Professional Documents
Culture Documents
Môn Đường lối
Môn Đường lối
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình tương tác với hai môi trường tự nhiên và xã hội,
được kế thừa, trao truyền và tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự
khác biệt giữa các cộng đồng, quốc gia, dân tộc”.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hô ̣i, là mục tiêu, đô ̣ng lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính
trị, xã hội.(thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hô ̣i)
-Phân tích quan điểm 1: - Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
+ Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống mà trên đó từng dân tộc thể hiện bản sắc riêng của mình, nó thấm
nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng.
+ Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên
sức sống mạnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt nam vượt qua thác ghềnh, sóng
gió để không ngừng tồn tại và phát triển.
+ Phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để
các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
+ Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn
hóa.
+ Nền kinh tế Việt Nam hôm nay đã có một bước tiến đáng kể không chỉ do
sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế, mà còn do biết phát huy các giá trị
văn hóa.
+ Hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao
bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững
bấy nhiêu.
+ Trong nền kinh tế thị trường văn hóa không chỉ góp phần thúc đẩy người
lao động không ngừng phát huy sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề
mà còn góp phần hạn chế những xu hướng tiêu cực.
+ Văn hóa Việt Nam là tiền đề để đưa đất nước hội nhập sâu hơn, toàn diện
hơn.
+ Văn hóa giúp hạn chế những lối sống dẫn tới cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm
môi trường sinh thái.
+ Văn hóa góp phần cổ vũ lối sống hài hòa thân thiện giữa người với người,
giữa người với thiên nhiên.
+ Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt nam “ dân giàu nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh” chính là mục tiêu văn hóa.
+ Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển
chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với
phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.
+ Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh
và tự tái sinh không bao giờ cạn kiệt.
+ Quốc gia nào có cái vốn con người, “tài nguyên” con người nhiều hơn thì
xã hội đó phát triển hơn và văn hóa là nhân tố trực tiếp tạo dựng và nâng cao
vốn “tài nguyên” con người.
Đơn vị
Cá nhân
Câu 2: “ Tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần )
Phân tích quan điểm của Mác – Lê nin Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng –
tôn giáo (1.5đ)
Phân tích các chính sách tôn giáo cụ thể mà Đảng và Nhà Nước ta đã và đang
thực hiện để chứng minh tính đúng đắn về mặt quan điểm của Đảng (1.5)
Câu 1 : Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng
con người để phát triển văn hóa.Trong xây dựng văn hóa , trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống cao đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,đoàn kết, cần cù, sáng tạo
- Phân tích mối quan hệ giữa con người và sự phát triển văn hóa (1đ) ghi đúng
bài giảng
- Phân tích những giá trị cốt lõi của con người Việt Nam (1,5đ)
-Liên hệ văn kiện ĐH TP lần thứ X, Lần XI để phân tích các phẩm chất tiêu
biểu của con người thành phố Hồ Chí Minh(1,5đ)
NQ Hội nghị lần thứ chín BCH Trung ương Đảng khóa IX về xây dựng và phát
triển văn hóa , con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước 09/06/2014
Câu 1: “…Văn hóa còn… Dân tộc còn|.Văn hóa mất …Dân tộc mất.”
Mở bài :
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm 60 của thế kỷ XX đã nêu rõ quan điểm:
“ Trong sự nghiệp kiến thiết đất nước có bốn lĩnh vực cần phải coi trọng ngang
nhau là kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội”.
Nhấn mạnh tầm quan trọng ngang nhau của văn hóa, kinh tế, chính trị và xã
hội là điểm mới trong Nghị Quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX .
Mục tiêu chung của xây dựng và phát triển văn hóa là “ Xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển toàn diện , hướng đến chân-thiện - mỹ , thấm
nhuần tinh thần dân tộc ,nhân văn, dân chủ và khoa học .Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội ,là sức mạnh nội sinh quan trọng
bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
5 quan điểm lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa,con người Việt Nam trong
tình hình mới (trang 98)
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình tương tác với hai môi trường tự nhiên và xã hội,
được kế thừa, trao truyền và tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự
khác biệt giữa các cộng đồng, quốc gia, dân tộc”.
- Phân tích vai trò nền tảng tinh thần xã hội của văn hóa để làm sáng tỏ ý nghĩa
“đề bài ” thông qua phân tích 3 chức năng :
- Phân tích mối liên hệ giữa nhân dân với sự nghiệp bảo vệ nền văn hóa dân tộc
(1.5đ)
- Phân tích Quan điểm thứ 5:Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của
toàn dân do Đảng lãnh đạo , Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo,
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
Giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa không chỉ là sức đề kháng nội sinh chống lại sự đồng
hóa, hình thành nên sức mạnh dân tộc mà còn lan tỏa giá trị ra thế giới.
Tái hiện hình ảnh Hội quân trên sông Lục Đầu tại Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. (Ảnh
minh họa).
1. GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH QUỐC GIA
Có một thực tế rất lạ là ai cũng nhìn thấy được, nhận thức được vai trò to lớn của
văn hóa, đặc biệt là giới khoa học, văn hóa văn nghệ, chính khách... nhưng trong
ứng xử lại thiếu công bằng so với kinh tế và chính trị. Chúng ta thường khẳng định
rất mạnh mẽ rằng: Văn hóa còn thì dân tộc còn, mất văn hóa là mất dân tộc; văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nhưng đầu tư cho văn hóa rất ít ỏi so với nhiều
ngành khác. Khi sự băng hoại, suy thoái văn hóa, đạo đức xuất hiện và tạo ra những
lỗ hổng tinh thần đáng sợ, một số người co lại, chạy trốn, một số người đổ lỗi cho
kinh tế thị trường, cho “thế lực thù địch”, mà không biết rằng, hệ quả ấy có nguồn
cơn từ quá trình mải mê, chạy đuổi, xô đẩy vì ham muốn danh lợi và vật chất.
Một nghìn năm Bắc thuộc, chúng ta bị xâm lược, bị đô hộ nhưng chúng ta không
mất nước vì văn hóa dân tộc, nền tảng tinh thần của Việt Nam không bị đồng hóa.
Chính sức mạnh văn hóa, sức mạnh tinh thần, lòng tự tôn dân tộc, chủ nghĩa yêu
nước, nghĩa là sự mềm dẻo của văn hóa đã làm nên sức mạnh chính trị quốc gia.
Văn hóa có thể được phân chia thành văn hóa vật thể/hữu thể và văn hóa phi vật
thể/vô thể như là thao tác tất yếu của khoa học, nhưng nếu chúng ta bị hình thức
siêu hình này chi phối thì vô tình đã không hiểu giá trị, sức mạnh mềm của văn hóa.
Nhiều khi chúng ta tự hào, đầu tư, quảng bá rất nhiều cho hệ thống di tích, di sản
văn hóa (văn hóa vật thể), thậm chí làm mới nhiều công trình đồ sộ tốn hàng ngàn tỷ
đồng, điều đó là đúng nhưng lại vô tình lãng quên đầu tư con người, khơi dậy con
người Việt Nam lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, lòng yêu nước, khoan dung, hòa hiếu
(văn hóa phi vật thể). Chính dòng chảy, mạch nguồn văn hóa phi vật thể mới là sức
sống trường tồn chống lại được sự đồng hóa, đồng thời làm nên sức mạnh mềm
của quốc gia trong quá khứ và tương lai.
Trước đây, Việt Nam là quốc gia bị đô hộ không có tiếng nói trên trường quốc tế.
Sau khi giành độc lập, thống nhất đất nước, “Nước Việt Nam từ máu lửa /Rũ bùn
đứng dậy sáng lòa!” (Thơ Nguyễn Đình Thi). Tuy nhiên, lúc bấy giờ, thế giới biết
đến Việt Nam không chỉ có chiến tranh mà còn là văn hóa, con người Việt Nam,
GS.Joseph Nye, với học thuyết về “sức mạnh mềm” đã nói về Việt Nam rằng: Thực
chất, Việt Nam đã chiến thắng trong hai cuộc chiến với hai đế quốc lớn trong thế kỷ
XX nhờ nhiều vào “sức mạnh mềm”. Mặc dù đối phương có vũ khí và tiền bạc vượt
trội, Việt Nam đã vượt qua và nhận được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nhờ “vũ khí
mềm” là chính nghĩa, khát vọng độc lập thống nhất và lòng yêu nước.
Giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa không chỉ là sức đề kháng nội sinh chống lại sự
đồng hóa, hình thành nên sức mạnh dân tộc mà còn lan tỏa giá trị ra thế giới. Văn
hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã từng bước củng cố trong lòng nhân
loại. GS. Joseph Nye từng thừa nhận rằng: Việt Nam có tiềm năng về sức mạnh
mềm. Đất nước các bạn có một câu chuyện rất hấp dẫn trong lịch sử, sự dũng cảm
của con người cũng như văn hóa Việt Nam. Nếu Việt Nam có thể vẽ hình ảnh của
mình trong lòng các quốc gia khác như thế, các bạn có nhiều sức thu hút, nhiều sức
mạnh mềm với các quốc gia khác(1). Đặc biệt, năm 2017, chúng ta tổ chức thành
công APEC tại Đà Nẵng và đầu năm 2018 chúng ta tổ chức thành công Hội nghị
thượng đỉnh Mỹ - Triều đã làm cho giá trị văn hóa Việt Nam lại tiếp tục lan tỏa ra với
thế giới, Việt Nam ngày càng gần gũi, ấn tượng hơn trong trong lòng bạn bè quốc
tế. Bên lề các điễn đàn và hội nghị quan trọng về kinh tế, chính trị diễn ra giữa các
bên, nhiều chương trình tham quan, khám phá văn hóa, con người Việt Nam được
tổ chức và nhận được những tình cảm đặc biệt từ các vị quan khách, các đoàn đại
biểu và phóng viên quốc tế. Theo thống kê có khoảng 2.600 phóng viên quốc tế có
mặt tại Việt Nam để đưa tin về sự kiện Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều. Hình ảnh
con người Việt Nam thân thiện, mến khách, bao dung; đất nước Việt Nam hòa bình,
ổn định, an toàn, kinh tế phát triển, văn hóa đa dạng đã để lại thiện cảm trong lòng
bạn bè quốc tế. Như vậy, thông qua con đường giao lưu, những hoạt động kinh tế,
chính trị để lại giá trị, mang lại giá trị chính là văn hóa.
2. PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM QUỐC GIA TỪ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC
Sức mạnh của một quốc gia không chỉ có từ kinh tế, chính trị, ngoại giao... mà còn
ở văn hóa, bởi lẽ văn hóa có thể thay đổi từ ghét đến yêu, từ sợ đến thích. Chính sự
lan tỏa của giá trị văn hóa làm cho thế giới thay đổi quan niệm về Việt Nam, biết đến
Việt Nam không chỉ là đất nước từng thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà còn
nhìn thấy con người Việt Nam hiếu khách, bao dung, tha thứ và lạc quan. Con
người, văn hóa Việt Nam từng bước lan tỏa ra thế giới từ quá trình giao lưu và hòa
nhập, đặc biệt là từ khi đổi mới cho đến nay.
Dưới góc độ con người, vấn đề văn hóa và chính trị lại càng không thể chia tách.
Thiết nghĩ sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, dân tộc thường được quyết
định, lựa chọn bởi một tập thể lãnh đạo, đôi khi là một cá nhân trong những thời
khắc nhất định. Chính vì vậy mà giới lãnh đạo là những người cần và có nhiều văn
hóa hơn bao giờ hết. Không phải ngẫu nhiên mà trước đây Platon từng cho rằng
chính trị là nghề đáng được tôn vinh nhất. Vì vậy khái niệm văn hóa chính trị không
chỉ dừng lại ở hệ tư tưởng, ở những quyết sách, chủ trương mà còn thể hiện cụ thể
trong từng con người lãnh đạo cụ thể, nói đúng hơn là nhân cách lãnh đạo, nhân
cách chính trị. Những người làm kinh tế hay các lĩnh vực khác nếu thiếu văn hóa sẽ
gây tổn hại đến xã hội nhưng những người làm chính trị mà lại thiếu vắng văn hóa
thì lại càng nguy hại hơn bao giờ hết. Đó là những bước ngoặt mà lợi ích quốc gia
sẽ bị đánh mất, Tổ quốc có thể bị lâm nguy nếu như người lãnh đạo chỉ thu vén cho
lợi ích của riêng mình. Chính vì vậy, trong bất cứ thời điểm nào, thời đại nào cũng
phải xây dựng sức mạnh quốc gia từ sức đề kháng dân tộc, từ yếu tố nội sinh, bản
sắc văn hóa. Phải luôn nhận thức và triển khai tôn chỉ “Văn hóa soi đường cho quốc
dân đi”.
Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa với sức mạnh quốc gia cũng là mối
quan hệ giữa chính trị và văn hóa. Trong lịch sử nhân loại cũng như Việt
Nam, không có đảng cầm quyền nào, chế độ nào, nhân vật lịch sử nào
giành được chính quyền và lãnh đạo đất nước mà không lấy tinh thần
dân tộc, giá trị văn hóa làm chỗ dựa vững chắc. Ngược lại, nếu xa rời
dân tộc, bỏ rơi văn hóa cũng đồng nghĩa với việc làm suy yếu sức mạnh
quốc gia, dẫn đến đánh mất vai trò lãnh đạo, dẫn dắt đất nước.
Lan tỏa giá trị văn hóa ra với thế giới bằng nhiều hình thức trong đó có ngoại giao
văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng để phát huy sức mạnh mềm của
văn hóa Việt Nam. Đây là con đường “chính ngạch” chứ thực chất văn hóa có thể
tìm thấy được sức mạnh của mình qua rất nhiều hình thức khác như thông qua giao
lưu về tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật... Trong thực tế, các phương tiện của sức
mạnh mềm, đặc biệt là văn hóa không hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của chính
phủ. Chính phủ chỉ điều hành về mặt chính sách, nhưng văn hóa và các giá trị lại
bao trùm trong xã hội dân sự. Sức mạnh mềm trông có vẻ ít rủi ro hơn sức mạnh
kinh tế và quân sự, nhưng vận dụng nó thường khó khăn hơn, dễ bị tuột khỏi tay, và
rất tốn kém khi muốn tái thiết nó. Khi một chính phủ quan tâm tới các mục tiêu cấu
trúc, hoặc các mục tiêu giá trị chung, chẳng hạn như thúc đẩy dân chủ, nhân quyền,
và tự do, đó có thể là lúc mà sức mạnh mềm còn có sức công phá hơn cả sức mạnh
cứng(2). Tuy nhiên, ngoại giao văn hóa có tính chính thống và được Nhà nước tạo
điều kiện tối đa mọi nguồn lực để văn hóa phát huy được sức mạnh mềm vì sự lớn
mạnh của quốc gia. Ngoại giao văn hóa làm cho quá trình giao lưu không bị tắc
nghẽn và sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam được phát huy hiệu quả thông qua
con đường giao lưu văn hóa.
Những vấn đề trên cho chúng ta nhận diện được vai trò của văn hóa với tư cách là
yếu tố nội sinh, là “sức mạnh mềm” có thể làm thay đổi các quan niệm về giá trị và
tác động mạnh mẽ đến các thể chế chính trị của một quốc gia. Nói cách khác, sức
mạnh của văn hóa trong bối cảnh hiện đại buộc chúng ta phải có sự thay đổi trong
chiến lược ngoại giao nhằm xây dựng được hình ảnh quốc gia, thế mạnh quốc gia,
dân tộc từ ưu thế của văn hóa. Về vấn đề này, có thể nói rằng, quan điểm của Đảng
ta về vai trò của văn hóa thông qua kế thừa, hợp tác quốc tế và giao lưu văn hóa là
luôn luôn nhất quán. Chính vì vậy mà vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
được khẳng định một cách chắc chắn thông qua con đường văn hóa. Phát huy
những thành tựu đó, thiết nghĩ trong thời gian sắp tới cần tiếp tục triển khai mạnh
mẽ một số giải pháp sau:
Thứ nhất là thông qua mọi con đường giao lưu, hợp tác trên mọi lĩnh vực cũng như
mọi hình thức, phương tiện thông tin, truyền thông để quảng bá, giới thiệu, đưa văn
hóa, các giá trị văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.
Các giá trị văn hóa Việt Nam được giới thiệu hiển nhiên là trống đồng Đông Sơn,
nón lá áo dài, tuồng, chèo, cải lương hay các di sản văn hóa thế giới như Huế, Hội
An, Mỹ Sơn, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian cồng chiêng Tây Nguyên, Quan
họ Bắc Ninh, tín ngưỡng vua Hùng… nhưng nếu cứng nhắc kiểu hành chính hóa sẽ
không phát huy được sức mạnh mềm của văn hóa. Mặt khác, hợp tác quốc tế và
giao lưu văn hóa không đóng khung trong một vài hoạt động như nghệ thuật mà
phải đa dạng, thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ những hành vi
nhỏ nhất như lối sống, phong tục tập quán, ẩm thực, trang phục… đến những lĩnh
vực trong chiều sâu tâm thức, triết lý sống của người Việt Nam hay quan trọng và
nhạy cảm như văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa tôn giáo, văn hóa truyền
thông, văn hóa báo chí...
Thứ hai là phải sáng tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa mới có giá trị trên nền tảng văn
hóa truyền thống Việt Nam.
Đây là vấn đề sống còn thể hiện được “sức mạnh mềm”, sự lan tỏa của văn hóa.
Thực tế cho thấy, năm 1912, thị trưởng Tokyo, Yukio Ozaki đã có một sự sáng tạo
độc đáo là gửi tặng thủ đô Washington 3.000 cây anh đào (quốc hoa của Nhật Bản)
không chỉ như một món quà thể hiện tình hữu nghị giữa hai đất nước mà là cách
“xuất khẩu” văn hóa của Nhật Bản. Phim ảnh và âm nhạc Hàn Quốc đã làm cho
người Việt Nam từ mọi lứa tuổi yêu con người Hàn Quốc hơn và dần dần làm quên
đi sự dã man của lính Đại Hàn một thời ở Việt Nam. Sức mạnh mềm của văn hóa có
thể làm cho ghét trở thành yêu. Đó là một quá trình chuyển hóa, chuyển biến đầy ắp
sự tinh tế, thâm sâu trong quá trình thay đổi nhận thức con người và hình thành tâm
thức dân tộc.
Sáng tạo là một sự đòi hỏi sống còn nhưng sáng tạo đó phải có giá trị và
dựa trên nền tảng văn hóa, tâm thức văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam
không thể ngủ quên trong di sản truyền thống nhưng cũng nên cảnh giác
với sự “đua đòi”.
Sáng tạo là một sự đòi hỏi sống còn nhưng sáng tạo đó phải có giá trị và dựa trên
nền tảng văn hóa, tâm thức văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam không thể ngủ
quên trong di sản truyền thống nhưng cũng nên cảnh giác với sự “đua đòi” làm
nên kỷ lục như kiểu phương Tây. Tại sao các thế hệ con cháu Việt Nam không
nâng tầm “kho tàng dưa món Việt Nam” lên như kim chi của Hàn Quốc mà thích
lập ra các kỷ lục to tát để làm gì? Gần đây, ở nước ta phát triển phong trào “xây
chùa to, tượng Phật lớn”, một số chùa có cơ sở 1, cơ sở 2… như nhà hàng. Đi
liền với hiện tượng đó là những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có tính chất mê tín
dị đoan, trục lợi, thương mại hóa. Trong thực tế chính trị hóa hay kinh tế hóa nhà
chùa chưa chắc có thể phát huy được sức mạnh mềm của văn hóa và ngược lại
giá trị văn hóa khi đã đi vào lòng người có thể thúc đẩy hoạt động chính trị, kinh tế
phát triển bền vững.
Thứ ba là phải tăng cường hơn nữa việc giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc, của đất nước, con người, danh nhân văn hóa Việt Nam, đồng thời
phải đi liền với việc thông qua các phương tiện chuyển tải văn hóa kiên quyết chống
lại những biểu hiện phản văn hóa, lai căng, mất gốc, sùng ngoại... Trong vấn đề này,
vai trò của báo chí truyền thông và đạo đức nghề báo là hết sức quan trọng trong
hành trình “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”. Hiện nay, một số báo điện tử câu khách đã
đưa những tin nóng có nội dung sex và bạo lực đã tác động tiêu cực đến nhân cách
và lối sống, đặc biệt là đối với đối tượng thanh thiếu niên... Mặt khác, văn nghệ sĩ
Việt Nam và những nhà sản xuất phim ảnh, ca nhạc cần thể hiện tinh thần dân tộc,
lòng tự trọng dân tộc khi sáng tạo và sản xuất ra những tác phẩm văn hóa nghệ
thuật có sức lan tỏa giá trị con người và văn hóa Việt Nam ra với thế giới. Nhà nước
cần hỗ trợ, đầu tư, tài trợ mạnh mẽ cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, cho các
tác phẩm văn hóa mang bản sắc dân tộc và xem đó như là loại hàng hóa xuất khẩu
đặc biệt làm nên giá trị Việt Nam trên trường quốc tế. Có như vậy chúng ta mới phát
huy được “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu và hội
nhập hiện nay./.
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa
Phó Giám đốc Học viện Chính trị Khu vực III
Kết luận của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-
NQ/TW xây dựng phát triển văn hóa, con người
Bộ Chính trị ban hành Kết luận 76-KL/TW ngày 04/6/2020 về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về
xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
>> Chính thức cho mở lại dịch vụ karaoke, vũ trường
>> Kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động COVID-19 để phục
hồi và phát triển nền kinh tế
Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa
trong thời kỳ đổi mới
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đề ra quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp cơ
bản cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
* Quan điểm: 5
1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học.
3) Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
4) Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng
đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và
con người trong phát triển.
5) Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
*Nhiệm vụ:6
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa.
5. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.
6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
* Giải pháp:4
1. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa.
2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa.
4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.
Đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, Nghị quyết khẳng định: Coi
trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công
tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở... Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn
hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế... Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các
dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam
phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
“Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”” 2.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã chỉ rõ:
"Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển"3.
Chiến lược phát triển văn hóa cũng đã chỉ rõ các nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động
văn hóa: nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm; xuất bản, in và phát
hành xuất bản phẩm; thư viện; bảo tàng, di tích và văn hóa phi vật thể; văn hóa cơ sở; nghiên
cứu khoa học về văn hóa nghệ thuật; quyền tác giả và quyền liên quan.
Có thể thấy rằng, quan điểm mới của Đảng về vai trò của văn hóa là “sức mạnh nội sinh của
phát triển”. Sức mạnh nội sinh ấy từ mọi nguồn lực của đất nước trong đó nguồn lực văn hóa là
vô cùng quan trọng, là nền tảng bền vững cho sự phát triển.
Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng
10:03 SA, 26/02/2021
(Chinhphu.vn) - Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 25/01/2021 đến
ngày 01/02/2021, tại Thủ đô Hà Nội, sau khi thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XII trình,
QUYẾT NGHỊ
I- Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và
đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công
cuộc đổi mới; định hướng phát triển và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời
gian tới nêu trong các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII trình Đại hội. Cụ
thể là:
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là
tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch COVID-19; toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân đã đoàn kết, chung sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều
dấu ấn nổi bật. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức
khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Các lĩnh vực xã hội,
môi trường có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển khai toàn diện,
đồng bộ, hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và
"chống", có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam không ngừng được củng cố vững mạnh. Công tác lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường, mối quan hệ phối hợp
ngày càng chặt chẽ, đồng bộ. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được
củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích
quốc gia, dân tộc; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch
COVID-19 gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, song nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, đất
nước ta đã từng bước kiểm soát có hiệu quả đại dịch COVID-19; từng bước phục hồi sản xuất,
kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định đời sống nhân dân; góp phần củng cố,
tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng
định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta.
Những thành tựu đạt được 5 năm qua là kết tinh sức sáng tạo của quá trình phấn đấu liên tục,
bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới. Đạt được những
thành tựu nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân bao trùm và quan trọng nhất là
sự đoàn kết, thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, có hiệu quả của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện
toàn diện, đồng bộ Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các
cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp; sự tham gia tích cực và có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội; sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh
thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng
lớp nhân dân; sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn
bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ
phận nhân dân còn khó khăn. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với
biến đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn
chế. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được
quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt
chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 đã tạo những tiến bộ quan trọng cả về nhận thức lý
luận và tổ chức thực hiện, khẳng định những giá trị to lớn của Cương lĩnh, tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Kinh tế, văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và việc tạo nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Công cuộc đổi mới và tình hình quốc tế tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần
phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới,
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và
từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế
được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu
của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt,
trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát
triển của thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp,
Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh".
Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn,
thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết
một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời
diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp
tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của
quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước
vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững; quyết tâm thực hiện thắng lợi các quan điểm,
mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển
nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền
tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam,
bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng
dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát
triển nhanh và bền vững.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích
cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực,
trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết
với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là
nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến
năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD; đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội
bình quân trên 6,5%/năm; tỉ lệ đô thị hoá khoảng 45%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo
trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.
Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%;
tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ
nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân;
tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Về môi trường: Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị
là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm
tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống
xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030:
(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững
về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng
mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền
vững đất nước.
(2) Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tập
trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc
thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế, gắn kết hài hoà, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế.
(3) Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho
tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế
giới.
(4) Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và
điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm
tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
(5) Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội
lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân
số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu
nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
(6) Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai,
dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy
bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những
dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học
và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
(7) Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính
trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng
xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa;
phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến;
đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(8) Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
(9) Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản
của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của
nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
(10) Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt
kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
(11) Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người
đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng,
lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng.
(12) Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng
cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần
chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội
ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng
lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước,
chế độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin COVID-19 cho cộng đồng;
phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ,
hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các
thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh
nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực,
tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là
pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm
nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.
(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên
hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước.
(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có
chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội,
bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã
hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc
của con người Việt Nam.
(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính
trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường;
chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt.
(1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu
quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng
cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân
cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực
bằng hệ thống pháp luật.
(2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo
bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế
tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát
triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự
hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát
triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú
trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước
phát triển kinh tế số, xã hội số.
II- Thông qua Báo cáo chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030,
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Giao Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XIII căn cứ Báo cáo giải trình của Đoàn Chủ tịch Đại hội, kết quả biểu
quyết để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
III- Thông qua Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban
Chấp Trung ương khoá XII; đồng ý không sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng hiện hành. Giao Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII chỉ đạo nghiên cứu, tiếp thu để điều chỉnh thông qua các
quy định, hướng dẫn của Trung ương; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm
chỉnh, thống nhất Điều lệ trong toàn Đảng.
IV- Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XII trình Đại hội XIII. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tiếp thu ý kiến của
Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
V- Đại hội đồng ý đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XII tái cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khoá XIII để bầu giữ chức Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII.
VI- Thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII gồm 200 đồng chí, trong
đó có 180 đồng chí Uỷ viên Trung ương chính thức, 20 đồng chí Uỷ viên Trung ương dự khuyết.
VII- Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII và các cấp uỷ, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo
cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và những chủ trương nêu trong các văn kiện
Đại hội XIII.
Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở trong nước và nước ngoài phát
huy mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, giá trị văn hoá, khát vọng phát triển đất nước, sức mạnh con người Việt Nam,
vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội để đất
nước ta phát triển nhanh, bền vững hơn, lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam
phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành
công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta.