You are on page 1of 9

1.

Một số chính sách của Chính phủ Thái Lan đối với nông dân
 
Thứ nhất, chính sách trợ giá nông sản
 
Nhiều ưu đãi về vốn và tăng cường bảo hiểm cho người nông dân được Chính phủ Thái Lan
thực hiện; thuế nông nghiệp được bãi bỏ. Chính phủ hỗ trợ các chương trình tiếp thị, tìm
kiếm địa chỉ xuất khẩu những sản phẩm sau thu hoạch và chế biến nhằm tạo điều kiện tốt
nhất cho tiêu thụ nông sản thông qua việc đẩy mạnh hình thức hợp đồng “chính phủ với chính
phủ”; và đồng bộ hóa các chính sách để bảo đảm tính liên thông từ khâu gieo trồng, sản xuất
đến bao tiêu xuất khẩu và giảm rủi ro cho người nông dân.
 
Chính phủ Thái Lan thực hiện trợ giá cho nông dân đối với các nông sản chủ yếu như gạo,
cao su, trái cây,… Khi giá thị trường thấp, Chính phủ đã dùng ngân sách bao tiêu nông sản
cho nông dân. Việc trợ giá nông sản không chỉ thực hiện ở việc mua nông sản với giá ưu đãi,
mà nông dân trồng lúa còn được hưởng những ưu đãi như mua phân bón với giá thấp, miễn
cước vận chuyển phân bón, được cung cấp giống mới có năng suất cao, được vay vốn lãi xuất
thấp từ ngân hàng nông nghiệp,… Ngoài ra, Thái Lan cũng hỗ trợ về giá cho nông dân trồng
5 loại cây chủ lực là sầu riêng, nhãn, vải, măng cụt và chôm chôm. Để thực hiện tốt chính
sách hỗ trợ này, Chính phủ Thái Lan sử dụng các chuyên viên cao cấp phụ trách chương trình
với nhiệm vụ giám sát từ việc sản xuất, phân phối, chế biến, giá cả cho đến tìm thị trường
xuất khẩu mới.
 
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới trong nông
nghiệp
 
Do diện tích đất nông nghiệp có hạn nên Thái Lan đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo
hướng đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhằm cải tạo đất trồng, lai tạo các
giống cây trồng mới có khả năng thích ứng với những vùng đất canh tác bạc màu, khô hạn.
Để giữ và nâng cao độ phì nhiêu đất nông nghiệp, Thái Lan sử dụng các loại phân bón hữu
cơ, phân vi sinh và thuốc trừ sâu sinh học. Thông qua đó, vừa giúp sử dụng quỹ đất hiệu quả,
giảm nhập khẩu phân bón và nâng cao xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch.
 
Ở Thái Lan hiện nay, mức độ cơ giới hóa đã bao phủ từng thửa ruộng. Ngay cả những khâu
sau thu hoạch cũng được cơ giới hóa toàn bộ. Nhưng bí quyết thành công của nông dân Thái
Lan chính là sự kết hợp khéo léo giữa kinh nghiệm canh tác truyền thống với việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Bởi do điều kiện tự nhiên khác nhau nên nhiều
vùng cần phải có những công nghệ và kỹ thuật canh tác đặc thù. “Nút thắt cổ chai” trong việc
nâng cao chất lượng nông sản theo hướng phát triển bền vững đã được các nhà khoa học tháo
gỡ bằng công nghệ sinh học (công nghệ biến đổi gien, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi,...).
 
Thứ ba, chính sách cơ cấu lại công nghiệp nông thôn
 
Chính phủ Thái Lan đã tập trung vào các công việc: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển
công nghiệp nông thôn, xem xét, đánh giá đầy đủ các nguồn tài nguyên, những kỹ năng
truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị,… Từ đó, tập trung phát
triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông sản, thủy sản, hải sản phục vụ xuất khẩu và
tiêu dùng trong nước.
 
Công nghiệp chế biến thực phẩm Thái Lan phát triển mạnh nhờ thực hiện một số chương
trình hỗ trợ:
- Thực hiện chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” (One tambon, One product - OTOP), tức
là mỗi làng làm ra một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có chất lượng cao; chương trình
“Quỹ Làng” (Village Fund Progam) nghĩa là mỗi làng sẽ nhận được một triệu baht từ Chính
phủ cho dân làng vay mượn để phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế đã có trên 75.000 ngôi
làng ở Thái Lan được nhận khoản vay này.
- Chương trình: “Thái Lan là bếp ăn của thế giới” nhằm khuyến khích các nhà chế biến và
nông dân có những hành động thiết thực kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm, đảm bảo an
toàn cho hàng nông sản xuất khẩu và người tiêu dùng.
 
Thứ tư, mở rộng thị trường để thu hút đầu tư mạnh mẽ của nước ngoài cho nông
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến thực phẩm
 
Chính phủ Thái Lan đã có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư
trực tiếp vào các kết cấu hạ tầng như cảng, kho lạnh, sàn đấu giá và đầu tư vào nghiên cứu và
phát triển; xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là trách nhiệm của Cục xúc tiến
Công nghiệp, Cục xúc tiến Nông nghiệp, Cục Hợp tác xã, Cục thủy sản, cơ quan tiêu chuẩn
sản phẩm công nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp và Bộ Nông nghiệp.
 
Thứ năm, đẩy mạnh đào tạo kỹ thuật canh tác, chuyển giao công nghệ cho nông dân
 
Công tác đào tạo kỹ thuật, nâng cao nhận thức cho người nông dân được coi trọng. Nhiều
trường đại học, cao đẳng, trung học mở các khóa học tại chỗ về kỹ thuật canh tác, chuyển
giao công nghệ nhằm thu hút và nâng cao trình độ nguồn nhân lực nông nghiệp. Thí dụ
trường Chulalongkorn (lọt vào top 200 trường đại học hàng đầu thế giới) đã đầu tư thiết bị thí
nghiệm hiện đại, hợp tác với chuyên gia từ những nước đi đầu trong nghiên cứu khoa học kỹ
thuật nông nghiệp, đồng thời tạo cơ chế đãi ngộ cho nhiều nghiên cứu sinh trẻ sang nghiên
cứu tại các trường đại học ở Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Nhờ những hướng đi đúng đắn trong
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nên những vùng đất hoang, địa hình đồi núi dốc và cả
những vùng khô cằn cũng được khai thác, sử dụng trồng không chỉ có ngô, lúa nương, mà
còn trồng được nhiều loại lúa cao sản với năng suất cao.
 
Nguồn: http://iasvn.org/tin-tuc/Mot-so-chinh-sach-cua-Chinh-phu-Thai-Lan-doi-voi-nong-
dan-va-tham-chieu-kinh-nghiem-cho-Viet-Nam-6782.html

2. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ và Malaysia


Nguồn: http://tapchinganhang.gov.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-chinh-sach-ho-tro-doanh-
nghiep-nho-va-vua-va-bai-hoc-cho-viet-nam.htm
2.1 Kinh nghiệm của Mỹ
Tại Mỹ, 30 triệu doanh nghiệp nhỏ là động lực chính của nền kinh tế, tạo ra hai phần ba việc
làm mới của khu vực tư nhân và sử dụng hơn 50% nguồn lao động quốc gia. Chính phủ Mỹ
thành lập Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ (Small Business Administration - SBA) vào năm
1953, hoạt động như là một tổ chức độc lập để hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp
nhỏ. Thông qua việc hỗ trợ vốn và tạo cơ hội ký hợp đồng, SBA giúp doanh nghiệp nhỏ phát
triển và tạo việc làm bền vững. SBA muốn xây dựng môi trường lành mạnh cho doanh
nghiệp thông qua khóa đào tạo, dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp loại này, tập trung hỗ trợ và
hồi phục doanh nghiệp nhỏ sau khủng hoảng.  
Mỹ không có định nghĩa cụ thể để phân chia DNNVV như các nước châu Âu. Căn cứ vào
tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp để phục vụ mục đích báo cáo thuế, doanh nghiệp được
chia thành 2 nhóm, bao gồm nhóm các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp một thành viên, có
giá trị tài sản dưới 10 triệu USD; nhóm doanh nghiệp lớn và vừa có giá trị tài sản lớn hơn 10
triệu USD. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ (SBA) nhận thấy sẽ không có một tiêu chuẩn
chung để xác đinh doanh nghiệp nhỏ cho tất các ngành, nên đã phát triển một bảng tiêu chuẩn
để xác định doanh nghiệp nhỏ theo từng ngành, trong đó tiêu chuẩn với một số ngành chủ
chốt như Ngành sản xuất: Số nhân công dưới 500 đến 1.500 người (khoảng 27% doanh
nghiệp sản xuất có 500 nhân công); Ngành mỏ: Số nhân công dưới 250 đến 1.500 người;
Ngành xây dựng: Trung bình thu nhập dưới 36,5 triệu USD...
Trong khoảng thời gian khủng hoảng tài chính các năm 2007 - 2010, khoản cho vay từ ngân
hàng giảm, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và đặc biệt là doanh nghiệp
nhỏ. Trong khi đó, nhà đầu tư và người cho vay có xu hướng muốn đầu tư vốn vào doanh
nghiệp lớn, do doanh nghiệp nhỏ non trẻ và có lịch sử mức độ tín nhiệm thấp, khiến rủi ro
của khoản vay cao. Để giảm thiểu rủi ro cho khoản vay, SBA sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp nhỏ tiếp cận nguồn vốn bằng cách đảm bảo cho các khoản vay, doanh nghiệp sẽ
không vay vốn trực tiếp từ nhà đầu tư mà thông qua SBA. Khoản vay được SBA bảo đảm từ
500 USD đến 5,5 triệu USD cho phần lớn mục đích kinh doanh như mua tài sản cố định và
vốn hoạt động. Một số chương trình vay đặt ra quy định về cách sử dụng vốn và có những
yêu cầu cụ thể ví dụ mức thu nhập, đặc điểm của chủ sở hữu, địa điểm doanh nghiệp hoạt
động, khả năng trả nợ, mục đích của doanh nghiệp, SBA sẽ đóng vai trò trung gian kết nối
bên cho vay với những doanh nghiệp có nhu cầu. Các khoản vay được SBA đảm bảo thường
có lãi suất, phí tương đương với các khoản vay không được bảo đảm và thường kèm theo
dịch vụ tư vấn giúp doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp, vận hành hiệu quả. Khoản vay được SBA
bảo đảm có khoản thanh toán thấp hơn, yêu cầu chi phí linh hoạt và một số khoản vay không
yêu cầu tài sản thế chấp.
 
Theo thống kê tổng doanh thu xuất khẩu của Mỹ trong giai đoạn 1997-2015 của SBA, tổng
doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ tăng gấp đôi từ 200 tỉ USD năm 2005 lên đến 400
tỉ USD năm 2015. Không chỉ hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại
nước Mỹ, SBA còn quan tâm đến doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực thương mại
quốc tế và tăng tính cạnh tranh của những doanh nghiệp này bằng những khoản vay dành
riêng cho doanh nghiệp xuất khẩu, tư vấn và đào tạo cho người đầu tư cũng như doanh
nghiệp nhỏ.
Chính phủ liên bang Mỹ được biết đến là người mua lớn nhất thế giới. Hàng năm, những hợp
đồng hàng trăm tỷ USD được sử dụng mua hàng hóa và dịch vụ cho cơ quan liên bang. Quốc
hội đã đặt yêu cầu tối thiểu 23% khoản chi của Chính phủ phải được sử dụng từ các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp nhỏ. SBA sẽ đóng vai trò giám sát cơ quan liên bang
để đạt được 23% giá trị hợp đồng của chính phủ liên bang sẽ được ký kết với doanh nghiệp
nhỏ. Cơ quan chính phủ liên bang công khai danh sách những hợp đồng và một số hợp đồng
được đưa vào danh sách đặc biệt dành cho doanh nghiệp nhỏ. Một số hợp đồng (set-aside
contract) trong danh sách đó là một phần công việc của hợp đồng lớn, hoặc những hợp đồng
nhỏ (sole- source contract) dành cho doanh nghiệp nhỏ. Chính phủ sẽ dành tối thiểu 5% giá
trị hợp đồng hàng năm cho các doanh nghiệp nhỏ khó khăn, doanh nghiệp nhỏ do phụ nữ làm
chủ và 3% giá trị hợp đồng cho doanh nghiệp nhỏ của người khuyết tật, doanh nghiệp nằm
trong vùng suy thoái kinh tế và doanh nghiệp nhỏ nằm trong khu vực không được sử dụng
đúng mức (historically underutilized business zone- HUBZone). 
Mặc dù trong 20 năm, từ năm 1995 đến năm 2015, nền kinh tế đối mặt với khủng hoảng tài
chính (2007 - 2010), số lượng tổ chức cho vay tài chính giảm do xu hướng sát nhập của ngân
hàng và sự bùng nổ của cho vay online, nhưng khoản vay cho doanh nghiệp nhỏ vẫn có xu
hướng tăng từ khoảng 400 tỉ USD lên 500 tỉ USD (theo thống kê khoản vay tại Mỹ từ năm
1995-2015 của SBA).

2.2 Kinh nghiệm của Malaysia


Malaysia là quốc gia điển hình trong khu vực có các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn vay và đã thành công trong quá trình triển khai thực hiện. Theo số liệu thống kê
năm 2011, Malaysia có mức độ tăng trưởng DNNVV đạt 6,4% và hàng năm đóng góp trung
bình 32% GDP.
Malaysia phân loại DNNVV dựa theo ngành, tổng doanh thu và số nhân công. Theo thống kê
của SME năm 2017, 98,5% doanh nghiệp tại Malaysia là DNNVV, trong đó có 76,5% là
doanh nghiệp siêu nhỏ, 21,2% doanh nghiệp nhỏ và 2,3% doanh nghiệp vừa. DNNVV chủ
yếu kinh doanh trong ngành dịch vụ (89,2%), doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất (5,3%),
doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng (4,3%), doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp (1,1%),
doanh nghiệp thuộc ngành mỏ, khai khoáng (0,1%).
Trong nhiều năm, Chính phủ Malaysia với nỗ lực hỗ trợ DNNVV với chính sách tích cực và
sáng kiến tạo ra môi trường năng động cho doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Bảo lãnh tín dụng (BLTD) là một chính sách quan trọng trong hầu hết các chính sách phát
triển kinh tế của quốc gia này và được hình thành từ rất sớm, nhằm duy trì sự phát triển bền
vững và ở mức độ cao của cộng đồng DNNVV. Hệ thống BLTD được xây dựng thống nhất
từ cấp trung ương đến cấp địa phương, phân chia theo lĩnh vực hoạt động và thực hiện theo 3
mô hình: (BLTD của Chính phủ, BLTD của các hiệp hội, BLTD của khu vực tư nhân). Tại
Malaysia, DNNVV có thể tiếp cận vốn vay từ 4 quỹ bảo lãnh tín dụng:
 
- Tập đoàn bảo lãnh tín dụng Malaysia (Credit Guarantee Corporation Malasia Berhad- CGC)
được thành lập từ năm 1972 với số vốn góp từ các ngân hàng thương mại và các công ty tài
chính của Chính phủ, nhiệm vụ chính là cung cấp chương trình bảo lãnh theo doanh mục
(portfolio guarantee) và chương trình bảo lãnh theo nhóm (wholesale guarantee). Tính đến
nay, CGC đã bảo lãnh 67,1 tỉ RM cho hơn 453.800 DNNVV. Hiện nay, hệ thống này có số
bảo lãnh cao nhất trong 4 hệ thống (với mức bảo lãnh tín dụng là 90% và phí bảo lãnh từ
0,5% - 1% giá trị bảo lãnh).
- Hệ thống bảo lãnh các khoản vay đặc biệt (Special Loan Scheme): tài trợ cho các doanh
nghiệp có các dự án đặc biệt, doanh nghiệp xuất khẩu, … được thành lập từ năm 1981. 
- Hệ thống BLTD cơ bản (Principal Guarantee Scheme) được thành lập từ năm 1989.
- Hệ thống BLTD chủ yếu - mới (new Principal Guarantee Scheme) được thành lập từ năm
1994.
Ba hệ thống BLTD này hoạt động vì mục đích lợi nhuận, do các tổ chức tư nhân thành lập
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các DNNVV với mức phí bảo lãnh cao hơn CGC tùy
thuộc thỏa thuận giữa các bên.
Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia - BNM) thành lập quỹ đặc biệt và
đổi lên là Quỹ BNM cho DNNVV, gồm Quỹ cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ
và Quỹ các doanh nghiệp mới, để giúp đỡ các DNNVV đựợc vay vốn với lãi suất thấp, từ 4
đến 6%/năm. Việc vay vốn này có thể được thông qua các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính phát triển và tập đoàn bảo lãnh tài chính (CGC). Kể từ khi thành lập cho đến
nay, Quỹ BNM đã hỗ trợ 77.000 doanh nghiệp với số tiền là 7,4 tỉ RM và được sử dụng cho
vay quay vòng tương đương với 30 tỉ RM. 
Năm 2006, Chính phủ Malaysia xây dựng chương trình Skim Pembiayaan Mikro, nhằm hỗ
trợ tài chính cho các doanh nghiệp siêu nhỏ. Chương trình tập trung tạo cơ hội cho doanh
nghiệp siêu nhỏ không có tài sản thế chấp và thiếu lịch sử tín dụng, có thể tiếp cận với nguồn
vốn lên tới 50.000RM. Từ năm 2006-2017, với sự tham gia của 10 ngân hàng, chương trình
đã cho vay 3,8 tỉ RM cho hơn 216.900 doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ Malaysia xây dựng hàng loạt những chương trình hỗ trợ tài chính đa
dạng phù hợp doanh nghiệp từ mọi khu vực kinh tế để tạo môi trường năng động cho
DNNVV. Ví dụ như chương trình Mobilepreneur khuyến khích giới trẻ khởi nghiệp ở lĩnh
vực mới như bán hàng lưu động; chương trình tài chính Ikhtiar với mục tiêu giảm tý lệ nghèo
ở Malaysia, thông qua hỗ trợ tài chính để trao quyền cho các hộ nghèo kinh doanh nâng cao
thu nhập. Các DNNVV gặp phải khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ có thể tái cơ
cấu nợ thông qua “Kế hoạch giải quyết nợ cho các doanh nghiệp nhỏ” (Small Dept
Resolution Scheme). Đến thời điểm tháng 10 năm 2008, trên 600 SMEs đã được hưởng lợi từ
kế hoạch này.

3. SINGAPORE với những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trước hết, Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề vốn cho sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Nhiều sinh viên tài năng, có ý tưởng tốt nhưng gặp khó khăn đã được Chính phủ lựa
chọn hỗ trợ vốn để thành lập doanh nghiệp, từ đó nhiều người đã khởi nghiệp thành công và
họ đã trở thành doanh nhân xuất sắc. Đặc biệt, những doanh nghiệp có tính sáng tạo cao, có
tiềm năng phát triển trong tương lai cũng được Chính phủ xem xét hỗ trợ về mặt tài chính.
Chính sách hỗ trợ được thực hiện thông qua việc Chính phủ bảo lãnh với ngân hàng cho
doanh nghiệp vay vốn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, doanh nghiệp gặp khó
khăn do thiên tai hoặc những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng cũng được Nhà nước
giúp đỡ thông qua việc can thiệp, bảo lãnh với cơ quan thuế cho doanh nghiệp được miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài hoặc
tham gia vào thị trường xuất khẩu, Nhà nước đã hỗ trợ kinh phí hình thành quỹ đào tạo nhằm
nâng cao năng lực cho các giám đốc, nhà quản lý để họ có kiến thức sâu rộng khi tham gia
kinh doanh tại các thị trường trọng điểm như: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Nga… Trường
Đại học Công nghệ Nanyang là một trong những cơ sở được Nhà nước đặt hàng và đã thực
hiện tốt chương trình đào tạo này. Nhiều doanh nghiệp đã được hưởng lợi từ các chương trình
đào tạo của Chính phủ, họ chỉ phải đóng một phần nhỏ tiền học phí còn phần lớn được Nhà
nước hỗ trợ nhưng lại được tiếp thu những kiến thức kinh tế mới nhất, những kinh nghiệm
quản trị kinh doanh tốt nhất từ các giáo sư, chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh thành đạt.
Cung cấp thông tin cho doanh nghiệp cũng là một kênh hỗ trợ quan trọng của Chính phủ. Tổ
chức Phát triển doanh nghiệp (IE) trực thuộc Bộ Công Thương Singapore có trên ba mươi
văn phòng ở nhiều nước trên thế giới; riêng ở Việt Nam có 2 văn phòng tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Các văn phòng này có trách nhiệm tập hợp và cung cấp các thông tin thị
trường; Phối hợp tổ chức cho các đoàn doanh nghiệp trong nước đi các nước khảo sát, tìm
kiếm đối tác; Hỗ trợ tổ chức các hội nghị, hội thảo ở nước ngoài; Tăng cường hợp tác, quan
hệ với các nước để họ hiểu hơn về Singapore… Thông qua các văn phòng này các doanh
nghiệp trong nước có được những thông tin cần thiết về môi trường kinh doanh ở các nước
trước khi đi đến lựa chọn quyết định đầu tư. Đồng thời, các doanh nghiệp nước ngoài cũng dễ
dàng nắm được các thủ tục, biết rõ các yêu cầu, những thuận lợi khó khăn khi xin phép đầu tư
vào Singapore. Ngay từ giữa năm 2007, Bộ Công Thương Singapore cũng đã có cổng thông
tin điện tử giải đáp các vướng mắc của doanh nghiệp; Các giám đốc có thể hỏi đáp trực tuyến
với các chuyên gia kinh tế hàng đầu về kinh nghiệm và thông lệ kinh doanh quốc tế. Đây
cũng là nơi tập hợp, lưu giữ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho các doanh nghiệp nghiên cứu
phát triển thị trường.
Các cơ quan quản lý Nhà nước còn xuất bản một số tờ tạp chí dành riêng cho giới doanh
nghiệp để phổ biến những chủ trương, chính sách mới của Chính phủ có liên quan đến doanh
nghiệp; Thông tin về những biến động của thị trường trong nước và quốc tế; Hướng dẫn các
doanh nhân xây dựng chiến lược kinh doanh, xây dựng thương hiệu… Đây cũng là diễn đàn
để các doanh nghiệp trao đổi quan điểm của mình về những thuận lợi hoặc lực cản từ cơ chế
quản lý của Nhà nước, chia sẻ kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp, thông tin về đổi mới công
nghệ, kỹ thuật sản xuất… Ngoài ra các tổ chức này còn in các tờ gấp giới thiệu chi tiết về địa
chỉ các văn phòng, các dịch vụ thông tin, các chương trình đào tạo, hỗ trợ… để các doanh
nghiệp trong và ngoài nước lựa chọn.
Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp cũng được Chính phủ quan tâm nhiều. Cơ quan
quản lý các cấp hàng năm đều thực hiện rà soát các văn bản pháp quy xem còn phù hợp với
tình hình thực tế không; Kiến nghị kịp thời cấp có thẩm quyền thay thế, sửa đổi các văn bản
lạc hậu, không có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh.
Cuối mỗi năm Chính phủ đều mời các doanh nghiệp đến gặp gỡ và lắng nghe ý kiến đóng
góp của họ; đồng thời tổ chức cho các doanh nghiệp chấm điểm cho các cơ quan thuộc Chính
phủ để đánh giá chất lượng phục vụ doanh nghiệp của các cơ quan này. Những cơ quan hỗ
trợ doanh nghiệp có điểm đánh giá thấp đều phải rà soát lại cung cách làm việc, cải tiến lề lối
tránh gây phiền hà. Các cơ quan có điểm đánh giá cao được Chính phủ biểu dương, khen
thưởng kịp thời./.
Nguồn; https://luatminhkhue.vn/singapore-voi-nhung-chinh-sach-ho-tro-doanh-nghiep-vua-
va-nho.aspx

You might also like