You are on page 1of 14

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM

GIỚI THIỆU CHUNG


Tác giả Thạch Lam (1910- 1942): tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường
Lân. Là một trong những cây bút chủ chốt của Tự lực văn đoàn”, có biệt tài về truyện ngắn. Truyện của
ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn.
Tác phẩm “Hai đứa trẻ”: in trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938), có sự hòa quyện giữa hai
yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình, tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn Thạch Lam.
PHÂN TÍCH, CẢM NHẬN
Đặc điểm của truyện: “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đơn giản hầu như không có chuyện.
- Rất khó tìm được ở đây những sự kiện mang tính chất kịch, bi hài như sáng tác của Nguyễn Công Hoan,
những cuộc vật lộn, đau đớn, giằng xé về mặt nội tâm như những trang văn của Nam Cao.
- Đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể
tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện.
- Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm
tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng vụt qua rồi mới
khép cửa hàng đi ngủ.
- Câu chuyện đơn sơ như vậy sẽ làm thất vọng cho những ai muốn đi tìm cốt chuyện giàu kịch tính với
những chi tiết li kì, lắt léo. Tuy nhiên, dưới ngòi bút Thạch Lam, “Hai đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, trái
lại rất ám ảnh, thấm thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha.
1. Một bức tranh chiều quê đầy chất thơ.
a. Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê
hương quen thuộc mà rất thi vị:
+ “Chiều, chiều rồi! Một chiều êm ả như ru”. Lời văn rất nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người
vào thế giới thanh bình của cảnh vật.
+ Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh
động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị “phương Tây đỏ rực…và những đám mây ánh
hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
Giữa những hình ảnh sinh động của cảnh vật vang lên âm thanh “tiếng trống thu không” gọi buổi chiều
xen lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo làn gió nhẹ đưa vào”, “muỗi bắt đầu vo ve”.
+ Chỉ bằng mấy câu văn ngắn gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về khung cảnh êm ả, thị vị mà đượm
buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời.
+ Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không
chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
b. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối
“Hai đứa trẻ” ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực
về đời sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của
Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.
Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng lặng của buổi
chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực và được nhà văn gửi gắm qua cái nhìn
ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ, từ cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố
huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn quanh, bế tắc.
- Mở đầu là khung cảnh ngày tàn:
+ Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng thời gian vốn dễ khơi
dậy nhiều nỗi niềm trong tâm hồn con người.
° Buổi chiều quê lặng lẽ khép lại bằng “tiếng trống thu không” báo hiệu ngày tàn.
° Những ánh sáng yếu ớt của thiên nhiên rồi cũng tắt dần.
+ Thời điểm hoàng hôn đã trở thành khoảng thời gian đặc biệt gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc giao
thoa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống náo nhiệt và sự yên lặng lụi tàn luôn gây cho lòng người nỗi
buồn thấm thía. Xuân Diệu, thi sĩ của những vần thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc cũng
đã hơn một lần cảm thấy
“Không gì buồn bằng những buổi chiều
Mà ánh sáng hoà cùng bóng tối”…
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ”.
b. Cảnh chợ cũng tàn.
- Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở đây dường như được cộng hưởng, được nhân lên với hình ảnh
của một buổi chợ tàn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất
chỉ còn rác rưởi: vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…”. Không khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ
bán đã lắng xuống, chỉ còn lại sự trống vắng quạnh hiu. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn
là cảnh chợ tàn: Khung cảnh “Chợ tết” trong thơ Đoàn Văn Cừ náo nhiệt là thế mà cũng không cứu vãn
được cảnh tàn tạ, hiu hắt, khi:
“Những người quê lũ lượt trở ra về":
"Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”
- Giữa khung cảnh chợ tàn ấy, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị rất riêng của xứ sở. “Cái
mùi cát bụi quen thuộc quá” mà Liên tưởng “là mùi riêng của đất, của quê hương này” chính là mùi vị
quen thuộc của nghèo khổ, lầm than, bế tắc.
(Mở rộng) Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn
ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất Tố…
Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên
nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc.
Bức tranh về kiếp người tàn: Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn
như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung
cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của
những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.
- Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt
nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”. Hình ảnh
những đứa trẻ con ngây thơ cúi đầu tìm kiếm những vật dụng nhỏ nhoi vô nghĩa lý đem lại cho người đọc
cảm nhận: dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh
nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện.
- Đó là chị Tý: “Ban ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước”. Cái cửa hàng của
chị cũng nghèo nàn như cuộc đời của chị. Nó chỉ là một cái chõng tre, một ít đồ đạc điếu đóm, tất thảy
vừa đủ một chuyến đội đầu, xách tay của chị và thằng cu bé “chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào
chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”.
- Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. là thứ
hàng dù ngon nhưng “là một thứ quà xa xỉ” với người dân phố huyện cho nên “bóng bác mênh mang
ngả xuống một vùng và kéo dài đến tận hàng rào”. Sự kéo dài của cái bóng dường như cũng là sự kéo
dài của nỗi buồn, sự bế tắc tàn tạ trong cuộc đời bác.
- Gia đình bác xẩm “Ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt… thằng con bò ra đất,
nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”, thỉnh thoảng “mấy tiếng đàn bầu bật trong yên
lặng” càng gợi lên cảm giác đơn điệu hiu hắt.
- Hai chị em Liên:
+ Với “cái cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy
Liên mất việc”.
+ Hôm nay là phiên chợ “mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì”.
+ Quãng đời ấu thơ ở chốn đô thị náo nhiệt, đầy ánh sáng chỉ là bóng mờ ký ức trong Liên. Chị trở thành
người con gái đảm đang và dường như phải sớm lo toan, già đi trước tuổi.
- Hình ảnh bà cụ Thi nghiện rượu, hơi điên với dáng đi “lảo đảo” lẫn vào bóng tối và “tiếng cười khanh
khách”. Đó có lẽ là tiếng cười duy nhất của các nhân vật trong tuyện. Nhưng tiếng cười ấy không mang
lại cho mọi người cảm giác vui lây. Trái lại, nó gây cho Liên sự sợ hãi. Bởi trong tiếng cười ấy dồn nén,
chất chứa bao nỗi đắng cay, tủi nhục, bế tắc. Vì vậy, bà cụ Thi là hiện thân của kiếp người tàn.
Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam
đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo.
2. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện.
Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê gớm “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”.Bóng tối là hiện thân của sự tù
túng ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh đất nước ta
trước năm 1945 đầy nước mắt:
Cha ông ta từng đấm nát bàn tay trước cánh cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng mà đời im ỉm khóa
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi
(Chế Lan Viên)
Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như
bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số
thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ
tội nghiệp “ mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những
phận người với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Liên thương hết
thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này. Đó chính là chị Tý với cuộc đời cơ cực “mò cua bắt
ốc”, tối đến cùng gánh hàng nghèo xơ xác chỉ với bát nước chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc… tất cả gia
tài mưu sinh bên ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Liên thương bác phở Siêu với gánh phở
xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng thấy bác dọn hàng.Thương bác xẩm với manh chiếu rách tả tơi cùng
chiếc thau trắng trống trơn chưa một niềm hi vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp chuyện bật trong
yên lặng. Thương bà cụ Thi điên đơn chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối… Cuộc sống phố huyện là
như vậy. Đơn điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ ngần ấy chuyện.
(Huy Cận)
Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? May ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối
cùng để ru hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt theo sau
ông thần Nông cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi trẻ con. Nhưng
buồn thay, bầu trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy.
Bởi “vũ trụ bao la và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai đứa trẻ”. Để rồi cuối cùng chính
chúng lại quay về với quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế
trong đêm tối những con người tội nghiệp ngồi chờ đợi một điều gì đó cho sự sống nghèo khổ hằng ngày
của họ.
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn nhưng có nhiều trang rất hiện thực. Bức tranh đời sống
nghèo nói trên là một trong những trang tiêu biểu nhất. Nó đã nói lên được một cách thấm thía và ám ảnh
tình trạng cuộc sống âm u, mòn mỏi, bế tắc của người dân nghèo, đồng thời bày tỏ tấm lòng xót thương
bao la của tác giả đối với những kiếp người sống “tù mù” ấy (chữ dùng của Nguyễn Tuân)
3. Tâm trạng chờ tàu của Liên và An:
`Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía
vào tâm hồn ngây thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác.
Liên hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ tươi sáng trước đây ở Hà Nội .
- Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ quà ngon lạ
như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”.
- Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ
đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm.
Liên chờ đợi tàu - hướng về tương lai , khao khát sự đổi thay.
Và trong bối cảnh của bức tranh phố huyện tối tăm, tù túng, vốn là người có trái tim rất nhạy cảm
nên Liên đã để lại cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện thực ngột ngạt, vươn tới một giấc mơ, một khát
vọng khác với cảnh sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc hiện tại.
Đoàn tàu Từ Hà Nội về đã thực sự là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Họ thức đợi
chuyến tàu vì mưu sinh hay vì lí do nào khác nữa. Tất cả thao thức, đợi chờ như thể đợi chờ một phép
màu sẽ đến.Họ mong bán được chút hàng để gỡ gạc cho cuộc sống ngày mai. Còn riêng hai đứa trẻ,
chúng không thức đợi chuyến tàu để bán hành mà vì lí do khác. Chúng muốn được nhìn thấy đoàn tàu qua
phố huyện vì đoàn tàu như mang một thế giới khác đi qua đủ làm cho chúng rạo rực và ánh lên niềm vui
sướng dù chỉ là trong chốc lát.Vì thế đêm nào cũng vậy dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng cả hai chị em vẫn
cố thức để đợi chuyến tàu. Điều đó cho thấy đoàn tàu là một hình ảnh đã trở thành quen thuộc và ăn sâu
trong tâm hồn hai đứa trẻ và chờ tàu đã trở thành một khát vọng mãnh liệt và là một món ăn tinh thần
không thể thiếu trong cuộc sống của chúng.
Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt.Mới
bảy, tám tuổi mà mẹ bắt trông coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho tới khuya
để chờ bán hàng thì quả là tội nghiệp.Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua phố huyện không
phải là nghe lời mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu. “Tàu đến chị đánh thức em
dậy nhé!”. Đó là câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với
chị. Câu nói bình thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót thương.Nó chứa đựng trong đó là tất cả
niềm khát khao và hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào giấc
ngủ, Liên ngồi im lặng, đầu óc chị bỗng dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể nghe
được “hoa bàng rụng xuống vai Liên từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Dường
như nhà văn muốn cho nhân vật của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thoáng trong
tiếng gió xa xôi là tiếng đoàn tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu “Đèn ghi đã ra
kia rồi!”. Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu
vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em “ dậy đi An,
tàu đến rồi!”. Lời giục giã gấp rút, hối thúc như thể nếu An không dậy thì sẽ không bao giờ còn được
nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của hai chị em mà cái
háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động và giàu chất nhân văn.
Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi
chờ ấy bằng cách đứng gần hơn nữa.Và rồi “tàu rầm rộ đi tới.Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt
qua”. Đây là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An dường như quên hết thảy những nỗi buồn
hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây chỉ có
đoàn tàu. Đoàn tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường ngang qua phố huyện “các toa đèn sáng
trưng, chiếu ánh cả xuống đường… những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và
kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đó là ánh sáng của sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa
với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nơi phố huyện. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng
rạch ngang qua bầu trời phố huyện rồi mất hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát
vọng của biết bao nhiêu số phận con người bé nhỏ đang mong ngóng. Đoàn tàu mang một thế giới khác đi
qua, chính là khát vọng muốn được đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ
muốn được đến với những chân trời mới, nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ không
còn cảnh đói nghèo lam lũ, không có cảnh đơn điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được
nhận một cuộc sống như thế, tại sao không? Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với quầng
sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý. Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong khát vọng và kết
thúc bằng nỗi buồn rưng rưng nước mắt.
Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã “đi vào đêm tối, để lại những đốm
than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa
sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Sự nuối tiếc của họ dường như đã phơi bày tất cả một cuộc
sống nghèo nàn, bế tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng “Tàu đêm nay không đông và dường như kém
sáng hơn ”. Nghĩa là đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn hai đứa trẻ chứ không thể
nào phá vỡ bức tường thành mang tên “nỗi buồn” của chúng. Và Liên lặng người đi trong suy tưởng,
đằng sau ánh sáng của đoàn tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi
nhớ về Hà Nội nơi có ánh sáng của những ngọn đèn, nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong
tâm tưởng và cũng là vầng sáng trong ký ức tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ,
được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao
nhiêu là buồn bã. Chính đoàn tàu đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức biết
bao điều tươi đẹp. Cuộc sống ấy thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm sao
được khi ký ức không thể trở về.“ Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh.Một tương lai mù
mịt”. Đáng buồn thay!
Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý.
Một giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù đọng không lối
thoát mà biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.
d. Đánh giá: Đoạn văn diễn tả tâm trạng đợi tàu, tư thế ngóng vọng con tàu khiến người đọc trân trọng vẻ
đẹp tâm hồn ở hai đứa trẻ. Sống trong cái ao đời bằng phẳng ấy, Liên, An cứ không nguôi khao khát được
đổi thay. Từ đây tác phẩm như muốn nói với bạn đọc rằng con người ta dù sống trong hoàn cảnh nào
cũng phải biết giữ trong mình những ao ước đẹp về mặt tinh thần. Chừng nào con người ta còn biết ước
mơ là chừng ấy đang còn tình yêu cuộc sống, còn đang muốn cuộc đời mình giàu thêm ý nghĩa. Đoạn văn
đã góp phần thắp lên trong mọi tâm hồn ngọn lửa của niềm khao khát vươn tới cái đẹp
ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hay của Thạch Lam. Nó không hấp dẫn người đọc bằng những tính cách
sắc nét, tình huống li kì. Nó hấp dẫn người đọc bằng chính vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đã được
khám phá, cảm nhận bằng chính ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng của tác giả. Hai đứa trẻ là một
bài thơ trữ tình đượm buồn thể hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ, đặc sắc của Thạch Lam. Qua đó,
chúng ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ trang trọng trước sự sống.
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HUẤN CAO


GIỚI THIỆU CHUNG.
Giữa cuộc đời cũng như trong nghệ thuật, Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ có lí tưởng thẩm mĩ và phong
cách độc đáo. Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói : Nguyễn là “một cái định
nghĩa về người nghệ sĩ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân nổi tiếng với “Vang bóng một thời” –
tập truyện được xuất bản năm 1940, viết về những vẻ đẹp của “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”.
Trong tập truyện này, Chữ người tử tù được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, kết tinh phong
cách sáng tác và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Chữ người tử tù là một truyện ngắn. Thế giới nhân vật ở đó
không nhiều. Nhưng nhân vật nào cũng hiện lên thật sống động với số phận, tính cách và vẻ đẹp riêng. Điển
hình là Huấn Cao – nhân vật trung tâm của tác phẩm.
PHÂN TÍCH, CẢM NHẬN
1. Khái quát: Huấn Cao là nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng –
người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lừng lẫy một
thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiệ
lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
“Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
Khí tiết ngời sáng ấy của một nhà Nho, một nhà thư pháp, một võ tướng lại thêm một lần nữa đi vào
trang viết của Nguyễn Tuân.
2. Vẻ đẹp khí phách hiên ngang: Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang
phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao
nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ
khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục từng
khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trương
phu “đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát
khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cánh ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu.N hững kẻ học
đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng.Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu
lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con
đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch,
tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất
khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lừng lẫy chẳng khác gì 108
vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên
ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.
Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn
tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần khinh bạc.Ông vẫn giữ nguyên thái độ bình thản, xem thường,
dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh
thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn sức manh của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật
pháp của một xã hội dơ bẩn.
Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở
ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận
rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem
nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì
hẵng ở tù”.
Đối với quản ngục, Huấn Cao rất lạnh lùng, khinh bạc, xưng hô “ta – ngươi”, miệt thị hạ nhục
“Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn
đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường “đến cái chết chém cũng còn
chẳng sợ nữa là…” .Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất
có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn
bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng
như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con
người mới là đáng quý. Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ
kẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết.
b. Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của
con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như
ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp).Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh
tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hóa một thời. “Chữ ông Huấn
Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng “có được chữ ông Huấn mà
treo là như có một báu vật trên đời”. Với những gì đã viết về Huấn Cao, nhất là qua thái độ, lời nói của
nhân vật quản ngục, thơ lại, Nguyễn Tuân không hề giấu giếm thái độ say mê, cảm phục của mình đối với
những người như ông Huấn. Đó là người “kết tinh” và tỏa sáng một trong những vẻ đẹp văn hoá truyền thống
của dân tộc. Vẻ đẹp ấy, ở thời đại Nguyễn Tuân, lại đang có nguy cơ mai một, rất dễ thuộc về “một thời” đã
qua nay chỉ còn “vang bóng”. (Liên hệ: Ông đồ, Vũ Đình Liên) Do đó, sáng tạo hình tượng Huấn Cao có thể
xem là một phương thức nghệ thuật đắc dụng để nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của
mình đối với những giá trị văn hoá cổ truyền của đất nước.
c. Huấn Cao còn là người anh hùng có thiên lương trong sáng như pha lê.
Ông là người có ý thưc giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay
quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới
quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở
hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao
là kẻ tử tù. Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông
trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là
hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỉ.Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai
kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
Lúc hiểu được tấm long viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm
cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói
rất chân tình, xúc động.Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất
có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn loạn xô bồ”.
d. Cảnh cho chữ là sự thể hiện giữa TÀI HOA, KHÍ PHÁCH, THIÊN LƯƠNG. Hai con người
đồng nhất tỏ sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân dồn hết
bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn
tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: Viết thư pháp.
Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật.Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho
chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù
và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và
tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối
nhưng ánh sáng ở đây ngời chói chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tí và ánh
sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” của Thạch Lam. Ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của lương tri, của
nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng
đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh
sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài,
nhưng yếu ớt về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con
người thiên lương.
Việc viết thư pháp thường diễn ra ở nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt,
có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn,
phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột, phân gián”. Sự nhơ nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của
thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự
sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ
đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên
từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ”
mà chẳng hèn một chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người
tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản
lý của nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông
như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương
của ông đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời.
Kì lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo
lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục,
thơ lại.Ở đó chỉ còn là những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp.Cái xấu xa, cái ác, cái chết
chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tối tăm, hiện thân cho cái
ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái
cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã sụp đổ, bởi vì không còn kẻ phạm
tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt
ngưỡng mộ sùng kính của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù
đang đi vào cõi bất tử”.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương
của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để
treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một
đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và
không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu xa, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững
được và rồi cũng nhem nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý
của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng là cho nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói: “Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp
của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân
– Thiện – Mĩ.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Thành công của “Chữ người tử tù” là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối
lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại
và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dung một loạt từ Hán Việt rất đắc
(pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương,
lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Nguyễn Tuân đúng là bậc thầy về ngôn
ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.
Có thể nói “Chữ người tử tù” là một tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Một
tác phẩm chứa đựng nhiều ý vị về cái đẹp của tài hoa, thiên lương, khí phách.Càng đọc đi đọc lại ta càng
ngấm tâm ý mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm đến chúng ta. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn
Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.
NHÂN VẬT VIÊN QUẢN NGỤC- “Thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn
loạn xô bồ”.

GIỚI THIỆU CHUNG


Là nhà văn “Duy mĩ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang
đến cho người đọc bao hình tượng văn học sáng ngời. Tập truyện “Vang bóng một thời” có lẽ là nơi hội
tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đáng thơ… Gắn liền với những
thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. “Chữ người tử tù” là tác phẩm đặc sắc của
Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy. Tác phẩm ca ngợi cái đẹp, lòng ngưỡng mộ cái đẹp và sức mạnh
của thiên lương.Điều ấy được bộc lộ không chỉ qua hình tượng Huấn Cao mà còn ở cả nhân vật viên quản
ngục.
PHÂN TÍCH, CẢM NHẬN
1. Khái quát: Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách
mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: “Vang bóng một thời”, “Chiếc lư
đồng mắt cua”, “Chùa Đàn”,… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: “Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi”, “Sông Đà”,… “Chữ người tử tù” là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích
trong tập “Vang bóng một thời”. Những nhân vật của Nguyễn Tuân là những nhân vật luôn hướng về cái
đẹp, cái tài, là những con người có cái tâm trong sáng và tấm lòng vằng vặc như sao Khuê. Quản ngục
trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một trong những nhân vật như thế.Ông được miêu tả ít nhưng thiếu
đi nhân vật này thì thiên truyện chưa chắc đã để lại “một tiếng vang”.
2. Nội dung cần phân tích, làm rõ:
a. Quản ngục có đời sống nội tâm rất sâu sắc: Biết Huấn Cao là người nghĩa khí, là bậc trượng
phu nhưng lại là trọng phạm của triều đình nên ông rất đau khổ, cảm thấy vừa nể phục vừa nuối tiếc cho
một tài hoa, một ngôi sao sáng trong vũ trụ. Bởi vậy ngay từ khúc dạo đầu của thiên truyện, Nguyễn Tuân
đã để quản ngục hiện ra với một tâm trạng cụ thể.Nếu xem cuộc đời như một dòng thác dữ thì viên quản
ngục, trong những suy tư chìm đắm về ông Huấn, lại có gương mặt của một “mặt nước ao xuân, bằng
lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Nếu xã hội đương thời nhiễu nhương như “một bản đàn mà nhạc luật điều hỗn
loạn, xô bồ” thì viên quản ngục, với “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”, là một âm thanh trong
trẻo “chen vào giữa bản đan ấy”. Việc nhà văn tạo ra một nhân vật khác đời và khác người như thế, âu
cũng là lẽ đương nhiên với một tính cách và phong cách như Nguyễn Tuân.Với những hình ảnh ấy, có ai
nghĩ rằng làm ngục quan là đê tiện, độc ác, bất nhân nữa đâu mà ở đó dường như ta bắt gặp một ẩn sĩ giữa
“hỗn loạn xô bồ”.
b. Hoàn cảnh sống của viên quản ngục đúng như Nguyễn Tuân đã nói ‘Chen lẫn giữa một bản
đàn mà nhạc luật đều hoãn loạn xô bồ”: Ông làm quan chức trong ngục, nơi đề lao mà “người ta sống
bằng tàn nhẫn, lừa lọc”. Nơi đó, bọn lính ngục đã hành hạ người tù bằng những thói “tiểu nhân thị oai”.
Sống trong hoàn cảnh như vậy, con người dễ bị tha hóa, càng càng dễ dấn sâu vào bùn lầy.
c. Nhưng với Nguyễn Tuân “quản ngục là một thanh âm trong trẻo” bởi nhà văn đã nhìn thấy
cả chiều sâu tính cách, tâm hồn viên quản ngục: Ông là người biết yêu quí cái đẹp, yêu quí chữ viết
đẹp của Huấn Cao mà ông xem là báu vật. Ông có sở nguyện cao quí: được treo trong nhà một bức chữ
của Huấn Cao. Đó là tình cảm cao thượng bền bỉ, có ngay từ khi ông “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”,
cho đến bây giờ đã là một trung niên “tóc hoa râm, râu ngả màu” mà ông vẫn còn đeo đuổi. Như vậy,
qua mấy lời của Nguyễn Tuân, ta thấy Quản ngục quả thật là một con người có nhân cách.
Do yêu quý cái đẹp, ông yêu quý, kính trọng người tạo ra cái đẹp: Huấn Cao. Điều đó đã được bộc
lộ qua hành vi, suy nghĩ của ông. Ông “biệt nhỡn lien tài” đối với Huấn Cao “hằng ngày vẫn cho thầy
thơ lại mang rượu thịt vào khoản đãi ông Huấn… càng ngày càng hậu hĩnh”.Ông đã “biệt đãi” Huấn
Cao – một người tử tù.Đó là một việc làm không đúng bổn phận của nhà chức trách, có thể nguy hại đến
tính mạng bản thân và gia đình nhưng ông vẫn làm.Điều đó chứng tỏ ông rất trọng nể Huấn Cao bất chấp
cả luật pháp.
Ngay cả lúc bị Huấn Cao xua đuổi “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn ngươi đừng đặt chân vào
đây nữa”. Ông nhún nhường trước người tử tù, bị xua đuổi, không tức giận mà còn lễ phép lui ra với câu
nói “Xin lĩnh ý”. Sự nhịn nhục của con người này không đồng nghĩa với sự hạ mình. Đó chỉ là cái
nghiêng mình kính cẩn trước một tấm lòng, một nhân cách của kẻ biết yêu cái đẹp, biết trọng cái tài.Đây
không phải là cảnh hạ mình chịu nhục để đạt được ý nguyện xin chữ mà là một hành động cho thấy Quản
ngục là người biết điều, biết mình.Đó cũng là một cách ứng xử đẹp.
Ông mong Huấn Cao dịu lại tính nết để ông trình bày sở nguyện xin chữ của Huấn Cao. Mong
mỏi hàng ngày, hàng giờ và có lúc sợ hãi bởi lỡ một mai Huấn Cao phải vào kinh chịu án tử hình thì mất
cả đời mơ ước. Điều ta tâm phục ở con người ấy là dù có Huấn Cao trong tay lại dưới quyền sinh quyền
sát của mình nhưng không bao giờ ông mảy may nghĩ đến việc phải dùng quyền thế ép buộc Huấn Cao
cho chữ. Chính vì sở nguyện cao quý và tính cách của quản ngục mà khi Huấn Cao nghe tin mình phải
vào kinh chịu án tử hình và biết được sở nguyện cao quý của quản ngục. Ông đã “lặng nghĩ và mỉm
cười... suýt chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Chính vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và lòng yêu quý say mê cái đẹp đã đưa hai con người ở hai phía
đối lập xích lại gần nhau trong tình tri kỷ. Đó cũng là lúc cảnh tượng cho chữ thật bi tráng, thiêng liêng
hiện ra làm xúc động tâm hồn người đọc. Cảnh cho chữ quả là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” đã
góp phần làm nổi bật chủ đề thiên truyện. Cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, tàn bạo. Ánh sáng chiến thắng
bóng tối. Đó là lúc uy quyền của chốn ngục tù bỗng chốc sụp đổ. Ngục tù biến mất. Bạo tàn nhường chỗ
cho những tâm hồn đẹp đến với nhau.
Thủ pháp tương phản khá rõ, khi Huấn Cao cho chữ, viên quản ngục đã “khúm núm” nhận chữ.
Được Huấn Cao khuyên rời khỏi hoàn cảnh “hỗn loạn xô bổ”, ông đã chân thành rơi lệ. Hình ảnh viên
quản ngục cảm động vái người tù một vái, dòng nước mắt ri vào kẻ miệng “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
có lẽ là một hình ảnh đẹp nhất đã đưa Huấn Cao và quản ngục vào cõi bất tử. Đó là bức tranh đẹp về thiên
lương - tài hoa - khí phách hòa quyện, nâng đỡ cho hai tâm hồn vươn tới Chân - Thiện - Mỹ.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Là một nhà văn của Chủ nghĩa Lãng mạn, người suốt đời coi cái đẹp và nghệ thuật là tôn giáo của
mình, tất yếu, Nguyễn Tuân sẽ say mê hướng vào những vẻ đẹp vừa mới lạ, độc đáo, vừa dữ dội, phi
thường. Với ông, “sự tầm thường là cái chết của nghệ thuật” (V. Huy-gô). Vậy nên, bút pháp tương phản,
phóng đại được khai thác tối đa cùng với những thủ pháp nghệ thuật của hội họa, điêu khắc và điện ảnh
được huy động triệt để đã làm nên những trang văn tuyệt bút.
Có thể nói, xây dựng nhân vật quản ngục - một kẻ chỉ biết thưởng thức cái đẹp, tôn thờ cái tài hoa,
khí phách, Nguyễn Tuân đã tạo nên một đối tượng tương xứng với nhân vật Huấn Cao, từ đó gửi gắm
những triết lí, thông điệp sâu xa: “Một kẻ chỉ biết kính mến khí phách, một kẻ chỉ biết tiếc, biệt trọng
người tài, hắn không phải là một kẻ xấu hay vô tình”. Thậm chí, với những con người như quản ngục
và thơ lại, họ càng quý, đáng trân trọng hơn bởi họ như loài hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn”. Chỉ bằng một vài nét phác họa chân dung, cử chỉ, đi vào tâm tư, suy nghĩ của nhân vật, ngòi bút
Nguyễn Tuân đã lưu lại một gương mặt độc đáo trên những trang viết của “Chữ người tử tù”.
Tóm lại, ví tấm lòng của nhân vật viên quản ngục như “một âm thanh trong trẻo giữa một bản đàn
mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bổ”, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự ca ngợi đối với viên quản ngục, đối với
những người biết yêu quý cái đẹp, thiên lương. Cùng với hiện tượng Huấn Cao, hình ảnh viên quản ngục
đã góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm: Quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp và thái độ với cái đẹp,
sức mạnh của cái đẹp, đồng thời cũng kín đáo bày tỏ tấm lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.
ĐỀ : PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CHÍ PHÈO TRONG TÁC PHẨM CÙNG TÊN
CỦA NHÀ VĂN NAM CAO ĐỂ LÀM SÁNG TỎ BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM NGƯỜI.

GIỚI THIỆU CHUNG


Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm tên
tuổi: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”... trong đó “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao và cũng là
kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm khai thác đề tài người nông dân nghèo trước Cách
mạng tháng Tám. Đây là đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Trước Nam
Cao đã cóNgô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… khai thác đề tài này. Song, theo GS.
Nguyễn Đăng Mạnh: “… khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì
người ta liền nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của
người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.
Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của người nông dân trước Cách mạng.
Nam Cao đã khắc họa thành công tấm bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang
đến cho bạn đọc bao niềm xúc động xót thương.
BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA CHÍ PHÈO
1. Bi kịch là gì? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời
sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn
cảnh bi đát (có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của
Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô... nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi
kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo.
2. Những biểu hiện của bi kịch:
a. Bi kịch ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu
tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”.
Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. lạ vì hắn chửi mà
không có ai chửi với hắn, không ai lấy làm điều.
Chí “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi
chết mẹ đứa nào đẻ ra thân hắn”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của thân phận con người ít nhiều
nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách của giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại
tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí
Phèo lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống
trong no1Chi1 cũng không còn được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ.
Thái độ của người chửi: hằn học, hận thù; thái độ người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn:
xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tò mò…Vậy Chí Phèo là ai?
b. Bi kịch của đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước
mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ
giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh
sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi
thì làm canh điền cho nhà lí Kiến”. Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là
quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà
người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy
nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị: “có một gia đình nho
nhỏ. Chồng cuốc nướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lơn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội
bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già
Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ
một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
c. Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù thực dân đã
vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh
canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc
“cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết…cái
ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng
thế”. Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời
không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi
ích cũa dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương
thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đáng buồn thay, mới ngày nào chính
dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính
cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao
nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt
của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say “ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, thức dậy vẫn còn say…đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô
tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn
này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau
lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước Cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước
mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh
sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm
lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
d. Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành
cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp,
chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật
Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay,
lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rội vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản
tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính
cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có
nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả
của tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở
không chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này
không có đôi cánh thiên thần nhưng có đôi tay đầy ấp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một
ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa,
lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia
rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá
trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm
nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của
đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tiếng sáo đã lây động tiềm thức xa xôi của Mị,
đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc
làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lây động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn
gió thổi tungđám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá
băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ: “có một gia đình nho nhỏ. Chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm
ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết
“Nhìn phía trước người thân chẳng có,
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”.
Hắn như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm
đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà
Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.Và rồi chính
bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành
chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Cháo hành đã tẩy ố đi men
rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặt biệt quá, những kẻ vô nhân tính như
cha con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Khi mà
cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã giang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và
bát cháo hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên.
Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn
nguyện vì vị ngon của nó. Chí Phèo quen sống với một kiểu định nghĩa: Muốn có cái ăn hắn phải kêu
làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ…Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí
đều có máu và nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống
ấy của Chí dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành
của người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội
ácmà còn bằng cả tình thương yêu kia nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục
sinh phần người trong Chí… Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về
cuộc sống bình dị…Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí
cả…Bát cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ phần
người… Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành
trẻ con, hắn muốn là nũng với thị như làm nũng với mẹ…”. Đó là giây phút hắn người nhất. Đã hai lần
chính Thị Nở đã phải thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiến!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật
hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm
thời rủ bỏ. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát
vọng hạnh phút với Thị Nở “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay là mình sang đây ở với tớ
một nhà cho vui”. Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì ngờ nghệch,
hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái
tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn là nhờ tình thương của
Thị Nở, Chí thực sự đã trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương của một
người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí
Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
e. Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc
thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh
tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi
lấy một thằng không cha không mẹ như Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của
Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi
kịch của một con người chết tên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi
cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi
dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở vể bới lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với
xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh
viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đén rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không
còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lí trí ấy. Càng uống Chí
càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi
cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý
định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và
bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra
rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá
Kiến. Anh càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả nhân hình và nhân tính
của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
- Tao muốn làm người lương thiện!
- Ai cho tao lương thiện!
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con
người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội
bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội
cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương
thiện ? Á, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền
được làm một con người cũng bị xã họi người ăn thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo, cũng đã tự kết liễu
cuộc đời mình sau khi kết liễu cuộc đời tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm cũa Chí Phèo là lời kết tội
đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp
bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Về nội dung: Thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã
mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa
phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị
đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước
vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổithực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về nghệ thuật Bút pháp điển hình hóa đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam
Cao có biệt tài trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt
người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng
túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên
tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là
ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ
đa thanh đặc sắc.
“Chí Phèo” là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị
nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của
Nam Cao. Tác phẩm “Chí Phèo” mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy
những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng:
“Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống
Nào có dài chi một kiếp người
Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách
Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”.
Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian,
đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó.

You might also like