Professional Documents
Culture Documents
com
Ebook online
Hormones của mô mỡ
Điều hòa trọng lượng cơ thể
bằng cách hạn chế thức ăn vào
167 amino acid tiền thân
và gia tăng tiêu thụ năng lượng,
Leptin của 146 amino acids đã
điều hòa trục thần kinh nội tiết,
được xử lý
đáp ứng viêm, huyết áp và khối
lượng xương
244 amino acid protein với Hoạt động sinh học chính là gia
Adiponectin 4 miền chức năng riêng tăng sự nhạy cảm insulin và oxy
biệt hóa acid béo
108 amino acid tiền
Resistin Gây ra sự đề kháng insulin
protein trong cơ thể
Hormone tụy
Cũng được gọi là amyloid
polypeptide (IAPP) cách biệt,
sản xuất bởi tế bào β của tuyến
37 amino acids, liên kết
Amylin tụy, đồng tiết insulin;làm giảm tỉ
disulfide nội mạch
lệ trống gastric, ngăn chặn
lượng thức ăn vào và ngăn chặn
sự việc tiết glucagon sau bữa ăn
sản xuất bởi tế bào β của tuyến
gồm 21 và 30 amino acids tụy , tăng hấp thu và sử dụng
Insulin
disulfide gắn dipeptide glucose, tăng tạo lipid , tác động
đến quá trình đồng hóa.
sản xuất bởi tế bào α tuyến tụy,
polypeptide of 29 amino tăng sử dụng lipid và phân hủy
Glucagon
acids glycogen để làm tăng mức
glucose máu.
Pancreatic polypeptide, PP polypeptide gồm 36 amino Tăng phân hủy glycogen, điều
acids hòa hoạt động dạ dày ruột.
ức chế giải phóng glucagon và
Somatostatin 14 amino acid version
somatotropin.
Hormone gan
polypeptide gồm 8 amino
acids dẫn xuất từ
angiotensinogen (hiện diện
trong mảnh nhỏ α2-
globulin ở tương bào)
được tách ra bởi enzym Chịu trách nhiệm trên sự tăng
renin ở thận để tạo ra huyết áp thông qua kích thích
Angiotensin II decapeptide, angiotensin I, tổng hợp và giải phóng
2 amino acids đầu C sau aldosterone từ tế bào thượng
đó cũng được giải phóng ( thận
bởi hoạt động của enzyme
chuyển đổi angiotensin (
angiotensin-converting
enzym , ACE) to sản sinh
angiotensin II
Kidney Hormones
Có trách nhiệm duy trì cân bằng
dẫn xuất từ 7- calci và phospho nội môi, tăng
Calcitriol [1,25-(OH)2-vitamin D3]
dehydrocholesterol đưa Ca2+ vào ruột, điều hòa
chất khoáng trong xương.
Hormone tim
được giải phóng từ tâm nhĩ của
một vài peptides hoạt tim để đáp ứng lại việc giảm
động được tách ra từ một dung lượng máu, hoạt động trên
Atrial natriuretic peptide (ANP)
tiền protein gồm 126 tế bào vỏ thượng thận làm giảm
amino acid sản xuất aldosterone, giãn cơ
trơn.
Hormone tuyến tùng
N-acetyl-5- điều hòa các chuỗi sự kiện xuất
Melatonin
methoxytryptamine hiện 1 lần trong ngày.
Hình 31.2: vị trí tác động tại thụ thể nội bào của steroid hormone. Steroid hormone xâm nhập tế
bào xuyên qua hai lớp phospholipid, gắn với thụ thể lưu hành nội bào và chịu tác động của quá
trình chaperon, phức hợp SH+thụ thể gắn vào một đoạn DNA là gen mã hóa của một protein,
chuyển mã tạo mRNA, dịch mã tạo thành protein đặc hiệu.
Hình 31.3: cơ chế tác động của hai loại hormone có thụ thể lưu hành nội bào. Thụ thể steroid
hormone chịu quá trình chaperon trong khi thụ thể thyroid hormone & Retinoids không qua quá
trình này. HSP: heat shock protein, HRE: hormone response elelment, RX: retinoid bất kỳ nào đó.
Như vậy hiệu ứng sinh học của hormone chỉ bộc lộ khi tương tác với thụ thể của nó ở mô đích, để
đạt được hiệu quả này hormone và đối tác của nó (thụ thể, lộ trình tín hiệu) phải thỏa đáp những
điều kiện sau:1) hormone toàn vẹn hoặc có biến đổi cấu trúc trong quá trình biểu hiện nhưng biến
đổi đó không làm hormone mất tính chất gắn kết được với thụ thể, 2) thụ thể phải tiếp nhận được
hormone (ligand), 3) không có đột biến bất kỳ gen mã hóa protein nào của lộ trình tín hiệu.
Hình 31.6: phương thức tác động khác biệt lên thùy trước và sau tuyến yên. Các cung phản hồi âm
được chia thành 3 loại, cung phản hồi âm dài (long feedback loop): Do hormone tác động ức chế
lên vỏ não; cung phản hồi âm nhanh (fast feedback loop) do hormone tác động ức chế lên vùng hạ
đồi và cung phản hồi âm ngắn (short feedback loop) do hormone của thùy trước tuyến yên tác động
ức chế lên vùng hạ đồi.
Vỏ não còn có thể điều tiết hoạt động nội tiết ở vùng hạ đổi qua cơ chế điện thế động có nghĩa là
tạo ra một điện thế cho Ca2+ nhập bào gây phóng thích neurotransmitters của hệ thần kinh trung
ương như Ach, Noradrenaline, Dopamine, serotonine, histamine, neuropeptide Y và glutamate.
Như vậy, thông tin nhập của hệ nội tiết rất đa dạng và các vòng kiểm soát phản hồi có thể được bật
cò từ những lý do tâm lý có nguồn gốc từ những xung động của vùng vỏ não trước trán (prefrontal
cortex) hoặc có thể được khởi động trong những cơn động kinh khi các xung động được phóng lên
vỏ não từ các tổ chức dưới vỏ như cấu trúc lưới hay thalamus. Cả trong trường hợp stress hay động
kinh không chỉ là biểu hiện bằng những triệu chứng tâm thể hoặc co giật mà còn là một sự rối loạn
sâu sắc về mặt nội tiết.
Hình 31.7: Minh họa sự điều tiết trục hạ đồi - tuyến yên-growth hormone. Growth hormone (GH)
chế tiết từ tuyến yên dưới sự kích thích của Growth hormone–releasing hormone (GHRH) và ức
chế bởi somatostatin (SRIF-somatotropin releasing inhibiting factor). Kiểm soát ức chế phản hồi
âm trên sự chế tiết GH tiến hành ở tuyến yên do insulin-like growth factor loại 1 (IGF-1) và acid
béo tự do (FFA) đảm nhận. GH tạo nên cung phản hồi âm ngắn thông qua sự hoạt hóa neuron SRIF
trong nhân quanh hạ đồi (hypothalamic periventricular nucleus). Những neuron SRIF này có khớp
nối trực tiếp với các neuron GHRH trong nhân cung và chiếu các trục ngang vào median eminence.
Những neuron chứa Neuropeptide Y (NPY) trong nhân cung điều biến trực tiếp sự phóng thích GH
bằng cách tích hợp các tín hiệu nhập như nồng độ GH ngoại vi, leptin, và ghrelin và phóng chiếu
đến các neuron SRIF ở vùng quanh não thất. Ghrelin được chế tiết từ dạ dày được cho là một
ligand tự nhiên cho thụ thể kích thích sự chế tiết GH (GH secretagogue) ở cả hạ đồi lẫn tuyến yên.
Căn cứ trên những dữ kiện dược lý gián tiếp, phóng thích GHRH còn được kích thích bởi galanin,
γ-aminobutyric acid (GABA), α 2-adrenergic , và đường dopaminergic nhập và ức chế bởi
somatostatin. Chế tiết somatostatin bị ức chế do ligand của các thụ thể muscarinic của
cetylcholine(Ach) và thụ thể 5-HT-1d và gia tăng do kích thích thụ thể β2-adrenergic và
corticotropin-releasing hormone(CRH). CNS, central nervous system; DA,dopamine; 5-
HT,serotonin.(William’s textbook of endocrinology,12nd edition)
Vùng hạ đồi điều tiết các hoạt động nội tiết của tuyến yên theo hai phương thức khác biệt: 1) tại
thùy trước các neron hạ đồi phóng thích những chất hóa học trung gian thường được gọi là
releasing hormones (peptide hormone) các chất hóa học này làm phóng thích những hormone được
tổng hợp trong các tế bào tuyến ở thùy trước tuyến yên. 2) ở thùy sau tuyến yên các neuron chuyển
vận các nội tiết tố đã được tổng hợp trong các túi tồn trữ dọc theo trục thần kinh và phóng thích vào
mạng mao mạch. Sự khác biệt ở nguồn gốc phôi và cách tác động lên tuyến yên là nguyên nhân tạo
ra tên gọi của thùy trước và thùy sau tuyến yên: adenohypophysis và neurohypophysis.
Tất cả những cung điều tiết phức tạp của hạ đồi - tuyến yên - tuyến nội tiết ngoại vi đều có thể triển
khai từ sơ đồ đơn giản trên. Vấn đề còn lại là thêm thắt những chi tiết đặc thù của từng đường điều
tiết cụ thể. Bất kỳ một cung điều tiết nào cũng có 2 yếu tố chủ chốt:1) các phần tử nội tại của cung
điều tiết.2) các thông tin điều biến ngoại lai.
Hormone còn là những phân tử tín hiệu (signaling molecules) trong đó ngoài vai trò chuyển hóa
còn đảm nhận thêm vai trò của yếu tố tăng trưởng (growth factor), vai trò hormone hoạt động theo
cách endocrine trong khi vai trò yếu tố tăng trưởng theo cách paracrine (xem thêm trong bài liên
lạc tế bào). Với hai vai trò khác nhau này một hormone hoạt hóa các lộ trình tín hiệu khác nhau: 1.
Khởi động một hay nhiều lộ trình tín hiệu để cho đáp ứng sinh học của tế bào (hormone). 2. Hoạt
động như những transcription factor để tạo ra những protein đặc hiệu tại một mô cụ thể nào đó
(growth factor chẳng hạn). Tác động của một hormone nào đó không do tự thân nó quyết định mà
do mô đích của nó biểu hiện loại thụ thể nào và khởi động lộ trình tín hiệu nào. Nhận thức này có
thể khó hiểu hay thậm chí vô nghĩa nếu quan niệm một cách “hẹp hòi”, thí dụ như insulin để
chuyển hóa năng lượng, thật ra insulin còn nhiều chức năng khác như chống hiện tượng apoptosis ở
tế bào cơ tim và tiến trình suy tim đã có tiền đề từ khi xuất hiện kháng insulin chứ không phải đơn
thuần chỉ là hậu quả của bệnh mạch máu trong tiểu đường loại II. Thí dụ khác là IGF-1 một
polypeptide phóng thích chủ yếu từ gan và một số mô khác vào máu (endocrine) kiểm soát sự
phóng thích Growth hormone và tại chổ theo cách paracrine gây tăng sinh tế bào gan. Testosterone
hoạt động endocrine là chuyển hóa nhưng hoạt động paracrine là gây sinh tinh trùng.
Hình 31.8: minh họa chức năng chuyển hóa và sinh tinh trùng.
Hình 31.9: Minh họa sự tổng hợp polypeptide hormone trong tế bào.
Tiến trình tổng hợp polypeptide hormones. Bước đầu tiên để có thể cho RNA polymerase tiếp cận
với DNA phải có cự tách rời chuỗi DNA quấn chặt vào phức hợp histone (nucleosome), để có thể
thực hiện bước này cần enzyme Histone Acetyl Transferase (HAT). Sự giải xoắn DNA là bước điều
biến quan trọng của hiện tượng epigenetic. Khi đã tiếp cận được với DNA ARN polymerase thục
hiện sự chuyển mã (transcription) mRNA non (mRNA precursor), mRNA non sẽ được loại trừ
những đoạn RNA không mã hóa sau đó nối các đoạn RNA mã hóa lại, tiến trình này gọi là splicing
hay rejoining. Chỉ sau giai đoạn này mRNA mới thật sự mã hóa cho một peptide sẽ được tạo ra.
Lúc này mRNA được chuyển vận ra khỏi nhân vào bào tương và gắn 7-methyl Guanosine
Triphosphate vào đầu 3’ gọi là mũ (cap) ở đầu 5’ được gắn thêm nhiều phân tử Adenine nên còn
gọi là polyA tail (đuôi nhiều Adenine), các hoạt động hóa học này nhằm bảo vệ mRNA khỏi sự
thủy phân của nuclease. Khi mRNA gắn vào phần 30s của ribosome quá trình dịch mã (translation)
chỉ tổng hợp một đoạn peptide ngắn từ 12-30 aa trong bào tương gọi là chuỗi tín hiệu (signal
sequence) sau đó phức hợp ribosome gắn lên màng của hệ võng nội bào sự tổng hợp peptide tiến
hành trong lòng võng nội bào, chuỗi peptide mới sinh và chuỗi tín hiệu được gọi là preprohormone.
Sau khi hoàn tất quá trình dịch mã, chuỗi polypeptide tách rời khỏi ribosome lúc này được gọi là
prohormone, chỉ khi chuyển sang phần cis của bộ Golgi chuỗi tín hiệu mới được cắt khỏi phần còn
lại của chuỗi peptide hoàn tất được họi là hormone trưởng thành. Tóm lại quá trình biểu hiện của
một hormone có 4 giai đoạn chính:1) giải xoắn DNA mã hóa hormone. 2) chuyển mã DNA thành
mRNA. 3) dịch mã mRNA thành một peptide tương ứng. 4) biến đổi sau dịch mã để trở thành
hormone trưởng thành. Giai đoạn 1 là một tiến trình epigenetic.
Hình 31.10: minh họa 2 cấu hình của preprohomone. Cấu hình 1: một preprohormone đơn giản chỉ
gồm chuỗi tín hiệu sẽ bị cắt bỏ và một chuỗi peptide có hoạt tính sinh học. Cấu hình 2: một
preprohormone với nhiều chuỗi peptide có hoạt tính sinh học gồm chuỗi tín hiệu, chuỗi không hoạt
tính (cryptic), chuỗi cách (spacer) và chuỗi hoạt tính (bioactive).
Hình 31.11: cấu trúc sơ khởi của một số prohormone. Các prohormone cần loại bỏ các đoạn
peptide trắng mới có hoạt tính như proinsulin cần loại bỏ đoạn C gọi là C-peptide đoạn này chỉ xuất
hiện khi có một phân tử insulin hoạt tính hình thành do đó có thể định lượng C-peptide để biết số
lượng thật của insulin vì phân tử C này có thời gian bán hủy lâu hơn insulin.
Như vậy tiến trình epigenetic không có liên quan gì với sự thay đổi trong nội tại một gene nhưng
lại quyết định gene đó có thể được biểu hiện hay không xuyên qua phản ứng acetyl hóa histone do
HAT. Chi tiết về vấn đề này đã đề cập ở chương genetics & epigenetics, lộ trình tín hiệu nội bào.
Hãy cùng nhau chung tay xây dựng cộng đồng Y sinh học của Việt Nam bằng tri
thức khoa học!