Professional Documents
Culture Documents
Các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật: (Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật)
+ Hết hiệu lực (Điều 154 Luật BHVBQPPL): Hết thời hạn; được sửa đổi, bổ
sung; bị bãi bỏ; hết hiệu lực theo văn bản được hướng dẫn.
(VD: Điều 689 Bộ luật Dân sự “Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 hết
hiệu lực kể từ ngày Bộ luật này có hiệu lực”. Khoản 3 Điều 67 Nghị định
115/2020/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức bãi bỏ hoàn toàn
Nghị định số 29/2012/NĐ-CP và bãi bỏ một phần (Điều 2) Nghị định
161/2018/NĐ-CP).
2) Hiệu lực theo đối tượng tác động của Văn bản quy phạm pháp luật là tính
bắt buộc thi hành của văn bản quy phạm pháp luật đối với những chủ thể
pháp luật nhất định.
(VD: Luật Doanh nghiệp áp dụng cho doanh nghiệp và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại,
giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp (Điều 2))
3) Hiệu lực theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động
của văn bản trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Phạm vi đó có thể chỉ
trong một địa phương, có thể là trong cả nước hoặc rộng hơn.
(VD: khoản 1 Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính “Đối với khu
vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao
hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi
vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật
tự, an toàn xã hội”)
4) Hồi tố là một dạng hiệu lực pháp luật của văn bản quy phạm pháp luật. Việc
quy đinh và áp dụng hiệu lực hồi tố là nguyên tắc thể hiện tính nhân đạo của
Nhà nước ta.
. (VD: Ngày trước tử hình, nay chung thân. Ông A phạm tội lúc luật
cũ có hiệu lực, chịu chung thân (hồi tố). Ông B phạm tội lúc luật mới có hiệu lực,
chịu chung thân (bình thường).
3. Đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay
Hệ thống pháp luật toàn diện và đồng bộ thể hiện ở cấu trúc hình thức của nó, nghĩa là
hệ thống pháp luật phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp
luật trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, các quy định pháp luật phải có
khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, để các quan hệ xã hội quan trọng có tính
điển hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh.
Về kết cấu mỗi quy phạm pháp luật phải có cấu trúc lôgíc, chặt chẽ; mỗi chế định
pháp luật có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết; mỗi ngành luật có đầy đủ các
chế định pháp luật theo cơ cấu của ngành luật; còn hệ thống pháp luật có đủ các
ngành luật đáp ứng được nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội ở mỗi giai đoạn
phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật không chỉ chú trọng tới các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, củng cố chính
quyền nhân dân mà còn phải chú ý tới các luật điều chỉnh một cách toàn diện các
quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực đời sống dân sinh như dân sự, thương mại, đầu tư,
môi trường..., không chỉ chú trọng tới luật nội dung mà còn phải chú ý tới luật hình
thức về trình tự, thủ tục.
Từ Việt Nam suy ra: Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp
luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong đó
đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính
khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều
bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp
lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ.
Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế
bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của
những yếu kém nêu trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến
lược