Professional Documents
Culture Documents
SDH
STM-N = N.STM-1
Tốc độ bit của các tín hiệu ghép bằng một số nguyên với tốc độ bit cơ bản STM-1.
TRM có thể ghép các luồng nhánh thành các nguồn tổng hoặc ngược lại.
chính xác, nhưng vẫn có sự khác nhau giữa hai loại. Điều này gọi là sự sai khác cận đồng bộ.
Trong trường hợp mạng không đồng bộ, sự chuyển giao tín hiệu không nhất thiết phải xảy ra
ở cùng tốc độ. Trong trường hợp này, không đồng bộ có nghĩa là sai khác giữa hai đồng hồ lớn
hơn sai khác cận đồng bộ. Ví dụ, nếu hai đồng hồ lấy từ dao động thạch anh tự do, chúng được
gọi là không đồng bộ. Phân cấp số cận đồng bộ SDH và mạng quang đồng bộ SONET chỉ một
tập hợp các tốc độ truyền dẫn bằng cáp sợi quang có thể truyền tải tín hiệu số với dung lượng
khác nhau.
Người ta chấp nhận rộng rãi rằng một phương thức ghép kênh mới có thể được đồng bộ và
không chỉ dựa trên việc chèn bit, gọi là PDH, mà còn dựa trên việc chèn byte, là các cấu trúc
ghép kênh từ 64kbit/s đến tốc độ cơ sở 1,544kbit/s (1,5Mbit/s) và 2,048kbit/s (2Mbit/s).
SDH được định nghĩa bởi Viện tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu (ETSI), được sử dụng
ở rất nhiều nước trên thế giới. Nhật Bản và Bắc Mỹ cũng xây dựng các tiêu chuẩn về SDH
riêng. SONET do Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ phát triển và được ứng dụng ở Bắc Mỹ.
2.2. Các tiêu chuẩn SDH
Tiêu chuẩn mới xuất hiện lần đầu tiên là SONET do công ty Bellcore (Mỹ) đưa ra, được
chỉnh sửa nhiều lần trước khi trở thành tiêu chẩn SDH quốc tế. Cả SDH và SONET được giới
thiệu rộng rãi giữa những năm 1988 và 1992. SDH được định nghĩa bởi Viện tiêu chuẩn viễn
thông Châu Âu (ETSI), được sử dụng ở rất nhiều nước trên thế giới. Nhật Bản và Bắc Mỹ cũng
xây dựng các tiêu chuẩn về SDH riêng. SONET do Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ phát triển
và được ứng dụng ở Bắc Mỹ.
Bảng dưới đây thể hiện các tốc độ tiêu chuẩn của SDH và SONET.
Mặc dù SONET và SDH được đưa ra ban đầu cho truyền dẫn cáp quang, nhưng các hệ thống
SDH hiện tại vẫn tương thích cao với cả SDH và SONET.
Tốc độ Tín
Dung lượng Dung lượng
Tín hiệu SONET bit hiệu
SONET SDH
(Mbit/s) SDH
STS-1, OC-1 51,840 STM-0 28DS1, hoặc 1 DS-3 21E1
STS-3, OC-3 155,520 STM-1 84DS-1, hoặc 3DS-3 63E1, hoặc 1E4
STS-12, OC-12 622,080 STM-4 336DS-1, hoặc12DS-3 252E1, hoặc 4E4
1008E1, hoặc
STS-48, OC-48 2488,320 STM-16 1344DS-1, hoặc 48DS-3 16E4
4032E1, hoặc
STS-192, OC-192 9953,280 STM-64 5376DS-1, hoặc 192DS-3 64E4
Các chữ số trong hình này liên quan đến các tốc độ truyền dẫn cận đồng bộ như sau:
Chữ số đầu tiên đại diện cho mức phân cấp truyền dẫn như quy định trong G702-"Tốc độ bit của
các cấp truyền dẫn số", và chữ số thứ hai đặc trưng cho tốc độ thấp hơn (1) và cao hơn (2). Còn
chữ số 4 là mức thứ 4, bằng 140 Mbit/s có trong tiêu chuẩn Châu Âu và Bắc Mỹ. Các khối có
ký hiệu và chức năng sau đây:
a. C-n: (n = 1-->4) là các contener: Phần tử này có kích thước đủ để chứa các byte tải trọng
thuộc một trong các luồng cận đồng bộ.
b. VC-n: là các contener ảo:
+ Contener ảo cơ sở (n = 1,2): gồm một C-n (n = 1,2) đơn cộng thêm các byte mang
thông tin điều khiển và giám sát tuyến nối hai VC-n này và gọi là POH.
+ Contener ảo bậc cao hơn VC-n (n = 3,4): gồm một C-n (n = 3,4) đơn và tập hợp các
nhóm khối nhánh (TUG-2S) hoặc một tập của TU-3S cùng với các byte mang thông tin điều
khiển và giám sát tuyến nối hai VC-n và được gọi là POH.
Con trỏ được sử dụng để tìm các phần khác nhau của AU và TU gọi là container ảo
VC. Con trỏ AU xác định ở VC bậc cao hơn và con trỏ TU xác định ở VC bậc thấp hơn. Ví dụ
AU-3 gồm VC-3 cộng với một con trỏ, TU-2 gồm VC-2 cộng với một con trỏ.
Một VC là một thực thể tải chạy trên mạng được tạo ra và hủy đi ở điểm kết cuối dịch
vụ hoặc ở gần điểm đó. Các tín hiệu lưu lượng PDH được ánh xạ tới các container với kích
thước phù hợp với yêu cầu băng thông, sử dụng các bit đơn để bám tốc độ đồng hồ khi cần thiết.
Các POH được thêm vào sau đó cho mục đích quản lý, tạo một VC. Phần mào đầu này được bỏ
đi sau khi VC bị hủy và tín hiệu gốc ban đầu được tái tạo lại. Mỗi tín hiệu PDH được ánh xạ vơi
VC của nó, và các VC với cùng kích thước không đáng kể được ghép lại bằng cách chèn byte
tạo thành tải SDH.
c. TU-n (n = 1,2,3) là khối nhánh: gồm một VC cộng thêm một con trỏ khối nhánh. Con trỏ
khối nhánh chỉ thị sự đồng bộ pha của VC-n đối với POH của VC mức cao hơn tiếp theo.
Con trỏ khối nhánh có vị trí cố định so với POH mức cao hơn.
d. AU-3S (S = 1 hoặc 2) và AU-N (N=4): gồm một VC bậc cao cộng thêm con trỏ khối
quản lý. Con trỏ khối quản lý có vị trí cố định trong khung STM-1 và thể hiện quan hệ
về pha của VC bậc cao hơn.
3.2. Cấu trúc khung STM-1
Khung STM-1 bao gồm 2430 bytes và thường được chia làm hai vùng, tương ứng với 9
hàng x 270 cột. Độ dài khung là 125 s, tương ứng với tần số của khung là 8000 Hz. Tốc độ
truyền dẫn của một byte trong khung là 64 Kbit/s. Khung STM-1 gồm 3 khối:
e. Khối trọng tải Payload
f. Khối con trỏ AU
g. Khối SOH
Các byte trong khung STM-1 được truyền từng hàng một và truyền từ trái sang phải,
bắt đầu từ hàng thứ nhất và cột thứ nhất. Như vậy, sau 9 byte SOH (trừ hàng 4 là 9 byte AU)
là 261 byte tải trọng được truyền xen kẽ.
+ Phần điều khiển SOH: gồm có 8x9 byte, gồm các byte cần thiết cho dịch vụ như
từ mã đồng bộ khung, các byte bổ sung để giám sát, điều khiển và quản lý.
+ Phần trọng tải : các tín hiệu phân nhánh, các tín hiệu POH trong khuyến nghị
G.703 của CCITT từ 2 Mbit/s đến 140 Mbit/s được truyền tải trong cùng tải trọng gồm có
9x261 byte.
+ Phần con trỏ: Quan hệ thời gian giữa trọng tải và khung STM-1 được ghi lại nhờ
con trỏ, ngoài ra nó còn định vị các tín hiệu phân nhánh ở trong khối tải trọng. Do đó, sau
khi diễn giải con trỏ một cách thích hợp thì có khả năng truy nhập tới từng kênh của người
sử dụng độc lập ở bất kỳ thời điểm nào, mà không cần tách luồng STM-1. Con trỏ ở hàng
thứ tư, cột từ 1 --> 9 gọi là con trỏ vùng A, còn con trỏ ở hàng 1-->3 và cột 11-->14 gọi là
con trỏ vùng B. Khung STM-1 có độ dài 125 s, có tần số là 8000 Hz, như vậy được truyền
8000 lần/s. Do đó, tốc độ bit của tín hiệu STM-1 là : 8000 x 9 x 270 x 8 = 155520 kbit/s
Các mức cao hơn STM-N của phân cấp đồng bộ được hình thành bởi cách chèn byte vào
phần tải của N tín hiệu STM-1, thêm các mào đầu gấp N lần mào đầu của STM-1 và lấp đầy với
dữ liệu quản lý và giá trị con trỏ phù hợp.
một đường dự phòng. Các đường dự phòng có thẻ sử dụng cho các lưu lượng có độ ưu tiên thấp
và có thể bị ngắt đi khi đướngự phòng thay thế cho các đường làm việc bị lỗi. Cơ cấu bảo vệ
1+1 và 1:N được tiêu chuẩn hóa trong khuyến nghị G.783 của ITU-T.
Trên hình thể hiện cách thức cơ bản của mạch vòng bảo vệ đơn hướng.
Giả sử có sự gián đoạn thông tin giữa 2 phần tử mạng A và B, hướng Y không bị ảnh hưởng bởi
sự cố này. Tất nhiên, một đường thứ hai được thiết lập cho hướng X. Do đó, kết nối này được
chuyển sang đường thứ hai trong phần tử mạng A và B. Còn hai phần tẻ khác, C và D được
chuyển qua đường dự phòng. Thủ tục này gọi là chuyển đường thẳng. Một cách khác đơn giản
hơn được sử dụng là chuyển vòng. Lưu lượng được truyền trên cả hai đường làm việc và đường
bảo vệ. nếu có sự cố, phía thu (trường hợp này là A) chuyển sang đường bảo vệ và ngay lập tức
duy trì kết nối.
4.2.2. Mạch vòng hai hướng
Trong cấu trúc mạng này, kết nối giữa hai phần tử mạng là hai hướng. Toàn bộ dung
lượng mạng được chia thành nhiều đường, mỗi đường làm việc là hai hướng. Nếu có sự cố giữa
hai phần tử mạng cạnh nhau A và B, B sẽ chuyển sang đường bảo vệ. Có thể mang lại hiệu quả
bảo vệ cao hơn khi dùng mạch vòng bảo vệ hai hướng với 4 sợi cáp, mỗi đôi cáp chạy cả đường
làm việc và đường bảo vệ. Kết quả, ta có cấu trúc bảo vệ 1:1, nghĩa là dự phòng 100%.
Bộ tái tạo
tín hiệu
STM-N
STM-N
Đầu cuối
ghép kênh (TM)
PDH
STM-N
SDH
ADM
STM-N
STM-N
PDH SDH
Các tín hiệu cận đồng bộ và các ín hiệu đồng bộ tốc độ thấp có thể được lấy ra từ các luồng
đồng bộ tốc độ cao hơn, hoặc được chèn vào đó, sử dụng các bộ ADM. Đặc trưng này làm cho
ADM rất hữu ích trong các cấu trúc mạch vòng, tạo các đường bảo vệ trong vòng trong trường
hợp xảy ra sự cố. Tại một nút ADM, chỉ những tín hiệu nào cấn thết để truy nhập mới được
chèn vào / hay rẽ xuống. Phần lưu lượng còn lại tiếp tục được chuyển đi trong mạng mà không
cần một thiết bị đặc biẹt nào khác.
Một số lỗi thường gặp trong quản lý, vận hành mạng truyền dẫn.
7 RFI (Remote Một lỗi xảy ra rất dài khi vượt qua thời gian lớn nhất cho
failure indication) phép của cơ cấu bảo vệ hệ thống truyền dẫn. Khi tình
huống nằy xảy ra, một bản tin RFI sẽ được gửi đến đầu xa
và sẽ khởi tạo chuyển mạch bảo vệ nếu chức năng này đã
được kích hoạt.
KẾT LUẬN
SDH mang lại nhều lợi ích to lớn cho nhà cung cấp mạng:
Tốc độ truyền dẫn cao: Tốc độ truyền dẫn có thể đạt tới 10Gbit/s, do đó phù hợp
với các mạng đường trục, mạng lõi.
Chức năng xen/rẽ kênh đơn giản: so với PDH, SDH dễ dàng chèn các luồng tốc
độ thấp vào luồng tốc độ cao, và cũng như lấy các luồng tốc đọ thấp hơn ra khỏi các
luồng tốc đọ cao hơn.
Khả năng đáp ứng cao và dung lượng phù hợp: với SDH, nhà cung cấp dễ dàng và
nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Các phần tử mạng được quản lý và
điều khiẻn từ trung tâm, sử dụng hệ thống TNM.
Độ tin cậy cao: mạng SDH hiện đại có nhiều cơ chế bảo vệ và dự phòng khác
nhau. Lỗi một phần tử trong mạng không thể gây lỗi toàn bộ hệ thống.
Làm nền tảng của nhiều dịch vụ tương lai: Ngay bây giờ, mạng SDH đã là nền
tảng cho các dịch vụ POTS, ISDN, di động...Nó cũng dề dàng đáp ứng được các dịch
vụ video theo yêu cầu, truyền hình số quảng bá...
Kết nối dễ dàng với các hệ thống khác: Giao diện SDH được tiêu chuẩn hóa toàn
cầu, có thể kết hợp nhiều phần tử khác nhau trong cùng một mạng và tương tác với
các mạng khác dễ dàng.
Sắp tới, công nghệ ghép kênh phân chia theo bước sóng DWDM sẵn sàng được sử dụng thay
thế cho SDH. Công nghệ này có thể truyền nhiều bước sóng trong cùng sợi quang đơn
mode. Hiện tại có thể truyền 16 bước sóng, từ 1520nm đến 1580nm, do đó tốc độ truyền dẫn
có thể đạt tới 40Gbit/s và cao hơn nữa trên một sợi quang. Do đó, có thể nói rằng DWDM là
công nghệ truyền dẫn quang của tương lai.
Hết