụ. Nhiều người muốn đảm
bảo mình có bộ hỗ trợ hô hấp. Một số người thì phải làm việc
với màn hình ảo, để cho tay được thoải mái sử dụng dụng
cụ. Một số khác — chẳng hạn như viên phi công cyborg mà
Jurgen đã quên — có mấy bộ cấy giúp họ thực hiện một số
công việc được dễ dàng hơn. Khi đã gắn đủ thứ lên mặt, bất
kể có cố ý hay không, người ta sẽ đeo mặt nạ.

Mặt nạ của Tatter thì không ô hợp như vậy. Đây là một
thiết bị che kín mặt, ban đầu trắng như tuyết hay xương hay
giấy mới chưa dùng, được đúc theo dạng mặt phụ nữ cách
16
điệu. Mấy hình ôvan trông như giọt nước mắt dùng làm lỗ
nhìn là thứ duy nhất làm gián đoạn bề mặt phẳng lý, nhưng
khi nhìn kỹ hơn thì có vẻ đã có vài lỗ khác được khoan gần
mũi và miệng, chắc là để hít thở cho dễ.

Có thể nền tảng mặt nạ hồi trước trắng tuyền, nhưng


nó không còn như thế nữa. Xoáy quanh lỗ mắt là những
đường cong lệch tông không có khuôn mẫu gì rõ ràng, tô
điểm màu bạc, vàng, và đồng — cũng chẳng có quy luật gì.
Phần trán cao và một bên má của chiếc mặt nạ có một mớ
những đường lởm chởm, không cân xứng, trông như các tia
chớp giao nhau hay vằn của một con hổ đa sắc rất kỳ lạ.

Môi mặt nạ có màu cam nhạt. Bên má còn lại là ba biểu


tượng được vẽ rất gọn, đại diện cho thứ mà mọi tin đồn đều
khẳng định là thứ duy nhất không bao giờ thay đổi trong
bộ đồ biến đổi không ngừng của Tatter D’MaLeon. Mỗi
hình đều trông rất rõ và được gắn kèm các mẩu lấp lánh tí
hon trông giống đá quý. Đôi chỗ trên chiếc mặt nạ, các giọt
sương đa diện bắt sáng, hắt ngược lại sắc màu chủ đạo của
vùng đó.

“Tatter D’MaLeon?” giọng Jurgen trở nên run rẩy vì


kinh ngạc, và với chỉ một vài âm tiết, anh chuyển từ một
người nghi ngờ sang một người muốn tin.

Thay lời đáp, nhân vật đeo mặt nạ kia thọc một bàn tay
mang găng (găng tím với các nút ngọc trai ở cổ tay, trên vải
bê bết những vệt dầu óng ánh) vào trong một chiếc túi trên
17
bộ đồ và rút ra một thẻ dữ liệu bát giác. Với một cử chỉ điệu
nghệ, cô đưa nó cho Jurgen.

“Tatter D’MaLeon, Kẻ lang bạt Liên hàng tinh,” dòng


đầu tiên ghi. “Vấn đề của ngươi không phải là vấn đề của ta
— trừ khi ngươi muốn ta biến nó thành như thế.”

Trong lúc Jurgen còn đang đọc lại tấm thẻ, chiếc mặt
nạ nói. Giọng bà ta nghe rất khác thường, cao nhưng không
chóe, mang âm sắc nữ cao, nhưng lại có kiểu nhấn nhá khiến
cho nghe như thể tiếng Anh không phải ngôn ngữ gốc của
người này — câu hỏi đặt ra là liệu có ngôn ngữ Trái Đất nào
có vinh dự là ngôn ngữ gốc của bà ta không.

“Thế nào? Ngươi có định nói tại sao ngươi lại đến đây
không? Không phải mọi kẻ lang thang đều lạc đường, nhưng
Tatter ngạc nhiên là ngươi trông có vẻ rất không lạc lõng.”

Jurgen chỉ lưỡng lự một thoáng trước khi kể lại câu


chuyện về sự ám ảnh của mình với Rita Lathrop. Anh chốt
lại với một câu đầy tuyệt vọng. “Tôi không thể sống thiếu
cô ấy.”

“Cô ta chết chưa?” cái giọng ngân nga khác thường kia
đáp. “Lời lẽ của ngươi ám chỉ rằng sự thật không phải vậy.”

“Ôi, Rita vẫn còn sống, vẫn còn sống nhăn, nhưng vì
mải mê với sứ mệnh của mình mà cô ấy không chú ý gì đến
tôi. Tôi đã kể cho bà nghe về sứ mệnh đó rồi đấy.”

18
“Đam mê của cô ta là bằng chứng về người ngoài hành
tinh. Cô ta sống vì nó, nhưng ngươi không thấy thế là đủ?”

“Tôi muốn cô ấy sống, nhưng tôi muốn cô ấy sống


vì tôi nữa. Cô ấy có thể đi tìm người ngoài hành tinh nếu
muốn, nhưng tôi muốn cô ấy đi tìm cùng với tôi hay biết
đến sự tồn tại của tôi, quan tâm đến tôi nhiều như tôi quan
tâm đến cô ấy. Như vậy có quá đáng lắm không?”

Đằng sau chiếc mặt nạ, đôi mắt lấp ló... Chúng màu
nâu à? Hay xanh? Hay pha trộn giữa cả hai? Hay giống như
chỗ đá quý trên mặt nạ, không phải cả hai? Bất kể màu sắc
của chúng có là gì, chúng cũng vừa cử động như thể chớp
mắt.

“Không có gì khó cả,” Tatter đồng ý. “Nhưng đó không


phải là vấn đề của ta — trừ khi ngươi muốn ta biến nó thành
như thế. Ngươi có muốn vậy không?”

Jurgen đông cứng người, bất chợt trở nên im lặng. Kể


từ hồi con người này lần đầu được nhắc đến — cái thời trước
khi Rita xuất hiện — anh đã nghiên cứu về Tatter D’MaLeon.
Quá trình nghiên cứu không hề đơn giản hay cố định. Các
tài liệu trong ngân hàng dữ liệu rất hay bị thay đổi. Đôi khi
hôm nay đọc thấy một bản ghi, nhưng sau này lại không thể
tìm thấy nó nữa, hay nếu tìm được thì cũng đã bị thay đổi
một chút, khó mà xác định rõ được.

19
Không chỉ mỗi các tài liệu mở, mà ngay cả các tài liệu
lưu trong tệp tin riêng của anh cũng bị thay đổi. Đến cả in
ra cũng có vấn đề. Chỉ một phần nhỏ chữ được in lên các
tờ giấy đắt đỏ. Và ngay cả những mảnh giấy in đó cũng rất
hay biến mất. Nhưng, ngay cả với ký ức con người khiếm
khuyết và hạn chế của mình, Jurgen đã hình thành được một
hệ thống các câu chuyện mà anh tin là sự thật.

Tatter D’MaLeon luôn tìm ra được một giải pháp cho


các vấn đề bà ta chấp nhận, nhưng các giải pháp đó có thể
sẽ rất quái dị. Thế nên, tốt nhất là phải cẩn thận giải thích
mình muốn gì từ bà ta — và tốt nhất là phải biết chắc giá
của bà ta trước khi đồng ý. Theo lời đồn thì một khi đã chấp
nhận vấn đề nào, Tatter D’MaLeon sẽ không ngơi nghỉ cho
đến khi đã tìm ra một giải pháp.

Thế nên, khi Tatter hỏi anh có muốn biến vấn đề của
mình thành vấn đề của bà ta không, Jurgen ngần ngừ, nhưng
nghe thấy bản thân bốc đồng nói, “Có.” Anh bổ sung một
cách cẩn thận hơn. “Có khi, có khi tôi muốn bà biến vấn đề
của tôi thành vấn đề của bà. Bà hiểu ‘có khi’ là sao chứ?”

“‘Có thể,’” bà ta đáp lại rất nhanh, dãn dài giọng, khiến
cho nghe giống như “cóa-thể,” “Ta hiểu. ‘Có khi’ là từ tạo
điều kiện đối với một hay nhiều giao kèo được thực hiện. Nó
tương tự với ‘có khả năng,’ ‘có thể,’ cho thấy vấn đề phức tạp
đến mức nào.”

20
“Đúng rồi,” Jurgen nói. “Để tôi giải thích. Khi tôi nói
tôi không muốn sống mà không có Rita, tôi không muốn
nói là mình muốn chết. Tôi cũng không muốn cô ấy chết.
Tôi muốn cả hai chúng tôi cùng được sống. Cùng nhau.
Không thể chia cắt. Tới lúc xuống suối vàng. Tôi muốn thời
gian xuống suối sẽ phải còn lâu mới đến.”

“Sinh tử không phải là vấn đề Tatter có thể giải quyết,”


Tatter nghiêm giọng đáp. “Ngay cả mặt trời rồi cũng phải
chết. Nhưng ta chắc chắn có thể đảm bảo rằng nếu tiếp nhận
vấn đề của ngươi (và cả hai ta sẽ cùng hiểu rằng ngươi muốn
ta khiến cho nó không còn là một vấn đề nữa), thì ta sẽ cố
gắng tìm một giải pháp giúp ngươi và Rita đến gần nhau
hơn mà không gây ảnh hưởng đến tuổi thọ của các ngươi.”

Jurgen thoáng tính hỏi Tatter D’MaLeon xem bà ta có


thể đảm bảo là anh và Rita sẽ hạnh phúc bên nhau không,
nhưng anh nghi ngờ là hỏi thế cũng chẳng khác nào xin cam
đoan về tuổi thọ.

Thay vào đó, anh nói, “Và tôi muốn chúng tôi có cơ
hội được hạnh phúc bên nhau. Tôi không muốn một giải
pháp khiến cho cô ấy ghét tôi.”

“Cẩn thận. Hết sức cẩn thận,” Tatter D’MaLeon đáp lại
với một giọng nghe đầy tình cảm, mặc dù cái kiểu nhấn nhá
trong giọng bà ta nghe lạ đến mức khó mà biết chắc được.
“Ta chấp nhận các hạn chế này nếu ta biến vấn đề của ngươi

21
thành của mình. Bây giờ, hãy chờ một chút để Tatter thu
thập thông tin bổ trợ.”

Bà ta chạm lên ngực chiếc áo thổ cẩm của mình. Lần


đầu tiên, Jurgen để ý thấy các bùa vật vẽ trên mặt nạ được gài
vào lớp vải sờn. Bà ta kéo chiếc la bàn ra, và sau đó đến lượt
ngôi sao tám cánh. Xòe rộng lòng bàn tay mang găng ra, bà
ta đặt ngôi sao lên.

“Chúng để làm gì vậy?” Jurgen nghi ngờ hỏi.

“La bàn đã được dùng hỗ trợ bói toán từ lâu rồi,” bà


ta đáp mà không hẳn là đáp. “Thở lên chúng đi,” Tatter ra
lệnh, đồng thời đưa bàn tay lên ngang miệng của anh, “chở
cho chúng quay đi.”

Cảm thấy phần nào sợ hãi mơ hồ hơn là ngớ ngẩn,


Jurgen tuân lệnh. Giờ thì mớ bùa vật được đưa lên gần mắt
anh hơn, anh có thể thấy viên pha lê màu hồng tí hon dùng
làm trục cho ngôi sao tám cánh quay. Những ký ức mơ hồ
về bánh sinh nhật với những ngọn nến tí hon lướt qua tâm
trí của anh và anh thở mạnh, như thể mình sẽ khiến cho điều
ước của bản thân trở thành sự thật thông qua hành động ấy.
Anh những tưởng hai bùa vật sẽ tách ra, nhưng thay vào đó,
ngôi sao tám cánh lại xoay tít, nhòe đi, gần như trở thành vô
hình.

22
Tatter quan sát, mắt bà ta ẩn đằng sau chiếc mặt nạ.
“Thú vị đấy,” bà ta nói, gập ngón tay lại quanh bùa vật.
“Đây chắc chắn cũng là một vấn đề trăng xanh.”

Bà ta tháo mảnh trăng lưỡi liềm với bàn tay còn lại ra,
sau đó nhẹ nhàng áp nó lên môi dưới của Jurgen, bên dưới lỗ
mũi của anh, bên trên mắt phải của anh, và bên trong vành
tai trái của anh. Cuối cùng, bà ta bỏ miếng mặt trăng vào mớ
bùa vật hiện đã được nắm trong lòng bàn tay.

“Nếu cần thêm, ta sẽ liên hệ với ngươi,” bà ta nói, bắt


đầu quay đi.

“Đợi đã!” Jurgen nói, giơ tay lên như thể để chặn nhân
vật mang mặt nạ kỳ lạ đang đứng khựng lại trước mặt mình.
“Cái giá! Giá để bà tiếp nhận vấn đề của tôi và tìm giải pháp
cho nó là gì?”

Lời đáp của bà ta nghe như một câu ngoài lề.

“Ngươi có thể định nghĩa cho ta về con người được


không? Ngươi có thể nói cho ta biết tại sao con người tồn
tại không?”

Jurgen chớp mắt. Đã từ lâu, bản tính người kỹ sư của


anh coi việc nghĩ về chuyện đó là lãng phí công sức.

“Con người là gì ư? À thì, chẳng phải đó là chuyện liên


quan đến sinh học sao? Cách các ADN liên kết với nhau ấy?

23
Gen. Những thứ gen chúng ta có còn tinh tinh thì không?
Kiểu vậy?”

Căn cứ vào cách đôi vai khoác thổ cẩm vàng chùng
xuống, Jurgen nhận thấy lời đáp của mình đã gây thất vọng.
Anh thử trả lời lại.

“Về việc tại sao con người tồn tại, à, đó là một câu hỏi
mang tính triết học. Tôi chỉ là một kỹ sư lang bạt thôi. Không
giỏi chuyện đó đâu. Tôi tin con người tồn tại để duy trì nòi
giống, hệt như bao loài động vật khác.”

Tatter nghiêng gương mặt đeo mặt nạ của mình với vẻ


dò hỏi. “Thế thì những con người không có con cái không
phải là con người ư? Họ không nên tồn tại ư?”

“Khốn kiếp, tôi không có ý nói như thế... Bà hiểu nhầm


ý tôi rồi. Và chuyện này thì có liên quan gì đến mức giá của
bà?”

Nhưng phản ứng của Tatter lại là một tiếng thở nghe
rất rõ, một thở dài, lần đầu tiên khiến cho Jurgen cảm thấy
chắc chắn rằng đằng sau chiếc mặt nạ là một con người còn
sống. “Nếu không thể trả lời thì tức là ngươi sẽ không thể
trả lời. Tatter cũng chấp nhận các loại tiền thông dụng. Hãy
nhìn vào tấm thẻ ta đã đưa cho ngươi. Con số trên đó có
chấp nhận được không? Bây giờ hãy đặt cọc một khoản nhỏ.
Ta sẽ muốn được thanh toán đầy đủ khi ngươi chấp nhận
giải pháp ta đưa ra cho vấn đề của chúng ta.”
24
Jurgen liếc nhìn xuống tấm thẻ. Các dòng chữ ban đầu
đã biến mất, bị thay thế bởi một con số mà anh thấy thấp vô
cùng.

Anh đang bấm đồng ý đặt cọc thì Tatter D’MaLeon nói
tiếp. “Các chi phí sẽ do ngươi trả, nhưng tất cả sẽ phải được
ngươi chấp nhận trước.”

“Vậy chúng ta thỏa thuận được với nhau chưa?” Jurgen


hỏi, không thể tin nổi vận may của mình.

“Nếu ta tìm được một giải pháp phù hợp với ngươi thì
rồi,” Tatter nói rõ. “Giữ tấm thẻ đi. Nó sẽ cho ngươi biết
thời gian và địa điểm gặp lại ta. À, nếu quý trọng Rita của
ngươi, hãy đến một mình. Như ngươi có thể đã biết, ta rất
ngại người...”

“Đợi đã!” Jurgen gọi, dịch chân bước sang một hành
lang tối, nơi nhân vật mặc đồ lộng lẫy kia vừa quay đầu
chuẩn bị bỏ đi. “Bà sẽ sớm liên hệ lại với tôi, đúng không?
Đây chắc không phải là kiểu vấn đề mà giải pháp duy nhất sẽ
là thật nhiều thời gian đâu, đúng không?”

Tatter quay lại đối mặt với Jurgen, gần sát đến mức
chiếc mặt nạ chiếm hết toàn bộ tầm nhìn của anh. Cặp mắt
bên trong hai lỗ hình ôvan toát lên vẻ thương hại đầy lạnh
lùng. Bầu không khí cả hai cùng hít thở gợn lên với những
xoáy khí tràn ra từ các lỗ nhỏ trên chiếc mặt nạ.

25
“Chờ đợi sẽ là khôn ngoan nhất, nhưng không muốn
đợi là một phần vấn đề ngươi đưa ra cho ta. Đúng không?
Đừng lo, ta sẽ không quên vấn đề thời gian đâu. Giờ đừng đi
theo ta nữa. Chúng ta vẫn chưa đồng tình với nhau, và nếu
ngươi làm ta khó chịu, chúng ta sẽ không bao giờ đồng tình
được.”

Jurgen bước lùi lại, chân hết trượt rồi lại vấp vào các
tấm ván sàn cũ kỹ. “Tôi sẽ nhớ xem thẻ!” anh nói, nhưng
Tatter D’MaLeon đã đi mất rồi.

Jurgen có dư thưa thời gian để cân nhắc liệu việc biến


vấn đề của mình thành vấn đề của Tatter D’MaLeon có khôn
ngoan không. Đã thế, Rita hiện đang đi vắng, mặc dù bấy lâu
nay vẫn sẵn sàng đi ăn tối hay nhậu cùng anh — dù có thể
chỉ vì Jurgen luôn sẵn sàng lắng nghe cô nói về sứ mệnh của
mình. Một tiểu hành tinh mới đã được đưa đến Trạm Ghép
nối, và cô phải làm việc quần quật, đề phòng nghỉ đúng lúc
có phát hiện gì quan trọng.

Chính niềm đam mê ấy đã khiến Jurgen đem lòng yêu


cô — cho dù nó khiến anh bực bội vô cùng bởi cô lại đặt đam
mê của mình vào một hy vọng quá mong manh. Chắc hẳn
phải có những thứ hay hơn... Nhưng họ đã bàn về chuyện
đó, và nó chẳng đi đến đâu, bởi lẽ lần ấy họ rất nặng lời với
nhau.

26
Anh kiểm tra thẻ dữ liệu thường xuyên đến mức đồng
nghiệp của anh không khỏi để ý và hỏi có phải nhà anh đang
có ai bị ốm không. Lúc anh thật thà trả lời rằng, “Tôi đợi
nhận tin từ Tatter D’MaLeon,” anh luôn nhận được một
tràng cười ha hả, hay như trong một trường hợp là vẻ thương
hại.

Lúc nó xuất hiện, bức thông điệp rất ngắn, chỉ có một
chuỗi các số hiệu, thể hiện một điểm gặp mặt và một khung
thời gian. Anh chẳng ngạc nhiên chút nào khi thấy địa điểm
thì vắng vẻ, còn thời gian thì ngay giữa ca — tức là lúc ít có
khả năng bị người khác chen ngang.

Jurgen đã phần nào hy vọng rằng cuộc hẹn sẽ diễn ra


vào một thời điểm đòi hỏi anh phải hủy hẹn với Rita. Anh
hình dung mình nói câu gì đó bí hiểm, có khi còn khiến cô
ghen tị, nhưng âm mưu ấy không có cơ hội được thực thi.
Họ vừa tiếp cận được với một phần mới của tiểu hành tinh
kia, và Rita, mắt thâm quầng vì mệt mỏi, người bồn chồn
vì nốc chất kích thích quá độ, chắc thậm chí còn không để ý
thấy rằng anh dạo này không đến thăm thường xuyên như
trước nữa.

Lúc đến điểm hẹn, Jurgen tưởng không có ai ở đó. Thế


rồi thứ trông ngỡ tưởng ánh sáng vàng kết đọng lại thành
một tấm lụa thổ cẩm vàng óng, một mảng trắng anh cứ
tưởng là vách ngăn trở nên lấp lóa khi Tatter chậm rãi quay
gương mặt mang mặt nạ về phía anh, với một nụ cười bí
hiểm trên cặp môi cam tái bất động.
27
Một lần nữa, kịch bản Jurgen soạn sẵn trong đầu, bao
gồm mào đầu bằng cách bình phẩm một câu thật khôn khéo
và chua cay về việc Tatter đã bắt anh phải đợi, đã không được
mang ra dùng, bởi lẽ Tatter D’MaLeon không bao giờ chào
hỏi như người bình thường. Thay vào đó, bà ta giơ một
ngón tay bọc găng lên và chỉ về phía một cửa sổ — tàn dư
của một con tàu sang trọng ngày xưa, hy sinh tính toàn vẹn
của vỏ tàu để cho hành khách được chiêm ngưỡng các vì sao
một cách “chân thật, trần trụi.”

“Đó,” cái giọng bên trong mặt nạ cất lên. “Mua nó đi.
Nó sẽ giúp ngươi trở nên hấp dẫn đối với Rita đúng như
những gì ngươi muốn, và mang lại sự gắn kết ngươi khát
khao.”

“Mua gì cơ?” Jurgen đáp, tự hỏi có phải ý bà ta là khung


cửa sổ này.

“Đó,” Tatter D’MaLeon lặp lại, hơi ngó ngoáy đầu


ngón tay. Jurgen thấy bà ta chỉ vào một mẩu vụn găm vào vỏ
ngoài, không xa ô cửa sổ mấy.

“Cái cục rác kia ư?” Jurgen hỏi, cảm thấy không thể tin
được.

“Đúng. Nó không phải là ‘rác,’ trừ khi xét theo nghĩa


rộng nhất có thể. Nó là một phần của một ngôi sao chổi,
từng bay qua biết bao dặm đường chân không vũ trụ. Thú
vị hơn hẳn một tiểu hành tinh, đúng không?”
28
Trong cặp mắt long lanh đằng sau hai lỗ ôvan kia —
hôm nay trông xanh phần nhiều chứ không phải nâu —
có nét gì quỷ quyệt, báo hiệu cho Jurgen biết rằng Tatter
D’MaLeon biết dạo gần đây anh thấy bực bội.

“Tất nhiên, ngươi sẽ cần bằng chứng,” Tatter D’MaLeon


nói tiếp. “Ta sẽ cấp cho ngươi tài liệu để giúp loại bỏ vấn đề
của ngươi. Nó là một tài liệu lịch sử, kể về việc con tàu này
không còn được dùng làm tàu và được tích hợp vào trong
trạm như thế nào.”

Jurgen sững sờ trước giải pháp đầy gọn ghẽ này. Anh
chưa bao giờ tính đến chuyện mua cho Rita một món đồ
ngoài hành tinh. Anh hiểu tại sao mình cần phải mua nó.
Nếu không mua, nó sẽ là một phần tài sản của trạm, và
muốn tiếp cận thì phải làm theo các quy định chính thức, vô
cùng hạn chế.

“Tôi sẽ cần giấy phép trục vớt,” anh nói, một phần chỉ
để bản thân mình nghe. “Rồi còn phải đảm bảo chứng minh
được rõ nguồn gốc của nó. Rita rất coi trọng điều ấy. Tôi sẽ
cần đảm bảo ghi lại được hình ảnh mình thu mảnh sao chổi
về. Hoặc hay hơn, chúng tôi có thể cùng nhau thu lấy nó...”

Anh bỏ dở câu nói, nhận ra nhân vật mang mặt nạ đang


đứng im đợi. “À, còn chi phí của bà...”

“Ngươi vẫn chưa biết liệu nó có thể giải quyết được vấn
đề của ngươi hay không,” Tatter phản đối. “Hay thế này,
29
ngươi đã nghĩ gì thêm về câu hỏi của ta chưa? Ngươi có biết
thế nào mới là con người không?”

Jurgen rút một thẻ dữ liệu ra khỏi túi. “Đây là những


gì nhiều triết gia đã nói. Tôi đã loại bỏ những thứ ngớ ngẩn
nhất ra rồi, nhưng xin thừa nhận là tôi thực sự không chắc
đây có đúng là thứ bà muốn không. Bởi thế, tôi có một thẻ
dữ liệu trả trước, chứa lượng tiền bà yêu cầu.”

Với vẻ hết sức nghiêm trang, Tatter chấp nhận cả hai


hình thức thanh toán. Đổi lại, bà ta giao cho anh chỗ tài liệu
đã hứa. Jurgen liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, tự trấn an mình rằng
kho báu của mình vẫn còn ngoài đó. Lúc quay lại, anh không
ngạc nhiên lắm khi thấy Tatter D’MaLeon đã biến mất.

Jurgen là một kỹ sư lang bạt có nghề. Anh biết rất rõ về


cách lấy giấy phép và quyền sở hữu tài sản. Mặc dù rất nôn
nóng, Jurgen đợi cho đến khi tiểu hành tinh của Rita rốt
cuộc cũng chẳng đi đến đâu. Khi ấy, anh mới bẽn lẽn báo
cho cô biết về vật thể ngoài hành tinh mình mới mua được.
Cô không đến mức cuống quýt ôm chầm lấy anh, nhưng sau
khi đọc xong các tài liệu do Tatter D’MaLeon cung cấp, cô
nhìn anh, và trong cặp mắt xinh đẹp của cô, vẻ phấn khích
thay thế nỗi thất vọng.

“Ôi, Jurgen, tuyệt vời quá! Tại sao không anh không
nói cho tôi biết sớm hơn?”
30
“Cô còn quá mải mê với dự án kia,” anh nhắc cô, giọng
hơi có chút châm chọc, “tôi không nghĩ sẽ mời được cô đi
xem thứ tôi có.”

“Đây, giờ tôi rảnh rồi, và tôi đang rất muốn xem. Một
mảnh sao chổi... Ai mà ngờ được chứ!”

“Tôi đã thu xếp khoản thiết bị đào bới,” Jurgen nói.


“Kỹ năng của hai ta chắc sẽ đủ để gỡ mảnh sao chổi kia ra.
Không cần cho ai khác biết đâu bí mật.”

Rita đồng ý với vẻ hăm hở tội nghiệp đến mức Jurgen


tự hỏi cô có biết mình đang trở thành trò đùa đối với một số
người hay không.

Phải mấy tuần sau họ mới xong việc, bởi lẽ Rita khăng
khăng đòi phải ghi chép lại mọi giai đoạn, bất kể tiểu tiết đến
đâu. Nhưng sau đó, họ đã nắm trong tay một khối vật liệu
mà đối với Jurgen, nó bình thường đến mức phi thường.
Anh thậm chí còn những tưởng Tatter D’MaLeon đã lừa
mình. Nhưng khi nghĩ đến việc cuộc khai quật này đã giúp
anh có mấy tuần được ở bên Rita với một cái giá thấp hơn
rất nhiều so với những bữa tối đắt đỏ mà chắc chắn anh sẽ
phải xì tiền ra chi trả, anh quyết định không nghi ngờ gì nữa.
Vâng, giấy phép khai quật không rẻ chút nào, và anh muốn
ăn một bữa tối ngon lành hơn là chui vào trong một bộ đồ
bảo hộ, nhưng...

31
Thế rồi Rita phát hiện ra dấu hiệu cho thấy chôn vùi
bên trong khối vật liệu là một thứ bất thường. Jurgen chỉ
hiểu được phân nửa những gì cô nói về chuỗi phân tử hữu
cơ và các mẫu dạng không khớp với bất cứ thứ gì bên trong
cơ sở dữ liệu khổng lồ mà cô đã tích lũy được sau bao năm
nghiên cứu. Anh chỉ hiểu là cô đang phấn khích. Anh hết
sức vui mừng khi nỗi phấn khích ấy được thể hiện thông qua
những nụ hôn, sau đó chuyển thành những cái ôm, và rồi
chuyển sang một hành động rất không mang tính khoa học,
nhưng sảng khoái vô cùng.

Tuyệt vời hơn nữa là bởi vì không muốn ai biết bí mật


của mình trước khi cô sẵn sàng xuất bản mọi thứ, Rita yêu
cầu Jurgen làm trợ lý phòng thí nghiệm của mình. Anh giả
vờ miễn cưỡng. Điều này, kết hợp với việc Rita ngày một
ý thức được rằng phát hiện cô khao khát cả đời đang nằm
trong một mảnh rác vũ trụ thuộc về một người khác, khiến
cô đối xử với Jurgen rất tử tế.

Rita đã mấy lần ám chỉ rằng mình rất sẵn lòng mua nó
lại từ Jurgen, nhưng anh chẳng bao giờ chấp nhận, nại cớ
mình không muốn lấy tiền của cô trong khi cô cần nó để
trang trải cho cuộc nghiên cứu đắt đỏ này. Và đúng là nó
đắt thật, thế nên họ phải cắt giảm chi phí — không cắt vào
những chỗ có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng kết quả, mà
là thực hiện một số quy trình bằng tay để đỡ phải sử dụng
thiết bị đắt tiền. Rita thậm chí còn bắt đầu nói là làm bằng
tay còn tốt hơn, bởi vì sẽ không ai phản biện được là kết quả

32
cô thu được xuất phát từ các vật liệu vi lượng trên thiết bị
hay lỗi hiệu chuẩn. Công việc của cô và Jurgen được ghi chép
lại rất cẩn thận để đề phòng bị nói là có lỗi do con người gây
ra.

Liệu có phải vụ lây nhiễm xảy ra trong lúc thực hiện


một quy trình tỉ mẩn nào đó không, hay Tatter D’MaLeon
vẫn đang giải quyết “vấn đề của ta”?

Bất kể nguyên nhân có là gì, hậu quả diễn ra rất nhanh


chóng và không thể đảo ngược được. Nội trong một tiếng
kể từ lúc triệu chứng đầu tiên xuất hiện — da trở nên thô
nhám — mọi thứ đã quá muộn. Làn da nhám cứng lại và lan
tỏa, bít kín mắt, tai, và miệng. Nhưng nó không chết người,
bởi lẽ quá trình đột biến cho phép họ hô hấp qua các tế bào
bề mặt. Thêm nữa, tay chân phụ trội mọc túa ra, có lẽ là để
tăng diện tích bề mặt.

Những tay chân phụ trội này sau đó — như được vô


số thiết bị ghi hình trong phòng thí nghiệm của Rita ghi lại
— mọc thêm những bộ phận ngoại vi nhỏ nhưng hiệu quả,
giúp hấp thụ ánh sáng và hơi ẩm, cung cấp cho hệ thống cơ
thể khép kín của cả Rita lẫn Jurgen với hầu hết các dưỡng
chất cần thiết.

Lúc người ta để ý thấy Rita và Jurgen đã biến đâu mất


— và phải sau nguyên một chuỗi ca làm, bởi vì bọn họ chẳng
ai tương tác mấy với những người khác — quá trình biến đổi
đã được hoàn tất.
33
~

Một nhóm bốn người đang tụ lại trong một văn phòng
nhỏ, kín đáo ở vành đai lườn.

“Căn cứ vào các bản ghi của Tiến sĩ Lathrop,” Yoshiko


Shandeigh, nhân viên điều tra cấp cao được giao phó tìm
hiểu vụ việc, báo cáo, “cô ta tin chắc rằng vật thể Kỹ sư
Haines tìm được có nguồn gốc ngoài hành tinh chứ không
phải Trái Đất. Liệu giả thuyết này có được bảo tồn khi điều
tra tiếp hay không sẽ tùy thuộc vào những người tiếp nối
nghiên cứu của cô ta. Hiện tại, kiểm tra sơ bộ cho thấy rằng
thứ gây đột biến không có khả năng sẽ lan ra nơi nào khác
trên trạm — mặc dù tất nhiên, các biện pháp đề phòng cần
thiết đang được triển khai.”

“Vậy tức là họ vẫn còn ở trong đó sao? Bên dưới cái mớ


đó ấy?” Abdul Bameer, quản trị viên nhận báo cáo, hỏi. “Họ
chưa chết à?”

“Tất nhiên là chưa!” Imogene Crow, chuyên viên y tế,


nói. “Căn cứ vào việc họ chuyển hóa ánh sáng, không khí,
nước, và các tài nguyên phụ trợ tối thiểu khác hiệu quả đến
thế nào, có khi họ còn sống lâu hơn tất cả chúng ta ấy.”

“Nhưng họ có nhận thức được không? Họ có ‘ở trong


đó’ không?” Quản trị viên Bameer vẫn hỏi.

34
“Chắc chắn họ vẫn nhận thức được, ít nhất là phần
nào — đặc biệt là nhận thức được nhau,” Tiến sĩ Crow đáp.
“Các tay chân của họ đan xen hết vào với nhau, và khi chúng
tôi tìm cách tách họ ra, họ cứ xoắn xít trở lại với nhau, thế
nên chúng tôi không thể tách họ mà không gây tổn thương
được.”

“Tay chân Jurgen Haines bảo vệ liên kết của họ rất kỹ,”
Sera Mina, chuyên gia thủy canh bị yêu cầu tham gia vì cặp
đôi đột biến này có thể sẽ cần được chăm sóc kiểu mới, bổ
sung. “Tôi từng gặp anh ta lúc anh ta mới đến Trạm Nối.
Chúng tôi có nói chuyện với nhau trong quán Idle Hour,
nhưng tôi chưa bao giờ thực sự làm thân với anh ta. Thế tình
trạng pháp lý của họ là như thế nào? Có tiền để chăm sóc họ
không?”

“Tình trạng pháp lý của Tiến sĩ Lathrop và Kỹ sư


Haines khó nói lắm,” Abdul Bameer nói. “Sau khi tham
khảo ý kiến của nhiều chuyên gia pháp lý khác nhau, chúng
tôi quyết định sẽ tuyên bố họ là người tàn tật, và họ sẽ được
Trạm Ghép nối bảo trợ. Các tài sản cá nhân của họ sẽ bị tịch
thu, vừa dùng để chăm sóc họ, vừa dùng để nghiên cứu căn
bệnh này nhằm tìm ra thuốc chữa.”

Sera Mina đẩy lùi ghế lại và đứng lên. “Rồi, nếu đã
xong xuôi, tôi sẽ đi xem có dựng được cho họ một nhà kính
không. Chào nhé!”

~
35
Ở nơi xa, đâu đó bên trong Trạm Ghép nối, Tatter
D’MaLeon biết rằng vấn đề của Jurgen không còn là của anh
hay của mình nữa. Giải pháp rất khó thực thi, nhưng, đúng
như Jurgen mong muốn, Jurgen và Rita sẽ bên nhau cho đến
trọn đời.

Thậm chí giải pháp Tatter nghĩ ra còn từng có một tiền
lệ trong văn hóa con người. Vừa đóng tệp tin về câu chuyện
của Baucis và Philemon trong thần thoại La Mã, bà ta cảm
thấy hết sức thỏa mãn vì có thể cuối cùng mình cũng đã bắt
đầu hiểu được làm con người là như thế nào. 

Truyện gốc đăng trên Lightspeed .

36
Jane
Lindskold
Jane Lindskold là một nhà văn người Mỹ, chuyên
viết về thể loại Sci Fi và Fantasy. Tính đến nay,
Lindskold đã cho xuất bản 25 cuốn tiểu thuyết,
trong đó nổi tiếng nhất là bộ truyện Firekeeper và
series Artemis Awakening. Bên cạnh tiểu thuyết, bà
còn đã có hơn 70 truyện ngắn đăng tải trong các
tuyển tập cũng như các tạp chí SFF danh giá.

37
HUẤN LUYỆN VIÊN
Meg Elison
(Long Nguyễn dịch)


XIN CHÀO, CÔ EBERSOL! HÔM NAY CÔ KHỎE
không?”

Caroline Ebersol thở dài một tiếng nghe rất rõ vào


trong điện thoại. Mới sớm ngày ra mà đã tươi tắn như thế
thì hơi quá lố. Thực tình mà nói, lúc liếc nhìn thời gian ở góc
màn hình, gọi đến văn phòng cô giờ này hãy còn quá sớm.
Cô đến sớm hơn tất cả mọi người khác một giờ để ổn định,
ăn một cái bánh mì, và giải quyết chút việc trong im lặng
trước khi văn phòng mở cửa và trở thành cái chuồng chim
đông đúc, ồn ào kể từ 9 giờ trở đi. Một cửa sổ để mở trên
màn hình của cô hiển thị các kỳ nghỉ dành cho một người.

“Cô Ebersol? Cô có nghe được tôi không?”

“Có, tôi xin lỗi. Tôi đây.”

38
“Tuyệt! Tôi là Monica ở Solstice Fitness đây, hôm nay
cô khỏe không?”

“Tôi khỏe, cảm ơn cô.” Caroline đưa tay lấy cà phê. Nó


đắng nghét và loãng toẹt trong khi cô đã phải xì ra tận 14 tín
dụng để mua.

Khốn kiếp.

“Thật tuyệt vời! Phần lớn mọi người đều chỉ nói ‘ừ,’
nhưng cô dồn cả nhiệt huyết vào trong đó!”

“Vâng.”

Họ im lặng một lúc.

“À, tôi chỉ muốn cô biết rằng Calvin bị chấn thương.


Anh ta bị đứt gân, thế nên anh ta sẽ phải nghỉ ba tuần.”

“Trời đất ơi.”

Caroline rất ưng huấn luyện viên của mình. Calvin


Tran luôn đúng giờ và không trò chuyện lung tung. Cơ thể
của anh ta thon thả và uyển chuyển, tràn đầy năng lượng.
Anh ta thông minh và hiệu quả, và sau khi anh ta tập xong,
cô cảm thấy khỏe khoắn hơn chứ không phải yếu đi và đau
nhức. Anh ta xứng với mức phí của Solstice, bên cung cấp
dịch vụ hàng đầu thị trường.

39
“Anh ta sẽ quay trở lại, đúng không? Anh ta không
nghỉ hẳn đâu nhỉ?” Caroline cố giữ cho giọng nghe không có
vẻ e sợ, nhưng không thành công.

“Ôi, không có chuyện đó đâu! Calvin gắn bó với việc


lắm, tin tôi đi. Tôi chỉ muốn cho cô biết rằng sáu buổi sau,
cô sẽ ghép cặp cùng Serj. Serj là người mới, nhưng anh ta đã
tập cùng Calvin, và anh ta cũng sẽ thành thạo chẳng kém gì.”

Caroline nhịp ngón tay và hớp thêm một nhấp cà phê


kinh tởm. “Tôi không chắc mình sẵn sàng chấp nhận để cho
chất lượng dịch vụ suy giảm mà không được bồi thường.”

Monica hiển nhiên đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với


câu này. Cô ta lập tức tiếp lời ngay khi. “Chúng tôi hiểu lo
lắng của cô, nhưng sếp của tôi muốn tôi nhấn mạnh rằng
chúng tôi không hạ cấp dịch vụ.”

“Mức… cái anh chàng kia tên gì ấy nhỉ?”

“Serj.”

“Rồi.” Ngưng một lúc. “Mức tích hợp thần kinh của
Serj là bao nhiêu?”

“Sáng nay khi kiểm tra thì anh ta được 98%. Đích thân
tôi là người kiểm tra.”

40
Lông mày Caroline nhướn lên, và mô cấy điện thoại
của cô khẽ bíp lên, nhận lệnh giảm âm lượng xuống. Cô phải
giãn mặt ra để chỉnh nó về bình thường.

“Thế là hơn cả Calvin,” cô thì thào. “Tôi chọn anh ta


bởi vì anh ta có mức tích hợp 96%”

Monica đã bắt đầu trở nên tự mãn. “Chính thế mà Serj


được chọn làm người thay thế cho anh ta. Vậy là, vẫn 11 giờ
sáng nay như thường lệ chứ, cô Ebersol?”

Caroline nhìn lại đồng hồ. “Vâng. Tôi sẽ mặc đồ và chờ


sẵn anh ta.”

“Tuyệt vời,” Monica nói, sau đó cúp máy.

Lúc đồng hồ đổ chuông báo, truyền rung động dọc lòng


bàn chân cô và nhắc cô thay đồ, Caroline đã quên khuấy mất
chuyện đấy. Sau khi trút thêm một hơi thở dài nữa, cô rời
bàn và tiến về phía phòng thay đồ của công ty.

Hồi đôi mươi, Caroline tự mình tập luyện, tận hưởng


những lúc không phải đi làm và đi học, tự hào với bản thân
mỗi khi toát mướt mải mồ hôi hay phá được kỷ lục cá nhân.
Sau khi hai đứa sinh đôi ra đời, cô cảm thấy mọi nhiệt huyết
đã bị hút kiệt ra khỏi cơ thể mình, và cô như thể vừa tỉnh
dậy trong lốt một bà già. Cô đã nghe bạn bè kể lại những câu
chuyện kinh dị, kể về làn da sồ sề và cặp hông phình to.

41
Hồi ấy, cô biết rất rõ mình làm gì. Họ đã chọn cặp song
sinh nam và mang bộ thụ tinh về nhà. Vào đêm thụ thai, họ
uống sâm panh, bắt đầu sang giai đoạn tiếp theo của cuộc
đời, giai đoạn họ nghĩ mình nên có. Nhưng không ai nói
trước cho cô biết về cái sự rầu khổ, cái cảm giác căm ghét bất
thường đối với hai đứa nhóc đã khiến cho cô phải đánh mất
một phần quan trọng và không thể thay thế được của bản
thân.

Trong lúc thay đồ dưới ánh đèn xanh lạnh lẽo, cô quan
sát ảnh phản chiếu của mình.

Cặp tay xệ kia là của ai vậy? Cô vẫy chúng trước gương,


mường tượng ra cảnh những con chim non, toàn da bọc
xương và mỏ ngoác liếp chiếp.

Cái bụng đầy ngấn kia là của ai vậy? Tại sao chân con
người này béo thế?

Ai đang ở trong cơ thể của mình kia?

Cô biết làm thế này chỉ vô ích, nhưng nó cũng không


gây hại gì cho cô cả.

Vụ kiếm huấn luyện viên là ý của chồng cô. Hai đứa kia
đã ba tuổi, và cô đã hoàn toàn bỏ cuộc. Cô không thích đi bộ
nữa, cho dù là đi quãng ngắn. Cô thấy mình luôn mệt mỏi,
thấy ngay cả những bài tập cơ bản nhất cũng khiến cô hết

42
hơi và khổ sở, như mình đang kẹt trong một núi thịt, không
vui vẻ chút nào hết.

Lúc anh đề xuất mua gói một năm tại Solstice, tập cùng
một huấn luyện viên, cô muốn bảo với anh rằng mình sẽ bỏ
đi. Cô sẽ gói ghém hết đồ đạc lại và không bao giờ gọi cho
anh nữa. Không bao giờ gặp hai thằng bé nữa. Cô sẽ dời cái
núi thịt này đi và bắt đầu lại từ đâu.

“Huấn luyện viên kia tên là Tran, và anh ta được đánh


giá rất cao,” anh bảo cô. “Anh biết em không muốn làm
chuyện này, nhưng có huấn luyện viên riêng sẽ dễ hơn. Em
không phải lo về chuyện có ai nhìn ngó mình, hay cảm thấy
ghê tởm khi người em cứ sồ sề.”

Không bao giờ gặp lại anh nữa. Thế sẽ dễ hơn. Không
nói cho ai biết mình từng sinh con.

Cô chẳng nói gì hết. Đôi khi ngay cả nói cũng làm cô


thấy mệt.

“Em yêu à, anh chỉ muốn em về lại như xưa thôi. Ít nhất
thì em cũng thử đi nhé? Tiền không hoàn lại được đâu.”

Cô mỉm cười và đồng ý, chấp nhận thử. Chỉ mỗi vậy


thôi là cổ cô đã đơ lại rồi.

Vợ của anh đã chết rồi. Anh về cơ bản là một anh chồng


góa bụa. Chỉ có điều cô ta vẫn còn đi đứng được, đeo một

43
chiếc mặt nạ phì nộn làm từ gương mặt cũ của em để anh
không nhận ra thôi.

Nhưng tác phong đầy chuyên nghiệp của Calvin giúp


công việc ấy trở nên dễ dàng hơn, trở thành một thứ không gì
đáng xấu hổ hay riêng tư, một giao kèo mua bán đơn thuần.
Lần tích hợp thần kinh đầu tiên diễn ra ở phòng tập, nơi họ
có thể theo dõi toàn bộ quy trình. Sau khi đã tích hợp thử
một vài lần và đã quen, Calvin sẽ đến chỗ làm gặp cô, mang
theo máy THTK di động.

Hết sức tiện lợi.

Lần THTK đầu tiên luôn gây khó chịu. Caroline đã


nôn ra ngay khi vào trong cơ thể thấp lùn, mềm dẻo của
Calvin Tran. Ngày hôm đó anh ta chỉ uống mỗi nước lạnh
để chuẩn bị đón khách hàng mới.

“Bình tĩnh nào, cô Ebersol,” cô tiếp viên nói. “Cố chịu


một giây thôi, và nó sẽ qua.”

Cô lại nôn và ngước lên nhìn bản thân mình phía bên
kia phòng. Cơ thể cô đứng đó, được Calvin đứng thẳng hẳn
lưng lên, và trông có vẻ xinh đẹp hơn nhờ sự tự tin và mạnh
dạn của anh ta, ánh nhìn trực diện của anh ta.

Sau khi hít vào một vài hơi thật sâu, cô thấy mình đã có
thể đứng lên được.

44
Cô cảm thấy nặng nề hơn, mặc dù cô biết cơ thể của
anh ta thực chất nhẹ hơn mình.

Hay là do vâm hơn nhỉ?

Cô duỗi thử cặp tay của anh ta và cảm thấy xấu hổ khi
cô nhận ra rằng Calvin và kỹ thuật viên đang nhìn mình.

“Không sao đâu,” Calvin nói bằng giọng nhẹ nhàng,


không chút bận tâm. “Cô cứ tập cho quen đi.”

Thế là cô bước đi xung quanh, thử giữ thăng bằng, bắt


đầu quen với cơ thể của Calvin.

Ngày hôm đó, họ đảo đi đảo lại để cho chắc ăn, mười
lần tất cả. Đến lần thứ mười, cô gần như chẳng cảm thấy quá
trình chuyển đổi nữa.

Hai tuần sau, Calvin mặc quần dài áo sơ mi đến bên


bàn làm việc của cô. “Vào các ngày thứ Tư, tôi chỉ đi gặp các
nhân viên văn phòng,” anh ta bảo với cô. “Tôi được dặn bộ
đồ này sẽ phù hợp với nơi làm việc của cô, phải vậy không?”

“Hợp đấy,” cô bồn chồn bảo anh ta. “Giờ chúng ta làm
gì…?”

Nhưng anh ta đã đặt hai ngón tay lên mô cấy điện thoại
của cô và kích hoạt phần mềm THTK cài đặt trong đó với
mã lệnh của mình.

45
Sau một chút chóng mặt, cô đã chuyển sang đứng đằng
sau ghế của mình chứ không còn ngồi trong nó nữa. Calvin
đứng dậy trong cơ thể của cô, còn cô thì ngồi xuống trong cơ
thể của anh ta.

“Tôi sẽ quay trở lại trong vòng 90 phút nữa,” Calvin


nhanh nhẹn nói bằng giọng của Caroline. Anh ta quay người
và bước ra khỏi phòng.

Đúng 90 phút sau, cơ thể của Caroline được trả lại cho
cô. Nó đã được tắm rửa và khử mùi, và Calvin đã chải mớ tóc
nghiêm trang của cô về đúng như hồi cô mới đến công ty lúc
ban sáng.

Cô thấy rất ấn tượng.

Cô cũng đã bị nghiện, mặc dù cô chưa biết điều ấy.

Lần nào cũng như lần nào. Calvin sẽ nhanh chóng


chiếm lấy cơ thể cô trong 90 phút để chạy, chèo thuyền, và
nâng tạ. Chẳng bao lâu sau, Caroline đã quen với cảm giác
cơ bắp đau nhức mặc dù cô chẳng làm gì cả, và phải uống lại
nước mặc dù cô chẳng nhớ mình làm gì mất nước đến thế.

Hợp đồng có một số quy tắc đơn giản nhưng bất di bất
dịch: trong lúc tích hợp với cơ thể người khác, khách hàng
không được ăn, uống, hay thực hiện bất cứ hoạt động nguy
hiểm nào cả. Nó bao gồm (nhưng không giới hạn trong)
quan hệ tình dục, lái xe, thực hiện những trò mạo hiểm, và

46
dùng chất kích thích. Tất nhiên là sẽ được phép đi nặng đi
nhẹ, nhưng Caroline luôn thấy Calvin bàn giao cho mình
một bàng quang trống rỗng, đơn giản hóa hết mọi thứ cho
cô.

Thế là cứ hai lần một tuần, Caroline lại dành ra 90 phút


bên trong một cơ thể chẳng cần gì và chẳng đòi hỏi gì cả. Cô
để cho tâm trí mình thoải mái ngả mình vào nó, hệt như
ngả người vào trong một chiếc võng; đầu tiên sẽ thấy lo và
cứ tưởng mình sẽ bị quẳng xuống dưới đất… nhưng rồi nhẹ
nhõm và thoải mái vô cùng khi cảm nhận được chiếc võng.

Trong buổi tập thứ tư hay thứ năm gì đó của họ, cô


chợt nảy ra một ý.

Cơ thể này chưa bao giờ sinh con.

Nó thật hiển nhiên, ấy nhưng lại như một tiết lộ động


trời. Các cơ bụng của Calvin rắn chắc và phẳng lỳ như một
chiếc thớt. Cặp đùi của anh ta ngồi gọn trong chiếc ghế văn
phòng cũ của cô (không bao giờ cọt kẹt dưới sức nặng không
đáng kể của anh) và chúng không chạm nhau khi cô đứng
dậy và đi lung tung.

Chắc không ai làm phiền gì Calvin cả, cô nghĩ thầm,


gồng cặp tay ngắn mạnh mẽ của anh ta lên.

Caroline bị tất cả mọi người làm phiền. Dường như ai


cũng muốn gì đó từ cô. Sau khi trở thành một người mẹ, cô

47
thấy mình như phải chăm lo cho mọi người đàn ông và đứa
trẻ trên đời. Tất cả đều trông đợi cô như thể cô giữ sữa của
họ, chăn của họ, bài hát ru của họ.

Cô vào trong bếp công ty và đứng đó với cơ thể của


Calvin. Cô không ăn hay uống gì, theo đúng như hợp đồng.
Nhưng cô sẽ đứng trong góc phòng và ngạc nhiên trước
cảnh không ai nhờ cô đưa cho mình thứ gì cả. Họ sẽ lịch sự
xin phép khi di ngang qua chỗ cô, và chỉ bảo cô dịch ra nếu
bắt buộc phải làm vậy.

Khi đi ngang qua một bồn rửa đầy bát đĩa bẩn và thậm
chí còn không nghĩ đến chuyện rửa chúng đi.

Tự do.

Lịch trình này của họ cứ thế tiếp diễn mấy tháng liên,
và Caroline trở nên rất thoải mái bên trong cơ thể võng của
Calvin. Cô háo hức chờ đợi các buổi tập luyện và bắt đầu hãi
sợ khoảnh khắc cơ thể mình được trao trả lại cho mình. Chắc
chắn nó đã trở nên gầy hơn và săn chắc hơn sau hồi cô sinh
hai đứa kia. Chồng cô thích mê, thường xuyên nói là anh
thấy đã có chuyển biến, và cô trông rất xinh.

Anh nhận lại được thứ anh đánh mất, cô nghĩ thầm.
Anh được giả vờ. Em thì chỉ được 90 phút mỗi tuần.

48
Thế nên lúc Monica bảo với cô rằng Serj đang trên
đường đến để thực hiện buổi tập đầu tiên của họ với nhau,
cô biết ngay mình sẽ làm gì.

Mình không thể ăn cắp cơ thể của Calvin được. Mình


biết anh ta.

Serj đến, với mái tóc dài, đen sẫm, và xoăn cẩn thận
buộc lại sau gáy. Cô chưa bao giờ gặp anh ta cả, nhưng anh
ta đưa bàn tay lên mô cấy của cô và quá trình THTK diễn ra
một cách hoàn hảo.

Họ gần như không nói chuyện với nhau câu nào. Anh
ta đã học được từ Calvin bí quyết không nói không rằng, bí
quyết trở thành chiếc võng. Caroline thả người vào trong
đó, biết rằng anh ta là lốt hoàn hảo cho cô. Cô chui vào trong
cơ thể của anh ta như thể đã làm cả ngàn lần rồi, biết chính
xác cảm giác ấy sẽ như thế nào.

Anh ta bước ra khỏi tòa nhà với bộ ngực của cô và


gương mặt cô và cô chúc anh ta may mắn.

Lên phà chẳng có gì khó khăn cả. Cô dùng phiếu quá


cảnh của mình và không ai biết gì hết.

Máy bay thì khó hơn. Cô phải giải thích rằng mình mắc
chứng sợ bay và đã được tích hợp với một cơ thể khác để
vượt qua nỗi sợ của mình. Họ chạm máy quét lên mô cấy và
thấy số hiệu của một chuyên viên giao diện thần kinh mới,

49
không rõ là làm trong ngành nào. Cô trông có vẻ lo lắng. Tốt
nhất nên để cô ta lên máy bay. Xét cho cùng, thẻ tín dụng
của cô ta vẫn hoạt động tốt.

Ở Macau, cô qua cửa khẩu và mấy người kiểm soát


THTK, những người có cách làm việc rất khác so với đầu
bên kia bán cầu. Cô tin cản trở lớn nhất đối với việc học tiếng
Trung chắc sẽ là giọng Mỹ của Serj. Ngoài ra thì cô sẽ chẳng
sao hết. Cô chạm tay vào thiết bị THTK di động trong túi,
tự hỏi cảm giác trẻ mãi sẽ như thế nào.

Cô vốn là người học hỏi nhanh mà. 

Truyện gốc đăng trên Compelling Science Fiction.

50
Meg
Elison
Meg Elison là một nhà văn người Mỹ. Cô từng
bỏ học cấp ba, và sau đó theo học và tốt nghiệp
Đại học California, Berkeley. Tiểu thuyết đầu tay
của cô, mang đề tài hậu tận thế , The Book of the
Unnamed Midwife của cô đã được đề cử Tiptree và
giành được giải thưởng Philip K. Dick năm 2014.

51
KẾ HOẠCH DỰ PHÒNG
CHO NGÀY TẬN THẾ
S.B. Divya
(Long Nguyễn dịch)

Ngày tận thế của tôi không cưỡi ngựa hay hồi sinh
người chết hay cho mặt trời mọc thêm trên trời. Nó đến
cùng với xe tăng và máy bay không người lái, tiếng vũ khí tự
động khạc lửa, cặp mắt nhòm ngó của hàng xóm. Nó muốn
lấy mạng vợ tôi. Cả mạng tôi nữa. Tôi không nghĩ mình sẽ
sống sót được.

Chula có khả năng sống cao hơn. Cô từng bốn lần


làm một vận động viên ba môn phối hợp, thị lực hoàn hảo,
không thương tật gì. Cô có thể nhấc đứa con sáu tuổi của
chúng tôi chẳng khác nào tôi nhấc một khúc củi. Nếu có ai
trốn được luật pháp, người ấy sẽ là Chula.

“Lúc họ đến bắt chúng ta,” tôi nói, sau khi Kaila ra đời,
“Anh mang lũ trẻ và ba lô và chạy ra nhà trú ẩn nhé.”

52
Cặp mắt xanh của Chula nheo lại. “Và em sẽ theo sau.
Em cũng có một ba lô. Chúng ta sẽ đi cùng nhau, như mọi
khi.”

“Vâng. Nếu em sống được.”

Ánh mắt của cô dữ dội đến mức thừa sức làm tan chảy
Nam Cực. “Và nếu anh mà chết còn em không thì sao?”

“Khó có khả năng đó lắm. Em không nghĩ thế đâu.”

Cô nhướn cặp lông mày sáng màu để chỉ trích cái sự giả
nhân giả nghĩa của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Nếu sự
tồn vong của chúng tôi phụ thuộc cả vào tôi, chúng tôi gặp
rắc rối to rồi.

Như mọi tối bình thường khác, tôi đặt đứa bé vào trong
phòng chúng tôi sau khi cho nó ăn. Đêm nhuộm sẫm bầu
trời. Chúng tôi tắt hết mọi loại đèn đóm có thể để tránh bị
người ngoài nhòm ngó. Tôi vấp phải mép tấm thảm phòng
ăn, cái mép đã cong hẳn lên vì tôi cứ mắc chân vào nó suốt.
(Sau một trận bại liệt, cơ của tôi đã trở nên rất lóng ngóng,
nhưng tôi đã tập ngã nhiều rồi. Tôi biết cách tránh bị bong
gân và gãy xương.) Tôi chống cườm tay xuống đất, tí nữa thì
sấp mặt.

Một viên đạn bay vèo qua đầu tôi và bổ vào đầu Chula.

Trong suốt năm giây, tôi bất động.

53
Trong suốt năm giây, tôi ngừng thở.

Tâm trí tôi dứt khoát không chịu chấp nhận hình ảnh
trước mặt mình. Không. Không. Không không không.

Tôi hít mạnh vào.

Tôi chạy lại.

Cổ cô ấy không còn mạch nữa.

Tôi phủ một tấm chăn lên người vợ mình và che kín tất
cả: mái tóc vàng nay đã bê bết máu, những mảnh kính bắt
ánh đèn đường, tay chân xoãi rộng như một đứa trẻ đang
ngủ, vệt bẩn đang dần loang rộng trên tấm thảm — tấm
thảm khốn nạn tôi sẽ không bao giờ còn được thấy lại.

Một sợi chỉ vàng mắc vào bản lề cổ tay giả của tôi. Màu
yêu thích của Chula. Tôi giật nó ra và nhét nó vào giữa áo
lót của mình trong lúc tôi bò sang bên kia phòng. Thêm đạn
bắn nát cửa sổ nhà chúng tôi. Một sợi dây chun đau đớn siết
chặt quanh tim và phổi của tôi.

Tôi thầm nói lời vĩnh biệt trong đầu. Nói hẳn ra thì sẽ
chẳng khác nào cấp bằng chứng cho các giác quan. Tôi ước
mình có thời gian tặng Chula một nụ hôn vĩnh biệt. Tôi ước
cô vẫn còn sống. Tôi hy vọng những kẻ bên ngoài đều nghĩ
cả hai chúng tôi đều đã chết.

54
Khi đến hành lang không cửa sổ, tôi đứng dậy và chạy.
Đôi chân mang giày của tôi nện bồm bộp lên những tấm ván
hồ đào, dự án nâng cấp nhà từ hồi nỗi sợ chưa bao trùm lên
cuộc sống của chúng tôi. Giờ chúng tôi mặc nguyên quần
áo đi ngủ và đi giày trong nhà. Ảnh chụp lướt qua trên bức
tường màu be, những mảnh ký ức in hằn trên nền đen, chỉ
thiếu đi những ký ức mới nhất: bốn người chúng tôi cùng
nằm trên giường sau khi tôi sinh Kaila. Tấm đó được tôi dán
lên chứ không treo trong khung. Chỉ cần giật nhẹ là nó bung
ra, và lọt gọn vào trong túi sau quần tôi.

Tôi chui vào trong phòng của chúng tôi và thò tay
xuống dưới khung giường cổ. Tôi lôi ba lô ra, trong nhét đầy
tám cân đồ, cùng khối lượng tôi đã đeo qua dãy Andes trong
chuyến đi Choquequirao của chúng tôi. Tôi hồi ấy trẻ hơn
một thập kỷ và cũng khỏe hơn nữa, nhưng hôm nay tôi chỉ
phải đi một quãng bằng một phần tư. Ở độ cao ngang mực
nước biển, tôi sẽ đi được. Bắt buộc phải thế thôi.

Tôi siết chặt quai đeo. Cái địu trẻ treo trên một bên góc
cũi. Kaila khẽ ư ử khi tôi đặt tấm thân quấn chăn của nó vào
sát thân mình. Tôi khóa cứng tay trong một vị trí đỡ bên
dưới nó, và tắt nó đi để tiết kiệm pin.

Trong phòng ngủ kế bên, Myles nấp dưới gầm giường


đúng như chúng tôi đã dạy. Mái tóc quăn sẫm của nó bắt
lấy những tia sáng cuối cùng chiếu vào từ cửa sổ. Nó có tóc
giống y hệt bố mình, người đã chết một năm trước trong lúc

55
họ vượt biên. Cùng cái biên giới chúng tôi giờ đang sắp tiến
đến.

“Đến lúc đi rồi, cưng,” tôi thì thầm.

Nó bò ra. “Chula đâu ạ?”

Tôi chẳng biết trả lời như thế nào. “Mẹ sẽ giải thích
sau.”

Vẻ nghi ngờ xuất hiện trên gương mặt sáu tuổi của nó,
khiến hàm nó đanh lại. Đừng có lên cơn, đừng lên cơn lúc
này, con ơi, làm ơn đi, chúng ta phải đi ngay.

“Đừng quên Dino,” tôi nói.

Đây một phần là đánh lạc hướng nó, một phần là


sự thật, nhưng vẫn hiệu nghiệm. Myles nhào ra lấy con
Tyrannosaurus rex nhồi bông và siết chặt nó trước ngực.
Chúng tôi chạy ra cửa bên và vào trong cái lạnh của màn
đêm — ôi, mình quên mang áo khoác rồi, mình có nhét áo
khoác vào trong ba lô không nhỉ? — nhưng chúng tôi không
thể quay trở lại được bởi vì nòng súng xe tăng đã lừ lừ hiện ra
chỗ ngôi nhà thứ tư dọc phố. Một tấm bạt trắng che chiếc xe
phẫu thuật bên cạnh nhà. Tôi không dám dùng nó, đặc biệt
khi bên trong toàn bằng chứng nguy hiểm, nhưng tôi thầm
lặng vĩnh biệt nó. Lại thêm một sợi dây gắn kết với Chula bị
cắt bỏ.

56
Chúng tôi chui qua cánh cửa giấu kín chỗ rào sau, chạy
dọc một con hẻm, băng qua một bức tranh khảm làm từ đá
vụn và thủy tinh. Tôi lấy điện thoại và tăng cường độ đèn
chiếu trong các mắt kính cấy của mình lên. (Người ta bảo
đây là một công nghệ thử nghiệm, có nhiều rủi ro. Tôi bảo
họ khớp miệng lại và cứ cầm tiền của tôi đi.) Tôi bám theo
cái đường vòi tưới ngoằn ngoèo bao quanh một dây cáp dữ
liệu, câu trộm để phục vụ mấy việc làm bất hợp pháp của tôi.

Cái vòi dẫn vào một cánh cửa nhẵn trơn, gắn trên một
tòa nhà thấp lè tè. Tôi giật nó ra và quẳng lại về phía ngôi
nhà của mình. Không thể để chúng biết chúng tôi đi đâu.
Ngón cái của tôi áp vào khóa cảm biến. Một ngọn đèn bên
cạnh nó nháy đỏ. Tôi lẩm bẩm chửi thề và liếm làn da khô
cong của mình và thử lại. Bật xanh đi, bật xanh đi, bật xanh
đi — có thế chứ!

Tôi mở cửa. Myles đâu mất rồi? Nó vừa mới ở đây thôi
mà. Sao mà nó… ôi mẹ kiếp!

Lửa nuốt trọn nhà của chúng tôi và bùng ra ngoài. Ánh
sáng làm lóa hết mắt tôi, và tất cả những gì tôi có thể thấy là
một bóng đen nhỏ bay vèo đi, rời khỏi phần tường sau nhà,
về phía tôi. Myles ngã đập đầu xuống đất.

Một sợi dây chun thứ hai, sợi dây chun trách móc bản
thân, siết nghẹt tim và phổi của tôi. Tôi chạy ra chỗ cậu con
trai mình, choàng tay quanh ngực nó, và kéo nó qua cửa.

57
Tôi đặt nó xuống. Sống đi, con ơi, sống đi. Ngực nó trồi lên
hạ xuống. Tôi nhẹ nhõm đến choáng váng cả đầu óc.

Những ngọn đèn đỏ mờ nhạt bật lên khi chúng tôi


bước vào. Máy chủ xếp kín các bên tường. những bó cáp
căng dọc trần, dẫn đến một cây cầu thang đâm xuyên qua
đất đá. Lối thoát của chúng tôi, thường chỉ dùng để chuyển
các lượng dữ liệu lớn, và thỉnh thoảng mới có người dùng.

Tôi nhòm vào trong khoảng không âm u. Tôi không


thể đưa cả hai đứa chúng nó xuống dưới tầng được.

Mẹ kiếp, Chula, anh phải ở đây mới đúng chứ!

Lúc bước xuống bậc thang cuối, tôi vấp chân và ngã
khuỵu gối xuống, nhưng không đè lên đứa bé. Kaila quẫy
lúc tôi đặt nó lên nền đất bên cạnh chiếc ba lô, nhưng nó
không khóc tiếng nào. Tôi cà nhắc lên đưa Myles xuống, vừa
leo vừa tháo khóa cánh tay giả của mình ra và bật nó lên.

Sau khi đã đưa được cả hai đứa xuống dưới, tôi dừng
một phút để lấy hơi và dỏng tai nghe ngóng. Không có âm
thanh nào từ bên ngoài vọng đến. Không có tiếng cửa đóng
sầm lại bên trên chúng tôi. Không có ai thét lác. Tôi nhấn
nút tắt trên tường — một thay đổi nho nhỏ chúng tôi đã lắp
đặt. Bụi đất chốt kín căn phòng bên trên. Cầu thang chẳng
dẫn đi đâu cả.

58
Chúng tôi bấy giờ đang ở trong một đường hầm đầy
những cổng truy cập mạng. Nếu được thì tôi đã kết nối với
một sợi cáp rồi, nhưng giờ thì vô ích thôi. Thay vào đó, tôi
lấy điện thoại, hiện đã gần hết pin. Gia đình chúng tôi có
một hệ thống kết nối riêng, một nhóm những trang chúng
tôi dùng để nhắn những tin trông vào sẽ tưởng linh tinh,
những người thân thì sẽ hiểu. Tôi viết: Phải đi vệ sinh. Cùng
với T. rex và raptor. Mất nhẫn rồi. Tôi kiểm tra các địa điểm
khác. Đã hơn một tuần nay anh trai tôi chẳng nhắn tin nào.
Bố mẹ của tôi và của Chula sống ở các bang tử tế, tạ ơn Chúa.
Vậy là đỡ đi hai việc cần lo.

Myles rên rỉ. Nhờ ánh sáng tỏa ra từ màn hình, tôi có
thể thấy các mảng đỏ thẫm trên da thằng bé. Đế giày của
nó đã tan chảy ra. Có dính luôn vào da chân nó không? Tôi
rùng mình và xua đuổi suy nghĩ ấy đi. Nó vẫn đang thở. Nó
vẫn còn sống. Nó sẽ không sao đâu. Nó sẽ ổn thôi, chắc chắn
là thế.

Đường hầm xao động xung quanh chúng tôi. Bụi bay
trong thứ ánh sáng nhân tạo. Tôi nhét điện thoại vào trong
túi. Chúng tôi không thể nấn ná quá lâu. Tôi kiểm tra chiếc
ba lô dùng để đi bộ ngày dài. Myles có vóc người nhỏ thó so
với tuổi. Có khi sẽ được đấy. Từ trong ba lô, mấy bộ quần
áo, một con dao đa năng, một tập giấy dán, gậy đi đường, tã
lót, sữa, đồ ăn, chai nước, một khối quan chứa đựng mọi ký
ức của chúng tôi. Mớ áo khoác hẳn được đặt trong ba lô của
Chula.

59
Tôi lấy dao khoét lỗ ở hai bên đáy ba lô, sau đó tôi
đặt Myles vào và quấn đai nén quanh cổ nó. Trong mấy túi
ngoài, tôi nhồi vào sáu chiếc tã — chúng nhẹ như không —
một bộ đồ sạch cho Kaila, ba gói sữa, hai thanh đồ ăn, một
chai nước, và khối dữ liệu. Vẫn là cái khó từ ngàn xưa: mang
nhiều hay mang nhẹ.

Con dao được đút trở lại vào túi sau của tôi, vũ khí duy
nhất của tôi trong trường hợp tôi cần đến. Đứa bé đeo ra
phía trước. Cậu con trai bốn mươi tư pound của tôi được
cõng trên lưng. Đầu nó gục lên vai tôi. Để giảm trọng lượng
mang vác, tôi tháo cánh tay giả đặt nó vào đống đồ bỏ đi trên
mặt đất.

Cây gậy leo núi giúp tôi cân bằng trọng tâm mới của
mình. Đau buồn và quyết tâm tiếp lửa cho tôi tiến bước.
Nếu tôi không sống sót, chúng cũng sẽ chết cùng với tôi.

Chula bước dọc đường hầm, Myles chạy bên cạnh. Tôi
hình dung cảnh thằng bé than là chân nó mỏi rồi. Chula bế
thốc nó dưới một bên tay, bắp gồng lên nhưng không căng.
Trong hình ảnh mình mường tượng ra, tôi là một bóng ma
lơ lửng đằng sau họ. Tất cả đều diễn ra theo đúng như kế
hoạch, và họ đã trốn thoát. Tôi không phải chịu đựng mất
mát và đau đớn. Tôi không phải mạnh mẽ.

Suốt mười hai tiếng liên, tôi cứ đi. Lê bước. Lầm lũi. Va
vấp. Cứ mỗi ba tiếng một lần, tôi dừng lại để cho Kaila uống
sữa, nửa từ ngực của tôi, nửa từ mấy gói sữa, làm trong lúc
60
đứng hoặc quỳ. Tôi nhìn vào sợi chỉ vàng nhét trong áo lót
thường xuyên chẳng kém gì cặp mắt đen của đứa con mình.
Tôi thò tay phải ra sau để kiểm tra mạch và nhịp thở của
Myles. Tôi lấy đầu ngón tay cho nước vào trong cái miệng
khô nẻ của nó, hy vọng rằng nó không bị mất nước quá
nhiều.

Những thứ tôi có thể nghĩ đến là thời gian, số lượng,


và số bước. Những thứ khác bị tôi gạt sang bên — thất bại
không thể tránh khỏi của tôi, Chula nằm lăn lóc trên tấm
thảm, những cái xác lạnh lẽo, cứng đờ của chúng tôi nằm lại
bên trong không gian như hầm mộ này.

Có nên ở lại bang này không? Chúng tôi hỏi câu ấy ít


nhất một lần mỗi tuần. Tôi kiếm bệnh nhân và lái xe. Chula
và lũ rôbốt tiến hành phá thai. Tại nơi này, dịch vụ cứu bao
mạng người của chúng tôi sẽ phải chịu án tử hình. Chúng
tôi ý thức được rủi ro. Chúng tôi không thể huyễn hoặc bản
thân về điều đó.

Nhưng đáng nhẽ ra người ở đây, lôi gia đình chúng tôi
đến nơi an toàn sẽ không phải là tôi.

Chula đã liên hệ với phe kháng chiến, đã dàn xếp tất cả.
(Chúng tôi giữ bí mật danh tính của tôi để bảo vệ bọn trẻ, và
đó cũng là lý do hiện tôi đang mang theo chúng.) Cô có tiếng
sẵn rồi: một bác sĩ, một người sở hữu kỹ năng hiếm. Tôi là
một người khai thác dữ liệu. Chẳng có gì đặc biệt cả.

61
Cuối cùng, một cây cầu thang nhô lên trước mặt. Các
sợi cáp tụ lên trên. Chân của tôi còn nặng hơn voi. Lũ voi
khốn kiếp. Tại sao chúng to thế cơ chứ? Bậc thang, bậc
thang, thêm… một… bậc thang nữa.

Tôi đã bước qua cánh cửa, vào trong một trung tâm
dữ liệu khác, trống trải không kém gì trung tâm trước. Điện
thoại của tôi đã cạn sạch pin, nhưng tôi nhớ đường đến nhà
trú ẩn. Tôi nhớ hầu hết những gì mình nhìn thấy, thói quen
sót lại từ thời còn đeo kính (và gần như mù tịt nếu không
có chúng). Bình minh tỏa rạng trên nền trời phía Đông. Nó
thắp sáng đường cho chúng tôi, dẫn chúng tôi đến một ngôi
nhà thấp, dài, sơn xám với chút trắng. Cửa bên có một ổ
khóa điện tử. Tôi nhập mã tám số vào. Một tiếng tách khẽ
báo hiệu mã đã được xác nhận.

Tôi loạng choạng bước vào bên trong. Một cặp đôi từ
phòng ngủ bước ra. Trông vẻ cảnh giác của họ là tôi biết hết
diện mạo chúng tôi trông ra sao. Một câu hỏi vọng vào tai
tôi, lọt lên đầu tôi.

“Chula Smith.” Tôi thì thầm tên cô như một lời khấn
và ngã lăn ra sàn gạch, bao quanh là những bức tường và bàn
ghế và hơi ấm. Chúng tôi đã tạm được an toàn.

Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ đầy áp phích các
ngôi sao thực tại tăng cường đã ngả màu. Họ gợi cho tôi nhớ
lại cuộc đời hồi trước của mình — rà soát trên mạng tìm dữ
liệu tử tế, xâu chuỗi chúng lại như các manh mối trong một
62
câu chuyện trinh thám. Kỹ năng ấy rất phù hợp với việc tìm
những người cần đến dịch vụ của Chula. Hầu như không ai
để ý đến những manh mối mình để lại trên internet.

Myles nằm trên chiếc giường đơn, các vết bỏng của nó
đã được chúng tôi băng bó hết mức có thvà nó đã được bón
cho nửa bát canh gà. Kaila và tôi nằm trên sàn. Một túi ngủ
để mở lót bên dưới chúng tôi. Tim của tôi bị hai sợi dây
chun siết lấy, đập liên hồi như một con bướm mắc bẫy.

Bên ngoài cửa phòng, hai người chủ nhà đang lên
giọng cãi vã với nhau. Họ xưng biệt danh với tôi — Bravo và
Foxtrot — và không hỏi tên của tôi, nhưng họ biết tôi không
phải là Chula.

“Smith là người cần được ưu tiên sơ tán, không phải cái


gia đình kia,” Foxtrot nói. “Chúng ta không thể đường đột
đi kiếm đồ khi chưa được cho phép. Hai ngày nữa. Họ sẽ trụ
được.”

“Cô ta có một đứa con bốn tháng tuổi!” Bravo nghe có


vẻ buồn bực. “Và đứa bé cần được chăm sóc y tế, hơn mức
chúng ta có thể cung cấp cho nó.”

“Và chúng ta cần giữ vỏ bọc, không thì sẽ chẳng giúp


gì được ai cả. Em cũng không muốn đâu, nhưng chúng ta
không thể liều tất cả mọi thứ chỉ vì một nhóm người ưu tiên
thấp.”

63
Giọng của họ nhỏ dần. Họ không dùng chuẩn đại từ
nhân xưng để gọi tôi, nhưng trong tình cảnh hiện tại thì tôi
không có quyền yêu cầu họ sửa.

Bravo nói đúng. Myles cần một bác sĩ. Nếu Chula mà
có ở đây, cô ấy sẽ có thể lo liệu cho thằng bé. Nếu Chula mà
có ở đây, bọn họ sẽ đang trên đường ra biên giới rồi. Nếu
Chula mà có ở đây, nếu, nếu, nếu.

Kaila rên rỉ. Tôi ngồi dây để cho nó bú ngực trái của
mình, bên ngực còn lành. Tôi dựa người vào một bên tường
và dùng chân đỡ cơ thể, nhưng làm thế phải mất thời gian,
và con bé bắt đầu khóc to trước khi tôi kịp sẵn sàng. Nó
bình tĩnh lại khi chúng tôi đổi bên ngực. Cặp mắt đen của
nó nhìn vào mắt tôi, trông đầy nghiêm nghị cho đến khi nó
ngưng bú để nở một nụ cười, khiến mặt nó sáng bừng lên.

Tôi mỉm cười đáp lại, nhưng trong đầu thì tôi lại nghĩ
thầm, xin trời hãy cho con tiết đủ sữa hôm nay, cho hôm nay
và ngày mai và ngày kia nữa, cho đến khi chúng con ra được
khỏi đây, bởi chúng con đã dùng hết sữa gói rồi, và sữa được
cấp theo khẩu phần, và những người này không có con, thế
nên chúng con sẽ không thể kiếm được thêm sữa nữa đâu.

Trong vòng hai mươi phút sau khi con bé ngừng bú,
Kaila tươi tỉnh vô cùng. Lúc nó lại bắt đầu quấy, tôi cố gắng
lấy ngực lấp miệng nó, nhưng nó không chịu. Tiếng gào
khóc của nó làm mấy người chủ nhà bước vào.

64
“Cô cần cho nó nín đi,” Bravo nói. “Nhà chúng tôi trên
giấy tờ không có trẻ con.”

“Nó đói,” tôi nói. Cổ và má tôi nóng bừng lên vì xấu


hổ.

Foxtrot nhíu mày. “Cô không cho nó bú được sao?”

“Tôi cho rồi. Tôi… tôi không tiết đủ sữa cho nó, và tôi
hết sữa gói rồi.”

Hai người bọn họ nhìn nhau trước khi rời phòng. Lần
này, cuộc trò chuyện của họ không vọng vào. Tôi hình dung
Foxtrot nói, “Thế là lại thêm một vấn đề. Đúng là vô dụng.
Chúng ta cần phải tống đám kia quay trở lại ra ngoài cho
chết luôn đi,” thế là tôi ép các thớ cơ chân lảo đảo, kiệt quệ
của mình đứng dậy, và tôi nhấc đứa con của mình lên. Vai
phải tôi nhức ê ẩm vì sức nặng của nó, và cánh tay đã cụt của
tôi cứ ngứa râm ran. Tôi cắn răng đong đưa Kaila cho đến
khi nó bỏ cuộc và lăn ra ngủ, và rồi, cuối cùng, cả tôi cũng
thế.

Sáng hôm sau, tôi ngạc nhiên khi thấy Foxtrot bảo
mình hãy chuẩn bị sẵn sàng để đi. Tôi không hỏi han gì.
Chúng tôi ngồi sau một chiếc xe tải chạy xăng kiểu cổ, lái
thủ công. Myles nằm dài dưới chân tôi, còn Kaila thì đeo
trước ngực. Phần không gian còn lại trong khoang sau xe đầy
thùng rỗng, che khuất chúng tôi đi đề phòng trường hợp có
ai mở cửa. Cặp vợ chồng này nhập khẩu rau quả từ bên kia
65
biên giới. Để tuồn hàng lậu thì còn ai hợp hơn một người có
công việc hợp pháp?

Chúng tôi di chuyển giữa làn đường chậm thưa thớt xe


cộ buổi sáng sớm, làn vẫn cho phép người ta tự lái xe. Qua
khe hở giữa các thanh gỗ, tôi thoáng thấy các tấm áp phích.
“Jesus chào đón tất cả.” “Cuộc sống là thiêng liêng.” “Một
người chồng đứng đắn sẽ chu cấp cho gia đình.” Đôi khi
tôi chỉ thấy được vài từ, nhưng tôi đã thuộc lòng chúng từ
trước rồi. Chula và bố Myles và tôi đã kết hôn, nhưng bang
sẽ không công nhận cuộc hôn nhân ấy.

“Mẹ kiếp,” Foxtrot nói.

Chiếc xe chạy lệch sang phải và tăng tốc. Tôi chống


chân vào một thùng hàng để không bị trượt đi.

“Đang xảy ra chuyện gì thế?” Tôi hỏi. Khe hở chỗ cửa


trượt phía sau xe giúp giọng tôi vọng tới trước.

“Xe tuần.”

Chúng tôi quay ngoắt sang trái, và Myles trượt sang


bên phải. Tôi tóm lấy đầu nó trước khi nó va vào tường.

“Cô có điện thoại không? Tôi có thể tìm đường cho


cô!”

66
Foxtrot kéo rộng khung cửa kia ra và quăng cho tôi một
thiết bị bọc giấy in hoa vàng. Mắt chúng tôi giao nhau một
giây.

“Của con gái tôi đấy.” Foxtrot nói gọn lỏn.

Tôi khởi động phần mềm bản đồ trên điện thoại của
một bé gái đã chết, ít khả năng bị truy tìm. Nếu có bộ thiết
bị thực tế ảo, tôi sẽ làm việc được nhanh hơn. Tôi làm thủ
công những gì có thể, ngón tay lướt khắp màn hình. Dữ liệu
đè lên các biểu tượng tí hon — không phải phiên bản tôi
tùy chỉnh, nhưng không có thời gian để làm chuyện đó. Tôi
quét các nơi an toàn để giấu một chiếc xe tải. Một kho rau
quả nằm cách chúng tôi ba dặm. Thêm nữa: chúng tôi sẽ cần
luồn xuống dưới một cầu cao tốc để đến đó.

“Hai dãy nhà, sau đó rẽ trái và ngoặt phải ngay lập tức,”
tôi nói.

Lúc Foxtrot ngoặt phải, tôi đã sẵn sàng đưa ra thêm ba


chỉ dẫn nữa, và chúng tôi cứ khiêu vũ với những kẻ săn đuổi
mình như thế, tránh các nơi mình biết là sẽ có camera và máy
bay không người lái. Cái kiểu giao tiếp này thật bất tiện. Tôi
bình thường sẽ điều khiển xe phẫu thuật của Chula từ xa,
đưa chiếc xe tự lái về nhà. Tôi có thể tránh các đội tuần tra và
các thiết bị theo dõi điện tử mà không cần nói lời nào.

“Sang phải chỗ ngã ba,” tôi báo.

67
Lốp xe của chúng tôi nghiến ken két, và chiếc xe nghiêng
đi, nhưng chúng tôi vẫn giữ được phần lớn tốc độ. Foxtrot
lái gần giỏi như một chiếc xe tự động.

“Rẽ trái đoạn thứ hai, qua một đường hầm, và sau đó
vào trong đường xe ra vào và dừng lại!”

Và thế là xong. Chúng tôi tắt động cơ và đợi. Tiếng


máu chảy ồng ộc trong tai tôi lấp đầy sự im lặng. Tim tôi
đập mạnh đến mức Kaila hẳn phải đang cảm nhận được nó
qua tấm vải đeo.

Một chiếc xe tải khác, hình dạng và kích thước tương


tự xe chúng tôi, ngay đỗ cạnh. Dữ liệu trên điện thoại cho
thấy còn một chiếc thứ ba nữa đỗ đằng sau nó. Cánh cửa
cuốn kim loại của một nhà kho nằm phía trước chúng tôi,
với dòng chữ “Nông sản sạch, tràn ngập yêu thương” xanh
đậm sơn bên trên.

Foxtrot chúi xuống để nhìn từ bên ngoài sẽ không thấy


ngay được. Tôi co người và cài đặt bộ hình đè tùy chỉnh của
mình. Giờ chẳng còn việc gì để làm ngoài đợi.

Một chiếc máy bay không người lái bay vọt qua, mười
phút sau đó lại thêm một chiếc nữa. Chúng bíp bíp xuất
hiện trên màn hình điện thoại, dưới dạng trắng những biểu
tượng đầu lâu trắng.

Kiên nhẫn nào.

68
Mặt trời nhô lên phía trên nhà kho. Trong phạm vi
bán kính hai dặm, bản đồ không có hình đầu lâu và quan tài
và súng máy (biểu tượng của xe tăng và lính tuần). Tôi chờ
thêm mười lăm phút nữa cho chắc. Chúng tôi không thể chờ
lâu hơn được nữa, không thì Kaila sẽ tỉnh dậy đòi ăn trước
khi chúng tôi kịp băng qua biên giới. Nếu thế thì chúng tôi
sẽ tiêu đời mất.

“Đi thôi,” tôi nói.

Foxtrot ngồi dậy và khởi động động cơ. Tôi rất biết ơn
cô ta đã tin tưởng mình — tin rằng tôi biết mình đang làm
gì.

Lúc đến gần trạm biên phòng, tôi chỉnh lại đống thùng
gỗ để che kín chúng tôi đi. Tôi không thể nhìn thấy những
tòa nhà thấp lùn, gờ sắc, nhưng tôi nhớ những gì mình đã
thấy trong ảnh, nhớ các bức tường gắn đầy camera của chúng.

Mặt trời trút nắng như đổ lửa xuống sa mạc bất tận.
Khoang sau chiếc xe trở thành một lò nướng ngay khi chúng
tôi ngừng chuyển động. Tôi nhòm qua mớ thùng để xem
chuyện gì đang diễn ra. Chẳng thấy gì mấy.

“Giấy tờ.” Một giọng trầm nói.

Một bàn tay tóm lấy gì đó từ Foxtrot, sau đó trả nó lại


và nói, “Cô xuống xe để khám người đi.” Sau đó giọng kia
nói tiếp, nghe đầy tự mãn. “Và khám xét trong người nữa.”

69
Chiếc xe xóc lên lúc Foxtrot bước ra, bên ngoài tầm
nhìn của tôi.

Có phải lần nào chuyện ấy cũng diễn ra không? Đây là


cái giá phải trả để đưa chúng tôi qua biên giới, hay là chuyện
thường ngày ở huyện? Một sợi dây chun thứ ba siết lại quanh
tim và phổi của tôi. Sợi này cấu thành từ cơn giận, và tôi
không tài nào thở nổi. Người tôi nóng bừng lên. Đừng có
động vào tài xế của tao! Tao sẽ rứt tung cái đầu khốn nạn của
mày ra và nhìn sinh mệnh mày túa ra ồng ộc. Tao sẽ…

Foxtrot leo vào trong khoang lái.

“Đi đi,” tay lính canh nói.

Chúng tôi tiếp tục lái đi, băng qua hai hàng rào kẽm gai
đặt cách nhau một trăm mét, vào trong California, vào miền
an toàn. Những lời lẽ ấy nghe đầy cay đắng trong đầu tôi: nơi
an toàn kiểu gì mà lại cho những kẻ như thế canh gác biên
giới? Nhưng ít nhất ở bên này, công việc Chula và tôi làm sẽ
hợp pháp.

Nếu nhắm mắt lại, tôi sẽ thấy cơ thể cô nằm dài bên
trong nhà của chúng tôi. Tôi sẽ thấy bức ảnh người chồng
của chúng tôi nằm ngoài sa mạc, một món quà lưu niệm tàn
nhẫn đám lính gác gửi tặng. Tôi có phải là một kẻ hèn nhát
vì đã bỏ chạy không? Tôi có nên quay trở lại sau khi Kaila
đã lớn không? Không, giọng của Chula thì thầm. Không
được, giọng chồng chúng tôi thì thầm. Hãy bảo vệ lũ trẻ.
70
Hãy nuôi dưỡng chúng. Chúng tôi đã đồng ý với nhau như
vậy khi quyết định ở lại tại Arizona, trong một ngôi nhà đổ
nát, trong một cuộc đời cháy rụi thành tro.

Nửa giờ sau, chúng tôi dừng lại, đúng lúc Kaila bắt đầu
quẫy. Qua khe hở, tôi có thể thấy một nông trại một tầng
với các tòa nhà nhỏ khác đằng sau. Foxtrot mở cửa sau ra
và đẩy mớ thùng dọn đường cho chúng tôi. Tôi chớp mắt
trước ánh sáng chói lòa bất chợt. Hai người đàn ông da nâu
đặt Myles lên cáng và đưa nó về phía ngôi nhà. Tôi ép mình
nhìn vào mắt Foxtrot.

“Tôi xin lỗi về… vụ khám người,” tôi nói. “Cảm ơn cô


đã giúp chúng tôi.” Đó là những lời nhảm nhí nhất tôi từng
thốt ra.

Foxtrot gật đầu.

Cô có phải quay trở lại không? Câu hỏi đó tắc nghẹn


đi trước khi kịp ra đến đầu môi tôi. Tôi biết câu trả lời, bởi
lẽ tôi cùng đã từng như thế. Tôi đã từng liều lĩnh đặt cược
tính mạng của gia đình mình để chúng tôi có thể giúp đỡ
những người phụ nữ không thể trốn thoát. Nếu chính phủ
mà không phát hiện ra chúng tôi, chúng tôi giờ này sẽ vẫn
còn ở đó.

“Bảo trọng nhé,” Foxtrot nói.

71
Chiếc xe tải rừ rừ lăn bánh trên một con đường đất, tiến
về phía một cánh đồng đầy rau quả.

Tôi bám theo con trai mình và phát hiện ra mẹ tôi đang
đợi bên trong.

“Làm thế…?”

“Người ta nhắn cho mẹ ngay khi con vượt qua biên


giới,” bà nói, “và mẹ nhận được tin nhắn của con từ trước.
Mẹ đã đợi sẵn gần đó, đề phòng.”

Bà dang rộng hai tay ra cho tôi, và tôi lao vào trong đó.

“Mẹ rất tiếc về Chula,” bà nói.

Bà không nói, “Đã bảo rồi mà,” hay “Sao con lại có thể
làm vậy với mấy đứa con của mình được chứ?” hay bất cứ lời
khiển trách nào tôi hình dung ra.

Kaila kẹp giữa chúng tôi, vặn vẹo và quấy khóc. Tôi
cần cho nó ăn. Đằng sau vai mẹ, tôi thấy Myles nằm trên
giường, ngực nhô lên hạ xuống, mí mắt nó chớp chớp. Nó
chưa đủ tỉnh táo để nói gì cả. Tôi tự hỏi nó đã phải trả cái giá
gì rồi. Những gì chúng tôi làm có đáng để con trai tôi bị thế
không, có đáng để vợ chồng tôi thiệt mạng không? Có lẽ tôi
sẽ không bao giờ biết câu trả lời. Có khi chẳng có câu trả lời
nào hết.

72
Trong lúc cho con bú, mấy sợi dây chun trong người
tôi lỏng ra, đủ để hối tiếc và buồn đau và cơn giận phình lên.
Nước mắt của tôi nhỏ lên ngực Kaila. Như hiện tại thì tôi
đưa được cả nhà ra khỏi đó là đã đủ rồi. Lũ trẻ đã được an
toàn và vẫn còn sống. Tôi không muốn nghĩ đến những gì
sẽ xảy đến tiếp theo, chưa muốn vội, không phải hôm nay.
Hiện tại, sống được đã là quan trọng rồi. 

Truyện gốc đăng trên Uncanny.

73
S.B.
Divya
S.B. Divya là một người đam mê khoa học, toán,
truyện viễn tưởng, và hệ thống chấm phẩy Oxford.
Các truyện ngắn của cô đã từng được đăng trong
nhiều tạp chí danh giá, chẳng hạn như Apex, và
Tor.com. Ngoài ra, tiểu thuyết ngắn Runtime của
cô còn được lọt vào chung kết giải Nebula.

74
Sci fi muôn vẻ
SC
MU IF
ÔN I
VẺ
BENEATH THE WAVES : #01 THE ARTEFACT
Dofresh
https://bit.ly/2MofmLO

76 77
GENETICS LAB
eddie-mendoza
https://bit.ly/2vov5UL

78 79
ACROSS THE UNIVERSE
Ellysiumn
https://bit.ly/2KxqUL1

80 81
GO YOUR WAY
FlorentLlamas
https://bit.ly/2OPHKbd

82 83
THE BOWS
jfliesenborghs
https://bit.ly/2OMpGPb

84 85
ARRIVING
martydesign
https://bit.ly/2KzupAJ

86 87
130904 INTO THE ATMOSPHERE
przemek-duda
https://bit.ly/2KxsfBx

88 89
TROPICS SCI FI
rich35211
https://bit.ly/2MdDH6L

90 91
EMPTY
RobinTran
https://bit.ly/2LVW2cC

92 93
THE INVASION
Tryingtofly
https://bit.ly/2LVxxMx

94 95
INDIE SCI FI
SMOKING SPACEMAN ROBOT
Guillaume Rio Fournigault

97 98
“Smoking Spaceman Robot” là phim ngắn do Guillaume Rio
Fournigault thực hiện. Phim được làm theo phong cách phim quái
vật thập niên 1950, kể về một thành phố bị tàn phá bởi một con
rôbốt khổng lồ. Toàn bộ nền văn minh nhân loại đang bị đe dọa.
Liệu nó có thể bị ngăn chặn trước khi quá muộn không?

99 100
RIFF RUFF
Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro & Kevin Wilson

101 102
“Riff-Ruff” là phim ngắn do Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro và
Kevin Wilson thực hiện. Phim là một câu chuyện ngắn đầy cảm
động về một chú người máy vô gia cư, nghèo khó và cô độc.
Một ngày nọ, trong ngõ hẻm nơi mình vẫn hay đàn hát, chú ta
gặp một con cún với niềm đam mê âm nhạc...

103 104
NHÂN SỰ THỰC HIỆN: Guillaume Rio Fournigault
 https://bit.ly/2Ojgv8X
Hương Phạm
Bethany Cowper-Smith, Lucy Munro &
 Dịch thuật
Kevin Wilson
 https://bit.ly/2LqQ5nF
Long Nguyễn
 Dịch thuật
***
 Dàn trang
 Thiết kế
Jane Lindskold
 https://bit.ly/2uQTy4O

Meg Elison
 https://bit.ly/2MQasdP

TƯ LIỆU HÌNH ẢNH: S.B. Divya


 https://bit.ly/2F3P5y2

Dofresh
 https://bit.ly/2MofmLO

eddie-mendoza

CREDITS
 https://bit.ly/2vov5UL
TƯ LIỆU BÀI VIẾT:
Ellysiumn
 https://bit.ly/2KxqUL1
Jane Lindskold - “A Green Moon
Problem”

(SẮPBẢNG (
FlorentLlamas
 https://bit.ly/2OPHKbd XẾP THEO THỨ TỰ  https://bit.ly/2wmIfBc

CHỮ CÁI Meg Elison - “Personal Trainer”


jfliesenborghs
 https://bit.ly/2LsBumU
 https://bit.ly/2OMpGPb
S.B. Divya - “Contingency Plans for the
martydesign
Apocalypse”
 https://bit.ly/2KzupAJ
 https://bit.ly/2F3P5y2
przemek-duda
 https://bit.ly/2KxsfBx Credits
rich35211
 https://bit.ly/2MdDH6L

RobinTran
 https://bit.ly/2LVW2cC

Tryingtofly
 https://bit.ly/2LVxxMx

***

Thomas Pringle
 https://bit.ly/2Nol4xT

***

You might also like