You are on page 1of 75

Đề cương Đường lối

1. Hãy chứng minh rằng, tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẫn của xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tồn tại ngay chính trong lòng xã hội Việt Nam?
2. Phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, trong nước những năm cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tác động trực tiếp đến sự ra đời của ĐCSVN?
3. Phân tích những bước ngoặt quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc (1911-1920)? Tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn
Ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
4. Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc được
hình thành trong những năm 1920 – 1930? Trên cơ sở đó, chỉ rõ những đóng góp của Nguyễn Ái
Quốc cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin?
5. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng (1920-1930)?
6. Làm rõ nét độc đáo, tính sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930)?
7. Phân tích quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
8. Phân tích quá trình Đảng CSVN nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ trong thời kỳ cách mạng 1930 – 1939? Nhận thức đó có ảnh hưởng như thế nào đến quan
điểm Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng những năm 1930 – 1939?
9. Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc của Đảng (1939-1941)? Tại sao
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước của Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) lại trở thành một trong những động lực thúc đẩy công cuộc giải
phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi?
10. Hãy chứng minh rằng, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1930-1945) là sáng tạo, phù hợp và đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam?
11. Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1939-1941)? Ý nghĩa của đường lối đối với cách mạng Việt Nam trong những năm
1939-1945?
12. Hãy chứng minh rằng quá trình bổ sung, điều chỉnh đường lối đấu tranh giành chính quyền
trong những năm 1941-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng?
13. Hãy chứng minh rằng chủ trương Kháng chiến, kiến quốc của Đảng những năm 1945-1946
là tư tưởng chiến lược mới, giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược,
sách lược của cách mạng Việt Nam?
14. Chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng là đúng
đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu khách quan của cuộc kháng chiến?
15. Hãy chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước giai
đoạn 1954-1975?
16. Bằng thực tiễn lịch sử, hãy chứng minh rằng, quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tạo ra sức
mạnh to lớn cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi?
17. Phân tích những yếu tố chủ yếu, nền tảng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước? Yếu tố nào là quan trọng nhất? Tại sao?
18. Phân tích nội dung cơ bản và những điều chỉnh quan trọng trong đường lối công nghiệp
hóa XHCN gắn với thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp (1960-1986)
19. Phân tích những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của Đảng
trước năm 1986? Ý nghĩa của nó đối với việc tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế thời kỳ tiếp theo?
20. So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và sau Đổi mới
(1986)?
21. Phân tích những đặc điểm cơ bản của mô hình kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH? Ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?
22. Phân tích những chuyển biến cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng thể hiện qua mô hình
kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá độ lên CNXH?
23. Phân tích sự cần thiết phải đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị Việt
Nam? Vấn đề mấu chốt nhất trong đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay? Tại sao?
(trang 177)
24. So sánh đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và Đổi mới (1986)?
25. Phân tích vai trò đặc biệt quan trọng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện nay?
26. Hãy chứng minh rằng, đường lối đối ngoại đổi mới đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng và
bảo vệ đất nước?
27. Phân tích những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại đổi mới và chứng minh rằng,
đường lối đó là đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn?
28. Anh/chị hay phân tích quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội”?
29. Anh/chị hãy phân tích cơ sở nào để năm 2001 Đảng đưa ra tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng
là bạn và là đối tác tin cậy với tất cả các nước, các khu vực và các vùng lãnh thổ”?
30. Anh/chị hãy phân tích, tại sao phải thực hiện 3 nguyên tắc Dân tộc hóa, khoa học hóa và
đại chúng hóa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước đổi mới?
31. Anh/Chị hãy phân tích tại sao phải thành lập Hội Văn hóa cứu quốc và Mặt trận Văn hóa
cứu quốc?
32. Anh/Chị hãy phân tích tại sao công nghiệp hóa lại là tất yếu đối với Việt Nam? Và theo
anh/chị công nghiệp hóa ở Việt Nam nên bắt đầu từ ngành nào?
33. Theo anh/chị, sai lầm lớn nhất trong đường lối công nghiệp hóa của Đảng trước năm 1986
là gì? Tại sao?
34. Hãy phân tích tại sao Nghị quyết Đại hội III của Đảng lại xác định: Cách mạng miền Bắc có
vai trò quyết định nhất và cách mạng miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ, cứu nước?
35. Anh/chị hãy phân tích, tại sao Đảng lại chủ trương triệt để giảm tô và thực hiện cải cách
ruộng đất vào tháng 11 năm 1953?
36. Anh/chị hãy phân tích, tại sao phải thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân,
toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ,
cứu nước?
37. Anh/chị hãy phân tích tại sao Đảng lại chủ trương xây dựng Đảng là then chốt, phát triển
kinh tế là trọng tâm?
38. Anh/chị hãy so sánh các đặc trưng về chủ nghĩa xã hội qua các kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới?
39. Đặc trưng của Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì?
40. Tại sao nói: “Văn hóa là nguồn lực nội sinh quan trọng cho sự phát triển bền vững đất
nước”?
41. Anh/chị hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa?
42. Theo anh/chị đặc trưng nào của thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam thể hiện định
hướng xã hội chủ nghĩa? Tại sao?
43. Anh/chị hãy chỉ ra những hạn chế của người Việt Nam đã phá vỡ mô hình kinh tế tập thể,
kế hoạch hóa, quan liêu và bao cấp?

Câu 1.

Hãy chứng minh rằng, tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẫn của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX tồn tại ngay chính trong lòng xã hội Việt Nam?

Trả lời

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào giai đoạn đen tối dưới sự áp bức, bóc lột dã man của
thực dân Pháp. Năm 1858, thực dân Pháp nổ sung tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháptừng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt
Nam:

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam
diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, hình thành nên các giai cấp mới, đặc biệt là giai cấp công nhân và tư
sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội lúc này đều mang thân phận người dân mất nước, và ở
những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Bởi lẽ đó, trong xã hội Việt Nam, ngoài
mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu
thuẩn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẩn giữa toàn
thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.Tính chất xã hội Việt Nam lúc này bị thay đổi và trở
thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu:

- Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập và tự do. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc.

- Xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân.
Tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẩn của xã hội Việt Nam giai đoạn này tồn tại ngay chính trong
long xã hội Việt Nam.

Xét về phương diện tiền đề thực tiễn:

- Xu thế vùng lên của dân tộc chống thực dân Pháp.

- Những phong trào yêu nước nổ ra.

- Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước theo con đường Cách mạng Vô sản và thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.

Chính những mâu thuẩn nảy sinh trong xã hội đã thổi bùng lên xu thế giải phóng dân tộc, chống lại sự áp
bức của thực dân Pháp. Phải kể tới chính là là phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản. Tiêu biểu như phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang 1884)
Nhưng kết cục chung của các phong trào, khởi nghĩa này đều là thất bại, chứng tỏ giai cấp phong kiến và
hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm
vụ dân tộc ở Việt Nam. Song song còn có phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến
bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Về phương pháp có sự phân hóa thành hai xu
hướng: biện pháp bạo động (đại diện là Phan Bội Châu) và biện pháp cải cách (nổi bật là Phan
Châu Trinh). Cũng trong thời gian này, các tổ chức đảng phái ra đời như: Tân Việt cách mạng Đảng và
Việt Nam quốc dân Đảng Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi nhưng do hạn chế về giai cấp,
đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập trung được rộng rãi lực lượng của dân tộc
(nhất là hai lực lượng xã hội cơ bản: công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Mặc dù
vậy, chính những thất bại này đã thức tỉnh lòng yêu nước của cả dân tộc đồng thời để lại những bài học
kinh nghiệm quý giá.Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường giải phóng dân tộc. Đặc biệt tháng 7 – 1920,
Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn dề dân tộc và vấn đề thuộc địa
cả Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Đến tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia
nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Người khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Người trực
tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Người ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lenin vào Việt Nam thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống
công nhân cùng một số tác
phẩm (tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp – 1925). Tháng 6 – 1925, thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên.1927, xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh, chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các tổ chức cộng sản lần
lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản nhưng cả ba tổ
chức này đều hoạt động phân tán, chia rẽ, ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này.
Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng
tại Hương Cảng, Trung Quyết và thống nhất: hợp nhất ba tổ chức thành một đảng duy nhất – Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cuộc khủng hoảng lãnh đạo được chấm dứt, Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận
của cách mạng thế giới và đồng thời đây cũng là cơ sở cho những sự nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam.

Về tiền đề lí luận, Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào Việt Nam những lí luận Cách mạng phong trào giải
phóng dân tộc góp phần vào sự phát triển của Cách mạng vô sản. Sự ra đời của bản Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng đã định hướng đúng đắn cho đường lối lãnh đạo của Đảng.

Câu 2

Phân tích đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX tác động trực
tiếp đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trả lời

- Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX trên thế giới có 3 sự kiện lịch sử chính đó là

+ CNTB với việc tự do cạnh tranh đã có nền SXHH cực kì phát triển cộng với những phát minh mới, từ
đó hình thành nên nhu cầu lớn về tài nguyên, nhân công rẻ mạt và thị trường. Do đó chúng hướng mục
tiêu ra ngoài chuyển thành CNĐQ với những đặc trưng là xâm lược thuộc địa và chiến tranh. Chúng tiến
hành xâm lược các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh làm cho mâu thuẫn giữa đế quốc và thuộc địa trở nên gay
gắt => Một loạt phong trào giải phóng dân tộc nổ ra, một lực lượng cách mạng mới dần dần hình thành

+ Điểm nổi bật thứ 2 là năm 1917 cách mạng tháng 10 Nga thành công tạo ra 2 dòng ý thức hệ mâu thuẫn
nhau là CNXH và CNTB. Sự thành công đó đã cổ vũ, là chỗ dựa vững chắc, là nền tảng cho phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. CN Mac-Lenin truyền bá vào giai cấp công nhân biến phong trào đấu
tranh của họ từ tự phát chuyển sang tự giác. CM tháng 10 Nga tác động bởi 2 lí do đó là Lenin đã kí một
loạt các sắc lệnh : Hòa bình, ruộng đất và quyền tự quyết dân tộc. Nước Nga tuyên bố rút ra khỏi chiến
tranh TG I đồng thời chuyển ruộng đất (TLSX) vào tay nhân dân. Bên cạnh đó nước Nga còn xây dựng
mô hình NN kiểu mới do dân, vì dân. Giai cấp CN và VS trên thế giới nhận thấy bản chất tốt đẹp và mức
độ lí tưởng của nước Nga

+ Cuối cùng đó là việc quốc tế cộng sản III ra đời vào năm 1919. Cùng với nó là "Luận cương các vấn đề
về dân tộc và sắc tộc của Lênin"

- Hoàn cảnh trong nước

+ Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt
Nam.Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người bị mất nước và ở
những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài
mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nẩy sinh mâu
thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn
thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân; hai
là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành lại dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong
đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX. Mục tiêu của các
cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp
khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là
thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác
nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau; dựa vào Pháp để
thực hiện cái cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp… nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất
bại.

Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về
giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng xã
hội cơ bản (công nhân và nông dân), nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phòng trào
yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính
trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những
nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.

+ Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối tháng 3- 1929, tại 5D Hàm
Long- Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc Kỳ đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu
tiên ở Việt Nam gồm 7 đồng chí do đồng chí Trần Văn Cung làm Bí thư Chi bộ.

Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã xảy ra bất đồng giữa các
đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng Cộng sản, mà thực chất là sự khác nhau giữa những đại biểu
muốn thành lập ngay một đảng cộng sản và giải thể tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với
những đại biểu cũng muốn thành lập đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội
thanh niên và cũng không muốn phá thanh niên trước khi lập được đảng”. Trong bối cảnh đó, các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam ra đời.

+ Đông Dương Cộng sản Đảng

+ An Nam Cộng sản Đảng

+ Đông Dương Cộng sản Liên đoàn

Mặc dù giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, nhưng
ba tổ chức cộng sản trên đây hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở
Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn
thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
Câu 3

- Những bước ngoặt quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920)

+ Sau những thất bại liên tiếp của các phong trào yêu nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX,
trước sự bế tắc của các sĩ phu yêu nước Việt Nam, Người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành rất trăn
trở về cong đường cứư nước giải phóng dân tộc Việt Nam.

+ Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên là Nguyễn Văn Ba đã rời bên cảng Nhà Rồng ra đi tìm con
đường cứu nước mới để giải phóng cho dân tộc. Người đã không đi sang phương Đông như con đường
của các sĩ phu yêu nước trước đây, mà Người quyết định đi sang phương Tây để tìm con đường cứu nước
mới giải phóng cho dân tộc. Sở dĩ người quyết định đi sang phương Tây là vì: như sau này Người nói lại:
“Muốn đánh đuổi được kẻ thù thì phỉa có sự hiểu biết về kẻ thù đó”, và người cũng muốn tìm hiểu xem
cái khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái, của cách mạng Pháp nó được thực hiện như thế nào ở nước Pháp.

+ Sau nhiều năm bô ba khắp năm châu bốn biển, Người đã tìm hiểu và khảo sát các cuộc cách mạng điểm
hình trên thế giới như: Cách mạng tư sản Mỹ ( 1776), cách mạng Pháp ( 1789), Ngươid đánh giá các tư
tưởng tự do, bình đẳng bác ái, của các cuộc cách mạng này, nhưng người cũng nhận thức rõ những hạn
chế của các cuộc cách mạng này là “chưa đến nơi” vì quần chúng nhân dân vẫn đói khổ. Từ đó, Nguyễn
Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể mang lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho
nhân dân các nước nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

+ Năm 1917 cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 – Nga nổ ra và thành công vơi sự nhạy cảm chính trị
đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc hướng đến ánh sáng của cuộc cách mạng này và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư
tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.

+ Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội Nghị Vecxay của các nước đế quốc thắng trận sau thế chiến
thứ nhất, Bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu
sách đó đã không được các nước đế quốc chú ý đến nhưng nó đã gây được tiếng vang lớn đối với công
luận Pháp. Qua sự kiện này Người đã rút ra cho mình một kết luận quan trọng: muôn giải phóng được dân
tộc mình thì phải dựa vào sức mình là chính.

+ Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản sơ thảo lần thư nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báp Nhân đạo. Người đã tìm thấy trong Luận cương của Lê
nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam.

+ Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở ( Tua – 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu một
bước ngoặt vô cùng quan trong trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Người đã
chuyển từ lập trường của chủ nghĩa yêu nước sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản và tìm thấy con
đường cứu nuớc đúng đắn, đó là con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản.

- Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc lại lựa chọn con
đường cách mạng vô sản

Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách mạng thế giới
và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta.

Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu, và bước đầu có
những nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành
thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như
tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo
quần chúng nhân dân.Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.

Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề.Loài người
căm gét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình tự do cho
con người.

- Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản
tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế
của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa
lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích
dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra
kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
- Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách mạng nước ta
lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng. Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột
của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong
việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển
nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị
của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc.
Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm
đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ
phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân.Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.Xuất phát từ
thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh mới. Trước sự xâm lược
của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn
ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng
cuối cùng đều thất bại. Những con đường đó không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu
cần có con đường giải phóng dân tộc mới

Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải đáp về con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách
mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp (
tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành
lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất
nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành động lực, hun đún thành
ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt mài,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân tộc.

Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Và thực tế
lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó.Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, đánh dấu
sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi
cuộc khangs chiến chống pháp (1954) và kháng chiến chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công
cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi đúng đắn của dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất
trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho cách mạng Việt Nam không ai khác, đó là Nguyễn Ai Quốc – Hồ
Chí Minh vĩ đại.

Câu 4.

- Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc được
hình thành trong những năm 1920 – 1930.

Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư
sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ
Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng ông không tán thành các con đường cứu
nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.

Sau khi tiếp cận lý luận của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước, đó là con đường cách
mạng vô sản. Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và
lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con
đường đó.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thể hiện ở các điểm chính sau:

 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Con
đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
 Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã hội cộng sản".
 Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng
Cộng sản.
 Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
 Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho
nên phải đoàn kết quốc tế.

 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh
khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có đảng cách mệnh. Ông phân tích: cách
mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu
phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập
trung phải có đảng cách mệnh.

 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao
vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Ông coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của
quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.

 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Các nhà nghiên cứu trong nước đánh giá, đây là một luận điểm
sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực. Trong đó
có hai vấn đề:
 Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng bạo lực cách
mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông
chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ
mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải
kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh
cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do.
 Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc. Trước những kẻ
thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Hồ Chí Minh nói,
muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự
giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ
lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự
giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, ông đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh
thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.

- Những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản thế
giới
- Chủ tịch Hồ Chí Minh có những đóng góp quan trọng với lý luận chủ nghĩa Mác, thể hiện ở một số nội
dung chủ yếu sau: Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc, nhân dân các
dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể
thắng lợi trước. Đây là những cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
- Xuất phát từ tình hình ở các nước tư bản, Lê-nin đã nêu luận điểm Đảng Cộng sản là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh
nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản ở đây nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong
trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé và phong trào còn non yếu, do đó phải
kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đây là những luận
điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
- Các Mác, Ăng-ghen xác định, quần chúng làm cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân. Lê-nin,
trong cách mạng vô sản Nga, xác định quần chúng cách mạng là công nhân, nông dân và binh lính.
Đối với Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là "cả quần chúng", bao gồm: giai cấp công nhân-giai cấp
lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân-cùng với công nhân là gốc của cách mạng, tiểu tư sản, trí
thức, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc, các cá nhân yêu nước, "Bị áp bức dân tộc và vô
sản giai cấp thế giới". Quan điểm này của Người không chỉ đúng trong cách mạng giải phóng dân tộc
mà còn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay.
- Hồ Chí Minh có những sáng tạo độc đáo trong các bước đi giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc; luận
giải khoa học, sâu sắc về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, ưu tiên giải quyết vấn đề dân tộc trước, giải quyết vấn đề dân chủ từng
bước. Bảo vệ nền độc lập dân tộc đã giành được bằng biện pháp hòa bình, nhưng khi kẻ thù dùng
chiến tranh xâm lược để áp đặt sự nô dịch mới, thì cần dựa vào và phát huy sức mạnh của cả dân tộc
để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để bảo vệ nền độc lập dân tộc chân chính, cần xây dựng một xã hội
mới là xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công và xây dựng chủ
nghĩa xã hội để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
- Trong di sản tư tưởng của Người, có cả một hệ thống những chỉ dẫn khoa học về cách thức, biện
pháp, bước đi trong thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lý luận xây dựng
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc không chỉ tính khoa học, cách mạng mà còn
có nhiều luận điểm bổ sung từ góc độ đạo đức, văn hóa, nhân văn.

Câu 5
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
(3/2/1930)

Trả lời

a. Chuẩn bị về lý luận chính trị:


Vấn đề quan tâm hàng đầu của NAQ là truyền bá CNMLN và con đường
cứu nước mà người đã chọn vào phong trào CN và phong trào yêu nước VN. Với nhiệt
huyết ấy người viết rất nhiều bài đăng trên 1 số tờ báo “Nhân đạo” tạp chí cộng sản
“Đời sống thợ thuyền” “dân chúng”. Người còn làm chủ bút “Người cùng khổ”. Năm
1925 Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp. 1927 Người cho xuất bản tác
phẩm “Đường CM”
Qua các bài viết trên đã trang bị cho PTCN và PT yêu nước trên 1 số mặt.
- Người vach rõ bản chất phản động của CN thực dân qua đó khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc.
- Giải phóng dân tộc phải gắn liền với vấn đề GPGC giải phóng ND lao động,
gắn mục tiêu giành độc lập dân tộc với phương hướng tiến lên CNXH.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và CM vô sản ở chính
quốc có mối quan hệ khắng khít với nhau. Điều đặc biệt quan trọng NAQ nêu rõ: CM
thuộc địa không phụ thuộc CM vô sản ở chính quốc nó có tính chủ động độc lập “CM
thuộc địa có thể thành công trước CM vô sản ở chính quốc và góp phần thúc đẩy CM
chính quốc tiến lên”.
- Đường lối chiến lược của CM ở thuộc địa là tiến hành giải phóng dân tộc mở
đường tiến lên giải phóng hoàn toàn nhân dân lao động giải phóng con người, tức là
làm cách mạng giải phóng dân tộc, tiên lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song trước hết
phải giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc sớm xác định tính chất cách mạng ở thuộc
địa là “dân tộc giải phóng”.
- Ở Việt Nam và Châu Á hoàn toàn có thể thực hiện chủ nghĩa cộng sản.
- Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trước hết và
chủ yếu là phải đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược và bọn tay sai phản bội quyền lợi dân
tộc.
- Xác định lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng lấy liên minh công nông
làm gốc .Trong đó giai cấp công nhân là người duy nhất có sức mệnh lịch sử là lãnh
đạo. Cách mạng Việt Nam, thông qua đội tiên phong là Đảng cộng Sản Việt Nam.
- Phương pháp cách mạng: cách mạng là sự nghiệp của cả dân chúng, phải sử
dụng cách mạng bạo lực cách mạng của quần chúng.
b. Chuẩn bị về tổ chức
- Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu tại đây Người huấn luyện cán
bộ rồi đưa số cán bộ này về nước để truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức
nhân dân đấu tranh.
- Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lâm
Đức Thụ thành lập hội “Việt Nam cách mạng thanh niên”, ra báo “Thanh Niên”.
- Năm 1929 Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương “vô sản hóa” thì phong
trào cách mạng trong nước phát triển rất mạnh đặc biệt là phong trào công nhân.
- Tháng 3-1929, ở Bắc kỳ một chi bộ cộng sản đầu tiên đã ra đời tại số 5D phố
Hàm Long-Hà Nội (có 7 đồng chí)
Nhu cầu thành lập Đảng được đặt ra trong nội bộ của Việt Nam cách mạng Thanh
niên đưa đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương cộng sản Đảng ra đời.
- Ngày 25-7-1929, An Nam cộng sản Đảng ra đời.
- Tháng 9-1929, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời

Sinh viên làm rõ:


- Khát quát bối cảnh XHVN cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ?
- Đ/C Nguyễn Ái Quốc chọn con đường cứu nước 1911- 1920. Chọn
được con đường CM vô sản.
- Đ/C NAQ chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập Đảng CSVN
 Chuẩn bị về lý luận, chuẩn bị tư tưởng ?
 Chuẩn bị về tổ chức
- Với sự chuẩn bị trên của Đ/C NAQ đã tác động vào phong trào yêu
nước đặc biệt là phong trào CM phát triển mạnh (chứng minh). Đưa đến việc ra đời 3
T/C cộng sản….Đảng CS Việt Nam ra đời.
a. Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập
Đảng:
- Ngày 5 - 6 - 1911, từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Trêvin và bắt đầu cuộc hành
trình vạn dặm, hòa mình vào cuộc sống lao động Pháp để tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến 1917, Người đã đến
nhà nước châu Âu, châu Phi và châu Mĩ. Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp sau 8 năm bôn ba và gia nhập Đảng Xã
hội Pháp vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
- Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi là Nguyễn
Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xai Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp và các
nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân An Nam.
- Bản yêu sách đó đã không được Hội nghi Véc-xai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời tuyên bố của các nhà
chính trị đế quốc về quyền tự do dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc mà điển hình là chương trình 14 điểm
của Tổng thống Mĩ Uyn-xơn chỉ là trò bịp để lừa các dân tộc. Vì vậy, muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.
- Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-
Nin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp, Luận cương của Lê-Nin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Ngày 25 - 12 - 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố
Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành người đảng viên cộng sản Pháp, đồng thời là một trong những người tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc càng tích cực hoạt động và tiếp tục học tập. Nghiên cứu lí luận về con đường cách mạng
thuộc địa để truyền bá vào Việt Nam.
- Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của An-giê-ri, Ma-rốc, Tuy-ni-di,... Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Liên
hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pa-ri để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân. Cơ quan ngôn
luận của Hội là báo Người cùng khổ ( 1922 ) do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Người còn viết nhiều bài cho
các báo Nhân đạo ( của Đảng Cộng sản Pháp ), Đời sống công nhân ( của Tổng Liên đoàn lao động Pháp ),... và đặc
biệt là cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp. Các sách báo nói trên được bí mật chuyển về Việt Nam đã góp phần
thúc đẩy phong trào dân tộc trong nước phát triển mạnh mẽ hơn.
- Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân ( 10 - 1923 ) và
được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng
Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V ( 1924 ),
Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa,
về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về
vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
- Ngày 11 - 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu ( Trung Quốc ) để trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ
chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội và
giai cấp ở Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã tạo sẵn điều kiện để Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm
cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi.
- Khi đến Quảng Châu ( Trung Quốc ), Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây và
chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các lớp huấn luyện chính trị ngắn hạn để đào tạo
họ thành cán bộ cách mạng đưa về nước hoạt động. Các bài giảng của Người được tập hợp lại và in thành cuốn
Đường kách mệnh, hàm chứa những vấn đề cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam.
- Tháng 6 - 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và lấy Cộng sản đoàn làm nòng cốt. Đây là tổ
chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, phong trào cách mạng ở
trong nước ngày càng phát triển sôi nổi, khuynh hướng các mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong trào
dân tộc. Đến năm 1929, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng cơ sở ở khắp ba kì.
Những hoạt động của Người từ 1911 đến 1929 có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và
đạo đức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.

b. Thống nhất phong trào cộng sản, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam:
- Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên dần dần mất vai trò lịch
sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước đòi hỏi phải có một đảng cách mạng tiên phong
đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào tiếp tục tiến lên. Để đáp ứng nhu cầu đó, từ giữa đến cuối năm 1929, ở Việt
Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông
Dương Cộng sản liên đoàn.
- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng nước ta.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã đả kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản
và gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào cách mạng đang lên.
- Từ 3 - 2 đến 7 - 2 - 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng (
Trung Quốc ). Người chủ trì hội nghị và đã phân tích những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ chức cộng sản và
tác hại của nó. Do yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã thống nhất
được các tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành đảng duy nhất, lấy tên
là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã vạch ra đường lối, phương
hướng cơ bản cho cách mạng Việt Nam ( đây chính là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam ).
=>Hai thập niên đầu thể kỉ XX, với những hoạt động cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-LêNin
vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Đồng thời, Người đã thành công
trong việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

6. Làm rõ nét độc đáo, tính sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930)?

Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc biên soạn và được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 chính là Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng. Nội
dung chính bao gồm:

- Phương hướng và mục tiêu của cách mạng Việt Nam: chủ trương làm “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền:

+ Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn
toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa
Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất của bọn đế quôc chủ nghĩa làm
của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;
thi hành luật ngày làm 8 giờ.

+ Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng tiến
bộ, các cá nhân yêu nước, trước hết là công nông. Đảng phải thu phục cho được công nông và làm cho
giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời phải tranh thủ liên lạc với các tầng lớp: tiểu tư
sản, trí thức, trung nông... để kéo họ về phía vô sản giai cấp. Lợi dụng bộ phận phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ bộ mặt phản cách mạng.Bộ phận nào rõ mặt phản cách mạng phải đánh
đổ.Trong khi thực hiện sự liên minh tạm thời với các giai cấp, tầng lớp khác không được thỏa hiệp giai
cấp.

- Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản thế giới.

- Về Đảng: Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng.

Những nội dung trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp
bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam. Tinh thần cơ bản
của nó là đoàn kết toàn dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành độc lập, hướng tới xã hội cộng sản.

7. Phân tích quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

- Từ sự phân tích vị trí kinh tế - xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có giai
cấp công nhân là giai cấp đảm nhiệm được sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Đó là
một yêu cầu khách quan. Giai cấp công nhân là giai cấp trung tâm của thời đại mới, đại diện cho quyền
lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp, bởi vì “trong tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản
thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”.

- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở thành một phong
trào tự giác, nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin, vũ khí lý luận và tư tưởng của
giai cấp công nhân.

- Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thành công thì phải được tổ chức thành một chính
đảng cách mạng tiên phong. Chỉ lúc đó giai cấp công nhân mới có khả năng tập hợp được các lực lượng
dân tộc và dân chủ.
- Sự thành lập Đảng Cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự phát đến
tự giác khi nó được trang bị lý luận cách mạng chủ nghĩa Mác-Lenin.

- Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, nhiều
chiến sỹ yêu nước đã đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên
tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin và con đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
Nguyễn Ái Quốc thực hiện công việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang tính chất phổ biến vừa mang tính chất đặc thù.
Tính phổ biến là tuân thủ quy luật chung về sự ra đời của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế - đó là
sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Tính đặc thù đó là có them yếu tố
cấu thành là phong trào yêu nước.Bởi lẽ chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam là một động lực
lớn.Thực tiễn ở Việt Nam lúc này có hai phong trào cùng tồn tại và thúc đẩy nhau, đó là phong trào công
nhân. Cả hai phong trào này đều có kẻ thù chung là đế quốc Pháp xâm lược và bọn tay sai bán nước, cùng
mục tiêu đấu tranh cho độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân. Mặt khác, phong trào yêu nước Việt
Nam đấu tranh theo ngọn cờ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản đều thất bại, vì thế họ khát khao một
lý luận cách mạng soi sáng con đường đấu tranh của mình. Nguyễn Ái Quốc là người phát hiện ra đòi hỏi
đó và đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào phong trào yêu nước làm chuyển hóa lập trường các
chiến sỹ yêu nước gắn chặt con đường cứu nước giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp theo quỹ đạo
cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển biến đó đã tạo tiền đề vững chắc
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

- Chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân và phong
trào yêu nước phát triển. Các phong trào từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã
trưởng thành và đang trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Tình hình khách quan đó, đòi hỏi phải có
sự lãnh đạo của tổ chức đảng cách mạng tiên phong.

- Sự phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hình thành các tổ chức cộng sản, là sự
kiện chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của sự phát triển phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX.

- Ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn) thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng. Việc thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng duy nhất là một tất yêu khách quan.

Từ 6/1 đến 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành. Hội nghị đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
8. Phân tích quá trình Đảng CSVN nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
trong thời kỳ cách mạng 1930 – 1939? Nhận thức đó có ảnh hưởng như thế nào đến quan điểm
Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng những năm 1930 – 1939?

Giai đoạn 1930 – 1935:

Sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong
giai đoạn 1930 – 1935 được thể hiện rõ nét nhất trong Luận cương chính trị. Tháng 10 – 1930, Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất tại Hương Cảng, Trung Quốc đã họp và thông qua bản
“Luận Cương chính trị” do đồng chí Trần Phú khởi thảo với những nội dung chính sau:

- Xác định mâu thuẫn: ở Đông Dương, mâu thuẫn giữa một bên là thợ thuyền, dân cày, các phần tử
lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến và tư bản đế quốc.

Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc
“cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ
dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ
qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.

- Nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt
để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược
đó có quan hệ khăng khít. Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương xác định: “vấn đề thổ địa là cái cốt của
cách mạng tư sản dân quyền”.

- Về lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản và giai cấp nông dân là hai động lực chính, trong đó, giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng.

- Về phương pháp cách mạng: Luận cương chỉ rõ phải sử dụng bạo lực cách mạng, khởi nghĩa vũ
trang để giành chính quyền.

- Về đoàn kết quốc tế: Luận cương nhấn mạnh, phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô
sản Pháp.

- Về Đảng: sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Đảng
đó phải lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng, có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng, trưởng thành từ trong thực tiễn đấu tranh.

Giai đoạn 1936 – 1939:

Trên thế giới, mấp mé nguy cơ chiến tranh của chủ nghĩa phát xít.Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những
năm 1929 – 1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa
tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.Các nước tư bản công
nghiệp âm mưu chiến tranh để chia lại thị trường thế giới và mưu đồ tiêu diệt Liên Xô nhằm hy vọng đẩy
lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ. Trong lúc đó cuộc khủng kinh tế tác động sâu
sắc không những tới đời sống các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động mà còn đến cả những nhà tư
sản, địa chủ hàng vừa và nhỏ. Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp
nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu của nhân dân ta.
Tất cả dẫn tới lòng căm thù sục sôi của toàn thể nhân dân ta.

Ở giai đoạn này, Đảng ta có những nhận thức mới được thể hiện rõ nét nhất ở Hội nghị Trung Ương II (7-
1936). Nội dung của Hội nghị gồm:

- Kẻ thù cả cách mạng: kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung
đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.

- Nhiệm vụ trước mắt: đòi những quyền dân chủ đơn sơ. Chống phat-xit, chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.

- Biện pháp đấu tranh: chuyển từ hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ
chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm buộc chính quyền Pháp
phải thừa nhận và mở rộng sự quan hệ với quần chúng.

- Tổ chức: Quyết định thành lập Mặt trân nhân dân phản đế mà sau được đổi tên thành Mặt trận dân
chủ Đông Dương để phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng trong tình hình mới.

Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện các quyền dân chủ, dân
sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề
chiến sách mới công bố 10 – 1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không
nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ
chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa
phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.

Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia
làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu
kịch liệt, đồng thời, vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc, cần phải phát triển cuộc cách
mạng điền địa. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế
thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy
hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

9. Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc của Đảng (1939-1941)? Tại sao chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội
nghị Trung ương 8 (5-1941) lại trở thành một trong những động lực thúc đẩy công cuộc giải phóng
dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi?

Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó thì phat-xit Đức hoành hành, chiến tranh đế quốc chuyển
thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phat-xit do Đức
cầm đầu. Chiến tranh thế giới II cũng ảnh hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam.Thực
dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn, ra sức đàn áp ở Việt Nam.Nhân dân ta chịu cảnh
một cổ bị hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phat-xit Pháp
– Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939),
Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn
biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ ở trong nước, Ban Chấp hành Trung
ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm vận
động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu
Tổ quốc, giải phóng dân tộc.

Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta
trong giai đoạn hiện tại. duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kích
hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển
cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công
vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

Có thể thấy, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã khởi xướng cho đường lối giải phóng dân tộc. Đường lối
được bổ sung và phát triển qua Hội nghị lần thứ bảy, sau đó, được hoàn thiện nhờ Hội nghị lần thứ tám.
Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng, đáp ứng nguyện
vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả năng phát huy cao độ tiềm năng, sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.

Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định đường lối chính trị,
trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ
đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một
bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc.Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được
xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam.

Sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự hoàn thiện đường lối ở Hội nghị
lần thứ tám, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong trào dân tộc, trực tiếp quyết định
thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của nhân dân nâng cao, chủ
trương lấy sức ta tự giải phóng cho ta.Có thể nói, Hội nghị Tám là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy công cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi.

10. Hãy chứng minh rằng, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930-1945) là sáng tạo, phù hợp và đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam?

Giai đoạn 1 (1930-1935):

Từ ngày 14 đến 31 – 10 – 1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng,
Trung Quốc do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị thông qua nhiều quyết định quan trọng như phê duyệt
Luận cương chính trị của Đảng. Tuy Luận cương đã phát triển và làm rõ thêm nhiều vấn đề chiến lược
của cách mạng Việt Nam song còn tồn tại nhiều hạn chế: xác định chủ trương không đúng trong hoàn
cảnh Việt Nam lúc bấy giờ (trước hết tiến hành cuộc chiến tranh giai cấp, chống địa chủ phong kiến, chia
đất, tranh thủ nông dân, sau đó mới tiến lên lãnh đạo toàn dân tộc chống đế quốc, giành độc lập), đánh giá
thấp mặt tích cực, cường điệu mặt tiêu cực của các giai cấp tầng trung gian (tư sản, tiểu tư sản).

Giai đoạn 2 (1936-1939):

Trong những năm 1936-1939, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi.Trước nguy cơ đe doạn
của chủ nghĩa phat-xit, Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng Đông Dương đã hồi phục.
Qua văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” của Đảng (11-1936) và các Hội nghị Trung ương
tiếp sau, Đảng chủ trương chuyển hướng về nhiệm vụ chính trị, hình thức tổ chức và phương pháp đấu
tranh cho thích hợp với tình hình mới.Nhiệm vụ phản đế và điền địa vẫ không thay đổi, nhưng chưa phải
là nhiệm vụ trực tiếp. Trước mắt phải tập trung chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, cơm áo,
hòa bình, dự bị những điều kiện cho cuộc giải phóng dân tộc phát triển. Chuyển tất cả các hình thức tổ
chức “đỏ” mang màu chính trị sang các tổ chức “tương tế”, “ái hữu” mang mầu sắc kinh tế; tận dụng tất
cả các hình thức công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp để tập hợp quần chúng và đấu tranh.
Bên cạnh đó vẫ duy trì tổ chức và hoạt động bí mật.

Đảng bước đầu điều chỉnh nhận thức về giải quyết quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược dân tộc, dân
chủ, cho rằng việc giải quyết hai nhiệm vụ này thế nào là tùy điều kiện cụ thể.

Giai đoạn 3 (1939-1945):

Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam.Dân ta rơi vào hoàn cảnh một cổ
hai tròng của Nhật – Pháp, mâu thuẫn dân tộc sâu sắc hơn bao giờ hết.Những biến động này là cơ sở
khách quan để Đảng Cộng sản Đông Dương từng bước điều chỉnh chiến lược. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tiến hành họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần
thứ tám (5-1941). Qua đó khởi xướng, bổ sung, phát triển và hoàn thiện Đường lối giải phóng dân tộc,
nền tảng, động lực cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cũng như sự nghiệp cứu Quốc ở Đông
Dương.

Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng, đáp ứng nguyện
vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả năng phát huy cao độ tiềm năng, sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.

Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định đường lối chính trị,
trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ
đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một
bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc.Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được
xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam.

Từ trên cơ sở thực tế hoàn cảnh đất nước cùng quá trình nhận thức đúng đắn của Đảng, Đường lối giải
phóng dân tộc là yêu cầu khách quan của thực tiễn. Đường lối đã được hoàn thiện và vận dụng sáng tạo,
phù hợp, đúng đắn trong từng giai đoạn lịch sử và trở thành yếu tố cơ bản dẫn tới thắng lợi lớn sau này.
11. Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1939-1941)? Ý nghĩa của đường lối đối với cách mạng Việt Nam trong những năm 1939-1945?

Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó thì phat-xit Đức hoành hành, chiến tranh đế quốc chuyển
thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phat-xit do Đức
cầm đầu. Chiến tranh thế giới II cũng ảnh hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam.Thực
dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn, ra sức đàn áp ở Việt Nam.Nhân dân ta chịu cảnh
một cổ bị hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phat-xit Pháp
– Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939),
Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn
biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ ở trong nước, Ban Chấp hành Trung
ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải giải
quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phat-xit Pháp

– Nhật. Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết
định tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng và
giảm tô, giảm tức”...

Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm vận
động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu
Tổ quốc, giải phóng dân tộc.

Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta
trong giai đoạn hiện tại. duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kích
hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển
cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.

Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công
vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

Có thể thấy, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã khởi xướng cho đường lối giải phóng dân tộc. Đường lối
được bổ sung và phát triển qua Hội nghị lần thứ bảy, sau đó, được hoàn thiện nhờ Hội nghị lần thứ tám.
Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng, đáp ứng nguyện
vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả năng phát huy cao độ tiềm năng, sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định đường lối chính trị,
trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ
đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một
bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc.Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được
xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam.

Sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự hoàn thiện đường lối ở Hội nghị
lần thứ tám, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong trào dân tộc, trực tiếp quyết định
thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của nhân dân nâng cao, chủ
trương lấy sức ta tự giải phóng cho ta.Có thể nói, Hội nghị Tám là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy công cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi.

12. Hãy chứng minh rằng quá trình bổ sung, điều chỉnh đường lối đấu tranh giành chính quyền trong
những năm 1941-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng?

Để bổ sung, điều chỉnh cho đường lối đấu tranh giành chính quyền, Đảng đã chuẩn bị kĩ càng trên các
mặt:

Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả
nước, đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính
quyền.

Vào cuối 1944, đầu 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.Hồng quân Liễn
Xô thắng lớn, quét sạch phat-xit Đức ra khỏi lãnh thổ và tiến như vũ bão về Becslin.Phat-xit Nhật lâm
vào tình trạng nguy khốn.Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9 – 3 – 1945, Nhật đảo chính
Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng
và ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Chỉ thị nhận định: Nhật đảo chính Pháp đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều
kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồiChỉ thị xác định: phap-xit Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù trước mắt
duy nhất của nhân dân Đông Dương.

Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi
nghĩa.

Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.

Dự kiến những điều kiện thuận lợi như Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra
mặt trận ngăn cản Đồng minh để phía sau sơ hở.Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền
cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước và quân đội viễn chinh Nhật mất
tinh thần.
Từ giữa 3 – 1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội
dung và hình thức. Khởi nghĩa từng phần được đẩy mạnh, giành chính quyền bộ phận như ở Cao Bằng,
Bắc Cạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ngãi...

Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ và nhận định: nhiệm vụ
quân sự là nhiệm vụ quan trọng nhất và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến
tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa kịp thời cơ.

4 – 6 – 1945, thành lập khu giải phóng, chính quyền nhân dân đã hình thành ở một số nơi và tồn tại song
song với chính quyền tay sai của Nhật.

Giữa lúc đó nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do Nhật, Pháp đã vơ vét
hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Xuất phát từ tình thế nguy cấp đó, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu
“Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của quần chúng.Chỉ trong một
thời gian ngắn, hàng triệu người dân tiến lên trận tuyến cách mạng.Việt Nam giải phóng quân được thành
lập.

Trên thế giới, Liên Xô chiến thắng, phat-xit đi gần đến thất bại hoàn toàn.Trước diễn biến nhanh của tình
hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 13 đến ngày 15 – 8 – 1945. Nhận
định: cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới và quyết định phát động toàn dân Tổng khởi
nghĩa, giành chính quyền từ tay phat-xit Nhật và tay sai, trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.

Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là “Phản đối xâm lược”, “Hoàn toàn độc lập”, “Chính quyền
nhân dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm
ngay những nơi chắc thắng, không để thành phố hay nông thôn, quân sự và chính trị phải phối hợp; phải
làm tan rã tinh thần quân địch... Về đối nội, lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản
của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù,
triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp – Anh và Mỹ - Tưởng...

Một số mốc phát triển của Cách mạng Tháng Tám:

13 – 8 – 1945, ra lệnh Tổng khởi nghĩa.

16 – 8, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam được thành lập.

19 – 8, quân Nhật ở Hà Nội bị tê liệt, chính quyền vềtay nhân dân.

23 – 8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế.

53 – 8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn.

Từ ngày 14 đến ngày 28 – 8, Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước, chính quyền vềtay nhân dân.

Ngày 2 – 9, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Đảng đã có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nắm
đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết
tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố then chốt, quyết
định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tam 1945.

13. Hãy chứng minh rằng chủ trương Kháng chiến, kiến quốc của Đảng những năm 1945-1946 là tư
tưởng chiến lược mới, giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược, sách lược
của cách mạng Việt Nam?

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta dứng trước bối cảnh vừa có những thuận lwoij cơ bản, vừa gặp
phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống XHCN do Liên Xô đứng dầu được hình thành, phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ
và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập,
có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Lực lượng vũ trang được tăng cường. Toàn dân tin tưởng Việt
Minh cũng như Chính phủ
Khó khăn nghiêm trọng là hậu quả của chế độ cũ để lại như giặc đói, giặc dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc
gia trống rỗng.Kinh nghiệm quản lý đất nước còn non yếu, nền độc lập của nước ta chưa được thế giới
công nhận.Quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam.

Ngày 25 – 11 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”, vạch ra con
đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Về chỉ đạo chiến lược, xác định mục tiêu vẫn là dân tộc giải phóng với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết”, nhưng là giữ vững độc lập.

Đảng chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược”, phải lập Mặt trận dân tộc thống
nhất chống Pháp, mở rộng Mặt trận Việt Minh...

Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách: “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”. Đồng thời cũng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn
bớt thù, thực hiện “Hoa-Việt thân thiện” và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.

Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc diễn ra gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh
vực và giành được những kết quả hết sức to lớn.

Về chính trị - xã hội: đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới – chế độ dân chủ nhân dân
với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.

Về kinh tế, văn hóa: đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế
độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Cuối 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi.Mở
lại các trường lớp, tổ chức khai giảng năm học mới, bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục
lạc hậu.Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi.cuối 1946, có thêm 2,5 triệu người
biết đọc, biết viết.

Về bảo vệ chính quyền cách mạng: ngay từ khi thực dân Pháp nổ sung đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng
phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng
chiến và phát động phong trào “Nam tiến”. Ở miền Bắc, chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ
thù, thực hiện sách lược nhân nhượng với quân Tưởng và tay sai để giữ vững chính quyền, tập trung lực
lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp – Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận
mua bán quyền lợi cho nhau, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc
quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phoongtennoblo
(Pháp), Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu mới.
14. Chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng là đúng
đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu khách quan của cuộc kháng chiến?

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn
xâm lược của thực dân Pháp và được thể hiện tập trung trong ba văn kiện Chỉ thị Toàn dân kháng chiến
(12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) và Kháng chiến nhất định thắng lợi
(1947).

Nội dung đường lối:

Mục đích: “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

Tính chất: đây là cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, mang tính chất toàn
dân, toàn diện và lâu dài. Đó là cuộc kháng chiến có tình dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

Chính sách: Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các
dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân.Thực hiện toàn dân kháng chiến... phải tự
cấp, tự túc về mọi mặt.Chương trình và nhiệm vụ: đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất
trí...Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,trường kỳ
kháng chiến. Giành độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất đất nước, củng cố chếđộ... Tăng gia sản xuất,
thực hành kinh tế tự túc..
Phương châm tiến hành: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Triển vọng: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên,
đúng với nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lenin, vừa phù hợp với thực tế đất
nước bấy giờ.

Đường lối đã giải quyết thành công hai yêu cầu cơ bản, cấp bách: Có dám quyết tâm kháng chiến không?
Làm thế nào để kháng chiến thắng lợi trong điều kiện tương quan so sánh lực lượng ta – địch rất chênh
lệch.

Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi
vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Đầu 1951, nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.Cuộc kháng
chiến của nhân dân ba nước Đông Dương giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng thời cơ
đó, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương.

Đáp ứng yêu cầu bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng, tháng 2 – 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc
họp lần thứ hai đã phát triển đường lối, được thể hiện trong Chánh cương của Đảng Lao động Việt Nam.
Nội dung cơ bản là:

Tính chất xã hội: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Và mâu thuẫn lớn nhất là
giữa tính dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn này đang được giải quyết trong quá trình
kháng chiến của dân tộc chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.

Đối tượng cách mạng: đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ (đối tượng chính), phong kiến phản động (đối
tượng phụ).

Nhiệm vụ: đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH.

Động lực cách mạng: công nông, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc;
ngoài ra là những thân sĩ yêu nước và tiến bộ.

Đặc điểm cách mạng: giải quyết những nhiệm vụ cơ bản do nhân dân lao động làm động lực, công nông
và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo.

Đảng Lao động Việt Nam, đại diện của giai cấp công nhân, trực tiếp lãnh đạo cách mạng.Mục đích là
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên Xã hội chủ nghĩa.

Chính sách: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ
nghĩa xã hội và đảy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.

Quan hệ quốc tế: đứng về phe hòa bình và dân chủ, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và
nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất
bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu chiến tranh của đế quốc Mỹ; giải phóng
miền Bắc, tạo cơ sở cho miền Bắc tiến lên CNXH, hậu thuẫn cho miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân
tộc và uy tín trên trường quốc tế.

Đối với quốc tế, thắng lợi này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng thêm
lực lượng cho CNXH và cách mạng thế giới; góp phần đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba
nước Đông Dương; mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.

15. Hãy chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước giai
đoạn 1954-1975?

Giai đoạn 1954 – 1964:

Sau Hiệp định Giownevo, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới vừa đứng trước nhiều khó
khăn phức tạp. Thuận lợi là hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển
mạnh; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng
đã lớn mạnh; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Nam chí Bắc. Song còn tồn tại khó
khăn là, thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa; xuất hiện bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa; đất nước ta bị chia cắt, kinh tế miền Bắc
nghèo nàn, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

Tháng 9 – 1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng.
Đặc điểm lúc này là từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia thành hai miền; từ nông thôn
chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung.

Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) nhận định phải ra sức củng cố miền Bắc, giữ vững và
đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (12-1957) xác định củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiền dần lên chủ
nghĩa xã hội; tiếp tục dấu tranh thống nhất nước nhà bằng con đường hòa bình. Hội nghị Trung ương lần
thứ 15 (1-1959) xác định nhiệm vụ cũng như con đường cho cách mạng Việt Nam ở miền Nam.

Quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước được hoàn chỉnh tại Đại hội lần
thứ III (9-1960). Đại hội xác định:

Nhiệm vụ chung: tăng cường đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước.
Mục tiêu chiến lược: giải quyết yêu cầu cụ thể ở mỗi miền nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước
giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng tay sai; hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Cách mạng hai miền có mối
quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy lẫn nhau.

Vai trò nhiệm vụ cách mạng của mỗi miền với cách mạng cả nước: miền Bắc là tiềm lực, hậu phương cho
miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau. Miền Nam giữ vai trò chiến trường trực tiếp đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước.

Giai đoạn 1965 – 1975:

Đế quốc Mỹ tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Kế hoạch 5
năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt và vượt các mục tiêu kinh tế, văn hóa. Ở miền Nam, vượt qua những
khó khăn 1961 – 1962, cuộc đấu tranh của quân dân ta có bước phát triển mới, cơ bản kết thúc “Chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ. Tuy nhiên có một số khó khăn, bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng
gay gắt gây bất lợi cho cách mạng Việt Nam, “Chiến tranh cục bộ” gây cho tương quan lực lượng ngày
càng lớn.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần 11 (3 – 1965) và lần thứ 12 (12 – 1965) đã tập trung đánh
giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.

Trung ương Đảng nhận định “Chiến tranh cục bộ” là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, chứa nhiều
mâu thuẫn về chiến lược.Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn
quốc.

Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, bảo vệ
miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới
thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.

Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục và đẩy mạnh chống chiến tranh cục bộ ở miền Nam, phát động
chiến tranh nhân dân chống Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
càng đánh, càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng hai miền để mở những cuộc tiến
công lớn, tranh thủ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn ở miền Nam.

Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: “Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân
sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến
lược.

Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bảo vệ vững chắc miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng địch liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ”
ra cả nước.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: “Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự
kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược.

Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bảo vệ vững chắc miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng địch liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả
nước.

Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn. Khẩu hiệu chung “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Đường lối kháng chiến chống Mỹ đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức
độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.

16. Bằng thực tiễn lịch sử, hãy chứng minh rằng, quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tạo ra sức mạnh to lớn cho
cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi?
Sau Hiệp định Giownevo, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới vừa đứng trước nhiều khó khăn
phức tạp. Thuận lợi là hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển mạnh;
miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn
mạnh; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Nam chí Bắc. Song còn tồn tại khó khăn là, thế
giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất
hiện bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa; đất nước ta bị chia cắt, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, miền
Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Tháng 9 – 1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng.
Đặc điểm lúc này là từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia thành hai miền; từ nông thôn
chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung.
Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) nhận định phải ra sức củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (12-1957) xác định củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiền dần lên chủ nghĩa
xã hội; tiếp tục dấu tranh thống nhất nước nhà bằng con đường hòa bình. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1-
1959) xác định nhiệm vụ cũng như con đường cho cách mạng Việt Nam ở miền Nam.
Quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ
III (9-1960). Đại hội xác định:
Nhiệm vụ chung: tăng cường đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước.
Mục tiêu chiến lược: giải quyết yêu cầu cụ thể ở mỗi miền nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước
giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng tay sai; hòa bình, thống nhất Tổ quốc.
Cách mạng hai miền có mối quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Vai trò nhiệm vụ cách mạng của mỗi miền với cách mạng cả nước: miền Bắc là tiềm lực, hậu phương cho
miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau. Miền Nam giữ vai trò chiến trường trực tiếp đối với
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước.
Đế quốc Mỹ tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Kế hoạch 5
năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt và vượt các mục tiêu kinh tế, văn hóa. Ở miền Nam, vượt qua những khó
khăn 1961 – 1962, cuộc đấu tranh của quân dân ta có bước phát triển mới, cơ bản kết thúc “Chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ. Tuy nhiên có một số khó khăn, bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng gay gắt gây
bất lợi cho cách mạng Việt Nam, “Chiến tranh cục bộ” gây cho tương quan lực lượng ngày càng lớn.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần 11 (3 – 1965) và lần thứ 12 (12 – 1965) đã tập trung đánh giá
tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.
Trung ương Đảng nhận định “Chiến tranh cục bộ” là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, chứa nhiều
mâu thuẫn về chiến lược. Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, bảo vệ
miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới
thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục và đẩy mạnh chống chiến tranh cục bộ ở miền Nam, phát động
chiến tranh nhân dân chống Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng
đánh, càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng hai miền để mở những cuộc tiến công lớn,
tranh thủ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn ở miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: “Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự
kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bảo vệ vững chắc miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng địch liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả
nước.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn. Khẩu hiệu chung “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Đường lối kháng chiến chống Mỹ đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức
độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế. Chính sự vận dụng sáng tạo, đáp ứng yêu
cầu từng miền đã góp phần tạo nên đoàn kết dân tộc, tiến tới thắng lợi vẻ vang trên cả nước.

17. Phân tích những yếu tố chủ yếu, nền tảng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước? Yếu tố nào là quan trọng nhất? Tại sao?
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập, tự
do của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX. Đây là cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam - một nước nhỏ, đất không rộng,
người không đông, kinh tế nghèo nàn lạc hậu với Mỹ - một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự đứng hàng đầu thế
giới tư bản. Trải qua 21 năm (1954-1975) kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước,
tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân 1975 lịch sử. Từ thực tế lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước cho thấy, thành quả cách mạng ấy là tổng hợp của một loạt nhân tố; trong đó, nổi lên một số nhân tố cơ bản sau:
Trước hết, đường lối chính trị, quân sự và phương hướng tiến hành chiến tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình các mặt, nhất là tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, Đảng ta đã vạch ra đường lối tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc;
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng cũng sớm khẳng định: vì giải phóng miền Nam, phải
bảo vệ và xây dựng miền Bắc, và để bảo vệ, xây dựng miền Bắc, phải đánh thắng giặc Mỹ ở miền Nam; hai nhiệm vụ
đó kết hợp chặt chẽ với nhau trên phạm vi chiến lược, nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Theo đó, cùng với xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững
mạnh, giữ vai trò là hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn, Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng, phát triển lực lượng
và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh cách mạng miền Nam.
Với đường lối chiến lược đúng đắn, sáng tạo đó và trên cơ sở thực tiễn của cách mạng miền Nam, Đảng ta đã kịp thời
định ra đường lối lãnh đạo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, đảm bảo cho cuộc chiến đấu của toàn quân và toàn
dân ta trên khắp hai miền giành thắng lợi ngày càng to lớn và toàn diện. Đó chính là việc thực hiện Nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II) và Nghị quyết Đại hội lần thứ III (năm 1960) của Đảng, cách mạng miền
Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Kết quả là ta đã làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của Mỹ. Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 (khóa III) đã chỉ đạo thành công cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của chúng. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng năm 1973 đã chỉ đạo cuộc phản công chiến lược giành thắng lợi. Đặc biệt, Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 10-1974
và đầu năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa địch và ta, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử,
thông qua kế hoạch và hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thực hiện quyết tâm đó, quân và dân
ta đã thực hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 toàn thắng.
Như vậy, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn để nhân dân ta đánh
thắng đế quốc Mỹ và đồng minh của chúng với lực lượng lớn, được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại.
Hai là, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi. Bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước một đối tượng có sức mạnh và tiềm lực kinh tế, quân sự hơn ta đến nhiều lần,
Đảng ta xác định rõ đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân, đồng thời vạch ra phương châm, phương thức tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân, đảm bảo cho quân và dân ta càng đánh càng mạnh, lực lượng ngày càng phát triển, tạo và
giữ vững thế chủ động chiến lược, thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên những bước vững chắc và đi tới thắng lợi hoàn
toàn.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam từ phong trào Đồng Khởi (1959 - 1960) và qua giai đoạn
đấu tranh với các chiến lược chiến tranh của Mỹ đã khẳng định tính đúng đắn của phương thức kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang; thực hiện phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng”; kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa
đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, binh vận và đấu tranh ngoại giao. Sự kết hợp và thống nhất giữa các mặt đấu
tranh đã nhân sức mạnh của dân tộc ta lên gấp bội, tạo ra thế chủ động chiến lược để triển khai thế trận “thiên la địa
võng” của chiến tranh nhân dân, làm cho Mỹ và đồng minh của chúng luôn ở trong vòng vây của cách mạng, bị chia rẽ,
cô lập, bị tiến công ở mọi nơi, bất cứ lúc nào, dẫn đến mất lòng tin vào mục tiêu của cuộc chiến tranh, đi dần tới thất
bại.
Nét độc đáo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng còn được thể hiện ở chỗ, cùng với tiến hành cuộc chiến
tranh toàn dân, toàn diện, buộc địch phải căng kéo, đối phó, Đảng ta coi trọng tập trung sức mạnh ở những trọng điểm
bằng các đòn tiến công quân sự để đánh bại kẻ thù. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã minh chứng:
phải có tiến công quân sự và chỉ có thắng lợi quân sự mới tiêu diệt và làm tan rã được quân đội - “xương sống” của
chiến tranh xâm lược, đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, thúc đẩy làn sóng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược,
đòi rút quân Mỹ và chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa chống lại nhân dân Việt Nam của nhân dân Mỹ và thế giới lên
cao.
Chính nhờ đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang đã bẻ gãy các cuộc tiến công, phản công, đánh bại các chiến
lược chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam; đồng thời, thúc đẩy đấu tranh chính trị, tạo thế cho đấu tranh ngoại giao,
tạo đà cho mặt trận thống nhất chống Mỹ. Do vậy, chiến tranh nhân dân được thể hiện bằng sự kết hợp chặt chẽ, nhịp
nhàng giữa các mặt đấu tranh, trong đó đấu tranh quân sự giữ vai trò then chốt, tạo ra sức mạnh tổng hợp để giành
chiến thắng trong cuộc đụng đầu với đế quốc Mỹ.
Cùng với chiến tranh nhân dân Việt Nam, liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương (Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia)
cũng góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hậu phương chiến lược với hậu phương tại chỗ, giữa hậu phương trong
nước với hậu phương quốc tế.
Tiến hành cuộc kháng chiến trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, đòi hỏi quân và dân ta phải biết đánh
bại từng bộ phận, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình ấy, Đảng ta đặc biệt
coi trọng vai trò của hậu phương, bao gồm: hậu phương chiến lược miền Bắc và hậu phương trực tiếp ở miền Nam;
trong đó, hậu phương chiến lược miền Bắc giữ vai trò quyết định. Trong suốt 16 năm (1959 - 1975), miền Bắc cùng
một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt, từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khẳng định: chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thì miền Bắc
đã phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh to lớn, bảo đảm cho hậu phương lớn vừa xây
dựng, vừa chiến đấu để tự bảo vệ một cách vững chắc, đồng thời động viên ngày càng nhiều sức người, sức của, chi
viện cho miền Nam đánh Mỹ.
Cùng với đó là sự hình thành và phát triển của hậu phương tại chỗ luôn gắn bó chặt chẽ với sự lớn mạnh của cách
mạng miền Nam. Sức sống của hậu phương lớn đó còn được nhân lên gấp bội khi được kết hợp với hậu phương
chiến lược miền Bắc. Do đó, lực lượng quân sự, chính trị, các cơ sở cách mạng bí mật, khu du kích, làng chiến đấu,…
được xây dựng và không ngừng mở rộng trên khắp ba vùng chiến lược. Đây chính là điều kiện để triển khai thế trận
chiến tranh nhân dân, thực hành chiến lược tiến công rộng khắp, giữ vững quyền chủ động, thu hẹp hậu phương của
chúng, tạo thế cài răng lược giữa ta và địch. Nhờ gắn kết và giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa hậu
phương chiến lược của cả nước với hậu phương tại chỗ; duy trì, giữ vững mạch máu vận chuyển, đặc biệt là sự lớn
mạnh không ngừng của miền Bắc đã tác động, thúc đẩy cách mạng miền Nam phát triển, tiến lên từng bước vững
chắc. Ngược lại, mỗi thắng lợi của cách mạng miền Nam góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tăng thêm niềm
tin tưởng, động viên quân và dân miền Bắc vượt qua gian khổ, hy sinh, nỗ lực vượt bậc, “mỗi người làm việc bằng hai”,
vì miền Nam ruột thịt, vì sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Bên cạnh hậu phương trong nước, nhân dân ta còn có hậu phương là Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, giúp
đỡ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Với tinh thần quốc tế vô sản, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã
hội chủ nghĩa, cùng với phong trào nhân dân tiến bộ trên thế giới đã dành cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân
Việt Nam sự giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu, chí nghĩa, chí tình về tinh thần và vật chất với hàng triệu tấn hàng
hóa, hàng trăm nghìn tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật quân sự. Sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả đó đã tạo ra sức mạnh
của thời đại, cùng với sức mạnh của dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Câu 18, Phân tích nội dung cơ bản và những điều chỉnh quan trọng trong đường lối công nghiệp hóa
XHCN gắn với thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp (1960-1986)

Đường lối công nghiệp hóa ở nước ta được hình thành từ Đại họi Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960). Đến
nay quá trình Công nghiệp hóa của nước ta đã tiến hành được gần 50 năm, trong đó có khoảng 25 năm đầu
(1960-1986) chúng ta tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ, trên cơ sở đường lối công nghiệp hóa của các
kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, IV (12-1976) và V (3-1982).

Nội dung cơ bản thời kỳ trước đổi mới của Đảng ta xác định:
Trước hết, Đảng khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta
dựa trên đặc điểm lớn nhất từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH mà không qua giai
đoạn phát triển TBCN.

Thứ hai, mục tiêu cơ bản là xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, bước đầu xây dựng cơ sở
vật chất và kỹ thuật của CNXH.

Thứ ba, thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó
nâng cao năng suất lao động.

Thứ tư, phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.

Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên CNXH. Đại hội của Đảng (12-
1976) tiếp tục khẳng định đường lối công nghiệp hóa ở nước ta trên cơ sở nhất trí với nhận thức cơ bản về
công nghiệp hóa ở Đại hội III cùng một số phát triển: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ... vừa xây
dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương”.

Sau 5 năm chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa trên cả nước, Đại hội V của Đảng (3-1982) đã có sự điều chỉnh
quan trọng về đường lối công nghiệp hóa ở nước ta. Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước
ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc
xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ
thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới (1960-1986) phản ánh tinh thần trách nhiệm và
quyết tâm rất cao của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đảng đã thực hiện
công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội. công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về
lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực hiện công nghiệp
hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện
thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không tôn trọng các quy luật của thị trường. Hạn
chế lớn nhất là quá nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến
hiệu quả kinh tế xã hội.

Câu 19, Phân tích những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của Đảng
trước năm 1986? Ý nghĩa của nó đối với việc tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế thời kỳ tiếp theo?

Theo mô hình và con đường đi lên CNXH được Đại hội Đảng lần thứ IV xác định, trong thời kỳ 1976- 1986, bên
cạnh những thắng lợi to lớn trong bảo vệ Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng đất nước, tình
hình kinh tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém và lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày
càng trầm trọng hơn. Thực trạng đó của Việt Nam cùng với những chuyển biến sâu rộng của cục diện thế giới đã
đặt ra cho Đảng vấn đề đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH...
Quá trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều trăn trở, tìm tòi, khảo nghiệm trong đó có 3
bước đột phá lớn. Bước đột phá mở đầu là Hội nghị BCHTW làn thứ 6, khoá IV (8-1979) chủ trương bằng mọi
cách làm cho sản xuất "bung ra"; không còn xem kế hoạch hoá là hình thức duy nhất để phát triển kinh tế; khẳng
định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường. Bước đột phá thứ hai là Hội nghị Trung ương 8, khóa V
(6- 1985) với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ
chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh
doanh XHCN. Bước đột phá thứ ba là Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-l986 và cuối 1986) với "Kết luận đối với một
số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế": a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm
mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; b) Trong
cải tạo XHCN, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nư-
ớc ta; c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ
hàng hoá, tiền tệ, dút khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến
tới thực hiện cơ chế một giá. Kết luận nói trên của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng việc soạn
thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng, Đại hội quyết định đường lối đổi
mới toàn diện đất nước.
Câu 20:

Sự giống nhau:
– Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách quan. Bởi vì, công
nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được
đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công,
manh mún, lạc hậu…
– Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và
thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ
quốc nhiều khó khăn…

– Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Sự khác nhau:
– Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Ở
thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng chưa
hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu quá trình thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng máy móc, công cụ
sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa, đây là quá trình hiện đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới
mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.

Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô hình công nghiệp hóa
theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công
chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình
nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với
thời đại).

– Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội. Còn công
nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực
của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế
giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả
thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

– Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp
nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện công nghiệp hóa
được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các
chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch
toán kinh tế.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là
động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển yếu tố con
người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa
đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi
thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải
đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham
làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội… vì mục tiêu phát
triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông
nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ra sức phát
triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. Ở thời kỳ đổi mới, phải
phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng
bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ. Ba là, phát triển kinh tế vùng. Bốn là, phát triển kinh tế biển. Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu
công nghệ. Sáu là,bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

Câu 21: Phân tích những đặc điểm cơ bản của mô hình kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá độ lên CNXH? Ý nghĩa
của nó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?
Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Đại hội IX của Đảng (4/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng
quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

• Những nội dung cơ bản của mô kinh tế thị trường định hướng XHCN

- Về định hướng XHCN: Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, kinh tế Nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, thực hiện mục đích phát
triển LLSX, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, phát triển LLSX hiện đại gắn liền với việc xây
dựng QHSX tiên tiến. Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực
hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội,
thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp

- Về những biện pháp xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Nâng cao vai trò và
hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh.

- Về chế độ phân phối: Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,
khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng tài năng, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng
trong hoàn cảnh thu nhập kinh tế còn thấp.

- Về thị trường: Hình thành và phát triển hệ thống thị trường ở Việt Nam như thị trường hàng hóa - dịch vụ;
thị trường tài chính; thị trường đất đai; thị trường lao động; thị trường khoa học và công nghệ... Để thúc đẩy
sự hình thành, phát triển hệ thống thị trường thì phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế; bảo đảm
hình thành và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường của từng loại thị trường, phù hợp với bước đi, lộ trình
chuyển đổi thể chế kinh tế và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Tính pháp lý cạnh tranh của các chủ thể
tham gia thị trường phải được bảo đảm; sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường phải được nâng
cao; kích cầu để nâng cao sức mua của thị trường trong nước, nhất là sức mua của thị trường nông thôn.

- Vấn đề chủ thể và chủ đạo trong kinh tế thị trường định hướng XHCN: Thực hiện chế độ công hữu về
TLSX (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) trên cơ sở đa dạng hóa các quan hệ sở hữu. Chế độ công
hữu không có nghĩa là công hữu tất cả TLSX, mà chỉ công hữu các TLSX chủ yếu là nền tảng của nền kinh
tế quốc dân.Phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền kinh doanh các TLSX và các tài sản khác trong kinh tế nhà
nước.Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.Song, việc phát triển kinh tế tư nhân
được coi như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.

- Về phân bổ các nguồn vốn: Chuyển dịch cơ chế phân bổ các nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành
chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, triệt để xoá bao cấp trong kinh doanh; hạn chế và kiểm soát độc
quyền kinh doanh

-Phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, xã hội: Hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã
hội; thực hiện công bằng xã hội, coi đó là nội dung rất quan trọng của định hướng XHCN; bảo đảm tính ưu
việt của chế độ xã hội mới, nhằm tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực
hiện sự bình đẳng và điều tiết các quan hệ xã hội; khuyến khích người dân làm giàu một cách hợp pháp; giữ
vững môi trường chính trị - xã hội ổn định, an ninh trật tự tốt.

- Về hội nhập kinh tế quốc tế: Coi vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế là đường lối chiến lược để phát triển kinh tế, đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh
tế đối ngoại; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; củng cố các thị trường truyền thống; ra sức khai
thác, phát triển thị trường mới, thúc đẩy kinh tế phát triển. Việt Nam sẵn sàng đón đối tác, làm bạn với các
nước để hợp tác và cùng nhau phát triển lâu dài.

- Về vai trò của Đảng và Nhà nước trong kinh tế thị trường: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản
lý của Nhà nước. Đây là vấn đề mang tính bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đảng lãnh
đạo bằng chủ trương, đường lối, Nhà nước quản lý bằng luật pháp, chính sách, bằng các công cụ quản lý vĩ
mô. Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước sẽ hạn chế tính tự phát TBCN, bảo
đảm định hướng XHCN cho sự phát triển kinh tế thị trường, thực hiện sự kết hợp hài hòa giữa chính trị và
kinh tế thị trường, giữa kế hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Có thể thấy rằng, mô hình kinh tế tổng quát trên là một hệ thống thống nhất giữa QHSX với LLSX, giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong đó, vị trí, chức năng và các mối quan hệ giữa Nhà nước với tư
cách là một “thiết chế xã hội” với thị trường và với tư cách là “một thực thể kinh tế lớn” trong nền kinh tế đã
được xác định rõ ràng, làm cho các công cụ, chính sách của Nhà nước tác động và điều tiết nền kinh tế thị
trường trở nên hiệu quả hơn, có khả năng dẫn dắt nền kinh tế phát triển đúng định hướng XHCN. Đây là một
trong những nhận thức mới của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

• Một số đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

- Đó là nền kinh tế có mức tăng trưởng cao và bền vững, LLSX được phát triển trên cơ sở áp dụng những
thành tựu khoa học - công nghệ mới cùng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao.

- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế dựa trên nguyên tắc quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời được dẫn dắt, định hướng bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH nhằm thực hiện thành
công mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

- Mục tiêu của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là nâng cao đời sống của nhân dân, đảm bảo
công bằng xã hội, hạn chế những bất bình đẳng trong thu nhập, bảo vệ môi trường, bản sắc văn hoá dân tộc,
ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng.

- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế mở và mang tính quốc tế hoá, khu vực hoá. Phát
triển triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải góp phần nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế,
đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế.

Ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và một số vấn đề nảy sinh
từ thực tiễn

• Ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN

Sự lựa chọn mô hình phát triển "Kinh tế thị trường định hướng XHCN" là sự khẳng định quyết tâm khắc
phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây
dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng XHCN). Nói rõ hơn, đây không
phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ hoặc dập khuôn theo kinh tế thị trường TBCN (đã và đang bị phủ định).
Đây là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã
hội hoá - XHCN.

- Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại, nhằm phát huy những thế mạnh của kinh tế
thị trường, chủ động hướng kinh tế thị trường phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân, sự phồn vinh và
hạnh phúc toàn xã hội.
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là thấm nhuần sự kết hợp giữa tính tất yếu thời đại với nhu
cầu phát triển của dân tộc với các giá trị truyền thống dân chủ, nhân văn. Đó là sự vận dụng sáng tạo quy luật
chung vào những hoàn cảnh cụ thể của đất nước.

- Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng tầng chính trị - pháp luật là ĐCS,
Nhà nước pháp quyền XHCN, nhằm tạo lập thể chế kinh tế thị trường văn minh, theo định hướng XHCN.
Việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan cũng như vai trò lãnh đạo của chủ thể và kiến trúc
thượng tầng chính trị – pháp lý XHCN là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.Mọi sự vô hiệu hoá vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị
trường sẽ chỉ dẫn tới sự hỗn loạn và bất ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội.

• Những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn

- Trong mỗi giai đoạn lịch sử thường nảy sinh những vấn đề lý luận vừa cơ bản, vừa cấp bách đòi hỏi Đảng
phải giải quyết. Hiện nay, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm thế nào để phát triển
nhanh và đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Ngoài ra, ở nước ta CNXH và kinh tế thị trường
còn đang trong quá trình hình thành.Khi nói kết hợp CNXH và kinh tế thị trường thì không phải là kết hợp
hai cái đã có sẵn mà là kết hợp chúng trong quá trình đang hình thành. Chính vì thế, hàng loạt vấn đề lý luận
và thực tiễn đang nảy sinh đòi hỏi phải nghiên cứu và sự trả lời nghiêm túc như:

+ Vấn đề đổi mới và tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;

+ Vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu
hoá hiện nay;

+ Vấn đề hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, đảm bảo
tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và tôn tạo môi trường...;

+ Vấn đề là làm thế nào kết hợp được kinh tế thị trường với CNXH để thực sự có được nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN;

+ Mâu thuẫn giữa sự phát triển hài hòa, bền vững với mức độ tăng trưởng kinh tế?

+ Vấn đề “QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX" cần làm rõ (ở mô hình CNXH Đại hội X đưa
ra, vấn đề này vẫn còn chưa rõ ràng)?

+ Vấn đề phát triển bền vững, bình đẳng với thế giới trong hội nhập kinh tế quốc tế, mà vẫn giữ được độc
lập chủ quyền, vẫn bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
vẫn giữ được định hướng XHCN của đất nước;

+ Vấn đề mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa đổi mới với ổn định và phát
triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế?

+ Vấn đề khắc phục hiệu quả nguy cơ thoái hoá, biến chất của cán bộ và đảng viên trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN;

+ Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị đúng mức và đồng bộ hơn với đổi mới kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN để không làm cản trở đổi mới kinh tế;

- Trả lời những vấn đề nói trên không hề đơn giản. Trong khi trên thế giới kinh tế thị trường đã hình thành và
phát triển từ lâu và hiện nay đang có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, còn chúng ta chỉ mới bắt
đầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một mô hình không có sẵn, mà phải sáng tạo một
mô hình hoàn toàn mới. Cái khó còn do những thói quen, nếp tư duy cũ hình thành trong thời kỳ xây dựng
nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, bao cấp đôi khi vẫn níu kéo, cản trở.

Câu 22: Phân tích những chuyển biến cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng thể hiện qua mô hình kinh tế tổng quát
suốt thời kỳ quá độ lên CNXH?

Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng và mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ đi
lên CNXH ở Việt Nam

• Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng

Bước 1: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của nước ta là kinh tế thị trường (1986-
1994)

- Đại hội VI (12-1986) – bước ngoặt trong việc xác lập thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

+ Chuyển nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hóa.

Đây là điểm đột phá trong lý luận về hệ kinh tế của sự phát triển.

+ Chính sách kinh tế nhiều thành phần.

Đây là phương tiện để đạt tới sự phát triển LLSX, tăng trưởng kinh tế (là phương tiện, chứ không phải mục
tiêu của công cuộc xây dựng CNXH).

- Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp

- Xây dựng cơ chế mới phù hợp với quản lý khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Đây chính là
cơ chế thị trường.

Bản chất của quá trình xác lập cơ chế thị trường chính là quá trình chuyển giá cả theo giá thị trường và chống
lạm phát, xác lập giá cả, tiền tệ.

- Trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “Thực chất của cơ
chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Tóm lại, đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, mà trọng tâm đặt vào đổi mới kinh tế, Đại hội đã đưa ra những
quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán mạnh cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người. Nói một cách khác, Đại hội bước đầu thừa nhận cơ
chế thị trường.

- Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI, 3-1989) - Dấu mốc quan trọng trong việc xác lập thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN.

+ Phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên CNXH. Khẳng định thực
hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, mở ra một hướng đi mới - tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm
cho mọi người tự do làm ăn theo pháp luật;

+ Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng nhưng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết với nhau; kinh tế quốc doanh cần có lực lượng
đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề, những ngành
nghề, loại hoạt động nào mà kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền
kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế ấy phát triển.

+ Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hóa; chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hoạch
toán kinh doanh.

+ Quan điểm về một thị trường thống nhất trong cả nước, gắn với thế giới (lần đầu tiên đề cập); dứt khoát
xóa bỏ cơ chế hai giá, thực hiện một giá thống nhất tuân theo thị trường (lần đầu tiên đề cập).

Đây là những nội dung mới, mà Đại hội VI chưa đạt tới.

Như vậy, Hội nghị đã phát triển thêm một bước tư duy kinh tế của Đại hội VI, đưa ra quan điểm phát triển
nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành
phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.
- Đại hội VII (qua Cương lĩnh) phát triển thêm một bước: Xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”,
khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam.

Bước 2: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của CNTB, không đối lập với CNXH (1994-2001)

- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994):

+ Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế.

+ Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, còn có
chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

+ Cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và
kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”.
Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản
xuất khác nhau.Nó có trước CNTB, trong CNTB và cả sau CNTB. Nếu trước CNTB nó vận động và phát
triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội TBCN, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi
phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là CNTB.

+ Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Kinh tế thị
trường không đối lập với CNXH.

- Đại hội VIII (1996) bổ sung một số nhận thức về cơ chế quản lý kinh tế:

+ Xác định “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN”. QHSX, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý, chế độ phân phối gắn kết với nhau.

+ Về lý luận, Đại hội VIII nhấn mạnh một quan điểm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của các Hội nghị Trung
ương và BCT, đồng thời phát triển thêm:

Một là: Sản xuất hàng hoá, cơ chế thị trường không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH.

Hai là: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng XHCN là một thể
thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới.

Ba là: Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng vĩ
mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước, đồng thời
phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực đi đôi
với việc ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý kinh tế thị
trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và các nguồn lực chủ đạo
của kinh tế Nhà nước...

+ Như vậy, trên phương diện nhận thức lý luận, Đại hội VIII đã tiếp tục cụ thể hoá nội dung Cương lĩnh, bổ
sung nhận thức về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX, trong đó có các vấn đề quan trọng về định hướng
XHCN khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Tuy nhiên, Đại hội chưa sử dụng khái niệm “kinh tế thị trường”.

Bước 3: Coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ (2001- 2006)

- Đại hội IX của Đảng (2001) chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng XHCN":

+ Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, là đường lối chiến lược nhất quán.

+ Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường
định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

+ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây
dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.

+ Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Bước 4: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trương toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng và đầy đủ hơn (2006- 2008)
- Đại hội X của Đảng chủ trương:

+ “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

+ Bốn nội dung quan trọng nhất là: Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò
và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản
xuất, kinh doanh.

+ Quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế
toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất (chủ đề về kinh tế của
Đại hội: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”)

+ Làm rõ hơn về định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, dựa trên 4 tiêu chí:

1. Mục đích phát triển: Vì con người, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy
mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng...

2. Phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

3. Định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn
đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

4. Định hướng XHCN trong quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, người lao động là người chủ xã hội. Người công nhân dù làm trong xí nghiệp tư nhân
vẫn là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.Vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng XHCN.

- Định hướng XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời đại - thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Định hướng XHCN ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.Đây không chỉ là một tất yếu về
chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội.

Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trương định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ
quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của kinh tế thị
trường trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại, khái quát, đúc kết
kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là thực tế xây dựng CNXH ở Trung Quốc và Việt
Nam, Đảng đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trương định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan
niệm của Đảng ta về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam.

• Khái quát những chuyển biến cơ bản trong tư duy lý luận kinh tế của Đảng

Từ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường, có thể khái quát những nét chuyển biến cơ
bản, chính yếu trong tư duy lý luận kinh tế của Đảng như sau:

- Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế XHCN và kinh tế TBCN (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức
kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và
mục đích phát triển. Kinh tế XHCN vận động theo các quy luật của CNXH, còn kinh tế TBCN thì vận động
theo các quy luật của CNTB (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch
toán và kinh doanh XHCN, vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất
là một động lực của sự phát triển).

- Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với trước. Nhìn khái quát đã có những
sự thay đổi lớn như sau:

+ Từ quan niệm kinh tế thị trường gắn liền và phản ánh bản chất của CNTB, đến chỗ thừa nhận kinh tế thị
trường không phải là cái riêng có của CNTB, cũng không đối lập với CNXH.

Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu của văn minh nhân loại

Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra
đời và phát triển của kinh tế thị trường.Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh
tế.Trong một nền kinh tế khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi
đó là kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển
cao trong xã hội TBCN.Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất đều nhằm sản xuất ra để bán,
đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Kinh tế hàng hóa và kinh tế
thị trường đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập vừa phụ thuộc vào nhau. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng
hóa phát triển cao, đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của
người sản xuất hàng hóa.Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã
hội hóa cao.

Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong
CNTB.Nếu trước CNTB, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong CNTB nó đạt đến
trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống con người trong xã hội đó.Điều đó khiến cho không ít người
nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của CNTB.

+ Sản xuất hàng hóa tồn tại khách quan, cần thiết trong quá trình xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được
xây dựng

Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế,
là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết
mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ
không đối lập với các chế độ xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị trường tồn tại và
phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu
vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng.Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan
trong thời quá độ lên XHCN.

+ Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng XHCN ở nước ta.

Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì
kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.

Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

+ Từ quan niệm CNXH chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất
(bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có
ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

+ Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được QHSX XHCN phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế
tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi XHCN, đã đến quan niệm rằng
trong xây dựng CNXH, phải ưu tiên phát triển LLSX, còn cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới nhất thiết
phải phù hợp với từng bước phát triển của LLSX.

+ Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh chóng các thành
phần kinh tế phi XHCN, ngay từ đầu đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng
muốn cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một quá trình
dài xây dựng, đổi mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫn khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực quan trọng của phát triển kinh tế và phát triển
LLSX.

+ Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung, thống nhất với
những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công
là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò
của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng
của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ
vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất,
kinh doanh.

+ Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động đã đi đều
quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế
mà là ở chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đến có
cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái lại khuyến
khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế
phân cực quá đáng hai đầu.

• Tiểu kết

- Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên XHCN còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế
thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN, đã thực hiện phân
bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu.

- Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các
nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung
cầu. Từ đó, chuyển từ tư duy dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu nhà nước và tập
thể, với sự phát triển vượt trước của QHSX đối với sự phát triển của LLSX... sang tư duy mới xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện
chứng với tính đa dạng của các hình thức sở hữu và tính đa dạng của các hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm hình thức phân phối chủ yếu, kết hợp với phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.

- Đây là bước đổi mới tư duy căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù
hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX và tùy thuộc vào trình độ phát triển của LLSX mà từng
bước thiết lập QHSX tương ứng. Nhờ đó, mọi tiềm năng xã hội cũng như sức sản xuất được giải phóng.
Nhân tố quan trọng bậc nhất của LLSX là nhân tố con người - người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi
quy luật lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện và
phát triển lợi ích của tập thể và của toàn xã hội.

- Bước đổi mới tư duy này có ý nghĩa cách mạng, bởi nó đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế
trong sự phát triển tới CNXH của các nước phải đi con đường phát triển "rút ngắn" theo loại hình quá độ gián
tiếp mà lịch sử đã quy định.

- Chúng ta cũng chuyển từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa tuyệt
đối, với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đó chính là nền
kinh tế thị trường XHCN, có sự điều tiết của kế hoạch ở tầm vĩ mô, thông qua quản lý, kiểm soát bằng pháp
luật của Nhà nước.

- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã dẫn tới sự tác động, thâm nhập lẫn nhau giữa các thành phần
kinh tế, tạo thành sự đan xen các hình thức sở hữu, các phương thức tổ chức quản lý, các phương thức phân
phối lợi ích phù hợp với QHSX mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của LLSX ở thời kỳ quá độ lên
CNXH. Theo đó, con người với tư cách vừa là chủ thể sản xuất – kinh doanh, vừa là chủ thể tiêu dùng các
sản phẩm hàng hóa được đặt vào những cơ hội như nhau để phát triển, được bộc lộ tài năng, được thử thách
về trình độ, năng lực, tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh tế. Cơ chế thị trường đòi hỏi sự thừa nhận
cạnh tranh, dẫn tới sự chênh lệch thu nhập, sự phân hóa giàu - nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị trường.
Vấn đề đặt ra là phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trường không dẫn tới sự phân hóa giàu –
nghèo vượt quá giới hạn cho phép, vi phạm mục tiêu công bằng xã hội là mục tiêu mà chúng ta phấn đấu trên
con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là một nét mới tiêu biểu cho tư duy kinh tế mới của Đảng ta.

- Thực tế cho thấy, CNTB không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế thừa và khai thác có hiệu quả
các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển, Thực tiễn đối mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết
và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng XHCN.
25. Phân tích vai trò đặc biệt quan trọng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện nay?

Phân tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới.

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội.

- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:

Các giá trị văn hoá tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và
trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng định
vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc, đồng thời nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng,
tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa (bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể).

- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:

Nguồn nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa.Sự phát triển của một dân tộc phải
vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn.Cội nguồn của
mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.

Động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy.

Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn
và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề… Mặt
khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng
bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ …

Cần bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá
mức của “xã hội tiêu thụ’, dẫn tới chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.

- Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 1991 – 2000 Đảng ta xác định “Mục tiêu và động lực chính của sự
phát triển là vì con người, do con người”. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa -
xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững, trường tồn.

- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã
hội mới:

Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiên, vốn, v.v… tuy
nhiên những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn
lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt.

Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội theo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người.

- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Đó
là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế
trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo.

- Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng
nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật… nhưng được thể hiện sâu sắc
nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hóa, là những gì nhân dân quan tâm, là niềm
tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc
vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam

- Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa quyện bình đẳng, sự
phát triển độc lập của văn hóa hơn 50 dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Tạo ta những giá trị
và bản sắc văn hóa riêng.

Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự phát triển chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng

Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đều tham gia sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước. Đội ngũ trí thức
gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
của nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Năm là, giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu

Đại hội VI (năm 1986) và hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (tháng 12/1996) khẳng định: Cùng với giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện
cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.Đảng đề ra chủ trương:

- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện

- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống
học tập suốt đời, đào tạo liên tục

- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông

- Phát triển mạnh mẽ hệ thống giáo dục nghề nghiệp

- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ
cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao

- Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học.

- Thực hiện xã hội hóa giáo dục

- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.

- Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

- Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc
biệt là các lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh

- Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.

Sáu là, văn hóa là một mặt trận ; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi
phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, làm
cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến
bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian.

Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”, lấy “xây” làm chính. giữ gìn và phát triển những di sản văn
hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới,
phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi
mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”.
26, Hãy chứng minh rằng, đường lối đối ngoại đổi mới đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng và bảo vệ
đất nước?

Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế do Đại hội XI của Đảng đề ra, gần ba năm qua, công tác đối
ngoại của Đảng đã được thúc đẩy theo hướng vừa đi vào chiều sâu, vừa phát triển mở rộng nhằm củng cố
nền tảng chính trị cho quan hệ nhà nước, quan hệ nhân dân, vừa tạo thế chủ động trong quan hệ quốc tế, phù
hợp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới; đối ngoại đảng đã phối hợp chặt chẽ với ngoại giao
nhà nước và đối ngoại nhân dân, đóng góp rất quan trọng vào thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao nước
nhà, thiết thực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tình hình quốc tế và hoạt động đối ngoại của Đảng ta

Tình hình thế giới và khu vực thời gian qua cho thấy những nhận định của Đại hội XI của Đảng là rất xác
đáng và vẫn còn nguyên giá trị. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng chiến tranh cục
bộ, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn
diễn ra ở nhiều nơi và rất phức tạp; cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong đời
sống quốc tế tiếp tục phát triển, nhưng các nước lớn đã và đang ngày càng chi phối mạnh các quan hệ quốc
tế.

Mặt khác, thế giới mấy năm qua cũng có những diễn biến phức tạp và những động thái mới. Cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu diễn biến phức tạp, kéo dài hơn so với dự báo ban đầu. Xu thế đa cực hóa ngày càng
rõ nét nhưng cục diện tổng thể về cơ bản chưa thay đổi; các nước lớn điều chỉnh chính sách, tập hợp lực
lượng, đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược; các liên kết kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ. Những biến động chính
trị tại khu vực Trung Đông - Bắc Phi đã dẫn tới những thay đổi lớn trong đời sống chính trị nhiều nước và
cục diện khu vực này, nhưng sự bất ổn và những hệ lụy của nó vẫn còn dai dẳng. Ở nhiều nước lớn, như Mỹ,
Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Pháp đã có những thay đổi lớn sau bầu cử (năm 2012) và chuyển giao lãnh đạo,
kéo theo điều chỉnh cả về chính sách đối nội và đối ngoại. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát
triển năng động, đồng thời trở thành địa bàn cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa nhiều nước lớn, nhất là
trong bối cảnh Mỹ triển khai chính sách tái cân bằng. Tranh chấp trên biển Hoa Đông, Biển Đông và tình
hình bán đảo Triều Tiên tiếp tục diễn biến phức tạp, có lúc rất căng thẳng và cho đến nay vẫn chưa có cơ chế
hữu hiệu để ngăn chặn khả năng xảy ra xung đột. Ở Đông Nam Á, quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN
tiếp tục được thúc đẩy trong bối cảnh tình hình nội trị của một số nước thành viên có những biến động phức
tạp mới.

Bối cảnh phức tạp đó của tình hình thế giới và khu vực là một thách thức không nhỏ đối với ngoại giao nước
nhà nói chung và công tác đối ngoại đảng nói riêng. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, hoạt động đối ngoại đảng trong những năm qua luôn bám sát những nguyên tắc, phương
châm cơ bản là đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, giữ vững nguyên tắc, linh hoạt khôn khéo về sách
lược, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, có lợi nhất cho đất nước, đồng thời tích cực góp phần
vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Từ sau Đại hội XI của Đảng đến nay, công tác đối ngoại đảng được triển khai một cách tích cực, chủ động,
hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm và có bước đột phá. Vì vậy, quan hệ đối ngoại của Đảng ta tiếp tục được
mở rộng và tăng cường. Hiện ta có quan hệ với hơn 200 chính đảng ở 114 nước, trong đó có hơn 100 đảng
cộng sản và công nhân, gần 50 đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham gia quốc hội/nghị viện các nước.
Hoạt động đối ngoại đảng tập trung vào những hướng lớn sau:

Thứ nhất, tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước láng giềng có chung biên giới, đưa quan hệ đi vào chiều sâu bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng
và thiết thực. Sau Đại hội XI của Đảng, Tổng Bí thư Đảng ta đã có các chuyến thăm quan trọng đến Lào,
Trung Quốc, Cam-pu-chia, Cu-ba. Ta cũng đã đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chum-ma-li Xay-nha-
xỏn, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, Ủy viên Thường vụ Bộ
Chính trị, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cu-ba, Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cu-ba Ra-un Ca-xtơ-rô... Bên cạnh đó, Đảng ta và các đảng bạn Lào,
Trung Quốc, Cam-pu-chia, Cu-ba còn tiến hành các cơ chế trao đổi, gặp gỡ cấp cao, cử đặc phái viên và các
hoạt động trao đổi đoàn các cấp. Các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc đó đã thắt chặt quan hệ hữu nghị, gắn bó, tin cậy,
đưa ra những định hướng và biện pháp lớn cho quan hệ hợp tác nhiều mặt và quan hệ nhân dân giữa nước ta
với các nước bạn không ngừng phát triển. Đồng thời qua các chuyến thăm cấp cao, ta đã thúc đẩy giải quyết
được những vấn đề còn tồn tại hoặc mới nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước, hóa giải những
tình thế phức tạp, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Chẳng hạn như, trong
chuyến thăm Trung Quốc năm 2011 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai nước đã ký Thỏa thuận về
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển, giúp làm dịu bầu không khí căng thẳng do những
diễn biến phức tạp trên Biển Đông, làm cơ sở để hai bên tiếp tục giải quyết thỏa đáng các vấn đề trên biển,
thúc đẩy phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc.

Ở một góc độ khác, Đảng ta và các đảng bạn thời gian qua rất chú trọng các hình thức hợp tác chiều sâu, như
hội thảo lý luận, trao đổi, nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đảng ta tiếp tục hội thảo lý luận thường
niên với Đảng Cộng sản Trung Quốc(1), đồng thời bắt đầu mở cơ chế hội thảo lý luận với Đảng Nhân dân
cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Cu-ba(2). Từ năm 2013, Đảng ta và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã bắt
đầu phối hợp mở các lớp trao đổi, nghiên cứu chuyên đề dành cho cán bộ cấp cao hai Đảng, hai nước. Hằng
năm, ta tiếp tục cử hàng trăm cán bộ các cấp tham gia các khóa nghiên cứu theo chương trình hợp tác với
Đảng Cộng sản Trung Quốc; Đảng ta và Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng đẩy mạnh các chương trình
bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ hai Đảng. Những hình thức hợp tác thiết thực này đã giúp nâng cao hiểu biết,
lý luận, cũng như kinh nghiệm thực tế trên nhiều lĩnh vực cho cán bộ Đảng ta và các đảng bạn, góp phần
thiết thực vào công cuộc xây dựng, phát triển ở mỗi nước.

Thứ hai, chủ động thiết lập và tăng cường quan hệ với các đảng cầm quyền, tham chính và các đảng tiềm
năng ở các nước trong khu vực và đối tác quan trọng của Việt Nam. Đây có thể xem là bước đột phá trong
quan hệ quốc tế của Đảng ta theo tinh thần Kết luận của Bộ Chính trị về “Tăng cường quan hệ đối ngoại của
Đảng trong tình hình mới”, góp phần đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ
trợ thiết thực cho ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Theo đó, trong hơn hai năm qua, Đảng ta phát
triển mới quan hệ với 10 đảng cầm quyền, đưa tổng số các đảng cầm quyền, tham chính có quan hệ với Đảng
ta lên khoảng 50 đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức Xin-ga-po (tháng 9-2012),
Vương quốc Thái Lan (tháng 6-2013), Liên minh châu Âu và Vương quốc Bỉ, Anh(3), thăm cấp nhà nước
Cộng hòa I-ta-li-a (tháng 1-2013), thăm cấp nhà nước Cộng hòa Ấn Độ (tháng 11-2013). Dù theo chế độ
chính trị khác nhau, nhưng tất cả các nước đều đón Tổng Bí thư Đảng ta rất trọng thị, với nghi thức cao nhất
dành cho nguyên thủ quốc gia. Đây là những dấu mốc hết sức quan trọng trong quan hệ giữa nước ta với các
nước vì nó đã xác lập, nâng cấp hoặc làm sâu sắc khuôn khổ quan hệ giữa nước ta với các nước (trong các
chuyến thăm này, ta đã chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với I-ta-li-a, Thái Lan, nhất trí hướng
tới đối tác chiến lược với Xin-ga-po(4), làm sâu sắc và cụ thể hóa quan hệ đối tác chiến lược với Anh, Ấn
Độ).

Đảng ta cũng mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, tham chính ở Ma-lai-xi-a, Mi-an-ma, Phi-líp-pin,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ố-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Nga, U-crai-na, A-déc-bai-gian, Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển,
Đan Mạch, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la... Hình thức hợp tác giữa Đảng ta với các đảng này ngày một đa dạng
và thiết thực, từ trao đổi đoàn cấp cao, ký thỏa thuận hợp tác (với Đảng Nước Nga thống nhất, Đảng Khu vực
U-crai-na, Đảng A-déc-bai-gian mới, Đảng FRELIMO Mô-dăm-bích,..) hoặc đào tạo cán bộ (với Đảng Hành
động nhân dân Xin-ga-po), trao đổi khách quý (với Ấn Độ), đối thoại chính trị (với Đảng Dân chủ xã hội
Đức - SPD)(5). Qua đó, các đảng cầm quyền, tham chính các nước ngày càng coi trọng và nhận thức đầy đủ
hơn về vai trò của Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam, đánh giá cao vai trò lãnh
đạo của Đảng ta trong việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Qua đó, Đảng ta tích lũy
thêm nhiều kinh nghiệm từ các chính đảng về quản lý đất nước, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, làm
phong phú thêm kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng chủ trương, đường lối
của Đảng ta trong tình hình mới.
Thứ ba, tiếp tục tăng cường quan hệ đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau với các đảng cộng sản và công nhân, cánh tả,
các đảng và phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ. Dù đang gặp những khó khăn nhất định,
nhưng với tinh thần đoàn kết, tình cảm thủy chung trước sau như một, Đảng ta đã cử nhiều đoàn thăm, làm
việc, dự đại hội, hội nghị, hội thảo của các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả (dự Đại hội lần thứ XXXXVIII
Đảng Xã hội chủ nghĩa Bun-ga-ri, Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha, Đại hội lần thứ XIII
Đảng Cộng sản Nam Phi, Đại hội lần thứ XIV Đảng Cộng sản Pê-ru, Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản
Băng-la-đét, Hội thảo 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Bra-xin,...) và đón nhiều đoàn cấp cao của các
đảng sang thăm, nghiên cứu, trao đổi lý luận và kinh nghiệm xây dựng đảng, phát triển đất nước (đón Chủ
tịch Đảng Cộng sản Nhật Bản, Chủ tịch Đảng Cộng sản Séc - Mô-ra-va, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Bun-
ga-ri, Tổng Bí thư Đảng Lao động Mê-hi-cô,...). Đảng ta tiếp tục hội thảo lý luận với Đảng Cộng sản Nhật
Bản và lần đầu tiên tiến hành hội thảo với Đảng Cộng sản Pháp; ký các thỏa thuận và chương trình hợp tác
với một số đảng bạn (Đảng Liên minh dân chủ cánh tả Ba Lan, Đảng Lao động Mê-hi-cô, Đảng Cộng sản
Bra-xin, Đảng Phong trào cánh tả thống nhất Đô-mi-ni-ca-na). Thông qua các hoạt động này, ta đã làm cho
bạn hiểu rõ hơn về công cuộc đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tăng cường gắn bó, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của đảng bạn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, đồng
thời ta cũng nắm được tình hình đảng bạn, học hỏi và tích luỹ thêm kinh nghiệm của đảng bạn.

Thứ tư, hoạt động tích cực tại các diễn đàn đa phương chính đảng. Trong ba năm qua, quán triệt chủ trương
đối ngoại của Đại hội XI, Đảng ta đã chủ động, tích cực hoạt động và có những đóng góp thiết thực về lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn tại các diễn đàn của các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả trên thế giới và
diễn đàn các đảng ở khu vực, như Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (IMCWP), Hội thảo
quốc tế các đảng cộng sản (ICS), Diễn đàn Xao Pao-lô (SPF), Hội thảo quốc tế “Các đảng chính trị và một xã
hội mới”, Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á (ICAPP)... Với vai trò và đóng góp tích cực đó, Đảng ta
đã được tín nhiệm tham gia Ban cố vấn của ICS, Nhóm làm việc của IMCWP, liên tục được bầu là thành
viên Ủy ban Thường trực ICAPP; nhiều lần được đề xuất đăng cai các sự kiện quan trọng của các diễn đàn
chính đảng. Tháng 4-2013, Đảng ta lần đầu tiên đăng cai tổ chức và đã tổ chức rất thành công Hội nghị Ủy
ban Thường trực ICAPP. Cùng với các quan hệ song phương, các hoạt động đa phương chính đảng đã tạo
điều kiện để Đảng ta trực tiếp tham gia giải quyết những vấn đề của khu vực và quốc tế, thiết thực đóng góp
vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới, đồng thời không ngừng nâng cao vai trò và uy tín quốc tế của Đảng ta.

Như vậy, qua gần ba năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, quan hệ đối ngoại của Đảng ta đã không ngừng
được mở rộng và tăng cường, nhất là với các đảng cộng sản, cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước láng giềng có chung biên giới và các đảng cầm quyền, tham chính trong khu vực và ở các nước đối tác
quan trọng, tạo nền tảng chính trị thúc đẩy quan hệ nhà nước và quan hệ đối ngoại nhân dân, thiết thực phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế,
đồng thời góp phần tích cực vào phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và sự nghiệp hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Tuy nhiên, hoạt động đối ngoại đảng vẫn còn đứng trước nhiều khó khăn và những đòi hỏi của tình hình mới.
Một mặt, điều kiện, môi trường hoạt động khó khăn của nhiều đảng cộng sản, công nhân, cánh tả dẫn tới hạn
chế trong việc trao đổi thông tin, duy trì quan hệ với Đảng ta. Mặt khác, sự khác biệt về ý thức hệ, chế độ
chính trị vẫn còn là rào cản trong quan hệ giữa Đảng ta và các đảng ở nhiều nước, khiến không gian quan hệ
của Đảng ta chưa thật rộng, chưa tương xứng với tiềm năng.

Phương hướng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại đảng thời gian tới

Những năm tới, tình hình thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp và khó lường. Hòa bình và hợp tác vẫn là xu
thế lớn nhưng cạnh tranh giữa các quốc gia để kiểm soát, tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cạnh
tranh về thương mại, tài chính - tiền tệ, tri thức - công nghệ, thông tin và về sức mạnh quân sự sẽ tiếp tục
diễn ra ngày càng quyết liệt hơn. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục là khu vực phát triển năng
động, là tâm điểm cạnh tranh chiến lược của các nước lớn với các hình thức liên kết tiếp tục được thúc đẩy,
vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo sẽ diễn biến quyết liệt hơn, đặt ra các cơ hội và thách thức đan xen.

Bối cảnh thế giới hiện nay sẽ đòi hỏi mạnh mẽ hơn sự hợp tác giữa các chính đảng, vì vậy yếu tố nền tảng và
lâu dài là phải làm sâu sắc hơn nhận thức về vị trí, vai trò đối ngoại đảng, về chủ trương tăng cường đối
ngoại đảng trong tình hình mới theo tinh thần Kết luận số 73 của Bộ Chính trị khóa XI. Theo đó, cần tiếp tục
nâng cao hiệu quả và đưa quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả đi vào chiều sâu, thiết thực.
Đồng thời, chủ động tiếp tục thúc đẩy khâu đột phá là tăng cường quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng
tham chính, đảng có vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước
đối với nước ta, các đảng tuy đang đối lập nhưng có tương lai chính trị; chủ động, tích cực tham gia có hiệu
quả các diễn đàn đa phương của các chính đảng; qua đó, đưa các mối quan hệ đối ngoại của Đảng ta phát
triển hiệu quả, đi vào chiều sâu; theo dõi, nghiên cứu và dự báo tình hình chính đảng nước ngoài, quan hệ
chính đảng trong quan hệ quốc tế.

Trong tình hình thế giới có nhiều biến động lớn như hiện nay, công tác đối ngoại đảng và việc quản lý, điều
hành công tác đối ngoại các cấp đứng trước yêu cầu phải nâng cao hiệu quả hoạt động, tiếp tục đưa các mối
quan hệ đi vào chiều sâu, góp phần thực hiện tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận
lợi, sự đồng tình, ủng hộ và hậu thuẫn chính trị quốc tế rộng rãi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đồng thời, góp phần vào sự hồi phục, đoàn kết và đổi mới
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Vấn đề cần thiết và quan trọng hiện nay là nâng cao hiệu quả và tính thiết thực của hoạt động đối ngoại, nhất
là trao đổi đoàn; đôn đốc việc thực hiện chương trình hợp tác với các đảng, các đối tác nước ngoài; hoàn
thiện cơ chế phối hợp để bảo đảm phối hợp chặt chẽ về thông tin, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai
các hoạt động đối ngoại các cấp, các ngành; chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ làm công tác đối ngoại có chuyên môn, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực, nhiệt huyết.

Ba trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân đã,
đang và cần có sự phối hợp thật nhịp nhàng, chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện nhằm hỗ trợ lẫn nhau hiệu quả, phát
huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trên mặt trận ngoại giao. Theo đó, trước hết và quan trọng là
phối hợp nghiên cứu, dự báo, đề xuất chủ trương đối ngoại, phối hợp xây dựng chương trình công tác định kỳ
và kế hoạch triển khai hoạt động đối ngoại cụ thể. Đổi mới, hoàn thiện chức năng, cơ chế hoạt động của các
ban chỉ đạo Trung ương có tính chuyên ngành và liên ngành về đối ngoại và liên quan đến đối ngoại để chủ
động kịp thời xử lý hiệu quả mọi biến động của tình hình quốc tế, khu vực. Thực hiện tốt Quy chế quản lý
thống nhất các hoạt động đối ngoại do Bộ Chính trị ban hành, định kỳ có sơ kết, tổng kết; hoàn thiện cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan đầu mối cấp Trung ương trong quản lý các hoạt động đối ngoại./.

27.Phân tích những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại đổi mới và chứng minh rằng, đường lối
đó là đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn?

Phân tích nội dung sau đây trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh”

(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr.235-236).

Lời nói đầu

Đường lối đối ngoại đối với mỗi quốc gia, dân tộc có vai trò rất quan trọng trong công tác ngoại giao của
quốc gia, dân tộc đó, nó được xác định như là kim chỉ nam cho công tác đối ngoại; quyết định sự thành bại
của công tác đối ngoại. Đối với Việt Nam, qua mỗi thời kỳ cách mạng, dựa trên tình hình thực tiễn trong

và ngoài nước, Đảng ta luôn xác định đường lối đối ngoại phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước ở thời
điểm đó. Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi đa dạng, đa chiều của tình hình thế giới cũng như
trong khu vực, tình hình trong nước cũng đã có những biến đổi to lớn sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, với nhận thức đúng đắn về đối ngoại thời kỳ này, tại Đại hội XI của Đảng đã xác định: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” (Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr.235-
236).

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề ra đường lối đối ngoại

(1) Cơ sở lý luận: Để đề ra đường lối đối ngoại này, Đảng ta dựa trên nhiều cơ sở từ lý luận đến tổng kết thực
tiễn công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Trước hết về mặt lý
luận: Đảng ta xác định lấy Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng lý luận,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng, trong đó có công tác đối ngoại nhằm khai thác tố nhất nhân tố quốc tế
phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước, đồng thời mở rộng và phát huy ảnh hưởng của Đảng, đóng góp với
cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển. Sinh thời
Chủ tich Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực lực của đất nước là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Thực lực của đất
nước mạnh tức là cái chiêng lớn mà cái chiêng lớn thì tiếng sẽ vang, ảnh hưởng của nó sẽ càng lớn trên
trường quốc tế. Chính tư tưởng này của Người đã đặt nền mong cho việc Đảng ta đặt ra đường lối đối ngoại
trong những năm qua.

(2) Cơ sở thực tiễn: Về thực tiễn, Đảng ta đã kế thừa và phát huy truyền

thống đối ngoại của dân tộc Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong

những giai đoạn trước đây, nhất là những bài học quý báu trong công tác đối

ngoại thời kỳ đổi mới. Đồng thời, Đảng ta đã tiến hành phân tích, nhận định đúng

đắn tình hình thế giới, trong khu vực và những điều kiện trong nước giai đoạn
hiện nay để đề ra đường lối đối ngoại như đã nêu trên. Như vậy, ngoại giao Việt

Nam luôn phải xuất phát từ thực trạng và đặc thù địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế,

xã hội, tôn giáo, dân tộc của đất nước. Chính vì vậy, ngoại giao Việt Nam trong

những năm đầu thế kỳ 21 vẫn mang đậm những sắc thái riêng biệt của mình và có

những bước đi thích hợp trong trào lưu chung của ngoại giao thế giới. Hơn bao

giờ hết, hiện tại chúng ta có điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công đường

lối đối ngoại của Đảng ta là đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và Việt Nam là

bạn, đối tác tin cậy với tất cả các nước; ngoại giao với tất cả các khía cạnh nội

dung của nó như văn hóa, kinh tế, quốc phòng – an ninh, chính trị… không chỉ là

cánh cửa mở Việt Nam với thế giới, mà còn cần và có thể làm một chiếc cầu nối

Việt Nam với thế giới bảo vệ độc lập chủ quyền và những thành quả cách mạng,

chống lại moi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay với

mục tiêu chính của chính sách đối ngoại là giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh

và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững hòa bình và tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi,

tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, gây ảnh hưởng và nâng cao uy tín

quốc tế của Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ

xuyên suốt cách mạng Việt Nam, là con đường giải pháp đúng đắn, phù hợp với

tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam và xu thế thời đại: tư tưởng độc lập dân

tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chỉ đạo nhận thức và hành động tỏng triển khai

đường lối chính sách đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam. Độc lập tự chủ, tự

cường, đồng thời, tăng cường đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế. Độc

lập tự chủ đảm bảo lợi ích chính đáng của dân tộc là nguyên tắc và nhiệm vụ

hàng đầu của ngoại giao Việt Nam. Sự giúp đỡ hợp tác quốc tế là quan trọng, độc

lập tự chủ, tự lực, tự cường không có nghĩa là biệt lập với bên ngoài, ngược lại
trên cơ sở độc lập, tự chủ cần phải mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, xử lý đúng

đắn các vấn đề liên quan giữa dân tộc, thời đại giữa Việt Nam và thế giới. Trong

hoạt động đối ngoại chú ý vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo thế và lực cho

đất nước. Mặt khác thành tưu đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc thúc đẩy thế

giới tăng cường hợp tác với Việt Nam. Ngoài ra tiếp tục nhận được sự giúp đỡ

quốc tế phải đi liền với làm nghĩa vụ quốc tế. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là

giữ vững mội trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc

đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, xây dựng – bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh

chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã

hội.

Trong khi đó, trên thế giới giai đoạn này, chủ nghĩa xã hội và phong trào

cộng sản, công nhân quốc tế lâm vào vào cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt, toàn cầu hóa là

xu hướng tất yếu, tác động sâu sắc tình hình kinh tế, chính trị xã hội và quan hệ

quốc tế ở tất cả các quốc gia, dân tộc với cả thời cơ và thách thức. Cuộc đấu

tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt ; xung đột vũ trang, chiến

tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ

trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố xảy ra ở nhiều nơi, nhất là tại khu

vực các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, ngày càng xuất hiện nhiều vấn đề an

ninh phi truyền thống cùng với sự gay gắt thêm của những vấn đề toàn cầu bức

xúc, đòi hỏi phải có sự hợp tác sâu rộng của tất cả các nước cùng nhau giải

quyết. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á có sự phát triển

năng động, được cả thế giới quan tâm, đánh giá cao. Bên cạnh những đặc điểm

chung của tình hình thế giới nêu trên thì : Xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và

phát triển là một xu thế lớn, phản ánh những đòi hỏi bức xúc của các dân tộc trên
thế giới. Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp

tác, liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế, chính trị, thương mại và nhiều lĩnh

vực khác. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh

chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền

văn hoá dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa,

các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới

kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ở trong nước, để tồn tại và phát triển, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu ngày càng

xa, đối với nước ta yêu cầu đặt ra là phải phát huy nội lực, tranh thủ tối ta các

điều kiện quốc tế thuận lợi để hội nhập, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội

và nguy cơ tụt hậu, phá vỡ bao vây, cấm vận của chủ nghĩa đế quốc, hội nhập

quốc tế và khu vực, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững

ổn đinh chính trị trong tình hình nói, mọi nhu cầu đổi mói toàn diện đất nước

trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại là đòi hỏi khách quan được đặt ra cấp

bách. Phát huy truyền thống hòa bình, nhân ái, hữu nghị hợp tác văn minh của

nền ngoại giao Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tuyên bố của Người

“Chính sách đối ngoại là thân thiết với tất cả các nước… mà không thù gì với

nước nào”. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương đề ra đường lối ngoại giao

đổi mới mở cửa, hội nhập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh.

2. Những điều chỉnh mục tiêu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà

nước

Từ tình hình thực tiễn nêu trên, đòi hỏi Đảng ta phải có những điều chỉnh

mục tiêu chính sách đối ngoại cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, điều chúng

ta có thể thấy rõ thông qua các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới, đồng thời cũng

đặt cột mốc mở đầu quá trình hình thành đường lối và chính sách đối ngoại đổi

mới. Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện

sách lược thêm bạn bớt thù, phá thế bị bao vây, cấm vận và mở rộng quan hệ

quốc tế.

Sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã thu được những

thành tựu bước đầu rất quan trọng, quan hệ đối ngoại mở rộng, vị thế quốc tế

được củng cố và nâng cao. Trong bối cảnh đó, Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp

tục phát triển đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, đưa ra chủ trương “xây

dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế

giới”.

Đại hội IX của Đảng khẳng định rõ thêm đường lối đối ngoại độc lập tự

chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đại hội nêu chủ

trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; đồng thời bổ sung, phát triển quan

điểm của Đại hội VII và Đại hội VIII, nêu rõ: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối

tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,

độc lập và phát triển”

(2)

. Sự bổ sung và phát triển mới này, một mặt thể hiện

đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị của Đảng và Nhà nước Việt Nam, mong

muốn chân thành sẽ là bạn với những ai mong muốn là bạn của Việt Nam; mặt

khác, biểu thị thái độ trách nhiệm cao của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.

Trước thực tiễn mới của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đại hội

X (4-2006) tiếp tục bổ sung, làm rõ đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới. Đại

hội khẳng định quan điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin

cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp

tác quốc tế và khu vực”, “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều

sâu, ổn định, bền vững ”

(3)

. Quá trình triển khai thực hiện đường lối đối ngoại

đổi mới gần 30 năm qua luôn là cơ sở quan trọng hàng đầu để Đảng, Nhà nước

Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phát triển chính sách đối ngoại đổi mới.

Từ đó, Đảng ta đề ra nhiệm vụ đối ngoại, mà nhiệm vụ này đã đươc xác

định một cách rất nhất quán trong suốt thời kỳ đổi mới và tiếp tục được khẳng

định lại trong văn kiện Đại hội XI là: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ

vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng

cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.”.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, chúng ta phải quán triệt đường lối đối ngoại

độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với

2)

ĐCS Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2011

3)

ĐCS Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2011.

tinh thần “Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng

đồng quốc tế”.


Tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là phải giữ vững vì độc lập thống

nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh

hoạt trong xử lý các tình huống phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh nước ta,

với diễn biến của tình hình thế giới và các đối tác quan hệ với ta. Mở rộng quan

hệ nhiều mặt song phương, đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung

tâm kinh tế chính trị quốc tế lơn, các tổ chức quốc tế và khu vực.

3. Phương châm xử lý các vấn đề quốc tế

Từ đó, Đảng ta đã xác định và thực hiện bốn phương châm xử lý các vấn đề

quốc tế hay còn gọi là bốn phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại:

Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ

nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Thực chất phương

châm này là nhằm xử lý mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và đoàn kết quốc tế

trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới.

Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá,

đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Với việc nêu ra phương châm này, thì đây là

lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập đến khái niệm

đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nhấn mạnh giữ vững độc lập tự chủ

gắn liền với đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế để xây dựng được thế

đứng vững chắc trên trường quốc tế, tránh những tình huống bất lợi về đối ngoại,

tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Đây là sự

phát triển sáng tạo bài học của cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc

và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế trong điều kiện

lịch sử mới.

Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.

Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng

hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức từ bên
ngoài cũng gia tăng. Do đó, cần nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và

đấu tranh, coi đây là hai mặt gắn bó hưu cơ của quan hệ quốc tế. Trong đó, Đảng

ta nhấn mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh

đối đầu.

Bốn là: Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả

các nước. Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà

nước Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần vào hoà bình, ổn định, phát

triển ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực,

nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một môi trường hoà bình, ổn định

lâu dài chung quanh đất nước. Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ sở

tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát triển với các nước trong khu vực

sẽ là bảo đảm hết sức quan trọng đối với Việt Nam nhằm xác lập một vị thế có

lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.

Bốn phương châm đối ngoại nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

việc xử lý các mối quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xử lý đúng

các mối quan hệ quốc tế sẽ tạo nên sự thông suốt trong tư tưởng và thành công

trong hành động. Ngược lại, nếu xử lý không đúng sẽ gây lúng túng trong hoạt

động đối ngoại cụ thể, ảnh hưởng tiêu cực tới công cuộc đổi mới theo định hướng

xã hội.

4. Những thành tựu đạt được

Từ Đại hội XI đến nay, thông qua việc xác định và triển khai thực hiện

đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã giành được những thành

tựu rất quan trọng. Đó là:

- Chúng ta đã giữ vững và củng cố được môi trường hòa bình, ổn định, tạo

thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh tình hình
khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới và

kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, việc chúng ta tiếp tục duy trì được môi

trường hòa bình, ổn định, từng bước ổn định kinh tế vĩ mô, có tăng trưởng khá,

bảo đảm an sinh xã hội, huy động được đáng kể các nguồn tài trợ phát triển chính

thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mở rộng được thị trường,

tăng kim ngạch xuất khẩu là những thành tựu rất đáng khích lệ. Nó khẳng định

và làm nổi rõ hình ảnh của một nước Việt Nam hòa bình, ổn định và đang phát

triển - đối tác tin cậy của các nước và cộng đồng quốc tế.

- Chúng ta tiếp tục giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ

của đất nước, kịp thời giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trên biển. Đã

hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên thực địa với Lào và khoảng

75% với Cam-pu-chia; tích cực đàm phán phân định vùng cửa Vịnh và hợp tác

trong lĩnh vực ít nhạy cảm với Trung Quốc, phân định vùng đặc quyền kinh tế

với In-đô-nê-xi-a. Đã giải quyết thành công nhiều vấn đề tồn tại với các nước

láng giềng trên cơ sở luật pháp quốc tế, các bên cùng chấp nhận, từng bước làm

cho đường biên giới chung của nước ta với các nước thành biên giới hòa bình,

hữu nghị và hợp tác. Những khác biệt trong tranh chấp ở Biển Đông tuy còn

không ít trở ngại, song đang có xu hướng thu hẹp, đi vào đàm phán, đối thoại trên

cả bình diện song phương và đa phương.

- Đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế. Quan

hệ song phương và đa phương ngày càng được củng cố, phát triển và dần dần đi

vào chiều sâu. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện được xác lập

giữa Việt Nam với một số nước, nhất là với các nước lớn, tạo ra bước chuyển

mới về chất trong hoạt động đối ngoại, tạo thuận lợi cho nhiệm vụ hội nhập quốc

tế của nước ta trong giai đoạn mới. Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta có được
nhiều bạn bè và đối tác như ngày nay; chủ đề ủng hộ Việt Nam dành được sự

đồng thuận khá cao tại nhiều diễn đàn quan trọng, kể cả tại Quốc hội một số

nước. Hiện nay, chúng ta quan hệ ngoại giao với 177 nước, có quan hệ thương

mại với 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các tổ

chức quốc tế lớn.

- Đã thực sự phát huy được vai trò là thành viên tích cực của các thể chế

khu vực và toàn cầu. Nước ta đã tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình liên

kết khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương thông qua các tổ chức và

diễn đàn: ASEAN, Diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Cộng đồng kinh tế châu Á

- Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn cấp cao Đông Á (EAS); đã tham gia 8 hiệp

định thương mại tự do song phương và khu vực và đang đàm phán 6 hiệp định

khác, trong đó có 2 hiệp định có phạm vi rộng lớn chưa từng có là Hiệp định đối

tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác hợp tác kinh tế khu vực

(RCEP). Việt Nam đã cùng các nước thành viên, đóng góp tích cực vào quá trình

xây dựng cộng đồng ASEAN và có vị trí, uy tín ngày càng cao trong cộng đồng

khu vực. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Ủy viên không thường

trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020 - 2021); đăng cai tổ chức

Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm 2015); và cũng

lần thứ hai đứng ra đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017). Mới

đây, nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên

tử quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được

bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016) với số

phiếu rất cao. Kết quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta và lòng tin của Cộng

đồng quốc tế dành cho Việt Nam.

- Đã có những chuyển biến rõ rệt trong công tác vận động cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị. Người

Việt ở xa đất nước ngày càng hướng về quê hương, gắn bó và có nhiều đóng góp

thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan đại diện Việt

Nam ở nước ngoài đã và đang làm tốt nhiệm vụ bảo hộ công dân, thực sự trở

thành chỗ dựa tin cậy của cộng đồng người Việt sinh sống và làm việc ở nước

ngoài.

5. Phương hướng hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng

Từ kết quả nêu trên, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xác định phương

hướng hoạt động đối ngoại là tăng cường phát triển quan hệ với các nước láng

giềng, mặt khác đặt cao quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa.

Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Đảng và

Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh chủ trương nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp

tác với các nước thuộc Hiệp hội, cùng xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực

hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Hiện nay, Việt Nam khẳng định rõ

quan điểm cùng với các nước ASEAN phấn đấu xây dựng ASEAN trở thành một

Cộng đồng hòa bình, thịnh vượng và phát triển đồng đều.

Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc

lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, các nước

trong Phong trào Không liên kết là một hướng hoạt động đối ngoại thường xuyên

được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng thúc đẩy. Việt Nam xây dựng quan

hệ đối tác chiến lược với Liên bang Nga và Ấn Độ, khôi phục quan hệ hữu nghị

truyền thống và sự hợp tác hiệu quả trên nhiều mặt với các nước Đông Âu.

Thấm nhuần tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh và kiên định chủ

nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trên tinh thần đổi mới, Đảng Cộng sản Việt

Nam coi trọng việc củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các
đảng cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và

độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.

Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định nhất quán quan điểm thúc đẩy

quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế, tham gia giải

quyết các vấn đề toàn cầu, chống khủng bố quốc tế, góp phần xây dựng trật tự

chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Đối với các nước lớn, Việt Nam

nêu rõ cần thúc đẩy quan hệ đa dạng, bao gồm cả quan hệ chính phủ và phi chính

phủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ , tạo môi

trường hoà bình, ổn định lâu dài. Trong quan hệ với các nước và trung tâm lớn

trên thế giới, Việt Nam kiên trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can

thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích, tránh bị rơi vào thế đối

đầu, cô lập hay lệ thuộc.

Với tư cách là một đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương

mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền trên thế giới.

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm mở rộng và phát triển công tác

đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu

quả”, tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các

nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát

triển kinh tế - xã hội.

Lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ

quan điểm về chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn

sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế về vấn đề nhân quyền.

6. Những chặng đường hình thành và triển khai đường lối, chính sách

đối ngoại từ khi giành độc lập đến nay

Nhìn lại chặng đường hình thành và triển khai đường lối, chính sách đối

ngoại từ khi giành độc lập đến nay, ta thấy Văn kiện Đại hội XI của Đảng có 5
bước phát triển mới.

10

Một là vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc được xác định vừa là mục tiêu, vừa là

nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân mà ưu tiên hàng đầu là

bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và bảo vệ thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Hai là việc tích cực, chủ đọng hội nhập quốc tế thay vì chỉ đơn thuần là tích

cực, chủ đọng hội nhập quốc tế như trước đây và được tiến hành trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội.

Ba là việc xác định và khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm

trong cộng đồng quốc tế. Đây là bước phát triển rõ nét từ chỗ Việt Nam chỉ sắn

sàng là ban và là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế đến chỗ khẳng định vai trò

và trách nhiệm của mình trong công đồng quốc tế.

Bốn là việc xác định xây dựng cộng đồng ASEAN là một ưu tiên trong

chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trước hết Việt Nam là một thành viên có

trách nhiệm của ASEAN và những gì Việt Nam và các nước khác đang làm là

phấn đấu cho một cộng đồng ASEAN.

Năm là triển khai đường lối, chính sách đối ngoại một cách đồng bộ, toàn

diện và thống nhất trên tất cả các ngành, cách lĩnh vực.

Kết luận

Những thành tích và kết quả kể trên là sự kiểm chứng sinh động đối với

đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, đồng thời cũng thể hiện sự vận dụng

sáng tạo và hiệu quả các bài học của thời kỳ đổi mới. Chúng ta đã luôn quán triệt

tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ

vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị xã hội chủ

nghĩa, kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất

cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng một nước Việt Nam "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Chúng ta cũng đã vận dụng sáng

tạo các bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ vững độc

lập tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế; kiên định về nguyên tắc, nhưng linh hoạt về

sách lược; triển khai các hoạt động đối ngoại một cách đồng bộ và toàn diện.

28. Anh/chị hay phân tích quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội”?
29. Anh/chị hãy phân tích cơ sở nào để năm 2001 Đảng đưa ra tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng
là bạn và là đối tác tin cậy với tất cả các nước, các khu vực và các vùng lãnh thổ”?

Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975, bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được,
tình hình kinh tế - xã hội nước ta diễn biến rất phức tạp, cùng với những khó khăn, thách thức ngày
càng gay gắt về an ninh và đối ngoại. Đến giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, sự nghiệp cách mạng
nước ta đứng trước những đòi hỏi bức bách là phải tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, phá thế bị bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc thù địch, tiếp tục thực hiện mục tiêu đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Trong đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế, điểm mấu chốt nhất là Đảng ta ngày càng nhận
thức rõ sự chuyển dịch lớn trong quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ giữa các nước lớn, từ tình trạng
đối đầu gay gắt về chính trị - quân sự, khu biệt về kinh tế sang vừa đấu tranh, vừa hợp tác trong
cùng tồn tại hòa bình. Do đó, Đảng có nhận thức ngày càng sát hợp, đúng đắn hơn về vấn đề tập
hợp lực lượng, về xử lý các vấn đề quốc tế liên quan trực tiếp đến nước ta. Trước những động thái
mới trên thế giới từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, tư duy về quan hệ quốc tế của Đảng có sự điều
chỉnh, phát triển và ngày càng trở nên uyển chuyển, linh hoạt hơn. Đảng ta luôn chú trọng việc xác
định và làm rõ tư tưởng chỉ đạo đối ngoại trên cơ sở lợi ích và mục tiêu đối ngoại của đất nước. Đối
với nước ta, lợi ích và mục tiêu cao nhất về đối ngoại, được Đảng xác định rõ là giữ vững hoà bình
để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia. Do đó, tư
tưởng chỉ đạo đối ngoại là: giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất
sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng
như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ. Đây
cũng chính là sự kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vừa
kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược của tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh trong tình hình mới và nó được thể hiện ở tuyên bố đối ngoại của Đảng năm 1991.
Bước vào thập kỷ 90, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã đặt
chúng ta trước những thách thức mới rất cam go. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu trong việc
triển khai chính sách đối ngoại mới đã tạo tiền đề để Đảng ta đưa ra đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Hội nghị
Trung ương 3, khóa VII đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là "giữ vững nguyên tắc vì
độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp
với vị trí và hoàn cảnh của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp
với từng đối tượng ta có thể quan hệ".

Sau 10 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; thế và lực của ta được
nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải
thiện; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. Tuy nhiên, chúng ta còn phải
đối phó với nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả là "Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá
thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt". Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp
tục hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Ngoài
ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị
quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện
thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh
nghiệm về đối ngoại; đồng thời nêu ra những phương hướng chủ yếu trong hoạt động đối ngoại
trong những năm tới với việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội,
lợi ích cao nhất của đất nước. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định hướng cho
chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
30. Anh/chị hãy phân tích, tại sao phải thực hiện 3 nguyên tắc Dân tộc hóa, khoa học hóa và
đại chúng hóa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước đổi mới?
31. Anh/Chị hãy phân tích tại sao phải thành lập Hội Văn hóa cứu quốc và Mặt trận Văn hóa
cứu quốc?
32. Anh/Chị hãy phân tích tại sao công nghiệp hóa lại là tất yếu đối với Việt Nam? Và theo
anh/chị công nghiệp hóa ở Việt Nam nên bắt đầu từ ngành nào?
33. Theo anh/chị, sai lầm lớn nhất trong đường lối công nghiệp hóa của Đảng trước năm 1986
là gì? Tại sao?
34. Hãy phân tích tại sao Nghị quyết Đại hội III của Đảng lại xác định: Cách mạng miền Bắc có
vai trò quyết định nhất và cách mạng miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ, cứu nước?
35. Anh/chị hãy phân tích, tại sao Đảng lại chủ trương triệt để giảm tô và thực hiện cải cách
ruộng đất vào tháng 11 năm 1953?
36. Anh/chị hãy phân tích, tại sao phải thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân,
toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cứu
nước?
37. Anh/chị hãy phân tích tại sao Đảng lại chủ trương xây dựng Đảng là then chốt, phát triển
kinh tế là trọng tâm?
38. Anh/chị hãy so sánh các đặc trưng về chủ nghĩa xã hội qua các kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới?
39. Đặc trưng của Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì?
40. Tại sao nói: “Văn hóa là nguồn lực nội sinh quan trọng cho sự phát triển bền vững đất
nước”?
41. Anh/chị hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa?
42. Theo anh/chị đặc trưng nào của thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam thể hiện định
hướng xã hội chủ nghĩa? Tại sao?
43. Anh/chị hãy chỉ ra những hạn chế của người Việt Nam đã phá vỡ mô hình kinh tế tập thể,
kế hoạch hóa, quan liêu và bao cấp?

You might also like