You are on page 1of 189

Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương mở đầu
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
1. Ba bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác – Lênin
- Triết học: nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy; định hướng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của
nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Kinh tế chính trị: nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là
những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả sự vận dụng thế giới quan, phương
pháp luận triết học và kinh tế chính trị để làm sáng tỏ những quy luật của quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin
a. Những điều kiện, tiền đề sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các
nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh
dấu bước chuyển hóa từ nền tảng sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước
hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 kéo theo hàng loạt cuộc đấu tranh của
công nhân chống lại chủ nghĩa tư bản, tiêu biểu là:
+ Cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liông (Pháp) năm 1831 va 1834
+ Phong trào Hiến chương (Anh) từ năm 1838 đến năm 1848
+ Cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Silêdi (Đức) năm 1844.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản yêu cầu khách quan là nó cần phải có
lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng
thời chính thực tiễn cách mạng đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và
phát triển lý luận cua chủ nghĩa Mác
- Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của
nhân loại như:

Vũ Văn Thành 0932008296


1
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của G.Hêghen (George
W.Friedrich Hegel, 1770-1831) và L.Phơ bách (Ludwig Feuerbach, 1804-1872).
G.Hêghen đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận
thông qua hệ thống các quy luật, phạm trù. Trên cơ sở phê phán C.Mác và Ph.Ăngghen
đã thừa để xây dựng phép biện chứng duy vật.
Với Phơ bách, mặc dù còn nhiều hạn chế về quan điểm liên quan đến các vấn
đề xã hội; song, C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò tư tưởng của Phơ bách
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là
tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào ý thức của con người. đã tạo tiền
đề cho bước chuyển biến của C.Mác và Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế
giới quan duy vật.
+ Kinh tế chính trị cổ điển Anh như A.Xmít (Adam Smith, 1723-1790) và
Đ.Ricácđô (David Ricardo, 1772-1823) đã góp phần tích cực vào quá trình hình thành
quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
A.Xmít và Đ.Ricácđô là những người mở đầu lý luận về giá trị trong kinh tế
chính trị học bằng việc xây dựng học thuyết về giá trị lao động. Các ông đã đưa ra
những kết luận quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận, về tính chất của quá
trình sản xuất vật chất, về những quy luật kinh tế khách quan để Mác kế thừa xây dựng
nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng có các nhà tư tưởng tiêu biểu như: H.Xanh
Ximông (Henri De Saint Simon, 1760-1825), S.Phuriê (Charles Fourier, 1772-1837)
người Pháp và R. Ôoen (Robert Owen, 1771-1858) người Anh. Chủ nghĩa xã hội
không tưởng thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản
trên cơ sở vạch trần cảnh khốn cùng cả về vật chất lẫn tinh thần của người lao động
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã đưa ra nhiều quan điểm cũng như dự đoán
về xã hội tương lai. Song, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không luận chứng được
một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, không phát hiện được quy luật
vận động của chủ nghĩa tư bản và vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân với tư
cách là lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội
bình đẳng, không có bóc lột. Trên tinh thần nhân đạo đó nó đã trở thành những tiên đề
lý luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những điều kiện kinh tế – xã hội, tiền đề lý luận, thì những thành tựu
khoa học tự nhiên cũng khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng ( Ra đời vào giữa TKXIX do
Mayer, Helmholt, Faraday, Joule, Lence…) chứng minh về các hình thức vận động
không tách rời nhau của vật chất, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn

Vũ Văn Thành 0932008296


2
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Thuyết tiến hóa ( Ra đời giữa TKXIX do Charles Darwin, nhà sinh vật học
người Anh) đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di
truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình
chọn lọc tự nhiên.
+ Thuyết tế bào ( Ra đời năm 1839, do hai nhà sinh vật học người Đức là
Scheiden và Schwan) đã xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo
vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải thích quá trình phát triển trong mối liên
hệ của chúng.
Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào là
những thành tựu khoa học bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học về vai trò
của ” Đấng sáng tạo”; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về thế giới vật chất vô
cùng, vô tận, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện
chứng; khẳng định tính khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức và
thực tiễn.
Như vậy, sự ra đời cuả chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là
sản phẩm của điều kiện kinh tế xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện
trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn
của những người sáng lập ra nó.
b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
-Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen
thực hiện diễn ra từ những năm 1842, 1843 đến những năm 1847, 1848.
C.Marx: 5/5/1818 - 14/3/1883. Friedrich Engels: 28/11/1820 - 5/8/1895.
Những tác phẩm chính: như Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 (C.Mác), Gia
đình thần thánh (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845), Luận cương về Phơ bách (C.Mác,
1845), Hệ tư tưởng Đức (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845 - 1846), v.v… đã thể hiện rõ
nét việc C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa tinh hoa quan điểm duy vật và phép biện
chứng của các bậc tiền bối để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật.
Đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (C.Mác, 1847) và Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1848), chủ nghĩa Mác đã được trình bày như
một chỉnh thể các quan điểm nền tảng với ba bộ phận lý luận cấu thành. Trong tác
phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã đề xuất những nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học và bước đầu thể hiện tư tưởng về giá
trị thặng dư. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên
của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm này, cơ sở triết học được thể hiện sắc sảo trong sự
thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm bước đầu đã chỉ ra những quy luật vận
động của lịch sử, thể hiện tư tưởng cơ bản về lý luận hình thái kinh tế – xã hội. Theo

Vũ Văn Thành 0932008296


3
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

tư tưởng đó, sản xuất vật chất có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội;
phương thức sản xuất vật chất quyết định quá trình sinh hoạt, đời sống chính trị và đời
sống tinh thần của xã hội. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng cho thấy từ khi có giai
cấp thì lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản chỉ có
thể tự giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể nhân loại. Với
những quan điểm cơ bản này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu toàn diện phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra rằng: việc tách những người sản xuất
nhỏ khỏi tư liệu sản xuất bằng bạo lực là khởi điểm của sự xác lập phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Người lao động không còn tư liệu sản xuất để tự mình thực
hiện các hoạt động lao động, cho nên muốn lao động để có thu nhập, người lao động
buộc phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Sức lao động đã trở thành một
loại hàng hóa đặc biệt, người bán nó trở thành công nhân làm thuê cho nhà tư bản.
Giá trị do lao động của công nhân tạo ra lớn hơn giá trị sức lao động của họ, hình
thành nên giá trị thặng dư nhưng nó lại không thuộc về người lao động mà thuộc về
người nắm giữ tư liệu sản xuất, là nhà tư bản.
Như vậy, bằng việc tìm ra nguồn gốc của việc hình thành giá trị thặng dư,
C.Mác đã chỉ ra bản chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, cho dù bản chất này đã bị
che đậy bởi quan hệ tiền - hàng.
Lý luận về giá trị thặng dư được C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu và trình bày
toàn diện, sâu sắc trong bộ Tư bản. Lý luận này đã trình bày hệ thống các quy luật vận
động và phát triển của xã hôi, cho thấy sự vận động và phát triển ấy là một quá trình
lịch sử - tự nhiên thông qua sự tác động biện chhứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển trong
tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (C.Mác, 1875). Trong tác phẩm này, những vấn
đề về nhà nước chuyên chính vô sản, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, những giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản, v.v…
c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
- Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
sang một giai đoạn mới là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị
của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng
sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản. Tại các nước thuộc
địa, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự thống nhất giữa cách mạng
giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai
cấp công nhân ở chính quốc. Trung tâm của các cuộc cách mạng giai đoạn này là nước

Vũ Văn Thành 0932008296


4
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Nga. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích
đã trở thành ngọn cờ của cách mạng thế giới.
- Vai trò V.I.Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
Vladimir Ilich Lenin, sinh ngày 22/4/1870 tại Xim biếc (Simbirsk) nước Nga trong
một gia đình trung lưu, cha là giáo viên dạy lịch sử và tiếng Latinh có tư tưởng tiến bộ.
V.I.Lênin tốt nghiệp thủ khoa ngành Luật Đại học Saint Peterburg năm 1891.
V.I.Lênin là người kế sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen.
Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành ba
thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu cơ bản khác nhau của thực tiễn, đó là:
+ Thời kỳ từ 1893 đến 1907
+ Thời kỳ từ 1907 đến 1917
+ Thời kỳ từ sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công
(1917) đến khi V.I.Lênin từ trần ( 21/1/1924).
Những tác phẩm Những “người bạn dân là thế nào” và họ đấu tranh chống
những người dân chủ – xã hội ra sao? (1894) của V.I.Lênin vừa phê phán tính chất
duy tâm và những sai lầm nghiêm trọng của phái dân túy khi nhận thức những vấn đề
lịch sử – xã hội, vừa vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách
xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm Làm gì? (1902) V.I.Lênin đã phát triển quan điểm của chủ
nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành
chính quyền.
Cuộc cách mạng Nga 1905 – 1907 thất bại. Thực tiễn cuộc cách mạng này được
V.I.Lênin tổng kết trong tác phẩm Hai sách lược của đảng dân chủ – xã hội trong
cách mạng dân chủ (1905). đã được Lênin phát triển những vấn đề về phương pháp
cách mạng, nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, vai trò của quần chúng nhân dân,
vai trò của các đảng chính trị, v.v… trong cách mạng tư sản giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa.
Những năm 1907 – 1917 là những năm vật lý học có cuộc khủng hoảng về thế
giới quan đã tác động đến việc xuất hiện nhiều tư tưởng duy tâm theo quan điểm của
chủ nghĩa Makhơ phủ nhận chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin đã tổng kết toàn bộ thành tựu
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; tổng kết những sự kiện lịch sử giai
đoạn này để viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
(1909). Bằng việc đưa ra định nghĩa về vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những nguyên tắc của nhận thức, v.v…
Trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác (1913),
về phép biện chứng trong Bút ký triết học (1914 – 1916), về nhà nước chuyên chính vô

Vũ Văn Thành 0932008296


5
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

sản, bạo lực cách mạng, vai trò của Đảng Cộng Sản và con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong Nhà nước và cách mạng (1917), v.v…
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời đại mới – thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Sự kiện này làm
nảy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà C.Mác, Ph.Ăngghen chưa được đặt ra.
V.I.Lênin đã tổng kết thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác về sự thắng lợi của giai cấp vô sản, về chiến lược và sách
lược của các đảng vô sản trong điều kiện lịch sử mới, về thời kỳ quá độ, về kế hoạch
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chính sách kinh tế mới (NEP), v.v… qua một loạt các
tác phẩm nổi tiếng như: Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản (1920),
Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí
Tơrốtxki và Bukharin (1921), Về chính sách kinh tế mới (1921), Bàn về thuế lương
thực (1921), v.v…
Ngày 30/8/1918, V.I.Lênin bị bọn” xã hội cách mạng” mưu sát. Ong mất ngày
21/1/1924 tại làng Gorki( ngoại ô Matxcơva).
Với những cống hiến to lớn ở cả ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác,
tên tuổi của V.I.Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa này, đánh dấu bước phát triển toàn
diện của chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
d. Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Cuộc cách mạng tháng 3 năm 1871 ở Pháp (Công xã Pari) có thể coi đây một nhà
nước kiểu mới – nhà nước chuyên chính vô sản được thành lập.
Tháng 8 năm 1903 Đảng Bônsêvích Nga được thành lập đến năm 1905 đã thực
hiện một cuộc diễn tập đầu tiên của giai cấp vô sản, đến tháng Mười năm 1917, cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng
minh tính hiện thực của chủ nghĩa Mác – Lênin trong lịch sử. Năm 1919, Quốc tế
Cộng sản được thành lập; năm 1922, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô - viết
ra đời. Với sức mạnh của liên minh, công cuộc chống phát-xít trong Chiến tranh thế
giới lần thứ II không chỉ bảo vệ được thành quả của giai cấp vô sản mà còn đưa chủ
nghĩa xã hội phát triển ra ngoài biên giới LiênXô, hình thành nên cộng đồng các nước
xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu, với các thành viên như Mông Cổ, Ba Lan,
Rumani, Hunggari, Việt Nam, Tiệp Khắc, Nam Tư, Anbani, Bungari, Cộng hòa dân
chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa dân chủ Đức, Trung Quốc, Cu Ba. Sự kiện này đã
làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là hệ thống duy nhất.
Những sự kiện trên đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân toàn thế giới; thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng của nhân
dân các nước thuộc địa. Vai trò định hướng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đem lại
những thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội, và ngay cả khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào thoái trào
thì tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại, chủ nghĩa xã hội vẫn được khẳng định ở
Vũ Văn Thành 0932008296
6
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

nhiều quốc gia và chiều hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa ở các nước khu vực
Mỹ Latinh.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa Mác – Lênin, bao gồm triết học, kinh tế-
chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mục đích của việc học tập, nghiên cứu môn học “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin” là: nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng, nhân
văn của chủ nghĩa Mác – Lênin; hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng
thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm
tin và lý tưởng cách mạng.
2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu
- Thứ nhất, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin được thể hiện trong
những bối cảnh cụ thể khác nhau, nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể khác nhau; học
tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin cần phải hiểu thực chất của nó; chống học theo
lối kinh viện, giáo điều.
- Thứ hai, sự hình thành, phát triển những luận điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin là một quá trình. Trong quá trình ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ nhau; vì vậy, học tập, nghiên cứu
mỗi luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin phải đặt chúng trong mối liên hệ với các
luận điểm khác để thấy được sự thống nhất trong tính đa dạng và nhất quán của mỗi tư
tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung.
- Thứ ba, học tập, nghiên cứu những nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin là để
hiểu rõ cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử.
- Thứ tư, học tập, nghiên cứu, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin để đáp ứng những yêu cầu của con người Việt Nam trong giai đoạn mới; vì vậy,
phải tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình trong đời sống
cá nhân cũng như trong đời sống cộng đồng xã hội.
- Thứ năm, chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là hệ thống lý luận bất biến, mà
trái lại đó là hệ thống lý luận không ngừng phát triển trên cơ sở phát triển của thực tiễn
thời đại; vì vậy, quá trình học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin đồng thời cũng phải là quá trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp
phần phát triển tính khoa học vốn có của nó.

Vũ Văn Thành 0932008296


7
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương I
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Sự đối lập của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong quá trình nhận thức thế giới, mọi triết học đều phải trả lời cu hỏi thế giới
xung quanh ta l gì, do đâu mà có, chúng có thực hay không? Vì vậy, vấn đề tồn tại
của thế giới có thực hay không đ được đặt ra cho cả triết học Phương Đông lẫn triết
học Phương Tây, cả duy tâm lẫn duy vật. Nhìn chung cc nhà triết học duy tâm đều
xem tồn tại của thế giới là do có một lực lượng tinh thần siêu nhiên có trước, sáng
tạo ra thế giới. Thế giới vật chất đang tồn tại chỉ là bản sao của thế giới tinh thần.
Chủ nghĩa duy vật phủ nhận giả thuyết này và cho rằng bản chất của thế giới là vật
chất, không sinh ra, không mất đi, luôn luôn vận động từ trạng thái này sang trạng
thái khác, tồn tại khách quan. Trên cơ sở đó mà mọi triết họcđều phải giải quyết hai
vấn đề:

+ Một là, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
+ Hai là, tư duy của con người có phản ánh trung thực thế giới khách quan không?
Con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
- Để giải đáp hai vấn đề nêu trên mà trong lịch sử triết học đ hình thnh cc trường
phái triết học khác nhau, nhưng chung quy, cũng chỉ có hai trường phái là duy tâm và
duy vật.
2. Các trường phái triết học

a. Triết học duy tâm:


Cùng là chủ nghĩa duy tâm, nhưng triết học duy tâm khch quan coi ý thức như
là một cái gì huyền bí, có trước thế giới vật chất, sinh ra mọi sự vật. Được Pla-tôn
gọi là “ý niệm” còn Hê-ghen gọi là “ý niệm tuyệt đối” (Có thể coi đó là một lực
lượng siêu nhiên huyền bí có quyền năng tuyệt đối ). Còn triết học duy tâm chủ
quan đại biểu là Béc – cơ – li, Hi – um, Phích – tơ cũng cho rằng ý thức có trước,
nhưng không phải là một lực lượng siêu nhiên huyền bí từ bên ngoài đưa vào mà họ
coi cảm giác của con người quyết định tồn tại ( không“ cảm giác” được, thì sự vật
không có ). Ngoài ra còn có thuyết nhị nguyên, coi vật chất và ý thức là hai nguyên

Vũ Văn Thành 0932008296


8
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thể đầu tiên, cùng tồn tại độc lập. Thực chất, thuyết nhị nguyên cũng là một dạng
của chủ nghĩa duy tâm.
Tóm lại: triết học duy tâm đã tuyệt đối hoá vai trị của ý thức, phủ nhận hiện
thực khách quan, phủ nhận khả năng nhận thức của con người, làm cho con người
trở nên thụ động, bất lực trước mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội. Do đó triết học duy
tâm thường được tôn giáo sử dụng làm cơ sở lý luận để giải thích thế giới xung
quanh chúng ta do đâu mà có, con người từ đầu sinh ra, chết rồi sẽ đi về đâu. Tuy
nhiên cũng có sự khác nhau giữa duy tâm trong triết học với duy tâm trong tôn giáo.
Thế giới quan tôn giáo, lịng tin đóng vai trị chủ đạo, còn chủ nghĩa duy tm trong
triết học lại là sản phẩm của tư duy trừu tượng.

b.Triết học duy vật:


+ Mở đầu là triết học duy vật ngây thơ chất phác thời cổ đại. Tiêu biểu là
triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Thời kỳ này các nhà triết học duy vật cũng
đ khẳng định thế giới xung quanh chúng ta là thế giới vật chất, không do ai sinh ra,
không mất đi, nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể nào đó.
+ Triết học duy vật siêu hình đại biểu là Tô – mát – hốp – xơ người Anh
(1588-1679 ). Quan niệm, các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập không phụ thuộc
vào nhau, không coi đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc là động lực của sự
phát triển. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng triết học duy vật siêu hình
cũng đã góp phần không nhỏ vô việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo
thời bấy giờ.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăng – ghen xây dựng vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Ngay từ khi mới ra đời nó đã
khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy
vật siêu hình, vì nó đã phản ánh đúng hiện thực khách quan, nó đã trở thành công cụ
giúp những lực lượng tiến bộ chinh phục và cải tạo thế giới

II. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Phạm trù vật chất.
a. Các quan điểm duy vật trước Mác quan niệm về vật chất.

Vũ Văn Thành 0932008296


9
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Ngay từ thời cổ đại các nhà triết học duy vật cũng đã phủ nhận vai trị của
thần linh sinh ra thế giới vật chất. Nhưng, để trả lời cho câu hỏi cái gì đã sinh ra mọi
sự vật trong thế giới này. Trên tinh thần ấy mà các nhà triết học duy vật thời cổ đại
đã cố gắng đi tìm và giải thích cội nguồn của thế giới vật chất. Do trình độ của khoa
học chưa phát triển, sự hiểu biết còn giới hạn, vì vậy hầu hết các nhà triết học thời
đó đều cho rằng cái đầu tiên tạo nên thế giới vật chất là một dạng vật chất cụ thể
nào đó như: nước, lửa, không khí… về sau Đê –mô – crít ước đoán dạng vật chất
đầu tiên tạo nên các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất là nguyên tử, và từ đó
dẫn đến thói quen xem vật chất là một vật thể ban đầu nào đó, có giới hạn cuối
cùng, không biến đổi, không thể phân chia. Quan điểm này càng được khẳng định ở
thế kỷ XVIII khi Niu – tơn phát hiện dạng vật chất có khối lượng nhỏ nhất là
nguyên tử và từ đó trở đi người ta đã đồng nhất vật chất với nguyên tử. Nhưng đến
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
khoa học vật lý. Ví dụ: năm 1895 Rơn – ghen phát hiện ra tia X. 1896 Béc – cơ –
nen pht hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uran; 1897 Tôm – xơn phát hiện
điện, điện tử; 1898 – 1902 ơng bà Ma – ri – quy – ri khám phá ra các chất phóng xạ.
Tất cả những phát hiện đó đã nói lên rằng, nguyên tử không phải l phần tử nhỏ nhất,
mà nó còn có thể bị phân rã chuyển hóa, lợi dụng cơ hội này các nhà triết học duy
tâm đã phản công. Rằng: không có thế giới vật chất, vật chất đã biến mất, đã gây ra
một cuộc khủng hoảng về thế giới quan của chủ nghĩa duy vật, từ đó đã có một số
nhà triết học đang từ chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc đã chuyển sang chủ
nghĩa hoài nghi rồi ngã về chủ nghĩa duy tâm. Lênin cho rằng: đó là “một bước
ngoặt nhất thời, là một thời kỳ ốm đau của lịch sử khoa học và triết học, một chứng
bệnh của trưởng thành ”. Để giải quyết cuộc khủng hoảng này. Lênin đã khái quát
những thành tựu mới nhất của khoa học thời đó, ông đã đưa ra định nghĩa về vật
chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn phải thừa nhận tính
đúng đắn của nó.

b. Định nghĩa vật chất của Lênin: “ vật chất là một phạm trù (khái niệm )
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta sao lại, chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác ”.
Vũ Văn Thành 0932008296
10
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Định nghĩa vật chất của Lênin có hai vấn đề cơ bản cần nắm vững:
+ Vấn đề thứ nhất: vật chất là một khái niệm dùng để chỉ thực tại khách
quan... Có nghĩa là thế giới xung quanh chúng ta có vô vàn các sự vật và hiện tượng
khác nhau nhưng chúng đều có chung một đặc tính giống nhau, là tính vật chất (tồn
tại khách quan, không sinh ra, không mất đi). Do đó, chúng ta không được nhầm
lẫn khái niệm vật chất nói chung với các sự vật cụ thể. Các sự vật cụ thể nó có quá
trình sinh ra rồi mất đi, nhưng tính vật chất của nó không mất đi mà nó chỉ chuyển
từ dạng vật chất cụ thể này sang dạng vật chất cụ thể khác thông qua vận động, do
đó, một hình thức vận động nào đó của vật chất mất đi, tất yếu sẽ nảy sinh một hình
thức vận động khác thay thế. Như vậy, vật chất không biến mất, vật chất không phải
là vô hình mà người ta vẫn có thể biết được vật chất tồn tại dưới dạng các sự vật cụ
thể khác thông qua vận động.
+ Vấn đề thứ hai: vật chất là một khái niệm dùng để chỉ thực tại khách
quan, đem lại cho con người cảm giác, có nghĩa là, thế giới khách quan tác động
vào các giác quan của con người, nhờ có sự phản xạ của hệ thần kinh chuyển về bộ
óc mà con người nhận biết được nó là cái gì, (tức ý thức). Như vậy, vật chất là cái
phải có trước, ý thức cĩ sau. Ý thức chỉ là sự sao lại, chụp lại, chép lại (lưu giữ lại
trong bộ óc). Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội cơ bản sau đây:
+ Một là, định nghĩa đã khái quát được thuộc tính bản chất nhất của vật chất
là tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người, không sinh ra
không mất đi, mà chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
+ Hai là, định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp được vấn đề cơ bản của
triết học. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
+ Ba là, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được tính siêu hình của
chủ nghĩa duy vật cũ quy vật chất vo một dạng tồn tại cụ thể no đó, bác bỏ những
quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm ( ý thức có trước ).
+ Bốn là, định nghĩa vật chất của Lênin là cơ sở cho các khoa học phát triển,
đem lại niềm tin cho con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới bằng chính
sức lực, trí tuệ của chính mình chứ không phải chờ đợi ở một phép màu nào đó.

Vũ Văn Thành 0932008296


11
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát được cả về thế giới quan
cũng như về phương pháp luận, cả về lý luận và thực tiễn. Nó đã khắc phục được tư
tưởng của triết học duy vật chất phác, triết học siêu hình, là cơ sở lý luận vững chắc
để bác bỏ triết học duy tâm một cách triệt để, vạch đường cho khoa học và những tư
tưởng tiến bộ.
c. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó
- Theo Ph.Ăng - ghen: “ Vận động được hiểu theo nghĩa chung nhất là bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy ”, vận động là sự biến đổi nói chung. Vận động “ là thuộc tính cố hữu
của vật chất ”. Vận động “ là phương thức tồn tại của vật chất ”. Điều này có nghĩa
là người ta biết được vật chất tồn tại dưới các dạng cụ thể thông qua vận động ở giai
đoạn đứng im tương đối. Thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện, bộc
lộ nó là cái gì. Do đó, không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại
không có sự vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, không thuộc về
vật chất.
Với tính cách vận động “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, tự thân vận động.
Nguyên nhân của sự vận động ấy là do kết quả sự tác động lẫn nhau của chính các
thành tố nội tại trong cấu trúc của vật chất gây ra. Do đó vận động của vật chất là vô
tận, không sinh ra, không mất đi là một thuộc tính không thể tách rời vật chất. Nếu
một hình thức vận động nào đó của vật chất mất đi, tất yếu sẽ nảy sinh một hình
thức vận động khác thay thế. Trên tinh thần đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định, vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm
tất cả mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, từ sự vật nhỏ như là nguyên tử, tế bào của
thực vật, động vật cho đến các thiên thể, các hành tinh trong vũ trụ cho đến tư duy
đều vận động không ngừng...Trong quá trình tồn tại các sự vật, hiện tượng không
những vận động mà chúng còn có liên hệ với nhau, không tách rời nhau, ràng buộc
lẫn nhau, mối liên hệ ấy không những chỉ xảy ra giữa sự vật này với sự vật khác mà
ngay trong bản thân một sự vật, hiện tượng cũng đã có mối liên hệ.
Ví dụ, trong một nguyên tử có các hạt prôtôn và nơtron tạo thành hạt nhân
(mang điện dương +), còn các lectrơn xoay xung quanh hạt nhân với tốc độ rất lớn

Vũ Văn Thành 0932008296


12
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

(mang điện âm -) đối lập với nhau, nhưng những mặt đối lập trái ngược nhau ấy
chúng lại có liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, không thể
thiếu nhau. Hoặc trong một tế bào ta cũng thấy, mỗi bộ phận của tế bào đảm nhận
những chức năng riêng biệt, nhưng chúng đều có mối liên hệ với nhau thành một
chỉnh thể.
Hoặc giữa trái đất của chúng ta với các hành tinh trong hệ mặt trời cũng
không ngừng vận động và có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau bằng lực hút và lực
đẩy, còn trong x hội thì những mối liên hệ lại càng phức tạp hơn, như sự liên hệ
giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa chăn nuôi với trồng trọt, giữa sản xuất với
tiêu dùng, và trong sự phát triển cũng là kết quả của sự liên hệ nối tiếp kế thừa của
quá trình trước với các quá trình sau. Những mối liên hệ đó hình thành khách quan
ngồi ý chí của con người, nó là hiện tượng khách quan vốn có của các sự vật hiện
tượng cả ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc của mọi sự vận động nằm ngay bên trong bản thân của sự vật,
chứ không phải từ bên ngoài, tức “tự thân vận động”. Nhờ có sự vận động, vật chất
mới bộc lộ ra là cái gì. Cho nn muốn nhận thức được sự vật phải nghiên cứu chúng
trong trạng thái vận động, vì vậy nhiệm vụ của mọi khoa học không có gì khác là
nghiên cứu sự vận động của vật chất.

d. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:


+ Một là, vận động cơ học của các vật thể trong không gian.
+ Hai là, vận động vật lý, là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản
+ Ba là, vận động hóa học là các quá trình hóa hợp và phân giải các chất.
+ Bốn là, vận động sinh vật là sự trao đổi chất trong cơ thể sống.
+ Năm là, vận động xã hội là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội.
Mỗi hình thức vận động cơ bản lại bao hàm rất nhiều hình thức vận động
khác nhau, song lại có quan hệ với nhau. Hình thức vận động cao được thực hiện
thông qua các hình thức vận động thấp. Nếu không có sự thay đổi hĩa học thì sẽ
không có sự thay đổi về nhiệt độ; nếu không có sự vận động của vô cơ, thì cũng
không có đời sống hữu cơ.

e. Vận động và đứng im:


Vũ Văn Thành 0932008296
13
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, đứng im chỉ là tạm thời
- Đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định, ví dụ: con tàu đứng im là
trong mối quan hệ với bến cảng, còn trong mối quan hệ với mặt trời và các thiên thể
khác thì nó đang vận động trong sự vận động của trái đất.
- Đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, chứ không phải với
mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Nói con tàu đứng im nhưng trong bản
thân nó thì sự vận động về vật lý, vận động về hoá học vẫn đang diễn ra.
- Đứng im, tức là vận động trong thăng bằng, dưới dạng sự vật cụ thể.
- Đứng im chỉ là tạm thời, nghĩa là không có sự vật nó tồn tại vĩnh viễn.
f. Vật chất vận động trong không gian và thời gian
- Vật chất luôn luôn vận động trong không gian và thời gian, có nghĩa là, bất
cứ sự vật, hiện tượng nào trong quá trình tồn tại đều có kích thước to nhỏ khác
nhau, thời gian tồn tại của sự vật ngắn hay di.
+ Không gian có ba chiều, chiều di, chiều rộng, chiều cao.
+ Thời gian chỉ có một chiều từ quá khứ đến tương lai.
Còn khi niệm “ không gian nhiều chiều ” mà ta thường thấy trong tài liệu
khoa học là khái niệm trừu tượng của khoa học dùng để chỉ tập hợp một số đại
lượng đặc trưng cho các thuộc tính khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân
theo những nguyên tắc biến đổi nhất định. Đó là một công cụ toán học dùng để
nghiên cứu chứ không phải để chỉ không gian thực, không gian thực chỉ có ba
chiều.
2. Ý thức, nguồn gốc, Kết cấu của ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức 
Ý thức là gì, do đâu mà có, để trả lời cho câu hỏi này mà trong lịch sử triết
học đã có nhiều quan điểm khác nhau:
- Triết học duy tâm quan niệm, ý thức là một thực thể độc lập không phụ
thuộc vào thế giới vật chất, có trước thế giới vật chất, sáng tạo ra thế giới vật chất
và chi phối thế giới vật chất được Pla - tôn gọi là “ ý niệm ”, H - ghen gọi là “ ý
niệm tuyệt đối ”

Vũ Văn Thành 0932008296


14
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Chủ nghĩa duy vật trước Mác không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên này
của ý thức, nhưng lại cho rằng tư tưởng được tiết ra từ óc cũng như gan tiết ra mật.
- Trên cơ sở tổng kết thành tựu của nhiều khoa học, đặc biệt là khoa học sinh
lý hệ thần kinh. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác bác bỏ những quan niệm sai
lầm trên và đưa ra nhận định mới về nguồn gốc của ý thức: ý thức là một thuộc tính
của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người có chức năng phản ánh, nhưng
không phải là phản ánh giản đơn, mà là phản ánh năng động sáng tạo.
- Trước hết chúng ta đều biết: phản ánh là thuộc tính vốn có của mọi đối
tượng vật chất. Ví dụ:
+ Phản ánh của giới vô cơ như mặt nước, mặt gương phản chiếu ánh sáng.
Sự phản ánh này mang tính đơn giản, không phân biệt, không lựa chọn.
+ Phản ánh của thực vật như hoa hướng dương biết hướng về phía mặt trời
để hấp thụ được nhiều năng lượng, rễ cây phát triển mạnh về hướng có nhiều phân.
Sự phản ánh này đã có sự lựa chọn.
+ Phản ánh của động vật lại phát triển cao hơn một bậc dưới dạng cảm giác,
tri giác và biểu tượng là nhờ có hệ thống thần kinh và bộ óc .
Nếu vậy, các loài động vật chúng có ý thức không? Trả lời rằng không, chỉ
con người mới có ý thức. Phản ánh dưới dạng cảm giác, tri giác và biểu tượng đó
mới chỉ là hiện tượng sinh lý và tâm lý chung của động vật, chứ chưa phải là ý thức.
Ý thức chỉ được hình thành gắn liền với lao động và sau lao động là ngôn ngữ thì ý
thức mới có thể xuất hiện. Như vậy, sự ra đời của ý thức có hai nguồn gốc:

- Nguồn gốc tự nhiên là bộ óc người, có chức năng phản ảnh:


Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, nó cũng có một quá trình tiến
hóa lâu dài hàng tỷ năm cùng với sự hình thành của trái đất, từ mầm sống đầu tiên
và phát triển đến đỉnh cao nhất của sự tiến hoá là xuất hiện loài người. Bộ óc người
(nặng trung bình 1,7 kg có khoảng15 tỉ tế bào), có chức năng thu nhận và điều
khiển cơ thể với thế giới bên ngoài, nhờ đó mà chúng ta mới biết được mùi vị, âm
thanh, màu sắc, nóng lạnh. Được Páp - lốp nhà sinh vật học người Nga gọi là phản
xạ có điều kiện và không có điều kiện. Do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì phản xạ
Vũ Văn Thành 0932008296
15
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

sẽ khơng chính xác nữa. Nếu vậy thì con vật có ý thức không? Trả lời rằng không,
chỉ có con người mới có ý thức. Như vậy, rõ ràng là ở con người có một cái gì đó
đặc biệt. Cái đặc biệt chính là thông qua lao động, vượn biến thành người và sau lao
động là ngôn ngữ thì ý thức mới xuất hiện.

b. Nguồn gốc xã hội:


Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể thiếu
được, nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là lao động .
- Lao động là điều kiện chủ yếu để con người tồn tại, phát triển. Đó là sự
khác nhau căn bản giữa con người với động vật. Nếu như ở động vật kinh nghiệm
sống được truyền qua bản năng di truyền, như đ được cài đặt sẵn trong bộ gien,
chúng chỉ biết sử dụng các sản phẩm có sẵn trong tự nhiên, nhưng những thứ đó
không còn nữa thì con vật sẽ bị chết đói, nhưng con người thì hoàn toàn khác, con
người không những biết sử dụng các thứ có sẵn trong tự nhiên mà còn tìm tòi, khám
phá, chinh phục, cải tạo tự nhiên theo ý đồ của mình, nhờ đó mà con người dần dần
nhận biết được những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của tự
nhiên, của xã hội dưới dạng những kinh nghiệm, những tri thức, nhờ vậy mà kho
tàng tri thức của loài người ngày càng được bổ sung thêm phong phú. Vì vậy, ý
thức không thể là từ bên ngoài đưa vào trong bộ óc, mà nó được hình thành từ khám
phá và cải tạo thế giới khách quan, từ lao động sản xuất gắn liền với sự ra đời của
ngôn ngữ.
- Lao động không phải là một hoạt động đơn lẻ, mà ngay từ buổi đầu sơ khai
con người đã biết quy tụ lại với nhau mang tính tập thể, tính xã hội. Vì vậy, trong
quá trình lao động tập thể đã nảy sinh nhu cầu cần phải trao đổi kinh nghiệm và tổ
chức lao động tập thể mà từ đó cái cuống họng của loài vượn biến đổi dần dần
thích ứng với một lối phát âm ngày càng phát triển. Nhờ có lao động mà ngôn ngữ
mới được hình thành. Nó đã trở thành hệ thống tín hiệu mang nội dung của ý thức.
Nếu không có hệ thống tín hiệu này thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ là phương tiện, là công cụ để khái quát hoá, trừu tượng hóa, ngôn ngữ
dùng để giao tiếp, truyền kinh nghiệm từ người này sang người khác, thế hệ này
sang thế hệ khác. Vì vậy, ý thức không phải là hiện tượng thuần túy cá nhân mà là

Vũ Văn Thành 0932008296


16
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

một hiện tượng mang tính lịch sử, tính xã hội. Nếu không có ngôn ngữ thì xã hội
không thể phát triển. Vì những lẽ trên, Ăng - ghen viết: “ Trước hết là lao động,
sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ
yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần biến chuyển
thành bộ óc con người ”.
c. Bản chất của ý thức 
Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý
thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người nhưng không
phải là sự phản ánh giản đơn, mà phản ánh một cách năng động và sáng tạo. ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Để hiểu rõ hơn bản chất của ý thức, chúng ta phải biết rằng: cả vật chất và ý
thức đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Vật chất là
cái được phản ánh tồn tại khách quan, nhưng khi nó đã được chuyển vào trong đầu
óc người ta thì nó lại trở thành hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần của sự vật
khách quan, (tức ý thức). Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản
ánh (vật chất) với cái phản ánh (ý thức).
- Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
nhưng nó không phải như là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật,
mà là sự phản ánh năng động sáng tạo. Do đó chỉ con người mới có ý thức, ý thức
được ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, chính vì vậy C.Mc
viết: ý thức “ chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó ”.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện thống nhất của ba mặt sau:
- Một là, nhận thức của con người bao giờ cũng xuất phát từ yêu cầu của
cuộc sống đặt ra, do đó những ý tưởng, tức sự suy tính phải có trước khi hành động,
đó là quá trình chọn lọc các thông tin, lựa chọn phương thức hành động, chứ không
thụ động như ở động vật.
- Hai là, những thông tin được sao, chép lại, dưới dạng hình ảnh tinh thần
được lưu giữ lại trong óc. Thực chất, đây là quá trình bắt đầu sáng tạo, có nghĩa là

Vũ Văn Thành 0932008296


17
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

đối tượng vật chất đã trở thành ý tưởng phi vật chất để rồi suy diễn, tưởng tượng
theo ý tưởng của mình.
- Ba là, chuyển sự tưởng tượng từ trong óc ra bên ngoài, và bằng lao động
con người đã biến những ý tưởng thành hiện thực, giai đoạn này con người phải lựa
chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tiến hành lao động nhằm đạt
được mục tiêu đề ra. Do đó chúng ta phải thấy được ý thức bao giờ cũng gắn liền
với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ bởi các quy luật sinh học mà
chủ yếu là các quy luật xã hội, các quy ước được hình thành trong quan hệ sản xuất,
do đó ý thức mang bản chất xã hội và lịch sử.
d. Kết cấu ý thức :

- Cấu trúc theo chiều ngang: gồm có tri thức và tình cảm.
+ Tri thức là kết quả nhận thức của con người về thế giới, được diễn đạt dưới
hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu. Được tách ra làm hai loại tri thức.
Tri thức thông thường, là những nhận thức thu nhận được từ hoạt động hàng ngày
của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc chưa được hệ
thống hoá. Tri thức khoa học là những nhận thức đã được đúc kết từ thực tiễn thành
lý luận, kinh nghiệm. Ngày nay, tri thức đang là yếu tố giữ vai trị quyết định đối với
sự phát triển kinh tế, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự
tăng trưởng kinh tế dài hạn bền vững.
+ Tình cảm là sự rung động của con người với xung quanh gây cho con
người có cảm giác vui buồn, yêu thương, căm giận… Vì vậy, một khi tri thức được
gắn với tình cảm thì hoạt động của con người sẽ được tăng thêm gấp bội lần.

-. Cấu trúc theo chiều dọc:


+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.
+ Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của ý thức chủ thể, là ý
thức dưới dạng tiềm tàng.
+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự

Vũ Văn Thành 0932008296


18
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

kiểm tra, tính toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau và
chỉ là mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vai trò tác dụng của ý thức. Ý
nghĩa phương pháp luận

Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
vật chất là cái có trước ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết
định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người, vì vậy con người phải tôn trọng thực tiễn khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan của mình.
a. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện :
+ Vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức, là cái có trước, cái
được phản ánh. Ý thức là cái có sau, là cái phản ánh
+ Vật chất là cái được phản ánh, nhưng khi những hình ảnh của vật chất, tức thế
giới khách quan đã được chuyển vào trong óc người ta ( sao chép, chép lại, chụp lại)
thì nó lại trở thành hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần của thế giới khách quan
(tức ý thức). Chính vì vậy, Mác viết “ Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó “.
+ Ý thức là cái phản ánh: Trước hết xét về nguồn gốc, ý thức là một thuộc tính
của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.
+ Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, có chức năng phản ánh, nhưng
không phải là sự phản ánh giản đơn, mà phản ánh mang tính năng động sáng tạo trên
cơ sở gắn liền với lao động và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới có thể xuất
hiện, như vậy ý thức phụ thuộc vo hoạt động của bộ óc người. Do đó, khi bộ óc bị tổn
thương thì nhận thức sẽ không chính xác nữa. Vì vậy, khi chưa có bộ óc người thì
không thể có ý thức.

b. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:

Ý thức là sự phản ảnh thế giới khách quan hiện thực vào bộ óc con người,
song ý thức lại có khả năng cải tạo, làm thay đổi hiện thực khách quan, nhưng bản
thân của ý thức không thể tự nó làm thay đổi được hiện thực khách quan. Ý thức chỉ
Vũ Văn Thành 0932008296
19
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

mới là khu nhận thức, còn việc cải tạo hiện thực khách quan lại cần phải có sự nổ
lực hành động của con người thì lúc đó những ý tưởng, những sáng tạo mới có thể
trở thành hiện thực được, do đó nhận thức đúng được quy luật vận động của thế giới
khách quan thì đó mới là cơ sở để hoạt động của con người đạt được mục tiêu, và
phương hướng đã đề ra. Ngược lại, ý thức của con người phản ánh sai thế giới
khách quan thì kết quả sẽ không thể đạt được như mong muốn.

c. Vai trò của ý thức: nhờ có ý thức mà trong quá trình thực tiễn con người
có thể lựa chọn phương án, phương thức nào có hiệu quả nhất để hoạt động và biết
phân biệt được cái nào đúng, cái nào sai, lợi hại, cái gì nên làm, cái gì nên tránh.

d. Ý nghĩa và phương pháp luận:


Để phát huy được tính năng động chủ quan của con người thì trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải tôn trọng tính khách quan, do đó trong
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải
lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình chứ không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chương trình hành động, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực
tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Trên cơ sở đó
Đảng ta đã rút ra bài học “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, phải tôn trọng quy luật khách quan”. Để phát huy được nhân tố chủ quan,
vai trò tích cực sáng tạo của ý thức nhằm đáp ứng được yêu cầu xây dựng lực lượng
sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà nhiệm vụ trung tâm là
phải công nghiệp hóa và hiện đại hoá, phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, muốn vậy “phải khơi dậy
trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt
Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu”.

Vũ Văn Thành 0932008296


20
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương II
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


1. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
- Khi niệm biện chứng: Biện chứng có nghĩa là, trong quá trình tồn tại các
sự vật, hiện tượng đều có liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc lẫn
nhau, tác động lẫn nhau trong trạng thái vận động biến đổi theo khuynh hướng
phát triển đi lên. Nguồn gốc của mọi sự vận động thay đổi ấy đều có nguyên nhân
là do đấu tranh của các mặt đối lập nằm ngay bên trong của sự vật.
- Có hai loại biện chứng: biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan,
(còn được gọi là biện chứng siêu hình), quan niệm của biện chứng siêu hình cho
rằng, các sự vật hiện tượng trong quá trình tồn tại chúng không phụ thuộc vào nhau
và không coi việc đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc là động lực của sự
phát triển, vì vậy, thuật ngữ siêu hình cũng được dùng để chỉ những người có tư
tưởng và hành động khi xem xét giải quyết sự việc không đặt chúng trong mối liên
hệ giữa sự vật này với sự vật khác, mà coi chúng tồn tại độc lập, tách rời không có
liên hệ với nhau, mọi sự vật đều tồn tại ở trạng thái tĩnh tại, không biến đổi.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
- Phép biện chứng thời cổ đại: các nhà triết học phương Đông và phương Tây
thời kỳ cổ đại đều cho rằng các sự vật, hiện tượng của thế giới luôn ở trạng thái sinh
thành, biến hóa trong mối liên hệ chằng chịt. Những quan niệm này mới chỉ là dựa
trên cơ sở quan sát trực quan, chưa có điều kiện để kiểm chứng bằng khoa học,
mang tính ngây thơ chất phác nhưng về cơ bản là đúng
- Phép biện chứng duy tâm: khởi đầu là triết học của Can - tơ, sau đó đã
được Hê - ghen trình bày thành một hệ thống. Song biện chứng của H - ghen là biện

Vũ Văn Thành 0932008296


21
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

chứng duy tâm, quan niệm thế giới tinh thần sản sinh ra thế giới vật chất, và cuối
cùng thế giới vật chất lại trở về với thế giới tinh thần.
- Phép biện chứng duy vật: trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất
của khoa học thời đó, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại, Mác và
Ăng - ghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng, sau đó đã được Lênin tiếp tục
phát triển hoàn thiện thành một hệ thống hoàn chỉnh. Phép biện chứng duy vật có
hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên lý về sự phát
triển. Từ đó rút ra ba quan điểm: toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể.

2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
- Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập trên
nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
- Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống
nhất giữa thế giới và phương pháp luận, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế
giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
II. HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Những nhà triết học siêu hình cho rằng giữa các sự vật và hiện tượng trong
thế giới chúng không có liên hệ với nhau, tách rời nhau, cái nào riêng cái ấy, cái này
bên cạnh cái kia, nếu chúng có liên hệ với nhau thì cũng chỉ là mối liên hệ bên
ngoài.
- Xuất phát từ quan điểm, thế giới thống nhất ở tính vật chất, có chung một
nguồn gốc. Triết học duy vật biện chứng khẳng định: các sự vật, hiện tượng trong
quá trình tồn tại chúng đều có liên hệ với nhau. Mối liên hệ được biểu hiện dưới các
dạng: không thể thiếu nhau, không tách rời nhau, ràng buộc lẫn nhau, tác động qua
lại lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, sự vật này tồn tại được là nhờ dựa vào sự vật
hiện tượng khác, nếu sự vật này thay đổi thì sự vật hiện tượng khác sớm muộn cũng
sẽ thay đổi theo. Những mối liên hệ ấy không những chỉ xảy ra giữa sự vật này với
sự vật khác mà ngay trong bản thân một sự vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ. Ví
dụ, trong nguyên tử có những êlectrôn mang điện âm, xoay xung quanh hạt nhân
mang điện dương, đối lập với nhau, nhưng chúng lại có liên hệ với nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau, tác động lẫn nhau, không thể thiếu nhau bằng lực hút và lực đẩy. Nếu vỏ

Vũ Văn Thành 0932008296


22
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

nguyên tử mất đi một hoặc nhiều êlectrôn thì sẽ làm cho nguyên tử đó không còn
cân bằng về điện, sẽ trở thành Ion dương, và ngược lại .
Hoặc trong một tế bào ta cũng thấy (tế bào động vật) gồm có:
1/ Màng tế bào: bảo vệ các bào quan bên trong tế bào.
2/ Tế bào chất:
- Mạng lưới nội chất:
+ Có hạt: tổng hợp protein cho tế bo.
+ Không hạt: tổng hợp lipit, gluxit cho tế bo.
- Ribosome: tham gia quá trình sinh tổng hợp protein.
- Ty thể: tổng hợp năng lượng cho tế bào hoạt động.
- Lyzosome: thực hiện chức năng tiêu hoá cho tế bào.
- Bộ Golgi: tham
gia quá trình bài tiết
cho tế bào (thải các
chất cặn bã).
- Trung thể:
trung tâm điều
khiển và tham
gia vào quá trình
phân chia tế bo.
3/ Nhân:
- Màng nhân:
bảo vệ nhân bên trong.
- Hạt nhân: tổng hợp và hình thành ribosome.
- Chất nhiễm sắc: là cơ sở chủ yếu của sự di truyền.
- Chức năng của nhn:
+ Lưu trữ và truyền đạt thông tin di truyền.
+ Duy trì sự sống cho tế bo.

Vũ Văn Thành 0932008296


23
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chúng ta thấy mỗi bộ phận của tế bào đảm nhận những chức năng riêng biệt,
nhưng chúng đều có mối liên hệ với nhau không thể tách rời nhau để tạo thành một
chỉnh thể. Do đó, nếu có một chức năng nào đó của tế bào hư hỏng thì các bộ phận
khác của tế bo cũng sẽ không hoạt động bình thường được nữa.
- Hoặc giữa trái đất của chúng ta với các hành tinh trong hệ mặt trời cũng có
mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau bằng lực hút và lực đẩy, nếu có một hành tinh nào
đó bị huỷ diệt thì nó sẽ kéo theo cả hệ mặt trời thay đổi. Còn trong xã hội thì
những mối liên hệ lại càng phức tạp hơn, Ví dụ: Người nông dân muốn cày ruộng
phải có cái cày, cái bừa, nhưng những thứ đó lại do người công nhân sản xuất. Để
sản xuất cày, bừa phải có nguyên liệu như sắt, thép, v.v… sắt thép lại phụ thuộc
vào người khai thác quặng, nghĩa là con người không thể sản xuất đơn độc được
mà phải dựa vào nhau, phụ thuộc vào nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi.
Tóm lại, liên hệ là một khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại,
sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự
vật, hiện tượng. Liên hệ là khách quan, phổ biến, đa dạng vốn có của các sự vật
hiện tượng cả ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Thế nào là mối liên hệ phổ biến: tính phổ biến được biểu hiện nó xảy ra ở
cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Thế nào là tính khách quan của mối liên hệ: tính khách quan của mối liên
hệ biểu hiện nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Thế nào là mối liên hệ đa dạng, phong phú: tính đa dạng, phong phú được
biểu hiện liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ yếu, liên
hệ bản chất, liên hệ không bản chất, liên hệ tất nhiên, liên hệ ngẫu nhiên…
+ Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này
giữ vai trị quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật.
+ Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Mối liên hệ này nhìn chung không giữ vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận
động, phát triển của sự vật, và nếu có nó cũng phải thông qua mối liên hệ bên trong
mới thực hiện được.

Vũ Văn Thành 0932008296


24
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Ví dụ, sự lĩnh hội tri thức của người học được quyết định bởi chính người đó,
còn sự tác động bên ngoài dù có tốt mấy đi chăng nữa mà người học không chịu học
thì không có cách nào đưa tri thức vào anh ta được, hoặc thế giới đang bước vào
nền kinh tế tri thức nó vừa tạo nên thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước chậm
và kém phát triển như nước ta. Đất nước ta có tranh thủ thời cơ, vượt qua được thử
thách để trở thành con rồng, con hổ của Châu Á hay không, trước hết phải phụ
thuộc vào trình độ của nhân dân ta, và nếu chúng ta không vượt qua được thử thách
này thì cũng sẽ không xây dựng được một nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
2. Nguyên lý về sự phát triển 
Để trả lời cho câu hỏi, các sự vật và hiện tượng trong thế giới trong quá trình
vận động diễn ra như thế nào mà từ đó trong lịch sử triết học đã có những quan
điểm khác nhau:

a. Quan điểm siêu hình:


Những nhà triết học duy vật trước Mác xem sự vận động phát triển của thế
giới chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về lượng mà không có sự thay đổi về chất, tức là
sự vật ra đời như thế nào thì trong quá trình vận động, chất của nó vẫn được giữ
nguyên, nếu có thay đổi thì cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có
sự sinh thành ra cái mới, chất mới. Sự phát triển là một qua trình tiến lên liên tục.

b. Quan điểm biện chứng (nội dung của nguyên lý):


Đối lập với phương pháp siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định: mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều vận động biến đổi, chuyển hoá từ
trạng thái này sang trạng thái khác. Sự vận động biến đổi ấy là vô cùng tận không
có kết thúc, có nhiều tính chất, khuynh hướng khác nhau, có sự vận động biến đổi
từ thấp tới cao, trái lại có sự vận động biến đổi dẫn đến tan rã, đi xuống thụt lùi. Do
đó, khái niệm vận động nói chung và khái niệm phát triển không đồng nghĩa với
nhau. Vì vậy, chúng ta phải xác định: phát triển là nói về sự vận động theo một xu
hướng đi lên, có đặc điểm tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, cái mới thay thế cho cái cũ đã lỗi thời, nhưng
không loại bỏ hoàn toàn cái cũ mà kế thừa, chọn lọc cái cũ.
Vũ Văn Thành 0932008296
25
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Phát triển không phải diễn ra theo một con đường thẳng tắp mà quanh co,
phức tạp theo đường vòng xoáy trôn ốc giống như lặp lại cái cũ nhưng cao hơn.
+ Phát triển là quá trình tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Nguồn gốc của sự phát triển là do mâu thuẫn nằm ngay bên trong của sự
vật đấu tranh với nhau, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí của con
người.
+ Phát triển là khách quan phổ biến, vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực từ tự nhiên
cho đến xã hội và cả trong tư duy.
Chứng minh và phân tích nguyên lý phát triển:
+ Phát triển là một quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Ví dụ: Trái Đất của chúng ta
đã trải qua hàng tỷ năm biến đổi phức tạp, đến một mức phát triển nào đó, trên mặt
đất xuất hiện sự sống, từ đơn bào đến đa bào và đỉnh cao nhất của sự tiến hoá là con
người, trong xã hội loài người, sự biến đổi và phát triển lại càng diễn ra nhanh
chóng bằng nhiều phương thức sản xuất kế tiếp trong lịch sử. So với thời thượng cổ,
thời đại ngày nay đã đạt đến trình độ phát triển với tốc độ phi thường, cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Do đó phép biện
chứng yêu cầu chúng ta phải hướng tới cái mới, phát hiện ra nó, nhìn về phía trước,
bồi dưỡng cho cái mới mau lớn mạnh, hoạt động theo hướng tiến lên.
+ Phát triển là một quá trình tích luỹ dần dần về lượng, dẫn đến sự thay đổi
về chất, nhưng do điều kiện mà có thể có những khuynh hướng vận động dẫn đến
sự thay đổi về chất. Ví dụ: trong giới sinh vật, do điều kiện hoàn cảnh mà có sự đột
biến về gien thì những đặc trưng trước đây của sự vật cũ không còn nữa chúng dần
dần ổn định và thích ứng với môi trường làm xuất hiện một giống loài mới, chẳng
hạn như vi rút cúm gà chúng chỉ có thể lây qua gia cầm lông vũ, nhưng do điều kiện
nó đã biến thể thành vi rút H5N1 nó đã thích ứng với môi trường và trở thành một
dòng vi rút mới lây lan qua người.
+ Phát triển không phải diễn ra theo một con đường thẳng tắp, mà quanh co
theo đường vòng xoáy trôn ốc giống như lặp lại ban đầu nhưng cao hơn.

Vũ Văn Thành 0932008296


26
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tóm lại: phát triển là một khái niệm dùng để chỉ sự biến đổi theo chiều
hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
3. Ý nghĩa và phương pháp luận
- Liên hệ và phát triển đi lên không ngừng là đặc điểm chung vốn có của giới
tự nhiên, xã hội và nhận thức của con người cho nên khi xem xét sự vật phải có
quan điểm phát triển, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể.
+ Về quan điểm toàn diện đòi hỏi khi phân tích sự vật phải xem xét sự vật
trong mối quan hệ giữa sự vật đó với cái khác; và phải phân biệt được cái nào là tất
yếu, cái nào là cơ bản, chủ yếu, cái nào là ngẫu nhiên, không cơ bản, không chủ
yếu. Đồng thời phải chống lại quan điểm siêu hình. Vì phương pháp siêu hình là trái
với khoa học.
+ Về quan điểm phát triển: quan điểm này đòi hỏi khi xem xét sự vật phải
vạch ra được cái tương lai trong cái hiện tại, cái mới trong cái cũ, nhưng không phải
là hoàn toàn loại bỏ cái cũ, mà có sự chọn lọc kế thừa những cái gì còn tiến bộ của
cái cũ, phải biết ủng hộ cái mới. Đồng thời nắm vững quan điểm này còn giúp cho
chúng ta tránh được hoang mang dao động khi sự phát triển gặp lúc thoái trào và
giữ vững được niềm tin của sự phát triển đi lên
+ Về quan điểm lịch sử cụ thể: giúp chúng ta nhận thức đúng đắn sự phát
triển bao giờ cũng xảy ra ở trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, không gian,
thời gian xác định. Cùng một sự vật nếu tồn tại ở trong những điều kiện hồn cảnh
khác nhau, khơng gian thời gian khác nhau thì tính chất của mối liên hệ và sự phát
triển của nó sẽ thay đổi khác nhau.
III. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT

1. PHẠM TRÙ LÀ GÌ?


a. Phạm trù là khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của các sự vật hiện tượng thuộc một
lĩnh vực nhất định của hiện thực.

Vũ Văn Thành 0932008296


27
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

b. Đặc điểm của phạm trù 


- Đặc điểm thứ 1à: từ cuộc sống thực tế, và đặc biệt trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học người ta cần phải khái quát hoá, hệ thống hoá các sự vật, các hiện
tượng trong thế giới hiện thực mà hình thành nên các khái niệm, các phạm trù. Như
vậy, phạm trù được xuất phát từ thực tiễn. Song cũng có những phạm trù sai lầm
như phạm trù trần gian, địa ngục, thiên đàng đó là những khái niệm không có căn
cứ chuẩn xác mà chỉ dùng để trao đổi thông tin trong dân gian.
- Đặc điểm thứ 2: phạm trù thuộc lĩnh vực nhận thức của con người, bởi vậy
bao giờ nó cũng mang tính xã hội, tính lịch sử.
2. Phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất

a. Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:


Trong thế giới vật chất có vô vàn các sự vật, hiện tượng, tồn tại riêng biệt, có
tên gọi riêng, nhưng giữa chúng cũng có những mặt giống nhau. Ví dụ: đồng, vàng,
bạc, sắt, khc nhau về tính chất hóa, lý cũng như hình thức, nhưng giữa chúng lại có
những thuộc tính giống nhau như dẫn điện, dễ dát mỏng. Hoặc cây thuộc họ lương
thực như lúa, khoai, bắp, rất khác nhau nhưng lại có thuộc tính chung là dinh
dưỡng, hoặc các nước Mỹ, Anh, Tây Ban Nha là những nước tư bản khác nhau,
nhưng lại có những nét giống nhau: bóc lột, hiếu chiến. Từ đó suy ra:
- Cái riêng là một khái niệm dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng một quá
trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là một khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không chỉ có ở một sự vật, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Ngoài ra còn có khái niệm “cái đơn nhất”. Tức là phạm trù dùng để chỉ
một sự vật mà không lặp lại ở sự vật hiện tượng khác.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung :


Trong lịch sử triết học khi giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
cũng có những quan điểm rất khác nhau, chẳng hạn như Pla-tơn quan niệm, cái
chung tồn tại vĩnh viễn, cái riêng chỉ là tạm thời. Ví dụ: cây xoài là chỉ một sự vật
cụ thể, nó có quá trình sinh ra, tồn tại trưởng thành rồi mất đi, nhưng khái niệm
Vũ Văn Thành 0932008296
28
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

chung về cái cây thì tồn tại mãi mãi. Từ đó ông đi đến kết luận, cái chung sinh ra
cái riêng. Ngược lại Can - tơ lại cho rằng, cái riêng mới là có thực, cái chung chỉ là
cái tên trống rỗng, do con người tưởng tượng đặt ra.
Các quan niệm trên đều sai lầm, họ đã tách rời cái riêng ra khỏi cái chung,
tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung và ngược lại, trên cơ sở kế thừa phát
triển chọn lọc thành tựu của các khoa học, phép biện chứng duy vật khẳng định cái
riêng và cái chung đều có thật, tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, và được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Thứ nhất, cái chung tồn tại được là nhờ có mối liên hệ với cái riêng và
phải thông qua cái riêng mới biểu hiện sự tồn tại của mình. Ví dụ: kim loại có
thuộc tính chung là dẫn điện, nhưng dẫn điện lại phải thông qua đồng, vàng, bạc,
sắt. Hoặc cây thuộc họ lương thực có thuộc tính chung là dinh dưỡng, nhưng chất
dinh dưỡng phải thông qua cây lúa, cây bắp, cây khoai thì người ta mới biết được
chúng có chứa các chất dinh dưỡng gì? Hoặc đặc điểm chung và nỗi bật của chủ
nghĩa tư bản là bóc lột, hiếu chiến, nhưng bóc lột, hiếu chiến phải thông qua hành vi
của từng nước cụ thể là Mỹ, Anh, Tây Ban Nha. Hoặc người Việt Nam có đức tính
cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhưng cần cù trong lao động,
dũng cảm trong đấu tranh chỉ bộc lộ thông qua từng con người cụ thể thì mới có thể
biết được hành vi anh hùng. Như vậy, rõ ràng cái chung là có thực, cái chung không
phải tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng thì mới biểu hiện được
mình.
- Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. Ví dụ: đời
sống kinh tế mỗi gia đình Việt nam ngày càng khá lên (là cái riêng), nhưng mỗi gia
đình đó lại không thể tách ra khỏi các chính sách kinh tế - xã hội và phải chịu sự
quản lý của xã hội. Như vậy, không có cái riêng nào tồn tại mà không liên hệ với
cái chung.
- Thứ ba, cái riêng là toàn bộ, do đó nó mang tính trọn vẹn, còn cái chung
chỉ là bộ phận do đó nó mang tính phong phú là ở chỗ mà cái khác không thể có
được. Ví dụ, vàng có giá trị lớn, dễ dát mỏng, dẫn điện tốt hơn. Còn dẫn điện chỉ là
bộ phận, một thuộc tính mà kim loại nào cũng có, nó mang tính sâu sắc là vì nó gắn

Vũ Văn Thành 0932008296


29
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

liền với bản chất của sự vật, là cái quy định phương hướng tồn tại, phát triển của sự
vật.
- Thứ tư, cái chung và cái riêng có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật: ví dụ: sáng kiến phát minh là của một cá nhân nhưng khi đã
mang ứng dụng thì nó lại trở thành cái chung hoặc vi rút cúm gà chỉ lây qua gia cầm
lông vũ, nhưng nó đã biến thể thành vi rútt H5N1 và thích ứng với môi trường và nó
đã trở thành một dạng vi rút mới.

c. Ý nghĩa: làm việc gì cũng vậy phải biết kết hợp lợi ích của cái chung và
cái riêng một cách hài hòa hợp lý thì sự vật mới phát triển được. Nếu quá đề cao cái
chung thì sẽ trở thành giáo điều, siêu hình không thực tế và không thấy được tính đa
dạng phong phú của cái riêng còn quá đề cao cái riêng thì sẽ trở nên hẹp hòi ích kỷ
cá nhân cục bộ.
3. Phạm trù nguyên nhân và kết quả 

a. Khái niệm:
+ Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong cùng một sự vật, hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra những biến đổi nhất định.
+ Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau
Thông thường, người ta thường hiểu khái niệm nguyên nhân và kết quả một
cách đơn giản là do hiện tượng A tác động gây nên kéo theo sau nó là hiện tượng B
xuất hiện. Ví dụ: hạt đậu gieo xuống đất gặp độ ẩm, ánh sáng thích hợp làm cho hạt
đậu nẩy mầm. Mầm cây đậu là kết quả, còn nguyên nhân chính là sự tương tác của
độ ẩm, ánh sáng. Nhưng tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân thì chúng ta thấy không
phải chỉ có độ ẩm, ánh sáng không thôi mà còn có sự tác động của cơ chế bên trong
(phôi và chất dinh dưỡng) của hạt đậu gây kích thích làm cho hạt đậu nảy mầm
(nguyên nhân bên trong), còn độ ẩm, ánh sáng là nguyên nhân bên ngoài. Hoặc hậu
quả gây ra lũ lụt, hạn hán, nguyên nhân là do chặt phá rừng, bầu không khí bị nóng
lên do sự tác động của con người, thời tiết trái đất thay đổi. Hoặc kết quả của việc
giá xăng dầu trên thế giới tăng lên liên tục, nguyên nhân là do Mỹ đánh Irắc, do
nguồn nhiên liệu trên thế giới đang cạn kiệt dần, do nhu cầu sử dụng của thế giới
Vũ Văn Thành 0932008296
30
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

ngày càng nhiều... hoặc nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhất khu vực Đông Nam Á.
Nguyên nhân là do có đường lối đúng, phù hợp với lòng dân, nguyên nhân do thời
tiết thuận lợi, nguyên nhân do quan hệ quốc tế rộng...
Từ những phân tích trên ta thấy: nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên
nguyên nhân bao giờ cũng phải có trước và để có một kết quả ra đời thường không
phải do một nguyên nhân mà có thể có nhiều nguyên nhân gây ra, đồng thời một
nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả, và đến lượt kết quả lại trở thành
nguyên nhân tiếp theo. Tuy nhiên không phải bất cứ sự nối tiếp nào trong thời gian
cũng đều là mối liên hệ nhân quả, mà phải biết rằng: giữa nguyên nhân và kết quả là
mối quan hệ sản sinh. Do đó trên thực tế chúng ta phải thấy cùng một nguyên nhân
giống nhau, nhưng do điều kiện khác nhau, thì kết quả sẽ khơng giống nhau. Vì
vậy, trong đời sống việc phát hiện, sự phối hợp, tác động của nhiều nguyên nhân
hay nguyên nhân tổng hợp địi hỏi mỗi chng ta phải phn tích đến điều kiện cụ thể để
biết được tính chất, vai trị của mỗi loại nguyn nhn đối với kết quả.
Tóm lại: liên hệ nhân quả giữa các sự vật hiện tượng mang tính khách quan,
tính phổ biến, tính tất yếu.

b. Nhân quả mang tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu:
- Thế nào là tính khách quan: không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Thế nào là tính phổ biến: xảy ra ở mọi sự vật hiện tượng.
- Thế nào là tính tất yếu: Nguyên nhân tốt sinh ra kết quả tốt và ngược lại.

c. Mối quan hệ nhân quả:


Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng phải có
trước, nhưng rồi đến lượt kết quả lại trở thành nguyên nhân. Ví dụ:
+ Sự tác động của từ thông biến thiên trên dây dẫn (nguyên nhân) tạo ra
dòng điện cảm ứng (kết quả)
+ Cuộc đấu tranh giữa những lợi ích đối kháng là nguyên nhân của sự xuất
hiện Nhà nước và giai cấp
+ Sự tác động của kinh tế (nguyên nhân) sản sinh ra những quan hệ về chính
trị và tư tưởng (kết quả).

Vũ Văn Thành 0932008296


31
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tuy nhiên không phải bất cứ sự nối tiếp nào trong thời gian cũng đều là mối
liên hệ nhân quả, ví dụ sự nối tiếp của ngày và đêm, mà phải biết rằng: giữa nguyên
nhân và kết quả là mối quan hệ sản sinh.
- Từ sự phân tích trên ta thấy: không phải bất cứ mối quan hệ nối tiếp nào về
mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả, mà chỉ có những mối quan hệ trong sự
tương tác, sản sinh mới thực sự là nguyên nhân. Nhưng việc phân biệt và phát hiện
ra mối liên hệ nhân quả trong đời sống hiện thực rất phức tạp, mà phải thấy rằng:
+ Một kết quả ra đời thường không phải do một nguyên nhân mà có thể có
nhiều nguyên nhân gây ra.
+ Một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả.
+ Kết quả ra đời là do nguyên nhân sản sinh, nhưng rồi đến lượt kết quả lại
trở thành nguyên nhân. Do đó, nếu là nguyên nhân tốt sẽ sinh ra kết quả tốt và
ngược lại, và trên thực tế chúng ta cũng phải thấy được: cùng một sự vật, hiện
tượng có nguyên nhân giống nhau, nhưng do điều kiện khác nhau, thì kết quả sẽ
khơng giống nhau. Vì vậy trong đời sống việc phát hiện, sự phối hợp, tác động của
nhiều nguyên nhân hay nguyên nhân tổng hợp đòi hỏi mỗi chúng ta phải phân tích
đến điều kiện cụ thể để biết được tính chất, vai trị của mỗi loại nguyên nhân đối với
kết quả.

d. Phân biệt các loại nguyên nhân :


- Nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu:
+ Nguyên nhân chủ yếu là nếu không có nó thì kết quả không xuất hiện.
+ Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc
điểm nhất thời, tác động có giới hạn và mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài:
+ Nguyên nhân bên trong là những yếu tố, những mặt nằm bên trong sự vật
sự tác động lẫn nhau gây nên sự biến đổi. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn
nhau giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi giữa các sự vật.
+ Nguyên nhân bên trong thường giữ vai trị quyết định, nguyên nhân bên
ngoài đôi khi cũng có vai trị quyết định, nhưng không thể thay thế nguyên nhân bên

Vũ Văn Thành 0932008296


32
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

trong. Cả hai loại nguyên nhân trên đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau mới phát
huy tác dụng.

e. Ý nghĩa và phương pháp luận:


+ Một là, nguyên nhân và kết quả thường xuyên thay đổi vị trí cho nhau, do
đó trong hoạt động thực tiễn, cần phải nghiên cứu sự vật hiện tượng nằm trong mối
quan hệ, phạm vi, giới hạn, điều kiện vào một thời gian cụ thể.
+ Hai là, một hiện tượng do nhiều nguyên nhân sản sinh ra, nên khi nghiên
cứu một hiện tượng không nên vội vàng kết luận về nguyên nhân của nó mà phải
nghiên cứu xem xét nhiều mặt, đồng thời phải phân loại các nguyên nhân để có biện
pháp hành động thích hợp, không rập khuôn, máy móc.
+ Ba là, trong các nguyên nhân, phải tìm ra nguyên nhân nào là chủ yếu,
nguyên nhân bên trong hay nguyên nhân bên ngoài, và cần phải chú ý đến sự tác
động của nhiều nguyên nhân
4. Phạm trù khả năng và hiện thực 

a. Khái niệm:

+ Khả năng là phạm trù dùng để chỉ cái còn là mầm mống trong quá trình
của sự vật đó, là cái chỉ mới là tiền đề của khuynh hướng phát triển và chỉ có thể ra
đời khi có điều kiện thích hợp.

+ Hiện thực là phạm trù chỉ cái đã ra đời, đã xuất hiện,đã được thực hiện,
đó là sự vật và hiện tượng đang tồn tại trong thực tế.

b. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem khả năng như là tiền đề của cái mới, là xu
hướng phát triển của sự vật. Khả năng nằm ở bên trong bản thân sự vật, khi gặp
những điều kiện thích hợp nó sẽ trở thành hiện thực, hiện thực lại sản sinh ra những
khả năng mới, những khả năng này trong những điều kiện thích hợp lại trở thành
hiện thực. Điều đó nói lên quá trình phát triển vô cùng tận của thế giới vật chất.
Phép biện chứng chỉ ra rằng không được tách rời khả năng và hiện thực vì hiện thực
no cũng chứa đựng khả năng của nó và khả năng bao giờ cũng có nguồn gốc từ
trong hiện thực và có xu hướng chuyển thành hiện thực. Song, không được đồng
Vũ Văn Thành 0932008296
33
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

nhất chúng vì không phải bất kỳ khả năng nào cũng được chuyển hóa thành hiện
thực. Khả năng sẽ trở thành tất yếu, khi có điều kiện thì sẽ biến thnh hiện thực. Khả
năng biến thành hiện thực là một quá trình mâu thuẫn phức tạp. Không phải bao giờ
khả năng cũng dễ dàng trở thành hiện thực, sự chuyển hóa đó phải có những điều
kiện nhất định. Hạt giống có khả năng mọc thành cây, thì phải có những điều kiện
như đất, ánh sáng, nhiệt độ thích hợp. Vì vậy trong thực tế cuộc sống khi nắm được
khả năng, con người có thể can thiệp thúc đẩy hoặc là ngăn chặn khả năng đó biến
thành hiện thực. Ví dụ: thời kỳ kinh tế thị trường nhất định sẽ xảy ra hiện tượng
phân hoá giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột, khả năng đó sẽ xảy ra, vì vậy trong công
tác quản lý kinh tế xã hội phải có biện pháp chủ trương cụ thể, là quá trình đấu tranh
bền bỉ của những con người do lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội thúc đẩy.
5. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

a. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên?


- Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn một cách hợp quy luật từ
những mối liên hệ cơ bản ở bên trong sự vật nhất định phải xảy ra.
- Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn từ những mối liên hệ
bên ngoài của sự vật do đó nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra.
Ví dụ: nhà tư bản bóc lột sức lao động của người công nhân là tất nhiên. Còn
việc nhà tư bản mở xí nghiệp để sản xuất mặt hàng gì, thuê ai, thì hoàn toàn là ngẫu
nhiên. Bởi vì cái mà nhà tư bản quan tâm chỉ là lợi nhuận, do đó nhà tư bản sẽ nhắm
vào mặt hàng nào có lời nhiều thì sẽ đầu tư vào sản xuất, có thể sẽ là sản xuất hàng
tiêu dùng và cũng có thể là sản xuất vũ khí giết người hàng loạt v.v.. hoặc, chúng ta
ai cũng phải tuân theo quy luật: sinh – lo – bệnh -tử, nhưng tử như thế nào, bao giờ,
là ngẫu nhiên...

b. Mối liên hệ biện chứng tất nhiên và ngẫu nhiên


+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, là sự thống nhất của các
mặt đối lập và có quan hệ biện chứng với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
được biểu hiện, ví dụ: nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh thường xảy ra hiện
tượng như phá sản, thất nghiệp, di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác, hiện
Vũ Văn Thành 0932008296
34
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

tượng này là do có nhiều nguyên nhân ngẫu nhiên gây nên như đầu cơ, cạnh tranh
đầu tư kỹ thuật, chiến tranh xung đột, khủng bố, cung cầu của thị trường . . ., nhưng
thông qua sự phá sản, thất nghiệp, di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác mà
cái tất nhiên được biểu hiện là do quy luật giá trị điều tiết chi phối thị trường. Như
vậy, cái tất nhiên được thể hiện bao giờ cũng phải xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên,
còn cái ngẫu nhiên là hình thức của cái tất nhiên. Cái tất nhiên của nền kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến phá sản, dẫn đến di chuyển vốn từ ngành này
sang ngành khác, nhưng việc dẫn đến phá sản, di chuyển vốn từ ngành này sang
ngành khác lại là ngẫu nhiên và thông qua cái ngẫu nhiên này mà cái tất nhiên được
thể hiện, như vậy, cái ngẫu nhiên bao giờ cũng là hình thức của cái tất nhin.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và chúng đều có một vai
trị vị trí đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật.
Vai trò, vị trí của tất nhiên và ngẫu nhiên được biểu hiện ở chỗ: Nếu như cái
tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật, thì cái ngẫu nhiên lại có vai
trò làm sự phát triển ấy diễn ra nhanh hoặc chậm. Ví dụ: Tổng Thống Mỹ là Bush
đại diện phái Diều Hâu là Đảng Cộng hòa, là tập đoàn tư bản công nghiệp sản xuất
phương tiện phục vụ cho chiến tranh cho nên tất nhiên ông ta chủ trương ưu tiên
cho việc mở rộng chiến tranh, xung đột, muốn đánh nhanh thắng nhanh ở IRắc,
nhưng những yếu tố ngẫu nhiên của chiến tranh làm cho lính Mỹ chết nhiều, sự nỗi
dậy của các phe phái mà Mỹ không lường trước được, phản đối của cộng đồng quốc
tế, nhân dân Mỹ phản đối, Hạ viện Mỹ không thông qua ngân sách chiến tranh, đòi
rút quân khỏi IRắc, tất cả những yếu tố ngẫu nhiên ấy đã làm cho nước Mỹ sa lầy ở
IRắc không thể đánh nhanh thắng nhanh
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên còn có thể chuyển hóa cho nhau: ví dụ, trong giới
sinh vật, một khi có biến đổi ngẫu nhiên đột biến về gien thì những đặc trưng trước
đây không còn nữa đối với một giống loài và dần dần chúng ổn định và thích ứng
với môi trường thì nó sẽ trở thành tất nhiên để rồi có một giống loài mới ra đời.

c. Ý nghĩa, phương pháp luận:


- Một là, muốn khám phá tính tất nhiên của sự vật, trước hết chúng ta phải
nghiên cứu hàng loạt những hiện tượng ngẫu nhiên để tìm ra cái chung, mặt khác ở

Vũ Văn Thành 0932008296


35
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

đằng sau những ngẫu nhiên, có những ngẫu nhiên mà con người không mong muốn
thì phải tìm cách hạn chế, đồng thời phải phát hiện ra cái ngẫu nhiên có lợi để phục
vụ cho công việc của mình.
- Hai là, nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật của nó thì
cái ngẫu nhiên có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện. Do đó trong hoạt động thực
tiễn, chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên, phải căn cứ vào cái tất nhiên để đề ra
nhiệm vụ phương hướng hoạt động chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên đầy phiêu
lưu mạo hiểm, may rủi.
6. Phạm trù bản chất và hiện tượng

a. Khái niệm:
+ Bản chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tất cả những mặt, những
mối liên hệ hợp thành một hệ thống hữu cơ bên trong, quy định sự vận động và phát
triển của sự vật.
+ Hiện tượng là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những mối liên hệ biểu
hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.

Ví dụ: bản chất một con người là toàn bộ những mối quan hệ của anh ta với
xã hội, còn hiện tượng là những hành vi được bộc lộ ra bên ngoài khi giao tiếp. Bản
chất của nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, hiện tượng là sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, người bóc lột người, phá sản thất nghiệp...

b. Mối liên hệ bản chất và hiện tượng được thể hiện như sau:

+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: bản chất, hiện tượng tồn tại
khách quan và có liên hệ hữu cơ với nhau, bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua các
hiện tượng, còn hiện tượng thì bao giờ cũng là sự biểu hiện bản chất: ví dụ bản chất
chế độ bao cấp, do Nhà nước phân phối với giá rẻ, nhưng từ khi chuyển sang cơ chế
thị trường, tất cả các chế độ đều đưa vào tiền lương thì những hiện tượng phân phối
theo tem phiếu cũng mất theo. Do đó, bản chất của một sự vật hiện tượng bị tiêu
diệt thì hiện tượng do nó sinh ra cũng mất theo. Bản chất mới thì các hiện tượng
mới gắn liền với nó cũng ra đời. Giữa bản chất và hiện tượng có sự thống nhất,
nhưng là sự thống nhất biện chứng, sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.

Vũ Văn Thành 0932008296


36
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: thống
nhất giữa bản chất và hiện tượng không phải là một nguyên tắc tuyệt đối, đôi khi ta
thấy một số hiện tượng nhìn bề ngoài không có sự ăn khớp giữa bản chất và hiện
tượng. Trong trường hợp ấy, sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tìm ra bản chất thực sự,
chẳng hạn, trong mối quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân có thể có những kết
luận sai lầm, nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân và họ đã được trả
công đầy đủ. Kết luận đó làm cho cái bản chất thật sự của mối quan hệ giữa nhà tư
bản với người công nhân không những không được vạch ra mà còn bị che giấu và bị
xuyên tạc. Cần thấy rằng hiện tượng bộc lộ bản chất, biểu hiện bản chất, nhưng bộc
lộ dưới bị xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Điều đó nói lên rằng muốn nhận
thức được sự vật hiện tượng thì không thể dừng lại ở bên ngoài, mà đòi hỏi chúng ta
phải đi từ hiện tượng đến bản chất. Trên cơ sở đó chúng ta rút ra những ý nghĩa và
phương pháp luận như sau:
- Một là, nhận thức không đựơc dừng lại bên ngoài sự vật, mà phải đi sâu
vào bên trong để làm sáng tỏ bản chất được ẩn giấu đằng sau hiện tượng.
- Hai là, trong hoạt động thực tiễn, không nên căn cứ vào hiện tượng mà cần
phải dựa vào bản chất.
7. Phạm trù nội dung và hình thức
a. Khái niệm:
+ Nội dung là toàn bộ những yếu tố, những mặt và những quá trình tạo nên
sự vật do sự tác động lẫn nhau giữa chúng nằm ngay bên trong của các sự vật hay
hiện tượng.
+ Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các
mối liên hệ tương đối bền vững của sự vật đó.
Ví dụ: nội dung của một con người là toàn bộ những yếu tố như là tế bào, cơ
quan cảm giác, hệ thần kinh v.v… Hình thức là kết cấu, sắp xếp của các bộ phận cơ
bắp, hoặc nội dung của một xã hội là các quan hệ sản sản xuất, còn hình thức được
biểu hiện dưới hình thức các chính sách kinh tế - xã hội.
b. Mối liên hệ nội dung và hình thức:

Vũ Văn Thành 0932008296


37
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất. Nội dung nào
thì có hình thức ấy, nội dung quyết định hình thức. Do đó sự biến đổi của một sự
vật nào đó, nội dung phải biến đổi trước và khi nội dung biến đổi nó kéo theo hình
thức cũng biến đổi. Nhưng không có nghĩa là hình thức chỉ thụ động, “ngoan
ngoãn” đi theo nội dung mà hình thức còn có vai trò tác động trở lại đối với nội
dung, sự tác động đó thường diễn ra theo hai hướng:
+ Một là, nếu hình thức phù hợp với nội dung thì nó sẽ trở thành động lực
tích cực thúc đẩy nội dung phát triển.
+ Hai là, nếu hình thức không phù hợp với nội dung nó sẽ cản trở sự phát
triển. Ví dụ: sự chuyển biến từ chế độ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường ở nước ta là cả một quá trình giải quyết các mâu thuẫn giữa nội dung và hình
thức. Hình thức mới, tức là các chính sách kinh tế mới ra đời, nó đã trở thành động
lực giải phóng sức sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội (nội dung).
- Hình thức và nội dung không chỉ có mối liên hệ hữu cơ phụ thuộc vào nhau
mà chúng còn chuyển hóa lẫn nhau.
Từ tính quy luật của nội dung và hình thức, chúng ta rút ra một số kết luận:
- Một là, hình thức do nội dung bên trong quyết định, vì vậy muốn thay đổi
sự vật nào đó trước hết phải thay đổi nội dung bên trong trước, hình thức cũng có
vai trò tác động đến sự phát triển của nội dung khi nó có sự phù hợp với nội dung,
do đó muốn thúc đẩy một sự vật hiện tượng nào đó phát triển, cần phải chú ý theo
dõi mối quan hệ giữa nội dung với hình thức. Khi giữa chúng có sự phù hợp thì con
người phải can thiệp vào tiến trình phát triển làm cho sự vật phát triển nhanh chóng
hơn .
- Hai là, trong đời sống hiện thực, nếu tách rời hình thức khỏi nội dung sẽ
trở thành quan liêu, siêu hình, tuyệt đối nội dung, xem nhẹ hình thức cũng là sai
lầm, có hại cho sự phát triển, bởi vì nội dung chỉ có thể biểu hiện thông qua hình
thức. Trong sản xuất mà coi thường bao bì mẫu mã thì không thu hút được khách
hàng, sản xuất không phát triển không bảo đảm được tính cạnh tranh.
- Ba là, ngày nay, cuộc sống đang biến đổi từng ngày. Cái mới không ngừng
phát triển lớn mạnh. Vì vậy, cần nắm vững phép biện chứng giữa hình thức và nội

Vũ Văn Thành 0932008296


38
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

dung, cần phải chăm chú theo dõi sát tình hình thực tế. Một khi có triệu chứng báo
hiệu hình thức không còn thúc đẩy nội dung phát triển nữa, thì phải kịp thời cải biến
nó, kiên quyết vứt bỏ hình thức đã lỗi thời, ra sức phát hiện và ủng hộ những hình
thức mới song cần tránh bệnh chủ quan, tùy tiện trong việc thay đổi hình thức một
cách không có căn cứ, tách rời nội dung.

IV. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Định nghĩa
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt trong cùng một sự vật và hiện tượng.
Có nhiều quy luật vận động trong thế giới khách quan. Có những quy luật chỉ
tác động trong một lĩnh vực nào đó như quy luật vận động của vật lý, hóa, sinh
vật… nhưng cũng có quy luật chung tác động trong mọi lĩnh vực của thế giới.
2. Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội 
Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội hình thành vận động đều mang tính
khách quan. Quy luật tự nhiên hình thnh vận động thông qua sự tác động giữa các
lực lượng của tự nhiên, còn quy luật xã hội hình thành vận động thông qua hoạt
động của con người, nhưng lại không phụ thuộc vào ý thức của con người.
3. Tính khách quan của quy luật và vai trò của con người
Nói đến quy luật là nói đến tính tất yếu khách quan, nhưng điều đó không có
nghĩa là con người bó tay phục tùng chịu sự chi phối của tính tất yếu như một định
mệnh, trái lại con người có thể phát hiện ra quy luật, nhận thức, vận dụng các quy
luật đó nhằm phục vụ cho mục đích của mình, tạo điều kiện cho quy luật mau chóng
phát sinh tác dụng hoặc hạn chế những quy luật nào đó không có lợi
Lịch sử đã chứng minh, khi nào con người chưa nhận thức được quy luật
hoặc hành động tuỳ tiện thì sẽ bị quy luật “trả thù”, khi đó con người sẽ trở thành
“nô lệ” của tính tất yếu, nhưng khi con người nhận thức được quy luật thì con người
có thể điều khiển hoạt động của mình hợp quy luật sẽ trở thành tự do. Vì vậy, Đảng
ta cho rằng, sự lạc hậu về nhận thức lý luận là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sai lầm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội. Cho nên, đổi mới tư duy chính là nhận

Vũ Văn Thành 0932008296


39
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thức và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan đang là một yêu cầu bức
thiết của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

4. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại 
a. Tóm tắt nội dung quy luật chất – lượng
Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong quá trình tồn tại cũng có hai mặt chất và
lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định, nhưng do lượng thường xuyên biến
đổi, sự biến đổi của lượng vượt quá giới hạn quy định về độ, tức điểm nút của sự
vật sẽ nhảy sang chất mới. Sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời. Sự vật mới lại tự quy
định cho mình chất mới, lượng mới và lại tiếp tục đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau,
cứ thế làm cho sự vật hiện tượng trong thế giới không ngừng vận động phát triển từ
thấp lên cao, đó là đặc điểm vốn có trong tự nhiên cũng như trong xã hội và tư duy.
Vậy: lượng, chất, độ, điểm nút, bước nhảy là gì ?

- Chất là một khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính của sự vật, làm cho nó khác với
các sự vật khác.
Ví dụ: Chất khách quan vốn có của đường là ngọt, của muối là mặn, của
kim loại là dẫn điện, chất vốn có của chủ nghĩa Đế quốc là bóc lột, hiếu chiến, nhờ
vậy mà chúng ta mới phân biệt được giữa sự vật này với sự vật khác. Nhưng để
nhận biết được chất của sự vật rất phức tạp, mà phải biết rằng: Chất là bao gồm tất
cả các yếu tố cấu thành nên sự vật, là hình thức tổ chức nhất định của sự vật, là
tổng hợp các thuộc tính, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính.
Ví dụ: Chất của nước ( H2O )
+ Có các yếu tố cấu thành: 2 nguyên tử H và 1 nguyên tử O.
+ Hình thức tổ chức: tồn tại ở thể lỏng, trong suốt, không mùi vị .
+ Tổng hợp những thuộc tính của nước: để uống, nấu ăn, tắm, tưới cây, làm
mát máy, lợi dụng nước để nâng vật nặng, vận chuyển hàng hóa . . . Như vậy, nước
trong quá trình tồn tại khơng phải chỉ có một, mà có rất nhiều công dụng, tính chất,
và mỗi công dụng, tính chất của nước còn được gọi là thuộc tính và mỗi thuộc tính
lại tuỳ thuộc vào mối liên hệ với sự vật khác mà xác định đó là chất hay thuộc tính,
Vũ Văn Thành 0932008296
40
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

vì vậy, muốn nhận biết được chất của một sự vật nào đó chúng ta phải nhận thức
chúng trong trạng thái vận động, liên hệ. Do đó, chất của một sự vật, hiện tượng
không phải một lúc tức thời mà người ta có thể phát hiện ra hết, đồng thời chúng ta
cũng thấy: một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại có chất cơ bản và những
chất không cơ bản, cho nên, trong quá trình vận động có một số thuộc tính không
cơ bản thay đổi, thậm chí mất đi, nhưng chất nói chung của sự vật vẫn không thay
đổi và chỉ khi nào thuộc tính cơ bản không còn nữa thì chất nói chung của sự vật
mới thay đổi. Ví dụ: Thuộc tính tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản ngày nay về
cơ bản đã được thay thế bằng tư bản độc quyền Nhà nước nhưng bản chất cơ bản
của chủ nghĩa tư bản là bóc lột, hiếu chiến vẫn không thay đổi.
- Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định bên trong vốn có của các sự
vật, hiện tượng, nhưng chưa nói rõ lên được giữa sự vật này với sự vật khác, mà
chỉ mới nói lên được trình độ, số lượng, qui mô phát triển cũng như các thuộc tính
của sự vật.
Ví dụ: Phân tử của H2O nhất thiết phải là 2 nguyên tử H và 1 nguyên tử O,
lúc này lượng được diễn tả bằng con số chính xác có thể đo đếm được. Nhưng có
khi, lượng không thể đo đếm bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận thức
được bằng tư duy trừu tượng, thì lúc này lượng lại là yếu tố bên trong.
- Độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Ví dụ, nước tồn tại ở nhiệt độ từ 0 0C - 1000C,
nhưng khi tăng dần lên từ 10C đến 500C - 800C - 900C, rồi 1000C, mặc dù đã có sự
thay đổi ít nhiều cả chất và lượng, song nó vẫn là nước tồn tại ở trạng thái lỏng,
trong suốt, không mùi vị.
- Điểm nút của sự vật là khái niệm dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay
đổi về lượng đ đủ để làm thay đổi về chất của sự vật. Ví dụ: Nước tồn tại ở nhiệt độ
từ 00C - 1000C, nhưng khi nhiệt độ vượt trên 100 0C nước sẽ chuyển thành thể hơi
và nếu giảm nhiệt độ xuống dưới 00C nước sẽ chuyển thành thể rắn .
- Bước nhảy là sự chuyển hoá của chất về sự vật từ trạng thái này sang
trạng thái khác, nguyên nhân là do sự thay đổi về lượng trước đó gây nên. Ví dụ:
Nước tồn tại ở nhiệt độ từ 0 0C - 1000C, nhưng tăng trên 1000C nước sẽ chuyển
thành thể hơi, giảm dưới 00C nước sẽ chuyển thành thể rắn .
Vũ Văn Thành 0932008296
41
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

b. Quan hệ biện chứng giữa chất – lượng


- Lượng và chất thống nhất với nhau ở một độ nhất định
Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong quá trình tồn tại cũng đều có chất và
lượng là hai mặt đối lập của một thể thống nhất, có liên hệ với nhau. Ví dụ: nước
tồn tại ở thể lỏng trong điều kiện từ 00C - 1000C
- Lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại.
+ Lượng đổi dẫn đến chất đổi: Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về
chất, tức chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác của các sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Nước tồn tại ở nhiệt độ từ 00C - 1000C, nhưng tăng trên 1000C nước
sẽ chuyển thành thể hơi, giảm dưới 00C nước sẽ chuyển thành thể rắn .
Ghi nhớ và lưu ý:
+ Sự biến đổi của các sự vật hiện tượng trong thế giới đều phải tuân theo
nguyên tắc: lượng biến đổi dần dần, khi lượng đã vượt quá giới hạn quy định độ của
sự vật sẽ nhảy sang chất mới. Sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời.
+ Sự tích lũy về lượng trong thực tế không phải khi no cũng giống nhau mà
nó còn tùy thuộc vào hoàn cảnh điều kiện chủ quan khách quan, có sự vật, hiện
tượng được tích lũy dần dần về lượng, nhưng cũng có sự vật, hiện tượng lại tích lũy
theo hướng nhảy vọt .
+ Bước nhảy từ chất này sang chất khác trong thực tế cũng không phải khi
nào cũng giống nhau mà nó còn tùy thuộc hoàn cảnh điều kiện chủ quan hay khách
quan, có sự vật, hiện tượng thực hiện bước nhảy vọt đột biến, tức bước nhảy chỉ xảy
ra trong một thời gian ngắn làm thay đổi chất của sự vật, đồng thời lại có những
bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi từng bộ phận, lại có những bước nhảy dần dần.
+ Những thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng: Sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời, tức chất mới ra đời lại tự quy định cho mình chất mới v lượng mới.
Ví dụ: giới hạn tồn tại của nước từ 00C - 1000C. Nhưng khi nhiệt độ vượt trên 1000C
nước sẽ nhảy sang thể hơi lúc này lượng, tức vận tốc của các phân tử sẽ cao hơn,
thể tích lớn hơn, ngược lại nhiệt độ giảm xuống dưới 0 0C vận tốc, tức lượng của các
phân tử sẽ chậm hơn, thể tích sẽ nhỏ lại.
- Nhận xét: Từ sự phân tích trên ta thấy 
Vũ Văn Thành 0932008296
42
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Một là, bất cứ sự vật hiện tượng nào trong quá trình tồn tại cũng đều có
chất và lượng là hai mặt đối lập thống nhất với nhau ở một độ nhất định.

+ Hai là, sự biến đổi của các sự vật hiện tượng bao giờ cũng được bắt đầu từ
biến đổi dần dần về lượng, đó là sự tăng lên hoặc giảm đi về quy mô, về tốc độ…
+ Ba là, nếu so sánh giữa chất và lượng thì ta thấy: chất là mặt tương đối ổn
định, lượng là mặt biến động hơn, khi lượng biến đổi vượt quá phạm vi giới hạn của
độ, điểm mà tại đó phải xảy ra bước nhảy, sự vật cũ sẽ mất đi sự vật mới ra đời.
+ Bốn là, mỗi bước nhảy là kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự
gián đoạn của một quá trình vận động liên tục của sự vật, nhưng không phải là
chấm dứt sự vận động nói chung, mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại cụ thể của sự
vật.
+ Năm là, sự vật mới ra đời lại có thể thống nhất của chất mới và lượng
mới. Những sự biến đổi dần dần về lượng lại tiếp tục và khi vượt quá độ lại diễn ra
bước nhảy thay đổi về chất, cứ như thế làm cho sự vật, hiện tượng trong thế giới
vận động phát triển không ngừng.
kết luận:
+ Sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất
diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong hoá học, chỉ cần
tăng, hoặc giảm bớt đơn giản về lượng của các nguyên tố là đã có sự thay đổi về
chất. Ví dụ, tinh bột có công thức C 6H10O5, nếu tăng H10 thnh H12, O5 thnh O6 =
glucô, còn trong lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người sự thay thế từ hình thái
kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn là do kết quả tích
luỹ về lượng không ngừng của lực lượng sản xuất (diễn ra lâu dài và khó thấy hơn),
đến một độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất sẽ xảy ra xung đột với quan
hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi phải thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, có cái là lượng trong mối
liên hệ này thì lại là chất ở trong mối liên hệ khác. Ví dụ: xét về sự tăng trưởng kinh
tế hiện nay về khía cạnh đời sống x hội đó là sự thay đổi về chất nhưng xét về yếu
tố xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nó lại là lượng. Do đó việc phân biệt chất

Vũ Văn Thành 0932008296


43
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

và lượng không được máy móc. Việc xác định một cái gì đó là chất hay lượng còn
phải tuỳ vào mối liên quan cụ thể của sự vật.
- Ý nghĩa và phương pháp luận
Nắm vững quy luật lượng - chất có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp
luận đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:
+ Xác định được độ của sự vật là rất quan trọng, vì vậy không được nôn
nóng, bất chấp việc tích luỹ về lượng, hoặc tư tưởng lừng chừng do dự khi lượng
tích luỹ đạt tới điểm nút, thời cơ đã chín muồi mà không hành động, bỏ lỡ cơ hội.
+ Quy luật này xảy ra phụ thuộc vào điều kiện quan hệ giữa lượng và chất
cho nên trong hoạt động thực tiễn, nếu thấy nó có lợi thì phải tạo điều kiện cho
lượng phát triển nhanh chóng, ngược lại thì phải tìm cách để hạn chế.

V. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI
LẬP VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN (quy luật mâu thuẫn)
1. Nội dung và các khái niệm
a. Tóm tắt nội dung:
Mọi sự vật hiện tượng trong quá trình tồn tại đều là một thể thống nhất của
những mặt khác nhau, những khuynh hướng trái ngược nhau, đối lập nhau, nhưng
lại không thể thiếu nhau, liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau,
tác động lẫn nhau và đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật
mới ra đời và sự vật mới lại có mâu thuẫn mới rồi lại tiếp tục đấu tranh, chuyển hoá
lẫn nhau. Vậy, thế nào là mặt đối lập, thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của
các mặt đối lập
b. Các khái niệm:
- Thế nào là mặt đối lập: đối lập là những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.
Ví dụ: Trong nguyên tử có các hạt prôtôn và nơtron tạo thành hạt nhân mang
điện tích dương, còn các êlectrôn xoay quanh hạt nhân mang điện tích âm. Trong
một cơ thể sống của sinh vật cũng có đồng hóa đối lập với dị hóa. Trong tư duy có

Vũ Văn Thành 0932008296


44
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

chân lý đối lập với sai lầm, chúng là những mặt đối lập nhau, nhưng không thể thiếu
nhau.
Từ những ví dụ trên chúng ta thấy: mâu thuẫn là hiện tượng khách quan vốn
có của các sự vật hiện tượng cả ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

- Thế nào là thống nhất của các mặt đối lập: thống nhất của các mặt đối lập
là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của
mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề, nếu mặt này thay đổi thì mặt
kia sớm muộn cũng biến đổi theo

Ví dụ: Trong một nguyên tử có các hạt prôtôn và nơtron tạo thành hạt nhân
(mang điện dương +), còn các êlectrôn xoay xung quanh hạt nhân với tốc độ rất lớn
(mang điện âm -) đối lập với nhau, nhưng những mặt đối lập trái ngược nhau ấy
chúng lại có liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, không thể
thiếu nhau.
Từ ví dụ trên ta thấy sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả
những nhân tố giống nhau của cc mặt đối lập là sự ngang bằng nhau của các mặt đối
lập.
- Thế nào là sự đấu tranh của các mặt đối lập: đấu tranh của các mặt đối
lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
Trong xã hội đấu tranh của các mặt đối lập thường được dùng để chỉ sự xung
đột giữa các lực lượng xã hội đối địch. Nhưng đấu tranh của các mặt đối lập nó còn
có một ý nghĩ rộng hơn, đó là sự triển khai của các mặt đối lập, là sự chuyển hoá
của các mặt đối lập. Ví dụ như đấu tranh phê và tự phê bình, hoặc phấn đấu không
ngừng để nâng cao trình độ chuyên môn về mọi mặt, còn trong sinh vật đấu tranh
của các mặt đối lập là quá trình hấp thụ những chất cần thiết để bồi bổ cho cơ thể và
quá trình bài tiết những cặn bã không cần thiết đối với cơ thể, đấu tranh của các mặt
đối lập nó còn có nghĩa là sự phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập, là sự bài trừ lẫn
nhau của các mặt đối lập như giữa điện dương và điện âm, giữa hấp thụ và bài tiết,
giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa cộng và trừ…Như vậy, đấu tranh của các mặt đối
lập về hình thức rất đa dạng.

Vũ Văn Thành 0932008296


45
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

c. Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực của sự phát
triển .
- Mỗi sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại đều có các mặt vừa đối lập
với nhau lại vừa thống nhất với nhau, không thể thiếu nhau, nhưng lại vừa đấu tranh
với nhau. Trong giới tự nhiên sự đấu tranh giữa các mặt đối lập như sức hút và sức
đẩy, hoá hợp và phân giải của các phân tử, đồng hoá và dị hoá, di truyền và biến
dị…đã làm cho thế giới vật chất vận động phát triển từ thấp đến cao, từ vô cơ đến
hữu cơ và đỉnh cao của sự phát triển là xã hội loài người, còn trong xã hội có giai
cấp, cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp bị áp bức bóc lột chống lại các giai cấp
thống trị bóc lột là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Quá trình tư duy của con
người cũng là quá trình không ngừng nảy sinh mâu thuẫn và đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn giữa nhu cầu cần hiểu biết và khả năng hiểu biết có hạn, giữa chân lý và
sai lầm, quá trình đó thúc đẩy nhận thức của con người phát triển từ thấp đến cao, từ
kinh nghiệm đến lý luận, từ hiện tượng đến bản chất.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình diễn ra phức tạp. Thông
thường lúc đầu hai mặt đối lập ngang nhau, đấu tranh chưa gay gắt với nhau, nhưng
trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ngày
càng trở nên quyết liệt và cuối cùng dẫn đến sự chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn
được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, lại có mâu thuẫn mới rồi lại đấu
tranh với nhau, mâu thuẫn được giải quyết, thể thống nhất cũ bị phá vỡ, thể thống
nhất mới cao hơn ra đời.
- Như vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ có tính chất tạm thời tương
đối, còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối là không ngừng. Quá trình đó
được lặp đi lặp lại không ngừng làm cho các sự vật hiện tượng phát triển diễn ra
liên tục, ngày càng cao, chính vì vậy Lênin viết: “ Phát triển là đấu tranh giữa các
mặt đối lập”.
2. Một số loại mâu thuẫn 

a. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:


Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập nằm ngay bên trong
của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật này với sự vật khác.

Vũ Văn Thành 0932008296


46
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Sự phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cũng chỉ có tính
chất tương đối. Cùng một mâu thuẫn trong mối liên hệ này là mâu thuẫn bên trong,
nhưng ở trong mối liên hệ khác lại là mâu thuẫn bên ngoài. Mỗi loại mâu thuẫn giữ
vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn bên trong
giữ vai trị quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Nó là nguồn gốc
động lực bên trong của sự vận động, phát triển của sự vật, là tự thân vận động, tự
thân phát triển của sự vật. Tuy nhiên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng
ta không được coi nhẹ mâu thuẫn bên ngoài, nhưng cũng không thổi phồng, phủ
nhận mâu thuẫn bên trong.

b. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:


Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật
(từ khi phát sinh đến khi kết thúc), quyết định bản chất và quá trình phát triển của
sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu, mang tính giai
đoạn.
Mâu thuẫn cơ bản có vai trò rất quan trọng, cho nên muốn tìm hiểu bản chất
sự vật, hiện tượng, trước hết phải xác định được mâu thuẫn cơ bản. Muốn giải quyết
mâu thuẫn cơ bản phải xác định được mâu thuẫn nổi lên hàng đầu, mang tính giai
đoạn để giải quyết chứ không thể giải quyết mâu thuẫn cơ bản ngay một lúc.

c. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng:


Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những lực lượng xã
hội mà lợi ích căn bản đối lập nhau,không thể điều hoà được. Ví dụ như mâu thuẫn
giữa giai cấp chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ; giữa giai cấp địa chủ với
nông dân trong xã hội phong kiến; giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những lực
lượng xã hội mà lợi ích nhất trí với nhau là căn bản, nhưng có mâu thuẫn về những
mặt không căn bản.
Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân là mâu thuẫn không đối kháng, như mâu
thuẫn giữa công nhân và nông dân lao động, giữa công nhân và tiểu tư sản… Mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng là hai loại mâu thuẫn đặc thù, chỉ
tồn tại trong xã hội có giai cấp. Hai loại mâu thuẫn này khác nhau về tính chất và xu
Vũ Văn Thành 0932008296
47
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

hướng phát triển. Mâu thuẫn đối kháng phát triển có xu hướng ngày càng gay gắt.
Tuy nhiên, mâu thuẫn không đối kháng nếu để tích tụ, không được giải quyết kịp
thời thì nó cũng sẽ trở thành đối kháng. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng là rất quan trọng để có biện pháp giải quyết thích hợp với
từng loại mâu thuẫn. Theo quy luật chung, mâu thuẫn đối kháng đòi hỏi phải giải
quyết bằng bạo lực cách mạng. Song, trong những điều kiện nhất định mâu thuẫn
đối kháng cũng có khả năng giải quyết bằng phương pháp hoà bình. Còn mâu thuẫn
không đối kháng về nguyên tắc phải được giải quyết bằng giáo dục, thuyết phục,
phê bình tự phê bình… Tuy nhiên các biện pháp đó cũng là những hình thức đấu
tranh để giải quyết mâu thuẫn, chứ không phải là quá trình điều hoà mâu thuẫn.
Nghiên cứu mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng địi hỏi trong hoạt động thực
tiễn không được nhầm lẫn hai loại mâu thuẫn trên, để có phương pháp giải quyết
một cách đúng đắn khoa học.
3. Ý nghĩa phương pháp luận .

a. Mâu thuẫn là khách quan vốn có của mọi sự vật hiện tượng, là nguồn gốc,
là động lực của sự vận động và phát triển, do đó muốn nhận thức đúng về một sự
vật hiện tượng thì cần phải phát hiện đó là loại mâu thuẫn gì, không được che giấu,
lãng tránh. Nhận thức mâu thuẫn của sự vật là quá trình tư duy phân đôi cái thống
nhất thành các mặt đối lập để nhận thức các mặt đối lập đó.

b. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết thông qua quá trình đấu tranh của các mặt
đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy,
trong đời sống xã hội, hành vi đấu tranh được coi là chân chính là khi nó có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển.

c. Sự vật khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau.

VI. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH


1. Khái niệm phủ định và đặc điểm của phủ định biện chứng
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và
diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó được gọi
là phủ định. Trong lịch sử triết học quan điểm về phủ định cũng có nhiều ý kiến

Vũ Văn Thành 0932008296


48
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

khác nhau. Ví dụ: Pi – ta - go cho rằng, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu như
lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ và phải trải qua một chu kì là 78 vạn năm.
Còn triết học Phật giáo lại quan niệm kiếp người tuân theo vòng luân hồi và tuỳ
thuộc vào kiếp trước. Những người theo quan điểm siêu hình lại coi sự phủ định là
sự tiêu diệt xoá sạch hoàn toàn cái cũ, là sự phủ định sạch trơn, là chấm dứt hoàn
toàn sự vận động phát triển của sự vật.
- Bác bỏ các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định phủ
định là sự phát triển tự thân vận động mang tính khách quan, tính kế thừa.
+ Tính khách quan, sự vật cũ mất, đi sự vật mới ra đời là một tất yếu,
không ai có thể cưỡng lại được, nguyên nhân của sự phủ định ấy là do đấu tranh của
các mặt đối lập nằm ngay ở bên trong của các sự vật hiện tượng, chứ không phải từ
bên ngoài .
+ Tính kế thừa, sự vật cũ mất, đi sự vật mới ra đời là một tất yếu, nhưng cái
mới ra đời nó không loại bỏ hoàn toàn cái cũ, mà nó chỉ gạt bỏ những mặt tiêu cực,
lỗi thời lạc hậu của cái cũ, và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp,
tích cực, bổ sung vào cái mới. Ví dụ: trong sinh vật các giống loài đều có tính di
truyền là kế thừa các yếu tố tích cực của thế hệ bố mẹ, còn trong lịch sử pht triển
của xã hội loài người, xã hội mới ra đời là trên cơ sở kế thừa những giá trị vật chất
và tinh thần của xã hội trước, đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới. Trong lĩnh
vực nhận thức, các học thuyết khoa học ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những giá
trị của các học thuyết khoa học ra đời trước.
2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Trong sự vận động của vật chất, sợi dây chuyền phủ định của phủ định là vô
tận, cái mới phủ định cái cũ, rồi đến lượt cái mới này lại trở thành cái cũ và bị cái
mới khác phủ định. Sự phát triển của thế giới thông qua vô số lần phủ định trải qua
từ thấp đến cao có tính chu kì, không có phủ định cuối cùng. Ví dụ: hạt lúa – cây –
lúa - bông lúa. Cây lúa phủ định hạt lúa rồi đến lượt bông lúa phủ định cây lúa. Phủ
định lần thứ nhất là bước trung gian, là quá trình chọn lọc. Phủ định lần thứ hai
giống như lặp lại cái cũ nhưng cao hơn gọi là phủ định của phủ định, sự vật đơn
giản ít ra cũng phải qua hai lần phủ định mới có được sự phát triển. Còn các sự vật

Vũ Văn Thành 0932008296


49
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

phức tạp thì số lần phủ định có thể trải qua nhiều lần trung gian. Ví dụ, vòng đời
của con tằm: con tằm - kén - bướm - trứng - con tằm. Phủ định của phủ định là hoàn
thành một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ mới và
cứ thế tiếp tục mãi mãi, vô tận tạo nên hình thái “xoáy trôn ốc” của sự phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Quá trình phát triển không phải bao giờ cũng đi theo một đường thẳng, mà
nó diễn ra quanh co, phức tạp, có nhiều chu kỳ. Chu kỳ sau tiến bộ hơn chu kỳ
trước. Do đó, chúng ta phải hiểu nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy
nhanh sự phát triển của nó, còn nếu có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó.
- Theo quy luật phủ định của phủ định, cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ
thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố
tích cực của cái cũ. Điều này tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
Chính vì thế, trong hoạt động chúng ta phải biết phát hiện cái mới và ủng hộ nó, vì
cái mới ra đời thường còn non yếu, vì vậy chúng ta phải ra sức bồi dưỡng, tạo điều
kiện để cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó. Trong khi đấu tranh
chống lại cái cũ chúng ta phải biết chọn lọc, cải tạo cái cũ để nó phù hợp với điều
kiện mới, phải biết trân trọng những giá trị của quá khứ. Đồng thời, chúng ta phải
khắc phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái đã già cỗi lỗi thời cản trở sự
phát triển của con người và xã hội.

VII. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG


1. Một số quan điểm triết học trước Mác về nhận thức
Nhận thức là gì? Con đường nhận thức diễn ra như thế nào. Con người có thể
nhận thức được quy luật vận động của nó hay không? Để trả lời cho câu hỏi này,
trong lịch sử triết học cũng có nhiều quan điểm trái ngược nhau:
- Thuyết hoài nghi: đại biểu là Hi – um cho rằng con người chỉ nhận thức
được hiện tượng bên ngoài của sự vật, chứ không có khả năng biết đích thực được
bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng.
- Duy tâm khách quan: đại biểu là Hê - ghen thừa nhận khả năng nhận thức
của con người, nhưng lại coi nhận thức là một quá trình tự nhận thức của “ý niệm

Vũ Văn Thành 0932008296


50
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

tuyệt đối”. Họ cho rằng thế giới vật chất kể cả con người đều là sản phẩm của “ý
niệm tuyệt đối”.
- Duy tâm chủ quan: đại biểu là Béc - cli (George Berkeley 1684-1753) coi
nhận thức chỉ là tập hợp những cảm giác. Thí dụ cái bàn, đó không phải là một vật
thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc, nhưng chúng
không có thật, tồn tại chẳng qua chỉ là cảm giác, chỉ trừ chủ thể đang nhận thức tức
con người cảm giác, “cái tôi” mà thôi.
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác: đại biểu là Phơ - bách cho rằng con người có
khả năng nhận thức và làm biến đổi thế giới vật chất theo mục đích của mình,
nhưng lại coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên
xi trạng thái bất động của sự vật mà không thấy được vai trị của thực tiễn đối với
nhận thức, không giải thích được quá trình của nhận thức mang tính biện chứng.
2. Quan điểm của triết học Mác về bản chất của nhận thức
Trên cơ sở kế thừa và phát triển có chọn lọc của các khoa học, triết học Mác
khẳng định: bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào
trong bộ óc của con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về
hiện thực khách quan. Qúa trình nhận thức diễn ra theo con đường biện chứng từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tựợng, là sự phản ánh năng động, sáng tạo.
- Nhận thức là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết
- Tính năng động sáng tạo là trên cơ sở những cái đã có, để rồi tưởng tượng,
sáng tạo ra những cái không có trong hiện thực nhằm để thoả mãn những nhu cầu
của con người.
- Nhận thức được bắt nguồn từ thực tiễn, trước hết là thực tiễn hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động đấu tranh chính trị làm biến đổi xã hội, hoạt động thực
nghiệm khoa học. Chính vì vậy Lênin viết: thực tiễn là mục đích, là cơ sở, là động
lực của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

a. Khái niệm: thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,
mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Thực tiễn rất đa dạng, nhưng có ba hình thức cơ bản sau đây:
Vũ Văn Thành 0932008296
51
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Một là, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.
+ Hai là, hoạt động đấu tranh chính trị xã hội.
+ Ba là, hoạt động quan sát thực nghiệm khoa học.
- Trong ba lĩnh vực trên thì hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là dạng
hoạt động cơ bản nhất đối với nhận thức. Bởi vì trong lao động sản xuất mà không
nhận thức được các quy luật vận động của hiện thực khách quan thì không thể sản
xuất ra của cải vật chất được con người sẽ chết đói, xã hội cũng không thể tồn tại
phát triển được và suy cho cùng thì các dạng hoạt động thực tiễn khác như hoạt
động chính trị, hoạt động khoa học nghệ thuật, tôn giáo cũng đều từ lao động sản
xuất mà ra và cũng chỉ nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất, do đó các lĩnh vực
này đều có mối liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, vì vậy nhận thức bao giờ cũng
mang tính lịch sử – xã hội.

b. Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức:


- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là tất cả những gì xung quanh chúng ta, có liên quan tới cuộc sống
của con người, kể cả tự nhiên và xã hội, vì vậy chúng đều là đối tượng nhận thức
của con người, nếu con người nhận thức được các quy luật vận động của chúng thì
hành động mới thành công, còn nếu nhận thức sai lầm sẽ thất bại.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Thực tiễn cuộc sống luôn luôn vận động và đặt ra những vấn đề buộc con
người phải tìm cách giải quyết, chẳng hạn như vấn đề lương thực, thực phẩm, năng
lượng, dân số, xung đột sắc tộc, khủng bố, chạy đua vũ trang, chiến tranh hủy diệt,
xung đột tôn giáo, và những căn bệnh hiểm nghèo của thời đại…Những vấn đề đó
đặt ra buộc con người phải suy nghĩ, phải tìm cách nhận thức, nếu không nhận thức
được thì con người, xã hội loài người sẽ không phát triển được. Chính vì vậy mà
các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên nối tiếp nhau ra đời ngày càng cao
hơn, hiện đại hơn… giúp cho con người tiếp tục khám phá những bí ẩn của thế giới
thuận lợi hơn.
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:

Vũ Văn Thành 0932008296


52
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chính vì nhu cầu ăn, ở, mặc mà con người không ngừng phải khám phá,
chinh phục và cải tạo thế giới, và thông qua hoạt động ấy mà con người dần dần
nhận thức được các đặc tính, các thuộc tính, các quy luật vận động của các sự vật
hiện tượng. Vì vậy, con người càng đi sâu khám phá thế giới thì thực tiễn càng cung
cấp thêm những kinh nghiệm tạo điều kiện cho nhận thức phát triển. Do đó, không
có hoạt động thực tiễn, thì không có nhận thức, không có lí luận, không có khoa
học. Đồng thời thông qua lao động mà các giác quan của con người, đặc biệt là bộ
óc không ngừng hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhận thức chính xác hơn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Có thể nói toàn bộ kiến thức của nhân loại đều được tổng kết từ thực tiễn.
Những kiến thức đó được phổ biến bằng trực tiếp, hay gián tiếp cho người khác,
cho đời sau. Nhưng để biết được nhận thức nào đúng hay sai thì không có con
đường nào khác là phải đưa trở về với thực tiễn để kiểm nghiệm, nếu giữa lý luận
và thực tiễn phù hợp thì đó là chân lí. Đồng thời cũng qua thực tiễn để tiếp tục bổ
sung thêm vào những nhận thức trước đó. Ngoài thực tiễn ra thì khơng còn đường
nào khác để kiểm tra nhận thức và chỉ có thông qua thực tiễn mới kiểm tra được
nhận thức có phản ánh đúng hay không. Tuy nhiên cũng có những trường hợp
không nhất thiết phải trải qua thực tiễn mới biết được nhận thức đúng hay sai, mà
người ta có thể thông qua những tiêu chuẩn của lôgíc, tức là theo những quy tắc
lôgíc để chứng minh. Song suy đến cùng những quy tắc ấy cũng đã được chứng
minh trong thực tiễn thì mới trở thành tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức của con
người. Cho nên xét đến cùng thì thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức.

4. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức


Lênin viết: con đường biện chứng của quá trình nhận thức đúng đắn là phải
“Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”.
a. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)
- Là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức:
+ Cảm giác: là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật hiện
tượng khi chúng đang tác động vào các giác quan của con người.

Vũ Văn Thành 0932008296


53
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Tri giác: là hình ảnh tương đối trọn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực
tiếp tác động vào các giác quan, nó là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.
+ Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn
trực quan, tương đối hoàn chỉnh được lưu lại trong bộ óc về một sự vật nào đó
không còn trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.
- Đặc điểm của nhận thức cảm tính. Nó là giai đoạn đầu của quá trình nhận
thức, là sự phản ánh trực tiếp, sinh động của hiện thực. Song mới chỉ bề ngoài của
sự vật, chưa phân biệt được cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, chưa đi được vào bản
chất, quy luật của sự vật. Vì vậy nhận thức tất yếu phải phát triển ln giai đoạn cao
hơn, tư duy trừu tượng.
b. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)
- Là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng. Nó được thực hiện bằng các
hình thức như: khái niệm - Phán đoán - Suy luận
+ Khái niệm được hình thành là dựa trên cơ sở tài liệu của cảm tính và phải
trải qua quá trình so sánh phân tích tổng hợp, trừu tựơng hoá, khái quát hoá để tìm
ra các mối liên hệ chung, bản chất của sự vật. Ví dụ: vật chất tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau nhưng chúng đều có thuộc tính chung là tồn tại khách quan và vận
động
+ Phán đoán: là sự liên kết của nhiều khái niệm để khẳng định hay phủ định
một hay nhiều thuộc tính của sự vật, nếu khái niệm được biểu hiện bằng “từ” thì
phán đoán được biểu hiện bằng mệnh đề, theo luật văn bản. Ví dụ: dân tộc ta là một
dân tộc cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh. Bản chất của chủ nghĩa đế
quốc là hiếu chiến.
+ Suy luận: là dựa vào những phán đoán cũ để đưa ra một phán đoán mới có
tính chất kết luận, đưa tới một sự hiểu biết mới. Ví dụ: muốn xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì phải củng cố và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, nếu từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì
không thể nói đến việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Như vậy
suy lý nó cho phép con người có thể đi sâu vào những vấn đề mà con người không

Vũ Văn Thành 0932008296


54
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thể trực tiếp tiếp xúc được, nó cho chúng ta biết được không những cái đã và đang
xảy ra, mà nó còn có thể dự đoán được những cái sẽ xảy ra.
Đặc điểm của nhận thức lý tính là phản ánh gián tiếp, khái quát, trừu tượng;
phản ánh được bản chất, quy luật của sự vật, là nhận thức đáng tin cậy, gần với chân
lý khách quan. Từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính là sự thay đổi về chất,
là bước nhảy vọt của quá trình nhận thức. Muốn nhận thức đúng phải có những tài
liệu do nhận thức của cảm tính cung cấp đầy đủ, chính xác và phải gắn với hoạt
động thực tiễn, phải dựa vào kết quả của thực tiễn để bổ sung, kiểm tra nhận thức
mới.
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về
trình độ phản ánh, hình thức phản ánh và phương thức phản ánh hiện thực khách
quan, song chúng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau.
+ Nhận thức cảm tính là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu được của giai
đoạn nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng). Nhưng một khi nhận thức lý tính đã
được hình thnh, nó sẽ tác động trở lại, và hướng dẫn nhận thức cảm tính nhạy bén
hơn, hành động chính xác hơn.
Tóm lại: muốn nhận thức đúng đắn về một sự vật nào đó, trước hết phải có
những tài liệu ban đầu do nhận thức của cảm tính mang lại. Nhận thức phải bắt
nguồn từ thực tiễn, nếu tách rời nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính và ngược
lại đều là sai lầm sẽ dẫn đến những hậu quả xấu trong nhận thức và hành động.
Trong thực tiễn, sai lầm về vấn đề này thường biểu hiện ở hai căn bệnh là chủ nghĩa
kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường ngại học
tập lý luận, coi thường lý luận, dốt về lý luận. Còn người mắc bệnh giáo điều thì
tách rời lý luận với thực tiễn, không điều tra nghiên cứu, không xuất phát từ điều
kiện hoàn cảnh cụ thể, coi thường kinh nghiệm của quần chúng, chỉ bám lấy trong
sách vở, áp dụng máy móc. Trong thực tế, nếu nơi nào, lúc nào để cho chủ nghĩa
kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều thâm nhập vào sẽ dễ mắc sai lầm, gây lãng phí
sức người sức của .
d. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận

Vũ Văn Thành 0932008296


55
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Có hai loại nhận thức kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm được hình thành
một cách tự phát, do tiếp xúc hằng ngày với thực tiễn cuộc sống, nhận thức kinh
nghiệm thu nhận từ sự khảo sát ở các thí nghiệm. Giữa nhận thức thông thường và
nhận thức từ sự khảo sát có quan hệ chặt chẽ với nhau bổ sung cho nhau, tức là từ
thực tiễn người ta phải đưa vào phòng thí nghiệm để có được tri thức mới, rồi từ
phòng thí nghiệm lại đưa ra áp dụng ở bên ngoài.
Nhận thức lý luận, được hình thành một cách tự giác và gián tiếp, nó chỉ tập
trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật dưới dạng trừu tượng lôgic được thể
hiện bằng các khái niệm, quy luật, định luật có tính hệ thống, được sử dụng cả ngôn
ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả đối tượng nghiên cứu. Vì thế
nhận thức lý luận chính xác hơn, có hệ thống hơn, nó có vai trò ngày càng lớn trong
hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại ngày nay.

5. Vấn đề chân lý và tiêu chuẩn của chân lý


a. Khái niệm chân lý
- Vấn đề chân lý cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau.
+ Thuyết ngụy biện xem chân lý là có lợi cho mình.
+ Chủ nghĩa Phát Xít coi chân lý thuộc về kẻ mạnh.
- Bác bỏ những quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm.
b. Các tính chất của chân lý
Chân lý không phải là sản phẩm chủ quan của con người mà nó do thế giới
khách quan quy định. Ví dụ: Trái Đất quay quanh mặt trời.
- Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý:
+ Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đúng và đầy đủ. Ví dụ: nước có hai
nguyên tử hydro, một nguyên tử oxy.
+ Chân lý tương đối nói lên nhận thức của con người chưa hoàn toàn đầy đủ,
mà cần phải được bổ sung theo sự vận động của thực tiễn, hoặc nó chỉ đúng ở một
giai đoạn, hoặc ở một thời điểm nào đó.
Vũ Văn Thành 0932008296
56
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Tính cụ thể của chân lý là nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định
cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng
đắn bao giờ cũng có nội dung nhất định. Nội dung đó không phải là trừu tượng
thuần túy thoát ly hiện thực mà luôn gắn liền với một đối tượng xác định diễn ra
trong một không gian, thời gian hay hoàn cảnh nào đó trong một mối liên hệ, quan
hệ cụ thể. Vì vậy bất cứ chn lý no cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể.
Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì tri thức được hình thành trong quá
trình nhận thức sẽ rơi vào trừu tượng thuần túy.

6. Các phương pháp nhận thức khoa học


a. Phương pháp là gì?
Phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc, các phạm trù, các quy luật, các
quy tắc, các định nghĩa để hướng dẫn hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
của con người, nhưng bản thân những quy luật, quy tắc, phạm trù chưa phải là
phương pháp, mà chỉ khi nào lý luận hướng dẫn cho hành động thì khi đó lý luận
mới trở thành phương pháp. Có nhiều phương pháp khác nhau. Có phương pháp
riêng cho từng lĩnh vực, từng ngành khoa học chuyên môn, có phương pháp chung
được phổ biến và áp dụng cho nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Ví dụ: phương
pháp toán học khơng chỉ sử dụng trong toán học mà còn dùng trong cả vật lý, hóa
học, kinh tế học v.v… và có phương pháp chung nhất, được áp dụng cho mọi lĩnh
vực khoa học, mọi hoạt động thực tiễn, phương pháp triết học Mác - Lênin.
Quan hệ giữa phương pháp triết học với các phương pháp của khoa học cụ
thể tuy khác nhau về nội dung, nhưng là mối liên hệ biện chứng và mỗi phương
pháp nó có vị trí nhất định, do đó không thể coi các phương pháp là ngang bằng
nhau hoặc thay thế lẫn nhau. Vì vậy mỗi người chúng ta, dù hoạt động bất kỳ trong
lĩnh vực chuyên môn nào cũng phải nắm vững không chỉ phương pháp riêng mà
còn phải nắm vững phương pháp của triết học Mác - Lênin, là phương pháp luận
chung nhất giúp chúng ta định hướng đúng đắn trên con đường đi tới chân lý khách
quan và hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Phương pháp biện chứng hoàn toàn đối lập với phương pháp siêu hình trên
tất cả mọi vấn đề. Phương pháp siêu hình xem xét sự vật hiện tượng một cách cô lập
Vũ Văn Thành 0932008296
57
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

tách rời, không thấy được mối liên hệ, vận động và phát triển của sự vật. Phương
pháp biện chứng duy vật đòi hỏi phải xem xét sự vật một cách toàn diện, phải tính
đến mối liên hệ phổ biến và sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự vật và hiện tượng,
phải vạch ra toàn bộ những quan hệ năng động, linh hoạt, không cứng nhắc một
chiều, có như thế mới phản ánh được đời sống sinh động. Phải chống lại lối suy
nghĩ máy móc, phiến diện, có tính chất hình thức chủ nghĩa, chỉ dừng lại ở kết cấu
hình thức của tư tưởng mà không đi sâu vào phân tích mâu thuẫn, hoàn cảnh cụ thể
của sự vật.
b. Một số phương pháp nhận thức khoa học

Phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm:


Tri thức kinh nghiệm được chia làm hai dạng sau đây: Một là, từ trong lao
động sản xuất bằng quan sát mà người ta thu nhận tích luỹ được những kinh
nghiệm. Hai là, tri thức thu nhận được đã có chủ định từ trước từ các cuộc thí
nghiệm, phương pháp này có sử dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật trợ giúp để
khám phá các thuộc tính của sự vật, mà trong điều kiện bình thường không thể tìm
được. Ngày nay thí nghiệm đang được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực
khoa học.

Các phương pháp xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp:
+ Phân tích là phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận nhỏ để đi sâu
nhận thức các bộ phận đó.
+ Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân
tích lại nhằm nhận thức cái toàn bộ.
+ Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau song lại
biện chứng với nhau, cho nên không được tách rời phân tích và tổng hợp hoặc
cường điệu phương pháp này coi nhẹ phương pháp kia.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch:
+ Phương pháp quy nạp (suy lý, suy luận) là quá trình quan sát một loạt
những sự vật riêng lẽ để rút ra được một kết luận chung. Nó có vai trò khám phá ra

Vũ Văn Thành 0932008296


58
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

tính quy luật của các sự vật hiện tượng, nhưng nó có hạn chế là theo lối liệt kê cho
nên có một số hiện tượng được rút ra lại không liên quan gì đến bản chất của sự vật
hiện tượng cần nghiên cứu, phương pháp quy nạp cũng còn một hạn chế nữa là nó
chưa thể xác định được các thuộc tính nào là tất nhiên hay ngẫu nhiên, do đó để
khắc phục tính hạn chế của phương pháp này thì cần phải bổ sung phương pháp
diễn dịch.
+ Phương pháp diễn dịch là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét
cái riêng, rút ra kết luận riêng từ nguyên lý chung đ biết. Tuy nhiên muốn rút ra kết
luận bằng con đường diễn dịch thì tiền đề phải đúng, phải tuân theo các quy tắc
lôgíc và lịch sử.
- Phương pháp lịch sử và lôgíc:
+ Phương pháp lịch sử là nói lên mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình sinh
ra, phát triển và diệt vong. Mọi sự vật hiện tượng đều có tính lịch sử. Ý thức, tư
tưởng cũng có lịch sử của mình với tính cách là lịch sử của quá trình phản ánh.
+ Phương pháp Lôgíc (suy luận đúng đắn) có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất nó
chỉ tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật. Nghĩa thứ hai nó chỉ mối liên hệ giữa sự
phản ánh của thế giới khách quan vào bộ óc con người, được tái tạo dưới dạng hình
ảnh tinh thần theo một trật tự của các khái niệm, phạm trù, lý thuyết.
Phương pháp lôgíc vạch ra bản chất tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật
dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát. Bắt đầu từ khởi điểm của lịch sử và
phải tập trung nghiên cứu sự vật dưới hình thức phát triển hoàn thiện và chín muồi
nhất của nó. Nói cách khác “lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy bắt đầu từ
đó và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh đã được uốn nắn,
nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực cung
cấp, hơn nữa mỗi nhân tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển đạt tới chỗ
hoàn toàn chín muồi, đạt tới hình thức cổ điển của nó”.
So với phương pháp lịch sử thì phương pháp lôgíc có ưu thế ở chỗ nó không
những phản ánh bản chất, tính tất nhiên, quy luật của sự vật mà còn phản ánh được
lịch sử phát triển của sự vật (một cách tóm tắt, khái quát trên những giai đoạn chủ
yếu). Phương pháp lôgíc có khả năng kết hợp trong mình hai yếu tố của sự nghiên

Vũ Văn Thành 0932008296


59
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

cứu. Nghiên cứu kết cấu của sự vật cùng với hiểu lịch sử của sự vật đó trong sự
thống nhất chặt chẽ của chúng phương pháp lôgíc có vai trò to lớn trong các khoa
học lý thuyết.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai phương pháp khác nhau,
nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau, gắn bó chi phối nhau. Bởi vì muốn hiểu
biết bản chất, quy luật của sự vật thì phải hiểu đươc lịch sử phát sinh, phát triển của
nó và có nắm được bản chất quy luật của sự vật thì mới nhận thức được tính lịch sử
của sự vật đúng đắn và sâu sắc. Trong thực tế tùy theo đối tượng nghiên cứu và yêu
cầu cụ thể mà người ta sử dụng phương pháp lịch sử hay lôgíc và dù trong trường
hợp nào cũng phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lôgíc và lịch sử nếu thiếu
lôgíc là mù quáng, còn lôgíc thiếu lịch sử thì dễ rơi vào chủ quan.
Từ trừu tượng đến cụ thể: nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình từ cụ
thể đến trừu tượng và từ trừu tượng trở về cụ thể. Theo quá trình thứ nhất, nhận
thức phải xuất phát từ những tài liệu cảm tính, qua phân tích để rút ra những khái
niệm, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật.
Trong quá trình này toàn bộ đối tượng đã được trừu tượng hoá, quá trình thứ hai,
nhận thức trừu tượng lại dùng để mô tả lại cái cụ thể bằng con đường tư duy. Mác
coi con đường đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa học. Tuy
nhiên không phải cái trừu tượng nào cũng là khâu xuất phát, mà cái trừu tượng xuất
phát phải là cái phản ánh những mối quan hệ phổ biến tất yếu, bản chất, những quy
luật vận động, phát triển của nó.

Vũ Văn Thành 0932008296


60
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương III
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ
SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất
thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn tiến hành sản xuất vật chất
nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt, thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng.
- Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, đồng thời con người cũng sáng
tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và
Vũ Văn Thành 0932008296
61
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

bản thân. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại, phát triển xã hội, vì
vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội trong nền sản xuất vật chất.
2. Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người sử dụng công cụ lao động để sản
xuất ra của của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Phương thức sản xuất bao gồm : Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
a. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất ; thể hiện năng lực thực tiễn của con người
- Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố :
+ Con người: Người lao động với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử
dụng tư liệu lao động (trước hết là công cụ lao động) tác động vào đối tượng lao động
để sản xuất ra của cải vật chất.
+ Công cụ lao động: Công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người.
b. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt :
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
- Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ phân phối sản phẩm
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết
định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm xã hội cũng như
các quan hệ khác.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất: sở
hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
+ Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung vào tay một
số người, còn đại đa số không có tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất quy định quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và
bị thống trị.
+ Còn sở hữu xã hội là loại hình sở hữu trong đó, tư liệu sản xuất thuộc về tất
cả thành viên của cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình
đẳng, hợp tác. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất cũng trực tiếp tác động đến sản
xuất, nó do quan hệ sở hữu quyết định. Quan hệ phân phối sản phẩm gắn liền với lợi
ích của người lao động, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất

Vũ Văn Thành 0932008296


62
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

a. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất
- Sự phát triển lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng
sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn biểu hiện ở trình độ của
công cụ lao động, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức,
phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật … Gắn liền với trình độ là
tính chất của lực lượng sản xuất. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, lực lượng
sản xuất chủ yếu có tính chất tư nhân, cá thể. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện
đại. Phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
hóa. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nó biểu hiện là một trạng thái mà trong đó, quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các
mặt của quan hệ sản xuất đều tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó
có nghĩa, nó tạo điều kiện để sử dụng và kết hợp tối ưu tư liệu sản xuất và sức lao
động.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với lực lượng sản xuất. Khi
đó, quan hệ sản xuất trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Yêu
cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có
nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người, đến
tổ chức, phân công lao động, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Do đó,
tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất, trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
- Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo
quy luật chung, quan hệ sản xuất sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì
không giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con
người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách
mạng xã hội.
c. Ý nghĩa phương pháp luận

Vũ Văn Thành 0932008296


63
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát
triển lịch sử nhân loại từ chế độ nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong
kiến, chế độ tư bản và chế độ cộng sản chủ nghĩa trong tương lai là do sự tác động của
một hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
II. BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm, kết cấu cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội hợp thành cơ cấu
kinh tế của một chế độ xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan
hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.
Trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các
quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế xã hội. Vì
thế, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể đựơc đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị.
b.Khái niệm, kết cấu kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nước,
đảng phái … được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có đặc điểm, quy luật vận động riêng,
nhưng chúng liên hệ, tác động lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có
giai cấp, kiến trúc thượng tâng có tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về mặt
chính trị, tư tưởng của các giai cấp đối kháng trong đó đặc trưng là sự thống trị về
chính trị, tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có
giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của
một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự
thống trị của mình đối với xã hội.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a.Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng
thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở
chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Tính
chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng thống trị về
chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng,
Vũ Văn Thành 0932008296
64
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị là
biểu hiện những đối kháng trong lĩnh vực kinh tế. Tất cả những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo đều trực tiếp hay gián tiếp
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở
chỗ : cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi
theo.
- Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi hình thái kinh tế – xã
hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong một hình thái
kinh tế – xã hội. Sự thay đổi đó cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp tác động lên kiến trúc thượng tầng mà thông
qua cơ sở hạ tầng.
- Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra
rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như : nhà nước, pháp luật, chính trị …
Còn những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, hoặc có những yếu tố được
kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: khẳng định quan điểm :
“tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử”.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Tòan bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính
độc lập tương đối trong quá trình vận động, phát triển và tác động một cách mạnh mẽ
đối với cơ sở hạ tầng.
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố có vai trò khác nhau, có cách tác động khác nhau.
+ Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đối với
cơ sở hạ tầng, vì nhà nước là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh
tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng
thường phải thông qua nhà nước, pháp luật hoặc qua nhiều khâu trung gian. Trong một
chế độ xã hội, sự tác động của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một
xu hướng.
+ Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là xây dựng, bảo vệ và
phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá
hoại chế độ kinh tế đó.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến
cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến

Vũ Văn Thành 0932008296


65
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách nay hay
cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới
tiến bộ để thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận :
+ Nghiên cứu sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng giúp ta nhận thức rõ hơn về vai trò tích cực và cả tiêu cực của hệ tư tưởng chính
trị, chính quyền nhà nước và các hình thái ý thức xã hội khác đối với cơ sở hạ tầng.
+ Phát huy vai trò chủ động của con người sử dụng kiến trúc thượng tầng như
một công cụ hữu hiệu để thiết lập trật tự xã hội mới.
III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI,
TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất, điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số … Trong đó, phương thức sản xuất là
yếu tố cơ bản nhất.
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm,
tư tưởng, tâm lý … của cộng đồng xã hội. Ý thức xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội,
phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức xã hội bao gồm :
+ Ý thức thông thường và ý thức lý luận :
 Ý thức thông thường là những tri thức, những quan niệm phản ánh trực tiếp
nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người và thường xuyên chi phối
cuộc sống đó, nó trở thành tiền đề cho các lý thuyết xã hội.
 Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát
hóa thành các học thuyết xã hội. Ý thức lý luận phản ánh khái quát, vạch ra
mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng.
+ Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng :
 Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán
phải ánh một cách trực tiếp có tính chất tự phát điều kiện sinh sống hàng
ngày của con người. Những quan niệm ở trình độ tâm lý xã hội còn mang
tính chất kinh nghiệm, yếu tố trí tuệ đan xen vào yếu tố tình cảm.
 Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, là nhận thức lý luận về tồn tại
xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, tôn giáo,
nghệ thuật …) Hệ tư tưởng – kết quả khái quát hóa những kinh nghiệm xã
hội, được hình thành một cách tự giác, nghĩa là được tạo ra bởi các nhà tư
tưởng của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hội.

Vũ Văn Thành 0932008296


66
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác
nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại, chúng đều là sự phản
ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên của giai
cấp tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp.
Hệ tư tưởng gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng mặc dù không
ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội nhưng có mối liên hệ hữu cơ và chịu sự tác động của
tâm lý xã hội.
- Các hình thái ý thức xã hội
+ Ý thức chính trị
Hình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó
phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, cũng như thái độ của
các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Đặc trưng cơ bản nhất của ý thức chính trị là
thể hiện trực tiếp và tập trung lợi ích giai cấp.
+ Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản
chất, vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, về các tổ chức xã hội
và tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người.
+ Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm, trách
nhiệm, hạnh phúc, công bằng … và về các quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
của con người.
Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những chuẩn mực đạo đức
mang tính nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội.
Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng mang tính giai cấp. Các phạm
trù đạo đức phản ánh địa vị và lợi ích giai cấp.
+ Ý thức khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội vừa là một hiện tượng xã
hội đặc biệt. Ý thức khoa học là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng logich
trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Ý thức khoa học khi thâm
nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các khoa học tương ứng với từng
hình thái ý thức đó.
+ Ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ
với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp. Trong hình thức hoạt động thưởng thức
và sáng tạo cái đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
Đặc trưng cơ bản của nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực thông qua hình tượng nghệ
thuật. Hình tượng nghệ thuật cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng
thông qua cái cụ thể, cá biệt, cụ thể cảm tính, sinh động.

Vũ Văn Thành 0932008296


67
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Ý thức tôn giáo


Tôn giáo chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người những lực lượng
ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức của lực lượng siêu trần thế. Tôn giáo có nguồn
gốc từ kinh tế-xã hội, từ nhận thức và tâm lý.
b.Vai trò quyết định của tồn tại xã hoi đối với ý thức xã hội
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng : tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý
thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi nhất là
phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và ý thức xã hội … sớm muộn cũng
sẽ biến đổi theo.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nhưng không phải trực tiếp mà
thường thông qua những khâu trung gian.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức do nó sinh ra vẫn
tồn tại trong một thời gian dài. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong
tâm lý xã hội. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội do những nguyên nhân :
thường được giữ lại và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng tiến bộ xã hội.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Những tư tưởng tiên tiến, khoa học có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại,
dự báo sự phát triển tương lai, có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, hướng đến
giải quyết những nhiệm vụ mới của xã hội đặt ra.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa
Tất cả các hình thái ý thức xã hội đều có tính kế thừa những yếu tố tích cực
trong sự phát triển, vì thế chúng ta không chỉ dựa trên tồn tại xã hội để giải thích ý
thức xã hội mà phải dựa trên cả quan hệ kế thừa của ý thức xã hội từ các xã hội trước
đó như thế nào.
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội khiến cho mỗi hình thái có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại
xã hội hay các điều kiện vật chất.
đ. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Các hình thái ý thức xã hội đều có ảnh hưởng lẫn nhau và đều tác động trở lại
tồn tại xã hội. Mức độ ảnh hưởng của ý thức xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ
thể, vào tính chất của những mối quan hệ kinh tế, vào vai trò của con người, vào mức
độ ảnh hưởng trong quảng đại quần chúng … kể cả ý thức tiến bộ lẫn ý thức lạc hậu.
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI
KINH TẾ – XÃ HỘI LÀ MỘT QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN
1. Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế – xã hội
Vũ Văn Thành 0932008296
68
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy.

Hình thái KT-XH cộng sản CN

Hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa

Hình thái KT-XH phong kiến

Hình thái KT-XH chiếm hữu nô lệ

Hình thái KT-XH cộng sản ng. thủy

Thời gian

Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp gồm
có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mỗi
mặt có vị trí riêng và tác động qua lại thống nhất với nhau. Trong đó, lực lượng sản
xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế – xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định
các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các chế độ xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.
Kiến trúc thượng tầng chính trị, đạo đức và các thiết chế nhà nước, đảng phái
được hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình
thành phù hợp với cơ sở hạ tầng, nó là công cụ bảo vệ, duy trì, phát triển cơ sở hạ tầng.
Ngoài các mặt cơ bản trên đây, các hình thái kinh tế – xã hội còn có các quan hệ
gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ với quan
hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
2. Sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là lịch sử tự nhiên
Nguồn gốc sâu xa của sự phát triển xã hội từ hình thái kinh tế này sang hình thái
kinh tế khác là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến làm thay đổi quan hệ
sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm kiến trúc thượng tầng thay
Vũ Văn Thành 0932008296
69
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

đổi theo và do đó, hình thái kinh tế – xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao –
đó là con đường phát triển chung của nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi
dân tộc không những bị chi phối bởi quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều
kiện tự nhiên, về chính trị, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc tế. Vì vậy, có những
dân tộc trải qua lần lượt các hình thái kinh tế – xã hội; có dân tộc bỏ qua một, hay một
số hình thái kinh tế – xã hội nào đó.

Ảnh hưởng
Pháp quyền

Nghệ thuật
Nhà nước

Khoa học
Tôn giáo

Hệ tư tưởng chính trị


Đạo đức

Triết học
KIẾN
TRÚC
THƯỢNG
TẦNG
Quyết định

CƠ SỞ Những quan hệ sản xuất


HẠ (Các hình thức sở hữu, trao đổi, phân phối)
TẦNG
Lực lượng sản xuất
(gồm tư liệu sản xuất và người lao động)

3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế-xã hội
Lý luận hình thái kinh tế-xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa
học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
- Thứ nhất, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản
xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội, do đó cũng là nhân tố quyết
định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung, vì vậy không thể xuất
phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện
tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền
sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thứ hai, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các
cá nhân mà là một cơ thể sống động trong đó các phương diện của đời sống xã hội tồn
tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó
quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ khác, là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính
xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học, đó là
xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực để phân tích các phương diện khác nhau( chính
trị, pháp luật, văn hóa, khoa học…) và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Vũ Văn Thành 0932008296
70
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Thứ ba, sự vận động và phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên,
tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không theo ý muốn chủ quan,
do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề của đời sống xã hội thì
phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
Những giá trị khoa học trên đây là những giá trị về mặt phương pháp luận chung
nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại…, nó không thể thay thế cho
những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của
xã hội. V.I.Lênin viết: lý luận đó “ không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ
có ý muốn vạch ra một phương pháp…duy nhất khoa học để giải thích lịch
sư”(V.I.Lênin:Toàn tập-1974, tập 1,tr.171)
Ý nghĩa phương pháp luận
- Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã mang lại một phương pháp thực sự
khoa học để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn.
- Học thuyết là cơ sở lý luận để các khoa học xã hội phân kỳ lịch sử xã hội một
cách đúng đắn; nhận thức được tiến trình khách quan của con đường tiến hóa xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên; chỉ ra mối quan hệ nhân quả của các sự kiện lịch sử.
V. GIAI CẤP, ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp.
a. Khái niệm giai cấp, tầng lớp xã hội
- Giai cấp
Các nhà tư tưởng trước Mác như: Chieri, Ghidô, Giôn, Uêđơ… Các nhà kinh tế
học như: Ricácđô, Min, Xây, Tôrenxơ … đã trình bày các quan điểm về sự hình thành
các giai cấp. Tuy nhiên, các nhà tư tưỏng đó chưa thấy được xu hướng vận động của
cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội. Họ thường căn cứ vào những đặc trưng
không cơ bản để phân định giai cấp, họ cho rằng giai cấp là tập hợp những người có
cùng một chức năng xã hội, cùng một lối sống, mức thu nhập, cùng một nghề nghiệp,
thậm chí cùng một năng lực, uy tín trong xã hội v.v...
+ Kế thừa những yếu tố hợp lý, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế trong
các học thuyết về giai cấp. Mác đã trình bày quan điễm của mình về giai cấp trong bức
thư gửi cho Iôxíp Vâyđơmayơ ngày 5-3-1853:
1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất.
2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.
3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới xã hội không có
giai cấp.”
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp trong điều kiện mới,
trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp:

Vũ Văn Thành 0932008296


71
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

“Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những
tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định” .
- Theo định nghĩa về giai cấp của Lênin:
+ Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về địa vị trong hệ thống xã hội là
do sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
+ Từ chỗ khác nhau về địa vị và sở hữu những tư liệu sản xuất mà dẫn đến sự
khác nhau của của họ về vai trò tổ chức, quản lý sản xuất, quản lý xã hội, cũng như sự
khác nhau về phương thức, quy mô thu nhập.
Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất
quyết định nhất tập đoàn người nào nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ trở thành giai
cấp thống trị xã hội, tất yếu nắm quyền tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm.
Trong các xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị,
còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản
trong phương thức sản xuất, thường bị phân hóa.
- Khái niêm tầng lớp xã hội
Khái niệm tầng lớp xã hội không đồng nhất với khái niệm giai cấp, mặc dù hai
khái niệm này có quan hệ mật thiết với nhau. Khái niệm tầng lớp xã hội cũng nói đến
những tập đoàn người có những đặc trưng chung tương đối ổn định nào đó, nhưng
những đặc trưng này không đồng nhất với những đặc trưng kinh tế-xã hội có tính lịch
sử như trong khái niệm giai cấp, nghĩa là không do một phương thức sản xuất đặc
trưng của xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định sản sinh ra.
Ví dụ, tầng lớp trí thức là những người lao động trí óc. Phương thức lao động
của họ không lệ thuộc vào một phương thức sản xuất nhất định nào của xã hội. Tầng
lớp trí thức tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Sự thay đổi phương thức sản
xuất xã hội không làm thay đổi phương thức lao động của trí thức.
Như vậy, khái niệm tầng lớp xã hội là một khái niệm rộng, có nhiều cấp độ khác
nhau. Có thể tầng lớp xã hội là khái niệm rất rộng, bao quát nhiều giai cấp trong đó.
Ví dụ, tầng lớp thanh niên, tầng lớp trung niên v.v.. Có thể tầng lớp xã hội là khái
niệm chỉ những người hay những lực lượng xã hội tồn tại trong nhiều phương thức sản
xuất hoặc chưa thuộc một phương thức sản xuất nào như tầng lớp trí thức, tầng lớp tư
sản ở nước ta. Có thể tầng lớp xã hội là khái niệm hẹp hơn khái niệm giai cấp, nằm
trong khái niệm giai cấp, chỉ là những bộ phận khác nhau của một giai cấp. Ví dụ,
giai cấp vô sản bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau căn cứ theo mức sống như: tầng lớp
Vũ Văn Thành 0932008296
72
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

giàu, tầng lớp trung lưu, tầng lớp nghèo, thậm chí như Ph.Ăngghen nói có cả tầng lớp
vô sản lưu manh. Giai cấp tư sản cũng bao gồm nhiều tầng lớp tư sản khác nhau như:
tầng lớp tư sản nhỏ, tầng lớp tư sản trung bình, tầng lớp tư sản lớn, tầng lớp trùm tài
chính( còn gọi là tập đoàn tài phiệt). Hiện nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa
học-công nghệ, sự phát triển của sản xuất đạt trình độ rất cao, dẫn đến sự phân hóa
trong giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở các nước tư bản phát triển đang diễn ra hết
sức phức tạp. Từ đó, người ta có thể phân chia thành nhiều tầng lớp khác nhau theo
những tiêu chí mới. Ví du, tầng lớp công nhân cổ cồn, công nhân quý tộc có thu nhập
cao do trình độ nghề nghiệp của họ.
Tóm lại, khái niệm giai cấp và khái niệm tầng lớp xã hội có những nội hàm
khác nhau, không đồng nhất với nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Trong những điều
kiện nhất định, tầng lớp có thể chuyển hóa thành giai cấp và ngược lại.
Ví du, tầng lớp tư sản ở nước ta hiện nay là một bộ phận của tầng lớp doanh
nhân. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới, nếu không đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, không giữ vững được định
hướng xã hội chủ nghĩa, để nền kinh tế thị trường phát triển một cách tự phát thì rất có
thể tầng lớp tư sản sẽ chuyển hóa thành một giai cấp tư sản thực thụ.
b. Nguồn gốc giai cấp
Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất chưa phát triển nên chưa có giai
cấp, giai cấp chỉ xuất hiện khi công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời làm cho năng suất
lao động tăng lên đáng kể, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền
trong xã hội chiếm đoạt làm của riêng, chế độ tư hữu xuất hiện. Đó chính là cơ sở của
sự xuất hiện giai cấp.
c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có
đối kháng giai cấp
- Trong xã hội có giai cấp, tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. Thực chất của
đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần
chúng bị áp bức của vô sản làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc
quyền, đặc lợi, những kẻ áp bức bóc lột. Đấu tranh giai cấp còn có nguyên nhân khách
quan từ sự phát triển mang tính xã hội hóa sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất :
Biểu hiện của mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất với quan
hệ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất về mặt xã hội là: Mâu thuẫn giữa một bên là giai
cấp tiến bộ, cách mạng, đại diện cho lực lượng sản xuất mới với một bên là giai cấp
thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
- Đấu tranh giai cấp, một trong những động lực phát triển của xã hội có giai
cấp
+ Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức
Vũ Văn Thành 0932008296
73
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Đấu tranh
giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân các
giai cấp cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được gắn với đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch phản động.
+ Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh
sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các
cuộc đấu tranh trước đó. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về cơ bản sở hữu tư nhân
bằng sở hữu xã hội, trước khi giành chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa
tư sản và vô sản là đấu tranh về kinh tế, tư tưởng và chính trị. Sau khi giành chính
quyền, mục tiêu, hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi
nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức, quản lý sản xuất, quản lý xã hội, trên cơ sở đó,
thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là mục
tiêu, đồng thời là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản.
d. Nhà nước, công cụ chuyên chính giai cấp
Nhà nước ra đời tựa hồ đứng trên xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật
tự. Nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất – giai cấp thống trị về kinh tế mới
có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước, giai cấp này trở
thành giai cấp thống trị về chính trị.
Về bản chất, nhà nước chỉ là bộ máy quyền lực và công cụ chuyên chính của
một giai cấp đối với toàn bộ xã hội. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống
trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với
quần chúng lao động. Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng,
nó không phải là lực lượng điều hòa mâu thuẫn mà làm cho mâu thuẫn ngày càng gay
gắt.
Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, Nhà nước giữ được một mức độ độc
lập nào đó đối với hai giai cấp đối lập. Đó là khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới
thế cân bằng nhất định hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi
tạm thời giữa các giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Sự phát triển của nền kinh tế
– xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng, sẽ phá vỡ thế cân bằng, phá vỡ
sự thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp thù địch để tập trung quyền lực vào tay một
giai cấp nhất định.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối vơi sự phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó

Vũ Văn Thành 0932008296


74
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và cơ bản về chất
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế – xã hội lỗi
thời bằng hình thái kinh tế – xã hội cao hơn.
+ Vấn đề giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội,
bởi vì chỉ khi nào giành được chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền
chuyên chính, tiến tới xác lập quyền lực của mình.
+ Tiến hóa cũng là một hình thức phát triển xã hội, nó là quá trình phát triển
diễn ra tuần tự làm thay đổi từng mặt của hình thái kinh tế – xã hội. Tiến hóa và cách
mạng xã hội thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, tiến hóa chuẩn bị cho cách
mạng xã hội. Cách mạng xã hội mở đường cho tiến hóa như là những quá trình kế tiếp
nhau không ngừng trong sự phát triển xã hội.
- Nguyên nhân của cách mạng xã hội
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và
giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để duy trì, bảo vệ quan hệ sản
xuất lỗi thời. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, giai
cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, giành lấy chính
quyền nhà nước.
Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp mà vấn đề giành
chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. (V.I. Lênin).
b. Vai trò của cách mạng xã hội
- Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất lạc hậu bằng
quan hệ sản xuất tiến bộ, thay thế hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng hình thái
kinh tế – xã hội mới.
- Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh
tế, chính trị, văn hóa. Trong cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng
được phát huy một cách cao độ.
- Trong các cuộc cách mạng xã hội thì cách mạng vô sản là cuộc cách mạng
triệt để nhất vì nó xóa bỏ tận gốc chế độ áp bức bóc lột.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghiên cứu vai trò của cách mạng xã hội giúp ta nhận thức được cách mạng
xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cột mốc đánh dấu từng chặng đường của
tiến bộ xã hội, là sự thay đổi về chất theo xu hướng vận động đi lên của xã hội, của
văn minh nhân loại.
- Sự chuyển đổi từ thời đại này sang thời đại khác của lịch sử chỉ có thể thực
hiện được bằng cách mạng xã hội. Nếu không có cách mạng xã hội, lịch sử chỉ có thể
tiến từng bước chậm dần đều (tiệm tiến) chứ không thể có bước nhảy đột biến làm
thay đổi căn bản về chất của các hình thái kinh tế – xã hội.
VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI,
VÀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
Vũ Văn Thành 0932008296
75
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

1. Con người và bản chất của con người


a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
- Triết học Mác kế thừa những quan niệm về con người trong lịch sử và khẳng
định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Con
người tự nhiên là con người mang đầy đủ bán tính sinh học. Yếu tố sinh học là điều
kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Các
giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất
đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người.
Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá
nhân là tổ chức cơ thể người và quan hệ của nó với tự nhiên. Những thuộc tính, những
đặc điểm sinh học, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá
nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con
người. Đặc trưng cơ bản quy định sự khác biệt con người với thế giới loài vật là mặt
xã hội.
- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức bản chất con
người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước
hết là vấn đề sản xuất ra của cải vật chất. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
sản xuất vật chất. Thông qua sản xuất vật chất, con người tự thỏa mãn nhu cầu vật chất
và tinh thần, hình thành ngôn ngữ, phát triển các năng lực tư duy, xác lập các quan hệ
xã hội.
Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con
người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm
của tự nhiên và xã hội, con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật
khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Đó là :
+ Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa … chúng quy
định bản chất sinh học của con người.
+ Hệ thống quy luật tâm lý, ý thức hình thành và phát triển trên nền tảng sinh
học của con người như tình cảm, khát vọng, niền tin, ý chí …
+ Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và
xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình
cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần … Quan hệ giữa mặt sinh học
và mặt xã hội, cũng như nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh

Vũ Văn Thành 0932008296


76
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

học là cơ sở tự nhiên tất yếu, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con
người với các loài động vật khác.
Thông qua các mối quan hệ xã hội, các nhu cầu sinh học của con người đã mang
giá trị văn hóa, văn minh; đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề
sinh học. Hai mặt trên thống nhất, hòa quyện vào nhau tạo thành con người tự nhiên –
xã hội.
b. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Từ những quan niệm trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt trên thế giới loài
vật ở cả ba phương diện : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với
chính bản thân.
Cả ba mối quan hệ đó suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã
hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm lên tất cả các mối quan hệ
khác.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, trong “Luận cương về Phoi-ơ-
bắc”, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng : “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định, không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một thời đại
nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người
tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần để tồn tại, phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ,
chỉ trong các mối quan hệ xã hội đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của
mình.
Điều cần chú ý là, luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa phủ
nhận mặt tự nhiên; trái lại điều đó nhấn mạnh sự phân biệt con người với thế giới động
vật trước hết ở bản chất xã hội của nó.
c. Con người là chủ thể, là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là con người là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tư
cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến
giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử, xã hội.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại vừa là phương tiện để làm biến
đổi đời sống xã hội.
Trên cơ sở nắm bắt các quy luật của tự nhiên và xã hội, con người thông qua
hoạt động thực tiễn thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và
nhu cầu do con người đề ra.

Vũ Văn Thành 0932008296


77
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử, xã hội luôn vận
động, biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một
hệ thống đóng kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con
người. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng
với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
2. Khái niệm quần chúng nhân dân, vai trò của quần chúng nhân dân
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích cơ bản, bao gồm những
thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh
đạo của một cá nhân, tổ chức, đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội của một thời đại nhất định.
b.Vai trò của quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sư, lực lượng quyết
định sự phát triển của lịch sử; do đó, lịch sử trước hết là lịch sử hoạt động của quần
chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Vai trò quyết
định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung :
-Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất, cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
-Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Trong cuộc cách mạng xã hội chuyển biến từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình
thái xã hội khác, quần chúng nhân dân là lực lượng tham gia đông đảo.
-Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, chính trị, đạo đức … của nhân dân
vừa là cội nguồn vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của
các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân trong thực tiễn là
nguồn cảm hứng vô tận của mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội.
3. Vai trò của cá nhân trong lịch sử
a. Khái niệm cá nhân
Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội
nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và
tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất,
vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan
hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội
trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử thì mỗi cá nhân tùy theo
vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá
trình sáng tạo lịch sử với những mức độ và phạm vi khác nhau. Nhưng để lại những
dấu ấn sâu sắc nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là
những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật…
Vũ Văn Thành 0932008296
78
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

b. Khái niệm lãnh tụ


Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân
dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, được quần chúng tín nhiệm và
nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân. Như vậy, lãnh tụ là
người có các phẩm chất sau :
- Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế, thời đại.
- Hai là, có năng lực tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và
hành động của quần chúng nhân dân.
- Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích
của dân tộc, quốc tế, thời đại.
Bất cứ một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ
trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu
cầu của lịch sử.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ nắm bắt xu
thế của dân tộc, quốc tế, thời đại. Định hướng chiến lược và chương trình hành động.
Tổ chức lực lượng, giáo dục quần chúng, thống nhất ý chí hành động. Từ những nhiệm
vụ trên, lãnh tụ có vai trò to lớn đối với quần chúng như : thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến
bộ xã hội, sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó.
Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức, điều khiển, và quản lý các tổ chức chính trị xã
hội, có vai trò và ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các tổ
chức ấy. Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hòan thành nhiệm vụ của thời đại mình
đặt ra. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần,
sống mãi trong niềm tin của quần chúng.
Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ quên vai trò của
cá nhân hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem
thường vai trò của quần chúng nhân dân thì đều là không biện chứng trong việc nghiên
cứu về lịch sử, do đó không thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của
lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân đã cung
cấp một phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:
- Thứ nhất, nó xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu
dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử, đồng thời đem
lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu lịch sử cũng như việc
nghiên cứu và đánh giá vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ.
- Thứ hai, nó cung cấp phương pháp luận để các Đảng cộng sản phân tích các lực
lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ

Vũ Văn Thành 0932008296


79
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng
nhằm tạo ra động lực to lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG IV
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ


CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA.
1. Sản xuất hàng hóa, điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
Trong lịch sử đã từng có hai kiểu sản xuất: sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất
hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, để mua bán. Sản xuất hàng hóa là
một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện và tồn tại với điều kiện sau đây:

Vũ Văn Thành 0932008296


80
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Điều kiện thứ nhất là sự phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là
sự chuyên môn hóa sản xuất, một số người chỉ chuyên sản xuất ra một số loại sản
phẩm nào đó, một số người khác sản xuất sản phẩm khác dẫn đến những người sản
xuất phải phụ thuộc vào nhau. Vì vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở của sản xuất
hàng hóa. Nhưng, chỉ có phân công lao động xã hội thì chưa đủ mà phải có điều kiện
thứ hai.
- Điều kiện thứ hai là sự tồn tại chế độ tư hữu, hoặc những hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất. Chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tất nhiên sản phẩm
làm ra phải thuộc quyền sở hữu riêng của từng chủ sở hữu, do đó người này muốn có
được sản phẩm của người kia phải thông qua trao đổi, mua bán.
Tóm lại: cùng với sự phân công lao động xã hội, thì chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất là yếu tố cơ bản làm cho nền sản xuất hàng hóa ra đời.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
- Đặc trưng thứ nhất: nhằm thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng, và mục đích
chạy theo lợi nhuận, vì mà thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ.
- Đặc trưng thứ hai: vì mục đích lợi nhuận đã thôi thúc người sản xuất hàng hóa
phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để nâng cao năng suất lao
động, vì vậy mà làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh chóng.
- Đặc trưng thứ ba: mối liên hệ phụ thuộc giữa các ngành, các vùng ngày càng
chặt chẽ, xóa bỏ tình trạng bảo thủ, trì trệ, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất.
- Đặc trưng thứ tư: làm cho mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ được mở rộng, giao
lưu kinh tế trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho mỗi nước phát huy được lợi thế của
mình, đem lại lợi ích chung cho các nước.
- Ngoài những ưu thế nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái như:
khủng hoảng kinh tế, phân hóa giàu nghèo, phá hủy môi trường, làm nảy sinh những
hiên tượng tiêu cực trong sản xuất, kinh doanh…Nhận thức đúng những ưu thế và mặt
trái của sản xuất hàng hóa, để hạn chế những tiêu cực và phát huy những ưu thế của
nó.
II. HÀNG HÓA
1. Hàng hóa và hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa
a. Hàng hóa là sản phẩm lao động do con người tạo ra, nó có thể làm thỏa mãn
một hoặc một số nhu cầu nào đó của người tiêu dùng, đồng thời được dùng để trao
đổi, để bán.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động của con người làm ra, nó tồn tại rất đa dạng
phong phú dưới nhiều dạng vật thể như nhà cửa, xe cộ…hoặc dưới dạng phi vật thể
như du lịch, truyền hình cáp, sóng điện thoại di động…nó cũng có thể cùng một lúc
đáp ứng cho nhiều người cùng sử dụng công cộng như cầu đường, dịch vụ Internet…
hoặc cũng có thể chỉ cho một cá nhân sử dụng như quần áo, dày dép…Nhưng dù

Vũ Văn Thành 0932008296


81
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

những đặc tính của mỗi hàng hóa có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng
cũng đều có hai thuộc tính cơ bản là: giá trị sử dụng và giá trị
b. Hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa
- Thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hóa là nói lên công dụng nào đó của sản
phẩm, nó cho phép người ta thỏa mãn một hoặc một số nhu cầu nào đó của người tiêu
dùng. Ví dụ: gạo để nấu ăn, vải để mặc, sắt thép để chế tạo máy…Giá trị sử dụng chỉ
được thể hiện thông qua tiêu dùng, thông qua tiêu dùng, con người mới đánh giá chính
xác giá trị sử dụng của từng loại hàng hóa. Giá trị sử dụng của hàng hóa là phạm trù
vĩnh viễn.
Lưu ý: Không phải bất kỳ vật nào có giá trị sử dụng đều là hàng hóa, như nước
trong tự nhiên, không khí con người hít thở mặc dù có giá trị sử dụng rất lớn, nhưng
không phải là hàng hóa. Để trở thành hàng hóa phải có giá trị trao đổi.
- Thuộc giá trị của hàng hóa là nói lên sự hao phí sức lao động xã hội cần thiết của
người sản xuất hàng hóa được kết tinh trong hàng hóa. Để hiểu rõ bản chất của giá trị,
phải thông qua giá trị trao đổi
Ví dụ: 1m vải = 5 kg gạo. Vải và gạo là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau,
tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau. Như vậy, giữa gạo và vải phải có cái
chung giống nhau, cái chung đó chính là hao phí sức lao động để sản xuất ra vải và
gạo. Do đó, khi những người sản xuất hàng hóa, trao đổi sản phẩm với nhau, thực chất
là trao đổi lượng lao động bằng nhau được ẩn dấu trong những hàng hóa đó. Hao phí
lao động để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi. Giá trị trao đổi là biểu hiện
bên ngoài, còn giá trị là bản chất bên trong của hàng hóa.
c. Đặc tính của giá trị
- Tất cả các hàng hóa đều có giá trị giống nhau về bản chất là hao phí sức lao động.
Vì vậy, khi trao đổi hàng hóa với nhau thực chất là người ta trao đổi sức lao động với
nhau, và việc trao đổi phải trên cơ sở ngang giá .
- Giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử vì nó chỉ có trong nền sản xuất hàng
hóa và chỉ khi nào diễn ra mua bán trao đổi người ta mới quy giá trị của hàng hoá là
hao phí lao động.
Tóm lại: sản phẩm với tư cách là hàng hóa phải đồng thời có cả hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị.
d. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
- Hai thuộc tính của hàng hóa vừa có sự thống nhất vừa có sự đối lập:
+ Thống nhất: hai thuộc tính của hàng hóa không tách rời nhau, nếu thiếu một
trong hai thuộc tính thì sản phẩm không phải là hàng hóa.
+ Đối lập: người sản xuất hàng hóa quan tâm là giá trị. Ngược lại, người tiêu dùng
là giá trị sử dụng, nhưng muốn có được giá trị sử dụng họ phải trả đúng giá trị cho
người bán hàng.

Vũ Văn Thành 0932008296


82
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Mâu thuẫn: người tiêu dùng luôn đòi hỏi giá trị sử dụng ngày càng cao, chất
lượng tốt, mẫu mã kiểu dáng đẹp, giá rẻ, ngược lại nhà sản xuất thì muốn bán hàng hóa
được giá cao, chi phí thấp.
2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
a. Mặt thứ nhất biểu hiện là lao động cụ thể dưới hình thức thao tác của người lao
động trong những ngành nghề chuyên môn để tạo ra giá trị sử dụng.
- Lao động cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn khác nhau thì có mục đích
khác nhau, có đối tượng khác nhau, có phương pháp khác nhau và kết quả riêng, tạo ra
nhiều giá trị sử dụng khác nhau, biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Lao động cụ thể có
thể thay đổi về hình thức lao động theo điều kiện lịch sử nhất định, nó là một phạm trù
vĩnh viễn.
b. Mặt thứ hai, lao động trừu tượng: là nói lên sự hao phí sức lao động của người
sản xuất hàng hóa nói chung được kết tinh vào hàng hóa. Vì vậy, lao động trừu tượng
mang tính xã hội, nó là một phạm trù lịch sử.
c. Mối quan hệ, và ý nghĩa:
- Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử, vì nó chỉ có trong nền sản xuất hàng
hóa. Vì, khi trao đổi mua bán người ta phải quy lao động cụ thể về lao động trừu tượng
để làm cơ sở trao đổi mua bán hàng hóa
- Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt của cùng một quá trình lao
động sản xuất hàng hóa, nó không phải là hai loại lao động khác nhau, nếu như lao
động cụ thể mang tính chất lao động tư nhân thì lao động trừu tượng lại phản ánh tính
chất xã hội của sản xuất hàng hóa.
- Nếu sản xuất hàng hoá có mức hao phí cá biệt cao hơn so với hao phí lao động
trung bình của xã hội sẽ dẫn đến lỗ vốn, phá sản.
- Sản xuất hàng hóa, một mặt tạo ra những động lực để thúc đẩy sản xuất phát
triển, mặt khác chứa đựng nguy cơ khủng hoảng kinh tế.
3. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa.
a. Thước đo lượng giá trị của hàng hóa
Trong đời sống thực tế, nhiều người cùng sản xuất một mặt hàng như nhau,
nhưng số lượng thời gian lao động hao phí lại khác nhau. Vì vậy, muốn đo lường được
lượng giá trị của hàng hóa người ta phải căn cứ vào thời gian hao phí lao động trung
bình của xã hội chứ không phải hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất.
Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết cũng có thể là mức thời gian lao
động cá biệt của nhà sản xuất cung ứng đại bộ phận một loại hàng hóa trên thị trường
(độc quyền).
Vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết là: thời gian cần thiết để làm ra một loại
hàng hóa với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ chuyên môn tay nghề trung

Vũ Văn Thành 0932008296


83
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

bình, cường độ lao động trung bình, trong điều kiện bình thường của một xã hội nhất
định
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Thứ nhất, năng suất lao động xã hội là sức sản xuất của lao động, nó được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc số lượng thời
gian lao động hao phí để làm ra một đơn vị sản phẩm. Do đó, cần phân biệt năng suất
lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội:
+ Năng suất lao động cá biệt là nói lên năng suất lao động của từng nhà sản xuất
riêng lẻ, khi sản xuất ra một hàng hóa nào đó.
+ Năng suất lao động xã hội là nói lên của chung toàn xã hội. Nếu năng suất lao
động xã hội tăng thì lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm, và ngược lại. Do đó,
để có được lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm cần phải cải tiến kỹ thuật công
nghệ, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động, nâng cao trình độ
quản lý.
+ Cường độ lao động phản ánh mức độ khẩn trương, mệt nhọc, căng thẳng trong
quá trình lao động. Do đó, khi tăng cường độ lao động, thì lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa không thay đổi.
Thứ hai: mức độ phức tạp của lao động:
Lao động giản đơn và lao động phức tạp: Lao động giản đơn là những loại lao
động chưa trải qua huấn luyện chuyên môn nghề nghiệp, mà bất kỳ người lao động
nào có khả năng lao động bình thường đều có thể làm được, còn lao động phức tạp là
những loại lao động đã trải qua huấn luyện chuyên môn nghề nghiệp, đã có được một
trình độ thành thạo nhất định. Trong cùng một thời gian lao động, người có trình độ
lao động phức tạp sẽ tạo ra một lượng giá trị lớn hơn, so với lao động giản đơn. Lao
động giản đơn là cơ sở để tính toán lượng giá trị của hàng hóa, vì vậy kết quả của lao
động phức tạp sẽ được quy về lao động giảm đơn để xác định lượng giá trị của hàng
hóa. Theo C.Mác: lao động phức tạp, chỉ là bội số của lao động giản đơn.
Tóm lại: qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa,
chúng ta rút ra được kết luận là lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
c. Cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa
- Lượng giá trị của hàng hóa bao gồm:
+ Lao động quá khứ được chuyển dần vào hàng hóa trong quá trình sản xuất.
+ Lao động sống, tức lao động trực tiếp của người công nhân.
- Như vậy, cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa = giá trị cũ (lao động quá khứ, tức
tư liệu sản xuất được chuyển dần vào hàng hóa) + giá trị mới (tức lao động trực tiếp
của người công nhân được kết tinh vào hàng hóa để tạo ra giá trị mới)
III. TIỀN TỆ

Vũ Văn Thành 0932008296


84
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

1. Lịch sử phát triển các hình thái gía trị, bản chất của tiền tệ
a. Lịch sử phát triển các hình thái giá trị.
Việc mua bán trao đổi thời nguyên thủy diễn ra hết sức ngẫu nhiên, giản đơn. Ví
dụ: 1 m vải = 5 kg gạo. Vì sao, 1 m vải lại đổi được 5 kg gạo. Thực chất họ trao đổi
gạo và vải được với nhau là trao đổi những lượng lao động, trao đổi những lượng giá
trị nhất định. Về sau, việc trao đổi đã trở thành tập quán thì giá trị của một hàng hóa có
thể biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác.

= 10 kg gạo
= 3 cái cuốc
Ví dụ: 2m vải = 1 con dê
= 2 cái búa
Khi xã hội phát triển, sự trao đổi hàng hóa rộng rãi thì tình trạng có nhiều vật
ngang giá riêng biệt như trên gây khó khăn cho trao đổi thì dần dần giá trị của tất cả
hàng hóa được biểu hiện ở một vật ngang giá chung.
10 kg gạo =
Ví dụ: 3 cái cuốc = 1 con dê
2 cái búa =

Tuy nhiên, nó vẫn chưa ổn định, ở mỗi vùng có một vật ngang giá chung khác
nhau. Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa, thị trường ngày càng mở rộng,
tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương, các
vùng trở nên khó khăn đòi hỏi khách quan phải hình thành một vật ngang giá chung
vững chắc là vàng và bạc, đồng thời xuất hiện hình thái tiện tệ.
5 kg gạo =
Ví dụ: 02 kg café = 0,2 gr vàng, hoặc 0,4 gr bạc
01 m vải =

b. Bản chất của tiền tệ.


Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt (vàng) được tách ra khỏi thế giới hàng hóa
đóng vai trò làm vật ngang giá chung cho các hàng hóa khác trong trao đổi.
2. Các chức năng của tiền tệ.
a. Chức năng thước đo giá trị:
Để đo lường giá trị, bản thân tiền cũng phải có giá trị là tiền vàng, bởi vì giữa giá
trị của vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định dựa trên

Vũ Văn Thành 0932008296


85
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết, tuy nhiên mỗi quốc gia, tiêu chuẩn giá cả
cũng rất khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ 1 USD có hàm lượng vàng 0,736662gr; ở Pháp 1
Franch Franc có hàm lượng 0,160000gr vàng; ở Anh 1 Pound Sterling có hàm lượng
2,13281gr vàng... Tác dụng của tiền tệ khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với
tác dụng của nó khi làm thước đo giá trị, đồng thời nó còn chịu sự tác của nhiều nhân
tố như: giá trị hàng hóa; giá trị tiền tệ; quan hệ cung – cầu hàng hóa; cạnh tranh.
b. Chức năng lưu thông:
Tiền làm cho quá trình mua bán được diễn ra thuận lợi, nó phục vụ cho sự vận
động của hàng hóa. Lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình
thống nhất với nhau, lưu thông hàng hóa bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tiền cần thiết
cho sự lưu thông, được diễn ra theo qui luật phổ biến là: “tổng số giá cả của hàng hóa
chia cho số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong một thời gian nhất
định.”(1)
Qui luật này được thể hiện như sau:
G
T=
N
Trong công thức trên, cần giả định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông phải là
tiền vàng, hoặc tiền giấy có giá trị không đổi, được xét trên cùng một thời gian và
không gian. Trong lưu thông, lúc đầu tiền xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén,
sau đó là tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy ra đời. Bản thân tiền giấy không có giá trị
thực (không kể chi phí in tiền) nó chỉ là quy ước giá trị do nhà nước phát hành và buộc
xã hội công nhận. khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành đưa vào lưu thông
vượt quá khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông, thì tình trạng lạm phát sẽ xuất hiện.
Do đó: “việc phát hành tiền giấy phải cân đối với số lượng vàng (hay bạc) được tiền
giấy đó đại biểu”(1).
c. Chức năng thanh toán:
Chức năng thanh toán như dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán
đã hoàn thành, ví dụ: nộp thuế, trả tiền điện, mua chịu hàng hóa...nó có tác dụng đáp
ứng kịp thời nhu cầu cho người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền,

( Ghi chú:
T: là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông
G: là tổng số giá cả hàng hóa lưu thông.
N: số vòng lưu thông của đơn vị tiền tệ cùng loại.
( Gbc: là tổng số giá cả hàng hóa bán chịu
Gkt: là tổng số giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau
Gđk: là tổng số giá cả hàng hóa đến kỳ hạn trả.

Vũ Văn Thành 0932008296


86
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

hoặc chưa có đủ tiền để chi trả cho các giao dịch hàng hóa, điều này sẽ thúc đẩy trao
đổi hàng hóa.
Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để
định giá cả của hàng hóa. Nhưng là vì mua bán chịu nên đến kỳ hạn, tiền mới được
đưa vào lưu thông để thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt
tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt
khác, khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một
khâu thanh toán nào đó không thực hiện được hệ thống thanh toán sẽ bị phá vỡ, khủng
hoang kinh tế sẽ gia tăng.
Khi tiền tệ làm chức năng phương tiện thanh toán, thì công thức số lượng tiền tệ
cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
G – (Gbc + Gkt) + Gđk
T=
N
Trong quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện một loại
tiền mới: tiền tín dụng, dưới các hình thức: thẻ thanh toán; tài khoản séc; tiền điện
tử...điều này làm cho các hình thức thanh toán của tiền ngày càng phong phú đa dạng.
d. Chức năng cất trữ:
Tiền được rút khỏi lưu thông và cất trữ khi cần thiết lại đưa vào lưu thông sử
dụng. Để làm chức năng cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, nghĩa là tiền vàng, bạc. Chức
năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền
cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất gia tăng tiền đưa vào lưu thông tăng lên và
ngược lại.
e. Tiền tệ thế giới:
Chức năng này xuất hiện khi trao đổi hàng hóa mang tính quốc tế, và hình thành
quan hệ mua bán giữa các chủ thể kinh tế thuộc nhiều nước khác nhau. Trong chức
năng tiền tệ thế giới, vàng được dùng làm: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện thanh toán di chuyển của cải từ nước này sang nước khác, với sự qui định
hàm lượng cụ thể hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
Việc qui đổi tiền của nước này ra tiền của nước khác được tiến hành theo tỷ giá
hối đoái. Đó là quan hệ tỷ lệ về giá trị đồng tiền của nước này so với giá trị đồng tiền
của nước khác.
Tóm lại, tiền tệ có nhiều chức năng. Sự phát triển các chức năng của tiền phản
ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
IV. QUI LUẬT GIÁ TRỊ
1. Nội dung của qui luật giá trị
Theo yêu cầu của qui luật giá trị, việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Do đó, khi trao đổi phải tuân theo nguyên tắc

Vũ Văn Thành 0932008296


87
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

ngang giá. Do đó, qui luật giá trị đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải tuân theo mệnh
lệnh giá cả của thị trường, và chỉ thông qua giá cả lên xuống của thị trường, người ta
mới thấy được sự hoạt động của qui luật giá trị, sự tác động của chúng làm cho giá cả
hàng hóa trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Sự vận động giá cả của
hàng hóa trên thị trường xoay quanh trục giá trị, đó chính là cơ chế hoạt động của qui
luật giá trị, và thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà qui luật giá trị phát huy
những tác dụng của nó trong nền sản xuất hàng hóa.
2. Tác dụng của qui luật giá trị
Trong sản xuất, thoạt nhìn bề ngoài hình như mỗi người tự quyết định mình sản
xuất cái gì theo ý muốn, không bị ràng buộc. Thật ra, mọi hoạt động của họ trong lĩnh
vực sản xuất và lưu thông đều bị qui luật giá trị chi phối dưới các hình thức sau đây:
a. Điều tiết sản xuất: ngành sản xuất nào đó thu lợi nhuận cao, người sản xuất sẽ
tăng qui mô, và những người sản xuất khác cũng đổ xô vào ngành đó, kết quả là tư liệu
sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành này tăng lên. Ngược lại, nếu
cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hóa giảm xuống, sản xuất lỗ vốn, người sản
xuất phải thu hẹp qui mô hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành khác có giá cả hàng hóa
cao hơn.
b. lưu thông hàng hóa: Trên thị trường lưu thông hàng hóa vận động theo xu
hướng người ta di chuyển hàng hóa từ nơi hàng hóa có giá cả thấp sang nơi có giá cả
cao hơn.
c. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc
đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Để giành lợi thế trong cạnh tranh, buộc người sản xuất phải hạ thấp hao phí lao
động cá biệt hàng hóa do mình sản xuất sao cho bằng hoặc thấp hơn hao phí lao động
xã hội. Điều này kích thích người sản xuất luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ
chức quản lý, thực hiện tiết kiệm, tăng năng suất lao động.
d. Phân hóa người sản xuất, xã hội có kẻ giàu người nghèo
Quá trình giành lấy lợi thế trong cạnh tranh và theo đuổi lợi nhuận tất yếu dẫn
đến kết quả là: người sản xuất nào có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức quản lý tốt sẽ có
hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó đã giàu lên.
Ngược lại, sẽ bị thua lỗ, dẫn tới phá sản và trở thành người làm thuê.

Vũ Văn Thành 0932008296


88
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương V
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN TỆ THÀNH TƯ BẢN


1. Công thức chung của tư bản
Bản thân tiền tệ không phải là tư bản, tiền chỉ trở thành tư bản khi sử dụng nó
để bóc lột người khác, mang lại thu nhập cho người chủ tiền tệ. Để hiểu rõ tiền biến
thành tư bản như thế nào. Mác đã dùng công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và
công thức chung của tư bản sau đây để so sánh:
+ Lưu thông hàng hóa giản đơn: H – T – H (hàng – tiền – hàng)
+ Lưu thông tiền là tư bản: T – H – T’ (tiền – hàng – tiền).
- So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và lưu thông tư bản
+ Điểm giống nhau: cả hai công thức đều diễn ra mua và bán; đều có hai nhân
tố là tiền và hàng; có quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán. Tuy nhiên, giống
nhau chỉ là hình thức, còn bản chất hoàn toàn khác nhau.
+ Công thức H – T – H: Quá trình bắt đầu bằng hành vi bán (H – T), kết thúc
bằng hành vi mua (T – H). Điểm bắt đầu và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền tệ chỉ
đóng vai trò trung gian.
+ Ngược lại công thức: T – H – T, điểm xuất phát là mua (T – H), điểm kết thúc
là bán (H – T), tiền là điểm xuất phát và cũng là điểm kết thúc, hàng hóa đóng vai trò
trung gian.
- Trên cơ sở so sánh, chúng ta nhận thấy: Mục đích của vận động của T – H – T
không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị. Nếu tiền ứng trước và tiền thu về sau khi
bán hàng bằng nhau thì quá trình vận động T – H – T là vô nghĩa. Vì vậy, trong quá
trình vận động tư bản phải có sự tăng lên về lượng, nghĩa là số tiền thu về phải lớn hơn
số tiền ứng trước. Do đó, công thức vận động đầy đủ của tư bản phải là: T – H – T’
trong đó T’ = T + t, t là số tiền tăng thêm được Mác gọi là giá trị thặng dư.

Vũ Văn Thành 0932008296


89
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Công thức T – H – T’ được gọi là công thức chung của tư bản, vì nó phản ánh
mục đích vận động của tư bản, và tất cả các loại hình tư bản như: tư bản công nghiệp,
tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay đều vận động dưới dạng đó.
Như vậy, mục đích lưu thông của tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng
dư. Do đó, sự vận động của tư bản là không có giới hạn, chúng ta có thể biểu diễn
bằng sơ đồ: T – H – T’– H – T’’ v.v…
2. Mâu thuẫn của công thức chung
Thoạt nhìn vào sơ đồ: T – H – T’– H – T’’ v…v…, người ta thấy hình như quá
trình lưu thông đẻ ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Đúng, nếu không có lưu thông,
tức là nhà tư bản không bỏ tiền ra lưu thông thì cũng không thu được giá trị thặng dư.
Nhưng trong mọi trường hợp thì dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá bản thân
tiền tệ trong lưu thông đều không tạo ra một giá trị nào. Vì sao ?
Một là: giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa thống nhất trong bản thân hàng
hóa. Giá trị chỉ được tạo ra đồng thời với giá trị sử dụng. Lưu thông chỉ là quá trình
thay đổi hình thức tồn tại của giá trị (H – T).
Hai là: Theo yêu cầu của quy luật giá trị, trao đổi phải ngang giá, vì vậy, giá trị
cũng không thể tăng thêm qua lưu thông.
Ba là, trong đời sống thực tế, không phải bao giờ người ta cũng trao đổi ngang
giá mà có hiện tượng mua rẻ bán đắt, trong trường hợp này giá trị cũng không thể tăng
thêm. Vì trong sản xuất hàng hóa, việc mua bán trao đổi phải được tiến hành ngang giá
(mua đúng giá, bán đúng giá), thì cả người mua và người bán đều không thu được giá
trị tăng thêm, tuy nhiên họ sẽ có được giá trị sử dụng mà mỗi bên cần.
Bốn là, giả sử tất cả mọi người đều bán giá cao hơn giá trị hàng hóa 10%, như
vậy khi anh ta bán hàng sẽ thu lợi được 10%, nhưng khi đóng vai trò là người mua,
anh ta lại bị mất 10%, như vậy cuối cùng anh ta cũng không thu được giá trị lớn hơn.
Trường hợp mua bán hàng thấp hơn giá trị 10% cũng vậy.
Lại giả sử trong xã hội có một bọn người chuyên đầu cơ, bịp bợm chuyên mua
rẽ bán đắt mà kiếm được nhiều lãi. Trong trường hợp này, phần giá trị mà anh ta thu
được khi là người bán hoặc người mua, chẳng qua là phần giá trị mà người khác bị mất
đi. Còn giá trị thực của hàng hóa, vẫn không thay đổi.
Như vậy, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá, đều không thu được giá
trị thặng dư, để tìm hiểu nguồn gốc của giá trị thặng dư phải nghiên cứu từ trong quá
trình sản xuất. Tuy nhiên, để sản xuất hàng hóa phải có lưu thông. Vì vậy, giá trị thặng
dư được tạo ra từ lưu thông, nhưng không phải trong lưu thông. Đó chính là mâu thuẫn
công thức chung của tư bản. Để tìm ra nguồn gốc giá trị thặng dư được sản xuất ra như
thế nào Mác phải đi tìm từ hàng hóa sức lao động.
3. Hàng hóa sức lao động
a. Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong mỗi con người, mà
người đó có khả năng đem ra sử dụng để tạo ra của cải vật chất

Vũ Văn Thành 0932008296


90
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

b. Điều kiện, sức lao động biến thành hàng hóa:


Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể để có quyền đem bán
sức lao động của mình.
Hai là, người có sức lao động hoàn toàn mất hết mọi tư liệu sản xuất, chỉ còn lại
sức lao động là tài sản duy nhất. Để khỏi chết đói họ không còn con đường nào khác là
phải bán sức lao động để nuôi sống bản thân và gia đình.
Hàng hóa sức lao động ra đời đánh dấu một giai đoạn mới trong xã hội tư bản,
nó là một phạm trù lịch sử, sinh ra và mất đi cùng với phương thức sản xuất của nó, và
cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính giá trị và
giá trị sử dụng .
c. Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị của hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động. Nói một cách cụ thể: Giá trị của hàng hóa sức lao
động bằng giá trị những tư liệu tiêu dùng cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi
sống người lao động và gia đình họ, cũng như những chi phí để đào tạo chuyên môn.
Giá trị hàng hóa sức lao động có tính lịch sử và xã hội, do đó tùy thuộc vào điều kiện
mỗi nước và từng thời kỳ mà giá trị của hàng hóa sức lao động cao hay thấp.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa thông
thường là ở chỗ nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của người mua, nhưng hàng hóa sức
lao động khác với hàng hóa thông thường là quá trình tiêu dùng nó đã sản xuất ra một
giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó mà nhà tư bản đã mua. Phần lớn hơn đó, chính là giá
trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là chìa khóa
để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Sự thống nhất giữa sản xuất ra giá trị sử dụng và sản xuất ra giá trị
thặng dư
Quá trình sản xuất của chủ nhĩa tư bản, trước hết vẫn là việc kết hợp sức lao
động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra giá trị sử dụng. Quá trình sản xuất, nhà tư bản
là người nắm tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của người làm thuê. Vậy, hình thức
bóc lột đó diễn ra như thế nào ?
Giả sử nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân đúng giá trị là 3 USD
để sử dụng trong 10 giờ. Giả định cứ 1 giờ lao động người công nhân tạo ra một lượng
giá trị mới là 0,60 USD. Kết quả sau 5 giờ làm việc, người lao động biến số tư liệu sản
xuất có giá trị là 20 USD thành hàng hóa mới có giá trị là 23 USD. Nếu dừng lại ở đây
thì người công nhân không bị bóc lột. Nhưng, về lý nhà tư bản mua sức lao động trong
10 giờ chứ không phải 5 giờ. Vì vậy, người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 5
giờ nữa. Lần này, nhà tư bản chỉ cần bỏ ra 20 USD để mua tư liệu sản xuất và người
công nhân tiếp tục lao động 5 giờ nữa và nhà tư bản lại thu 23 USD nữa.

Vũ Văn Thành 0932008296


91
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Từ giả thiết trên cho chúng ta thấy: nhà tư bản chỉ bỏ ra 43 USD và thu về 46
USD, phần chênh lệch 3 USD do đâu mà có, 3 USD đó chính là do sức lao động của
người công nhân tạo ra. Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra
ngoài giá trị sức lao động, là phần lao động không công của công nhân bị nhà tư bản
chiếm đoạt. Được Mác dùng ký hiệu là: m
Kết luận:
+ Một là, quá trình sản xuất giá trị thặng dư là quá trình tạo ra giá trị vượt quá
điểm mà giá trị sức lao động được trả, giá trị thặng dư là lao động không công của
công nhân.
+ Hai là, ngày lao động của công nhân luôn có hai phần: thời gian lao động cần
thiết để bù đắp lại giá trị sức lao động; thời gian lao động thặng dư, để tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản.
+ Ba là, việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng
thời không diễn ra trong lĩnh vực đó, và chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua
được thứ hàng hóa đặc biệt, hàng hóa sức lao động, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao
động đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
2. Bản chất của tư bản. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
a. Bản chất của tư bản:
Theo Mác, không phải mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Tư liệu sản xuất chỉ
trở thành tư bản khi nó nằm trong tay nhà tư bản và sử dụng để bóc lột lao động làm
thuê. Khi nghiên cứu quá trình chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản, Mác xác định: tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến: Trong tư liệu sản xuất, khi tham gia vào quá trình sản xuất có
bộ phận chỉ hao mòn dần, giá trị được chuyển dần dần vào sản phẩm mới như: máy
móc, thiết bị, nhà xưởng, có loại lại được chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới như
nguyên liệu, nhiên liệu. Quá trình bảo tồn và chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới
của các loại tư bản là nhờ có lao động cụ thể của người lao động và quá trình di
chuyển đó chúng cũng không hề làm tăng lên về số lượng giá trị của hàng hóa sau quá
trình sản xuất. (Được Mác dùng ký hiệu là c - constant), tức tư bản bất biến, nghĩa là
giá trị không thay đổi. Vậy, tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái là
tư liệu sản xuất, giá trị của nó được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi
về lượng sau quá trình sản xuất.
- Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động của công nhân, một
mặt giá trị của nó chuyển thành tư liệu tiêu dùng của người công nhân; mặt khác trong
quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng người công nhân đã tạo ra giá trị mới bao
gồm giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. (Được Mác dùng ký hiệu là v –
variable), tức tư bản khả biến. Vậy, tư bản khả biến là bộ phận tư bản biểu hiện là giá
trị sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công
nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng sau quá trình sản xuất.
Vũ Văn Thành 0932008296
92
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tóm lại: Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu để sản xuất ra giá
trị thặng dư, còn tư bản khả biến mới là bộ phận trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư. Căn
cứ để C.Mác phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến, xuất phát từ tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Sự phân
chia này chỉ rõ vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản này, qua đó vạch rõ hơn
nguồn gốc của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra, nhà tư bản thu giá trị thặng
dư là bóc lột công nhân làm thuê.
3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
Sau khi nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, chúng ta nghiên
cứu mặt số lượng của việc bóc lột giá trị thặng dư, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối
lượng giá trị thặng dư
a. Tỷ suất giá trị thặng dư (m’):
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Mác trình
bày tỷ suất giá trị thặng dư bằng chữ m’ và xác định công thức của tỷ suất giá trị thặng
dư là:
m
m’ = ---- x 100%
v
Theo giả thiết nêu trong phần quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, thì:

3 USD (m)
m’ = ---------------- x 100 = 100%
3 USD (v)
Điều đó có nghĩa là, nhà tư bản cứ ứng ra 100 USD để thuê người lao động thì
nhà tư bản cũng bóc lột được 100 USD. (Thực tế tỷ suất giá trị thặng dư hiện nay ở các
nước tư bản phát triển là 300 %)
b. Khối lượng gía trị thặng dư (M)
Mác dùng chữ M là ký hiệu khối lượng giá trị thặng dư và V là tổng số tư bản
khả biến. Do đó, công thức về khối lượng giá trị thặng dư là:
m
M = ------- x V
v
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư là số lượng tuyệt đối về giá trị thặng dư mà
nhà tư bản đã thu được. Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào tỷ suất giá trị
thặng dư và tổng tư bản khả biến. Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô và
lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư thu được, nó tỷ lệ thuận với mức độ bóc lột lao
động và quy mô của tư bản khả biến

Vũ Văn Thành 0932008296


93
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

4. Những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư


a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động. Ngày lao động bị kéo dài, nhưng thời gian lao động cần thiết, không thay đổi,
thời gian lao động thặng dư dài thêm ra. Do đó, ngày lao động càng dài thì tỷ suất giá
trị thặng dư càng cao, giá trị thặng dư tuyệt đối càng nhiều
Ví dụ: thời gian lao động của một người trong một ngày là 10 giờ, trong đó: 

thời gian lao động cần thiết:5 giờ thời gian lao động thặng dư:
5 giờ

5
m’ = ---- x 100%, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%
5

Nếu thời gian lao động cần thiết không đổi, mà ngày lao động bị kéo dài từ 10
giờ thành 12 giờ thì tỷ suất giá trị thặng dư là: 

thời gian lao động cần thiết:5 giờ thời gian lao động thặng
dư:7 giờ

7
m’ = ---- x 100% tỷ suất giá trị thặng dư là 140%
5
Việc kéo dài thời gian lao động trong ngày chỉ có giới hạn và vấp phải sự phản
kháng của người lao động nên nhà tư bản tìm phương pháp bóc lột mới. Phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được là do rút ngắn thời gian
lao động cần thiết, nhưng không thay đổi thời gian ngày lao động, do đó, thời gian lao
động thặng dư tăng lên một cách tương ứng.
Ví dụ: thời gian lao động của một người trong một ngày là 8 giờ, trong đó: 

Vũ Văn Thành 0932008296


94
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thời gian lao động cần thiết:3 giờ thời gian lao động thặng dư:5 giờ

5
m’ = ---- x 100% tỷ suất giá trị thặng dư là 166%
3
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối được áp dụng khi tiến bộ khoa
học, kỹ thuật ngày càng phát triển, nó làm tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản mà
không cần phải kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động, từ đó đã giải
quyết được một phần mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Tuy nhiên, với mục đích là
tối đa hóa giá trị thặng dư nhà tư bản vẫn tìm cách để kéo dài ngày lao động hoặc tăng
cường độ lao động nếu có thể được, đồng thời tìm cách bớt xén tiền lương của công
nhân, vì vậy mâu thuẫn giữa tư bản và lao động vẫn không được giải quyết.
c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư có được do giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị xã hội
Để có được giá trị thặng dư siêu ngạch, nhà tư bản phải đi đầu trong việc cải tiến
kỹ thuật, công nghệ, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa giảm xuống thấp hơn giá trị
xã hội. Nếu xét riêng đối với từng nhà tư bản, thì giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là hiện
tượng tạm thời, nhưng xét trên phạm vi xã hội, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện
tượng tồn tại thường xuyên, nó có thể mất đi ở nhà tư bản này, đồng thời lại xuất hiện
ở nhà tư bản khác.
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư
bản cải tiến kỹ thuật, công nghệ mới, tìm kiếm bí quyết công nghệ để nâng cao năng
suất lao động, giảm giá trị cá biệt của hàng hóa, từ đó cũng nâng cao năng suất lao
động của xã hội nói chung.
Giá trị thặng dư siêu ngạch còn được gọi là hình thức biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối vì cả hai đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, đồng thời giá trị
thặng dư siêu ngạch chỉ tồn tại tạm thời, sau một thời gian khi tiến bộ kỹ thuật công
nghệ mới được phổ biến nó sẽ được chuyển thành giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư siêu ngạch cũng có những điểm khác với giá trị thặng dư tương
đối :
- Giá trị thặng dư siêu ngạch phản ánh quan hệ bóc lột trong từng xí nghiệp tư bản,
còn giá trị thặng dư tương đối phản ánh quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối
với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn giá
trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ tồn tại tạm thời, còn giá trị thặng dư tương đối tồn
tại tương đối lâu dài.

Vũ Văn Thành 0932008296


95
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
Mục đích của nền sản xuất TBCN là sản xuất ra giá trị thặng dư. Phương tiện để
đạt được giá trị thặng dư là: kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, mở rộng
sản xuất, tăng năng suất lao động hoặc tìm kiếm bí quyết công nghệ mới. Quy luật giá
trị thặng dư có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất TBCN; mặt khác nó
cũng làm cho mâu thuẫn của CNTB ngày càng gay gắt. Ngày nay, CNTB hiện đại đã
có những điều chỉnh mới trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối, nhưng bản chất
bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn không thay đổi.
III. TIỀN LƯƠNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Bản chất của tiền lương trong CNTB
Tiền lương trong CNTB. Thoạt nhìn, người công nhân nhận tiền lương giống như
tiền trả công cho người lao động sau một thời gian làm việc. Nhưng thực chất, tiền
lương trong chế độ tư bản cũng là hình thức bóc lột. Bởi vì, trong CNTB sức lao động
cũng là hàng hóa, với tư cách là hàng hóa thì khi mua, người mua, tức nhà tư bản đáng
lý phải trả tiền trước cho người công nhân, nhưng thực chất phải sau một thời gian lao
động, tức nhà tư bản đã sử dụng rồi người lao động mới được nhận tiền công. Như
vậy, bản chất của tiền lương trong CNTB là tiền trả công cho giá trị sức lao động, là
giá cả của hàng hóa sức lao động, nhưng được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả
của lao động.
2. Tiền lương trong trong chủ nghĩa tư bản.
a. Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được do bán sức lao
động cho nhà tư bản, tiền công được sử dụng tái sản xuất ra sức lao động. Tiền lương
thực tế là số tiền mà người công nhân nhận được là do bán sức lao động mà có, dùng
để mua hàng hóa tiêu dùng, nhưng do giá cả tư liệu tiêu dùng tăng nhanh, trong khi đó
tiền lương lại không được tăng. Vì vậy, cuộc sống của người lao động ngày càng giảm
sút. Trong khi đó do sự tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng làm gia tăng nạn thất nghiệp,
và khủng hoảng kinh tế càng làm cho đời sống người lao động thêm khó khăn.
b. Hai hình thức tiền lương cơ bản trong chủ nghĩa tư bản :
Tiền lương tính theo thời gian: là tiền lương được trả căn cứ vào thời gian làm việc
của người công nhân (giờ, ngày, tuần, tháng). Tiền lương theo ngày, tuần hoặc tháng
chưa phản ánh chính xác mức tiền lương vì nó còn tùy thuộc vào thời gian lao động
trong một ngày và cường độ lao động của công nhân. Khi trả lương theo thời gian, các
nhà tư bản thường tìm cách tăng cường độ lao động, quản lý chặt chẽ thời gian làm
việc của người công nhân.
Tiền lương theo sản phẩm: là tiền lương được trả căn cứ vào số lượng và chất
lượng sản phẩm mà người công nhân làm ra. Tiền lương theo sản phẩm giúp cho nhà
tư bản giảm bớt chi phí quản lý, đồng thời kích thích người lao động nâng cao năng
suất lao động. Tuy nhiên nó có nhược điểm là người công nhân sẽ chạy theo số lượng
sản phẩm, mà không chú ý đến chất lượng. Khi trả lương theo sản phẩm, các nhà tư
Vũ Văn Thành 0932008296
96
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

bản thường tìm cách xây dựng đơn giá khoán sản phẩm thấp, quản lý chặt chẽ chất
lượng sản phẩm.
IV. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
THÀNH TƯ BẢN - TÍCH LŨY TƯ BẢN
1. Tích lũy tư bản, thực chất và động cơ:
Tích lũy tư bản là tư bản hóa một phần giá trị thặng dư, hay là sự chuyển hóa
một phần giá trị thặng dư thành tư bản để mở rộng sản xuất. Nghiên cứu quá trình tích
lũy tư bản, C. Mác đã rút ra những kết luận :
Một là, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư và nó chiếm tỷ
lệ ngày càng lớn trong toàn bộ vốn của nhà tư bản.
Hai là, quá trình tích lũy tư bản làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa
chuyển thành quyền chiếm đoạt TBCN. Trong quá trình tích lũy, tư bản đã chiếm đoạt
một phần lao động không công của công nhân, một cách hợp pháp. Khi nghiên cứu
thực chất về tích lũy tư bản Mác đã bắt đầu từ tái sản xuất giản đơn.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ,
không có tích lũy, toàn bộ giá trị thặng dư được các nhà tư bản tiêu dùng hết cho cá
nhân và gia đình.
Tái sản xuất mở rộng là tái sản xuất với quy mô ngày càng lớn, có tích lũy và mở
rộng sản xuất, khác với tái sản xuất giản đơn là nhà tư bản không tiêu dùng hết phần
giá trị thặng dư mà tích lũy lại một phần để mở rộng sản xuất, bao gồm tăng thêm cho
(c) và (v) của cả hai khu vực theo một tỷ lệ nhất định.
Tóm lại: tái sản xuất (tích lũy tư bản) là biến một phần giá trị thặng dư tư bản để
mở rộng sản xuất, tăng quy mô bóc lột. Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá
trị thặng dư, là lao động không được trả công của người lao động.
2. Tích tụ và tập trung tư bản
Tích tụ tư bản: là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa
một phần giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, đồng
thời cũng là đòi hỏi để tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản
Tập trung tư bản: là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất
tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản
là đòi hỏi tất yếu của cạnh tranh, đồng thời sự phát triển của tín dụng tư bản cũng góp
phần thúc đẩy cạnh tranh. Tập trung tư bản có vai trò to lớn, nó dẫn đến sự ra đời của
những tập đoàn tư bản lớn trong một thời gian ngắn
Tích tụ và tập trung tư bản có điểm chung là đều làm tăng quy mô của tư bản cá
biệt, nâng cao sức cạnh tranh. Khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản là :
- Tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời cũng làm tăng quy
mô tư bản xã hội. Tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô tư bản cá biệt, còn tư bản xã
hội vẫn không thay đổi.

Vũ Văn Thành 0932008296


97
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa tư bản và lao động trong
từng xí nghiệp tư bản. Tập trung tư bản phản ánh mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa các
nhà tư bản với nhau.
-Tích tụ tư bản có giới hạn vì nó phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư của
từng nhà tư bản. Tập trung tư bản có quy mô và khả năng rất lớn, nó tùy thuộc vào
từng tư bản cá biệt trong xã hội.
- Tích tụ tư bản là một quá trình thường xuyên, liên tục đối với từng nhà tư bản.
Tập trung tư bản chỉ diễn ra ở một thời điểm nhất định, đối với từng nhà tư bản. Tích
tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau: tích tụ tư bản làm
tăng quy mô của tư bản, thúc đẩy cạnh tranh quyết liệt dẫn đến tập trung tư bản nhanh
hơn. Đồng thời tập trung tư bản, sẽ tăng thêm sức mạnh cho tư bản, tạo điều kiện thu
được giá trị thặng dư cao, từ đó làm tăng tích tụ của tư bản. Như vậy tích tụ và tập
trung tư bản làm cho tích lũy của tư bản tăng, xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, dẫn
đến mâu thuẫn cơ bản của CNTB ngày càng gay gắt.
3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản
- Cấu tạo hữu cơ tư bản có hai mặt: cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị.
+ Mặt thứ nhất: cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất
và số lượng sức lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất. Để biểu thị cấu tạo kỹ
thuật của tư bản, người ta thường dùng các chỉ tiêu như số năng lượng, hoặc số lượng
máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất. Ví dụ, mỗi công nhân phụ trách 5
máy dệt trong một ca sản xuất. Cấu tạo kỹ thuật cao hay thấp là do trình độ kỹ thuật
sản xuất quyết định. Do đó, để tồn tại trong cuộc cạnh tranh và chiếm được nhiều giá
trị thặng dư các nhà tư bản phải không ngừng cải tiến kỹ thuật. Điều đó cũng có nghĩa
là một công nhân trước đây trong một ca sản xuất chỉ phụ trách 5 máy dệt thì nay phải
phụ trách 7 máy trong một ca. Cấu tạo kỹ thuật của tư bản hiện nay có xu hướng ngày
càng tăng.
+ Mặt thứ hai: cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản
bất biến, với số lượng giá trị của tư bản khả biến (c+v). Ví dụ: nhà tư bản đầu tư 1200
USD để tiến hành sản xuất. Trong đó: 1000 là c và 200 là v thì sẽ có cấu tạo giá trị của
tư bản là 1000 : 200 = 5 : 1. Như vậy ta thấy tỷ trọng của tư bản bất biến trong toàn bộ
tư bản càng lớn thì cấu tạo giá trị tư bản càng cao, phản ánh người công nhân bị bóc
lột về cả về cường độ, và trí tuệ.
Giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, khi cấu tạo kỹ thuật thay đổi thì cấu tạo giá trị cũng thay đổi. Trong đó phần giá
trị tư liệu sản xuất (c) tăng lên tuyệt đối và tương đối, còn phần giá trị sức lao động (v)
tăng lên tuyệt đối và giảm xuống tương đối. Nguyên nhân của hiện tượng này là do
tiến bộ khoa học, kỹ thuật tăng nhanh, năng suất lao động cao cho phép sử dụng một
khối lượng tư liệu sản xuất lớn, trong khi đó số lao động và tiền lương của công nhân
lại tăng lên chậm chạp. Từ đó dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao và tiền lương của công
nhân tăng chậm hơn so với sự gia tăng của năng suất lao động. Như vậy sự gia tăng

Vũ Văn Thành 0932008296


98
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

của cấu tạo hữu cơ, làm cho mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng thêm
gay gắt.
IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản
a. Tuần hoàn của tư bản
Quá trình vận động của tư bản đã được khái quát trong công thức chung của tư
bản: T – H – T’ = T + t. Công thức này chỉ mới thể hiện quá trình vận động của tư bản
mà chưa nói đầy đủ các giai đoạn trong quá trình vận động đó, tuần hoàn tư bản phải
trải qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: lưu thông
Nhà tư bản dùng tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động để tiến hành sản xuất.
Được thể hiện bằng công thức sau đây:
TLSX
T–H
SLĐ
Giai đoạn 2: tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất để tạo ra hàng hóa
mới. Kết thúc giai đoạn này, tư bản sản xuất được chuyển thành tư bản hàng hóa, có
giá trị lớn hơn giá trị hàng hóa ban đầu mà nhà tư bản đã bỏ tiền ra mua. Được thể hiện
bằng công thức sau đây:
SLĐ
H …SX…H’
TLSX
Giai đoạn 3: giai đoạn lưu thông
Nhà tư bản trở lại thị trường thực hiện chức năng bán hàng hóa thu tiền về với giá
trị lớn hơn. Kết thúc giai đoạn 3 tư bản hàng hóa chuyển thành tư bản tiền tệ, nhưng
với số tiền lớn hơn số tiền ban đầu mà nhà tư bản đã bỏ ra. Đến đây mục đích của nhà
tư bản đã được thực hiện, tư bản đã quay trở lại hình thái ban đầu là tiền với số lượng
lớn hơn. Quá trình này lại được tiếp tục lặp lại, quá trình đó gọi là tuần hoàn của tư
bản. Tổng hợp ba giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp, chúng ta có
công thức: H’ - T’
Tóm lại: tuần hoàn của tư bản công nghiệp trải qua ba giai đoạn là tư bản tiền
tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa, đồng thời thực hiện ba chức năng để rồi quay
trở lại hình thái ban đầu, với giá trị được tăng lên. Quá trình vận động của ba hình thái
nêu trên đã chứa đựng khả năng để hình thành các tập đoàn tư bản cho vay, tư bản
thương nghiệp. Các tập đoàn tư bản này sẽ phân chia giá trị thặng dư do lao động tạo
ra.
b. Chu chuyển của tư bản.
Vũ Văn Thành 0932008296
99
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tuần hoàn của tư bản được lắp đi lắp lại và có định kỳ được gọi là chu chuyển của
tư bản.
Thời gian chu chuyển của tư bản, bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu
thông. Tuy nhiên, tùy theo ở từng ngành, mà thời gian và tốc độ chu chuyển có khác
nhau.
Thời gian sản xuất bao gồm:
Thời gian lao động: là thời gian mà người lao động sử dụng các công cụ lao động
tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.
Thời gian gián đoạn lao động: là thời gian mà sản phẩm chịu sự tác động của
điều kiện tự nhiên như gạch, ngói phải phơi khô trước khi đưa vào nung, sấy; sau khi
đổ bê tông phải đợi khô để thi công tiếp…
Thời gian dự trữ sản xuất: là thời gian chuẩn bị điều kiện cho sản xuất như dự trữ
nguyên vật liệu. Thời gian sản xuất dài hay ngắn ngoài tác động của kỹ thuật công
nghệ, còn chịu ảnh hưởng bởi tính chất của ngành sản xuất; đặc tính của từng loại sản
phẩm; quy mô sản xuất; dự trữ các yếu tố sản xuất; sự tác động của tư nhiên đối với
từng loại sản phẩm.
Thời gian lưu thông: Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua các yếu tố sản
xuất như nguyên nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị và thời gian bán sản phẩm. Cùng với
sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, thì thời gian bán ngày càng đóng vai trò quan
trọng. Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc vào các nhân tố như: khoảng cách
thị trường xa hay gần, phương tiện giao thông hiện đại hay thô sơ, quy mô thị trường
lớn hay nhỏ, sức mua của thị trường, hoạt động tiếp thị.
Thời gian chu chuyển và tốc độ chu chuyển càng nhanh, sẽ tạo điều kiện để tư
bản thu được giá trị thặng dư ngày càng lớn. Tốc độ chu chuyển của tư bản không
giống nhau, tùy theo từng ngành sản xuất. Để so sánh và xác định tốc độ chu chuyển
của các tư bản khác nhau, người ta tính số vòng chu chuyển của từng loại tư bản, trong
một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Từ đó ta có công thức sau:
CH
n = ------------
ch
Trong đó: n là số vòng chu chuyển trong một năm.
CH là thời gian trong một năm
ch là thời gian chu chuyển của một vòng.
Ví dụ: Một tư bản có thời gian chu chuyển một vòng là 4 tháng, số vòng chu
chuyển trong một năm của tư bản đó là:
12 tháng
n = -------------- = 3 vòng/năm
4 tháng
Vũ Văn Thành 0932008296
100
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Từ công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản, chúng ta thấy tốc độ chu
chuyển của tư bản, tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của một vòng. Muốn đẩy
nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản, nhằm thu được giá trị thặng dư cao, các nhà tư
bản phải đẩy nhanh thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của tư bản.
Trong quá trình sản xuất, các bộ phận tư bản chu chuyển không giống nhau, căn
cứ vào tính chất chuyển giá trị của các bộ phận tư bản vào trong sản phẩm mới Mác
chia tư bản thành hai bộ phận là tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định: là bộ phận của tư bản sản xuất được chuyển dần từng phần
một vào trong sản phẩm mới như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, trong đó, có hai loại
hao mòn tư bản cố định là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn vật chất sau một thời gian sử dụng, cũng như
hao mòn do máy móc bị gỉ sét, hỏng hóc sau một thời gian sử dụng; nhà xưởng xuống
cấp do mưa nắng. Hao mòn vô hình: là hao mòn thuần túy về giá trị do tác động của
tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm cho máy móc, thiết bị giảm giá trị trong khi giá trị sử
dụng vẫn không đổi. Để giảm bớt hao mòn vô hình, các nhà tư bản thường tìm cách
kéo dài thời gian sử dụng máy móc, thiết bị trong ngày như làm 3 ca một ngày, hoặc
tăng cường độ lao động, để rút ngắn thời gian khấu hao, nhanh chóng đổi mới máy
móc, thiết bị.
Tư bản lưu động: là một bộ phận của tư bản sản xuất, khi tham gia vào quá
trình sản xuất, giá trị của nó được chuyển ngay một lần và toàn bộ vào trong sản phẩm
mới như: nguyên nhiên vật liệu và tiền công lao động. Tư bản lưu động có tốc độ chu
chuyển nhanh hơn so với tư bản cố định, trong một năm tư bản lưu động có thể quay
được nhiều vòng. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ góp phần
tăng hiệu quả sử dụng vốn tư bản, tiết kiệm tư bản ứng trước, đồng thời tăng tỷ suất và
khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Việc phân chia tư bản cố định và tư bản
lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất, căn cứ tính chất chuyển giá trị vào trong
sản phẩm mới. Tư bản cố định chuyển giá trị dần dần, từng phần một vào trong sản
phẩm mới; tư bản lưu động chuyển giá trị ngay một lần và toàn bộ vào trong sản phẩm
mới sau quá trình sản xuất. Sự phân chia này giúp cho chúng ta thấy được quá trình
chuyển giá trị của tư bản cố định và tư bản lưu động vào trong sản phẩm mới như thế
nào, đồng thời có căn cứ để xác định chi phí sản xuất.
Căn cứ phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động khác với phân chia tư bản
bất biến và tư bản khả biến. Việc phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến là căn
cứ vào vai trò của các bộ phận này trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, qua đó
vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra.
2. Tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội
a. Một số khái niệm cơ bản của tái sản xuất tư bản xã hội
Tư bản xã hội gồm: Tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay
và tư bản kinh doanh nông nghiệp, các tư bản này trong quá trình vận động đan xen
nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Vũ Văn Thành 0932008296
101
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tổng sản phẩm xã hội: là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản xuất ra thường là
một năm, nó được biểu hiện ở hai mặt sau đây:
Về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội gồm có: tổng giá trị tư bản bất biến, tổng
giá trị tư bản khả biến, tổng khối lượng giá trị thặng dư: (C + V + M). C là tổng giá trị
cũ, V+M là tổng giá trị mới được tạo ra
Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội bao gồm tổng tư liệu sản xuất và tổng tư
liệu tiêu dùng. (trong đó có loại sản phẩm có thể vừa sử dụng cho sản xuất, đồng thời
cũng có thể sử dụng cho tiêu dùng tùy theo mục đích. Ví dụ: điện dùng cho sản xuất là
tư liệu sản xuất, còn điện dùng cho sinh hoạt là tư liệu tiêu dùng).
Hai khu vực của nền sản xuất xã hội
Khu vực I: sản xuất ra tư liệu sản xuất
Khu vực II: sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.
Sự phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực lớn, mang tính khái quát.
Ngày nay người ta phân chia nền sản xuất xã hội thành các ngành như: công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ. Trong cùng một ngành có thể bao hàm cả hai khu vực. Ví dụ:
công nghiệp cơ khí chế tạo máy thuộc khu vực I, nhưng công nghiệp hàng tiêu dùng
lại thuộc khu vực II.
- Những giả định của Mác về tái sản xuất tư bản xã hội:
1) Nền kinh tế thuần túy chỉ có hai giai cấp là tư bản và công nhân.
2) Hàng hóa được bán đúng giá trị, giá cả bằng giá trị.
3) Cấu tạo hữu cơ tư bản không thay đổi.
4) Toàn bộ tư bản cố định chuyển hết vào sản phẩm trong 1 năm.
5) Nền kinh tế đóng, không xét đến ngoại thương.
Những giả định trên nhằm đơn giản hóa việc tính toán và thuận lợi cho việc
nghiên cứu tái sản xuất, nó không làm mất đi ý nghĩa khoa học.
b. Điều kiện thực hiện trong tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
tư bản xã hội.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ,
không có tích lũy, toàn bộ giá trị thặng dư được các nhà tư bản tiêu dùng hết cho cá
nhân và gia đình. Ví dụ: nhà tư bản đầu tư 10.000 USD để tiến hành sản xuất, trong đó
có 8000 USD là tư bản bất biến, 2000 USD là tư bản khả biến, tỷ xuất giá trị thặng dư
là 100%, hằng năm nhà tư bản thu được 2000 USD là giá trị thặng dư. Nếu hằng năm
nhà tư bản tiêu dùng là 2000 USD cho cá nhân và gia đình thì quá trình tái sản xuất
được lặp lại với quy mô như cũ.
Năm thứ I: 8000c + 2000v + 2000m
Năm thứ II: 8000c + 2000v + 2000m …vân ..vv
Tóm lại: mục đích nghiên cứu tái sản xuất giản đơn của Mác là nhằm vạch rõ tư
bản khả biến, hay quỹ lương là do lao động của giai cấp công nhân tạo ra trong quá
Vũ Văn Thành 0932008296
102
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

trình sản xuất để nuôi sống mình, đồng thời tạo ra giá trị thặng dư để nuôi sống nhà tư
bản.
c. Tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất mở rộng là tái sản xuất với quy mô ngày càng lớn, có tích lũy và mở
rộng sản xuất, khác với tái sản xuất giản đơn là nhà tư bản không tiêu dùng hết phần
giá trị thặng dư mà tích lũy lại một phần để mở rộng sản xuất, bao gồm tăng thêm cho
(c) và (v) của cả hai khu vực theo một tỷ lệ nhất định, ví dụ:
1.000 (tiêu dùng)
Năm thứ I: 8000c + 2000v + 2000m
1.000 (tích lũy)

1.200 (tiêu dùng)


Năm thứ II: 8800c + 2200v + 2200m

1.000 (tích lũy)

Năm thứ III: 9600c + 2400v + 2400m V.V…


Tóm lại: tái sản xuất là biến một phần giá trị thặng dư để mở rộng sản xuất, tăng
quy mô bóc lột. Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư, là lao động
không được trả công của người lao động.
d. Lênin phát triển lý luận tái sản xuất tư bản xã hội
Nghiên cứu lý luận tái sản xuất của tư bản xã hội trong điều kiện tiến bộ khoa học
kỹ thuật, làm cho cấu tạo hữu cơ của cả hai khu vực đều tăng lên, trong đó khu vực I
tăng nhanh hơn khu vực II. Lênin rút ra quy luật: Ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
sản xuất tư liệu sản xuất phát triển nhanh nhất, sau đó đến ngành sản xuất tư liệu sản
xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng và cuối cùng là sự phát triển của ngành sản xuất tư liệu
tiêu dùng. Vận dụng quy luật này vào thực tiễn, là ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu
sản xuất (tức công nghiệp nặng).
3. Khủng hoảng kinh tế trong CNTB
a. Bản chất, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong CNTB
Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên của CNTB nổ ra ở nước Anh vào năm 1825,
sau đó khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên hơn và có tính chu kỳ. Thực chất
khủng hoảng kinh tế của CNTB là khủng hoảng sản xuất “thừa”, biểu hiện là hàng hóa
không tiêu thụ được, dẫn đến sản xuất bị thu hẹp, doanh nghiệp phá sản, thất nghiệp.
Khủng hoảng sản xuất “thừa” ở đây được hiểu là “thừa” so với sức mua có hạn, thậm
chí phải đổ đi, trong khi đó nhiều người không có tiền để mua.

Vũ Văn Thành 0932008296


103
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Ngày nay khủng hoảng kinh tế không chỉ có khủng hoảng “thừa”, mà còn khủng
hoảng thiếu, đi kèm với khủng hoảng tài chính tiền tệ, ảnh hưởng đến nhiều nước,
nhiều khu vực. Nguyên nhân do lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội hóa cao
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
b. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong CNTB
Chu kỳ của các cuộc khủng hoảng kinh tế trong CNTB, có thể khái quát thành 4
giai đoạn cơ bản: Khủng hoảng – tiêu điều – phục hồi – hưng thịnh.
Khủng hoảng: giai đoạn đầu của khủng hoảng là hàng hóa tồn đọng không tiêu
thụ được, giá cả hàng hóa giảm mạnh, nhà máy xí nghiệp đóng cửa, hoặc phá sản, tiền
lương giảm, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán lương, thất nghiệp cao, các
nguồn lực của xã hội bị phá hủy.
Tiêu điều: nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, vốn nhàn rỗi tăng nhưng chưa có
nơi đầu tư, sản xuất cầm chừng, hàng hóa vẫn không tiêu thụ được. Ở giai đoạn này,
đòi hỏi các nhà tư bản phải đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, để tạo tiền đề cho
sự phục hồi của nền kinh tế.
Phục hồi: các doanh nghiệp bắt đầu được khôi phục và mở rộng sản xuất, công
nghệ và sản phẩm mới được ra đời, việc làm tăng, sản lượng hàng hóa và sức tiêu thụ
tăng, tư bản thu được lợi nhuận cao.
Hưng thịnh: sản xuất đạt đến đỉnh cao, sức sản xuất và tiêu thụ đều tăng cao, quy
mô xuất được mở rộng, tín dụng mở rộng, lượng cung vốn tăng cao, và cũng là báo
hiệu nguy cơ một cuộc khủng hoảng mới.
Khủng hoảng kinh tế có thể diễn ra trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế và lan rộng
ở nhiều nước như cuộc đại khủng hoảng và suy thoái kinh tế giai đoạn 1929-1933.
Hoặc cũng có thể diễn ra ở từng nước, trong từng ngành như: công nghiệp, nông
nghiệp, năng lượng, tài chính, sản xuất ôtô…Khủng hoảng kinh tế là hiện tượng khá
phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Ngày nay khủng hoảng kinh tế vẫn thường xuyên nổ ra, nhưng nhờ sự can thiệp
của nhà nước mà tác động của nó không nghiêm trọng như trước đây. Tuy nhiên, do
xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa kinh tế nên khủng hoảng kinh tế thường mang
tính quốc tế, ảnh hưởng đến nhiều nước, nhiều khu vực, vì vậy để chống đỡ khủng
hoảng kinh tế không chỉ đòi hỏi phải có sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước, mà còn
cần có sự phối hợp của chính phủ ở nhiều nước.
VI. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC
BIỂU HIỆN CỦA GÍA TRỊ THẶNG DƯ
1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) :
Để sản xuất hàng hóa nhà tư bản ứng trước một số một số tiền để mua sắm tư
liệu sản xuất (c: lao động quá khứ, lao động vật hóa) và thuê mướn công nhân (v: lao
động hiện tại, lao động sống tạo ra gía trị mới v + m).
Vũ Văn Thành 0932008296
104
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Nhà tư bản đã gộp hai bộ phận (c + v) lại gọi là chi phí sản xuất, điều đó đã làm
cho không thấy được giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào, mà còn làm cho
người ta ngộ nhận chi phí sản xuất là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư. Nhưng thật ra,
toàn bộ giá trị hàng hóa sản xuất ra trong xí nghiệp tư bản chủ nghĩa bao gồm ba bộ
phận c + v + m.
Nếu lấy gía trị hàng hóa ký hiệu là (w) thì gía trị hàng hóa phải là:
w=c+v+m
Nếu gọi chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là (k), thì k = c + v
Vậy: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra
để sản xuất hàng hóa hay là phần bù lại gía trị của những tư liệu sản xuất (c) và gía
trị sức lao động (v) để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản.
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì công thức gía trị
hàng hóa (w = c + v+ m) sẽ chuyển thành (w = k + m). Như vậy, giữa chi phí thực tế
(giá trị hàng hóa) và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau về cả mặt
lượng lẫn mặt chất.
Về mặt lượng: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực
tế hay gía trị hàng hóa :
(c + v) < (c + v + m)
Khi nghiên cứu phạm trù chi phí sản xuất, C. Mác giả định tư bản cố định hao mòn
hết trong một năm, nên tổng tư bản ứng trước và tổng chi phí sản xuất bằng nhau và
cùng ký hiệu là (k = c + v). Tuy nhiên, trong thực tế tư bản ứng trước bao gồm tư bản
cố định và tư bản lưu động, trong đó tư bản cố định được sử dụng lâu dài và hao mòn
dần, cho nên chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước.
Ví dụ: Tư bản ứng trước là 1.000 USD, trong đó có 500 USD là tư bản cố định;
500 USD là tư bản lưu động trong đó bao gồm 400 USD là nguyên, nhiên, vật liệu và
100 USD là tiền công lao động. Nếu tư bản cố định hao mòn hết trong 10 năm, nghĩa
là khấu hao 50 USD mỗi năm, thì :
Chi phí sản xuất (k): 400 + 50 + 100 = 550 USD
Tư bản ứng trước: 500 + 400 + 100 = 1000 USD
Về mặt chất: Chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí
lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra gía trị hàng hóa, còn chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa (k) chỉ phản ánh chi phí mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất.
Việc hình thành phạm trù chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k), đã che đậy thực
chất bóc lột của tư bản đối với lao động. Vì gía trị hàng hóa (w) = k + m, trong đó k =
c+v. Nhìn vào công thức trên thì sự khác biệt giữa c và v đã biến mất và tưởng như k
sinh ra m. Chính ở đây chi phí thực tế (chi phí lao động) bị che lấp bởi chi phí sản xuất
tư bản (k), sức lao động (v) là nguồn gốc của gía trị bị biến mất và giờ đây hình như
toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) sinh ra gía trị thặng dư (m). Chi phí sản
xuất là biểu hiện bên ngoài của kinh doanh tư bản.
Vũ Văn Thành 0932008296
105
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

b. Lợi nhuận (p) :


Giữa gía trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có khoảng
chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa, giả định gía cả = gía trị, thì nhà tư bản
không những bù đắp được chi phí sản xuất, mà còn thu về được số tiền lời ngang bằng
với m. Số tiền này được nhà tư bản gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.
Như vậy, lợi nhuận thực chất là gía trị thặng dư nhưng được quan niệm là con
đẻ của toàn bộ chi phí sản xuất (tư bản ứng trước).
Khi hình thành phạm trù chi phí sản xuất TBCN và lợi nhuận, thì gía trị hàng hóa
bây giờ được biểu hiện:
w=k+p
So sánh lợi nhuận và gía trị thặng dư cho thấy :
Về mặt lượng: Xét từng tư bản cá biệt, lợi nhuận và gía trị thặng dư có thể không
bằng nhau, lợi nhuận có thể cao hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với gía trị thặng dư,
tuỳ thuộc vào gía cả hàng hóa do tác động của quan hệ cung - cầu, cạnh tranh... Nhưng
xét trong toàn xã hội, thì tổng lợi nhuận vẫn ngang bằng với tổng gía trị thặng dư do
tổng gía cả hàng hóa= tổng gía trị hàng hóa
Về mặt chất: thực chất lợi nhuận và gía trị thặng dư là một, lợi nhuận chẳng qua
là biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư. C. Mác viết: “Gía trị thặng dư hay là lợi
nhuận, chính là phần gía trị dôi ra ấy của gía trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của
nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa so với
số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hóa” . Phạm trù lợi nhuận phản
ánh sai lệch bản chất quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, nó làm cho người ta
tưởng rằng gía trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra, mà còn do cả
tư liệu sản xuất tạo ra.
c. Tỷ suất lợi nhuận (p’):
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Lợi nhuận thực chất là gía trị thặng dư (m), còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
chính là tư bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), vì vậy công thức tỷ suất lợi nhuận
(p’) là:
m
P’ = --------------- x 100 %
c+v
Trong thực tế, người ta thường tính tỷ suất lợi nhuận hằng năm bằng tỷ lệ % giữa
tổng số lợi nhuận thu được trong năm (P) với tổng chi phí sản xuất (K)
P
P’ = --------------- x 100%
K
Vũ Văn Thành 0932008296
106
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của gía trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng
là sự biểu hiện của tỷ suất gía trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ với nhau.
Về mặt lượng: p’< m’ vì :
m
P’ = --------- x 100% ;
c+v m
còn m’= ----------- x 100%
v

Nhìn vào hai công thức trên ta thấy, nếu lượng m (p) bằng nhau, thì p’ < m’ vì p’
phải chia cho toàn bộ chi phí sản xuất (c +v), trong khi đó m’ chỉ chia cho tư bản khả
biến (v)
Về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm
thuê. Còn p’chỉ nói lên mức doanh lợi và hiệu quả của việc đầu tư tư bản.
Như vậy, phạm trù tỷ suất lợi nhuận đã che dấu mức độ bóc lột của tư bản đối
với lao động
d. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận :
* Tỷ suất gía trị thặng dư:
Tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với tỷ suất giá trị thặng dư. Ví dụ: một tư bản có chi
phí sản xuất (tư bản ứng trước) là 1000$, trong đó có 800$ giá trị tư liệu sản xuất (c)
và 200$ giá trị sức lao động (v)
Nếu m’ = 100% thì:
800c + 200v + 200m => p’ = 20%
Nếu m’ = 200%, thì
800c + 200v + 400m => p’ = 40%
* Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
Trong điều kiện tỷ suất gía trị thặng dư không đổi nếu cấu tạo hữu cơ của tư bản
càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
Ví dụ: một tư bản có chi phí sản xuất (tư bản ứng trước) là 1000$.
Nếu m’ = 100% và cấu tạo hữu cơ (c/v = 4/1), thì:
800c + 200v + 200m => p’ = 20%
Nếu m’ = 100% và cấu tạo hữu cơ (c/v = 9/1), thì
900c + 100v + 100m => p’ = 10%
* Tốc độ chu chuyển của tư bản:
Tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và tỷ lệ nghịch
với thời gian chu chuyển của tư bản.
Vũ Văn Thành 0932008296
107
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

* Tiết kiệm tư bản bất biến:


Trong điều kiện lượng gía trị thặng dư và bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất
biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn. Như vậy, tiết kiệm tư bản bất biến sẽ làm
tăng tỷ suất lợi nhuận. Để tiết kiệm tư bản bất biến, các nhà tư bản tìm cách tiết kiệm
nguyên, nhiên, vật liệu trong sản xuất và giảm tỷ lệ khấu hao trong một đơn vị sản
phẩm.
Bốn nhân tố trên đây được các nhà tư bản sử dụng khai thác một cách triệt để
nhằm thu được tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
2. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và hình thành gía trị thị trường
Cạnh tranh nội bộ ngành, là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một
ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm giành những điều kiện thuận lợi nhất
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch .
Biện pháp cạnh tranh trong nội bộ ngành là cải tiến kỹ thuật, công nghệ để nâng
cao năng suất lao động làm cho gía trị cá biệt của hàng hóa xuống thấp hơn gía trị xã
hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả cạnh tranh nội bộ ngành dẫn đến sự
hình thành gía trị gía trị xã hội của hàng hóa. Như vậy, sự hình thành gía trị xã hội của
hàng hóa diễn ra một cách tự phát, làm cho gía trị cá biệt của hàng hóa xuống thấp hơn
gía trị xã hội, và có xu hướng giảm xuống.
Tuy nhiên, giá trị thị trường không chỉ chịu tác động của giá trị xã hội, mà còn
chịu tác động bởi giá trị cá biệt của nhà sản xuất cung ứng đại bộ phận một loại hàng
hóa cho thị trường. Theo Mác, “một mặt phải coi gía trị thị trường là gía trị trung
bình của những hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Mặt
khác, phải coi gía trị thị trường là gía trị cá biệt của những hàng hóa được sản xuất
ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn
trong tổng số những sản phẩm của khu vực này”
3. Cạnh tranh giữa các ngành và hình thành lợi nhuận bình quân
a. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất ở các ngành
khác nhau, sản xuất ra những hàng hóa khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có
lợi hơn.
Mục đích cạnh tranh giữa các ngành là tìm kiếm ngành đầu tư có lợi nhuận cao,
do đó trong xã hội có hiện tượng nhà sản xuất di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi
nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Ví dụ: có 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản đầu tư vào mỗi ngành đều bằng
nhau là 100 USD, tỷ suất gía trị thặng dư đều bằng 100% (m’ =100%); tốc độ chu
chuyển của tư bản ở các ngành đều bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ khác nhau, nên
tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Vũ Văn Thành 0932008296


108
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Ngành Chi phí m’ m P’


sản xuất sản xuất (k)
Cơ khí 80c +20v 100% 20 20%
Dệt 70c +30v 100% 30 30%
Da 60c +40v 100% 40 40%
Như vậy, cùng với một lượng tư bản đầu tư bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ
khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể yên phận kinh doanh
ở ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Do đó, nhà tư bản ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản
của mình sang ngành da, làm cho sản phẩm của ngành da tăng lên, kết quả gía cả của
ngành da sẽ hạ xuống, tỷ suất lợi nhuận giảm. Trong khi đó, số nhà tư bản đầu tư ngành
cơ khí giảm, kéo theo lượng hàng hóa giảm, sẽ làm cho gía cả của sản phẩm của ngành
cơ khí sẽ tăng lên, tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng lên. Hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành
này sang ngành khác sau một thời gian tỷ suất lợi nhuận của các ngành sẽ xấp xỉ bằng
nhau, được gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân (p’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng gía trị
thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành khác nhau của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa.

m
P
‘= .x1
00
%
(
C +
v)

Theo ví dụ trên thì :


90
P’ = ------------ x 100% = 30%
300
Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân được hình thành thì số lợi nhuận của các ngành
sản xuất đều được tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, và do đó nếu có số tư bản
bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi
nhuận bình quân.
Vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau, của những lượng vốn tư
bản đầu tư bằng nhau khi đầu tư vào các ngành khác nhau, có ký hiệu là: p
p = p’ x k
Theo ví dụ trên :
P = 30% x 100 = 30
Tuy nhiên, cần chú ý sự hình thành lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình

Vũ Văn Thành 0932008296


109
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

quân chỉ là một xu hướng trong điều kiện tự do cạnh tranh cao, trong thực tế không thể
có con số lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân bằng nhau tuyệt đối giữa
các ngành
Sự bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận chỉ được thực hiện khi nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển đến một trình độ nhất định, cạnh tranh cao và khả năng di chuyển
vốn đầu tư nhanh chóng. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình
quân không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh
vẫn tiếp diễn.
Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB, giá trị thặng dư biểu hiện thành lợi
nhuận bình quân và quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình
quân. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân, đã che dấu
hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó phản ánh sự phân chia
giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản ở các ngành khác nhau.
b. Sự chuyển hóa của gía trị hàng hóa thành gía cả sản xuất :
Khi có sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì gía
trị hàng hóa được chuyển hóa thành gía cả sản xuất.
Gía cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Nếu ký hiệu
giá cả sản xuất là Gsx thì:
Gsx = k + p
Tiền đề trực tiếp của gía cả sản xuất chính là sự hình thành lợi nhuận bình quân
và tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Khi gía trị hàng hóa chuyển thành gía cả sản xuất thì gía cả thị trường của hàng
hóa xoay quanh gía cả sản xuất. C. Mác cho rằng: xét về mặt lượng, ở từng ngành sản
xuất, gía cả sản xuất và gía trị hàng hóa có thể không bằng nhau, nhưng xét trong toàn
xã hội thì tổng gía cả sản xuất vẫn bằng tổng gía trị hàng hóa.
Ví dụ: Quá trình hình thành lợi nhuận bình quân và gía cả sản xuất
Clệch
Ngành Gsx và
C V m’ M C+V+M P’ Gsx w
SX

Cơ khí 80 20 100% 20 120 30% 130 + 10


Dệt 70 30 100% 30 130 30% 130 0
Da 60 40 100% 40 140 30% 130 - 10
T. 210 90 90 390 390 0
cộng

Như vậy, trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật gía trị thặng dư – quy
luật kinh tế cơ bản của CNTB biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân. Quy luật
Vũ Văn Thành 0932008296
110
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

gía trị – quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa biểu hiện thành quy luật gía
cả sản xuất.
4. Sự phân chia gía trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản:
a. Tư bản thương nghiệp :
*Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản :
Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công
nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa.
Công thức vận động của tư bản thương nghiệp :
T – H – T’
Công thức này giống công thức chung của tư bản, tuy nhiên nó chỉ giới hạn trong
lĩnh vực lưu thông. Ở công thức này, tư bản thương nghiệp thay mặt người mua ứng tư
bản tiền tệ để mua hàng hóa của nhà tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ là
một bộ phận trong quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp được tách ra, có nhiệm
vụ chuyển hàng thành tiền (H’ – T’), nó chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và
không mang hình thái tư bản sản xuất.
Tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản được tách ra từ tư bản công nghiệp
do sự phát triển của phân công lao động xã hội, nhưng với chức năng chuyên môn
riêng nên tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc, vừa độc lập với tư bản công nghiệp. Sự
ra đời và phát triển của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng hóa thuận lợi,
thị trường mở rộng, tốc độ chu chuyển của tư bản tăng lên và từ đó thúc đẩy sự phát
triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung.
* Lợi nhuận thương nghiệp:
Hoạt động của tư bản thương nghiệp, nếu gạt đi những chức năng khác liên quan
như: bảo quản, đóng gói, chuyên chở, mà chỉ giới hạn ở chức năng chủ yếu là mua và
bán, thì không tạo ra gía trị cũng như gía trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện
gía trị và gía trị thặng dư và góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất và tái
sản xuất TBCN. Tuy không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó vẫn tham gia
vào quá trình phân chia gía trị thặng dư, dưới hình thức lợi nhuận thương nghiệp. Lợi
nhuận thương nghiệp trên thực tế là chênh lệch giữa gía bán và gía mua. Nhà tư bản
thương nghiệp mua hàng hóa thấp hơn gía trị và khi bán thì họ bán đúng với gía trị của
hàng hóa, nhưng vẫn có được lợi nhuận do tư bản công nghiệp chuyển nhượng cho.
Ví dụ : Một nhà tư bản công nghiệp có lượng tư bản ứng trước (k) là 900 đơn vị
tiền tệ (đvtt); với tỷ lệ c/v = 4/1, như vậy sẽ có: 720c +180v; giả sử m’ =100%, thì
tổng gía trị hàng hóa sẽ là :
720c + 180v + 180m = 1080 đvtt
Nếu tư bản công nghiệp trực tiếp bán hàng hóa đúng với giá trị, thì họ sẽ thu
được toàn bộ 180m và tỷ suất lợi nhuận công nghiệp sẽ là:
180đvtt

Vũ Văn Thành 0932008296


111
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

P’CN = -------------- x 100% = 20%


900đvtt
Gỉa sử nhà tư bản công nghiệp không bán hàng hóa mà chuyển cho tư bản
thương nghiệp bán hàng hóa và tư bản thương nghiệp ứng ra 100 đvtt tư bản để mua
từng phần hàng hóa của tư bản công nghiệp. Như vậy, tổng tư bản ứng ra là 900 đvttt
+ 100 đvtt = 1000 đvtt . Tỷ suất lợi nhuận bình quân của tư bản công nghiệp và tư bản
thương nghiệp sẽ là :
180
P’chung = --------------- x 100% = 18%
900 + 100
Theo tỷ suất lợi nhuận chung này thì lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp và
thương nghiệp thu được là:
PCN = 900đvtt x 18% = 162đvtt
PTN = 100đvtt x 18% = 18đvtt
Như vậy, nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp
với gía là: 900đvtt + 162đvtt = 1062đvtt. Nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa
cho người tiêu dùng theo đúng gía trị hàng hóa, tức là: 1062đvtt + 18đvtt = 1080đvtt.
Chênh lệch giữa gía bán và gía mua chính là lợi nhuận thương nghiệp (phần chênh
lệch này còn gọi là chiết khấu thương nghiệp).
Vậy lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá
trình sản xuất, mà nhà tư bản công nghiệp phải chuyển nhượng cho tư bản thương
nghiệp, do bán hàng hóa cho nhà tư bản công nghiệp.
Ngoài ra, tư bản thương nghiệp còn thu được lợi nhuận cao hơn do đầu cơ để
nâng giá bán, hoặc bán cao hơn giá trị thực của hàng hóa.
b. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay:
* Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản:
Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ của nó cho
người khác sử dụng trong một thời gian nhất định để nhận được số tiền lời. Số tiền đó
được gọi là lợi tức, ký hiệu : z
Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản tiền tệ trong quá
trình vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp tách ra. Trong quá trình tuần hoàn
của tư bản thường xảy ra hiện tượng một số nhà tư bản có một số tiền tạm thời nhàn
rỗi như: tiền mua nguyên nhiên vật liệu nhưng chưa đến kỳ hạn mua, tiền lương của
công nhân chưa đến kỳ trả, gía trị thặng dư giành cho tích luỹ, quỹ khấu hao . . . có thể
đem cho vay để thu lợi tức. Trong khi đó, một số nhà tư bản lại cần tiền để mua vật tư,
nguyên liệu để duy trì sản xuất, tiền để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, kinh
doanh… Từ những quan hệ cung – cầu về vốn tiền tệ đó, tư bản cho vay ra đời và phát
triển .

Vũ Văn Thành 0932008296


112
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Đặc điểm của tư bản cho vay:


- Tư bản cho vay vận động theo công thức T – T’, trong đó: T’ = T + z
- Quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản.
- Tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.
- Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất.
* Lợi tức và tỷ suất lợi tức:
Tư bản cho vay là tư bản sinh lợi tức, đối với nhà tư bản cho vay, họ là chủ sở
hữu tư bản nhưng đã nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác trong
một thời gian nhất định, nên thu được lợi tức. Đối với nhà tư bản đi vay, họ vay tiền để
sản xuất – kinh doanh (tư bản hoạt động) nên họ thu được lợi nhuận bình quân, do đó
họ phải trích một phần lợi nhuận thu được để trả cho nhà tư bản cho vay dưới hình
thức gọi là lợi tức, phần còn lại của lợi nhuận bình quân là thu nhập của người nhà tư
bản đi vay, được gọi là lợi nhuận doanh nghiệp.
Như vậy, lợi tức ( z ) chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản
đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay, căn cứ vào số tư bản tiền tệ mà nhà tư bản cho
vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng.
Nguồn gốc của lợi tức cho vay chính là phần gía trị thặng dư do công nhân tạo ra
trong quá trình sản xuất.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và tổng số tư bản
tiền tệ cho vay. Ký hiệu: z’
Tỷ suất lợi tức có thể được tính theo tháng, quý hoặc năm
Nếu ký hiệu: tỷ suất lợi tức là z’; Kcv là tổng vốn tư bản cho vay, ta có:
z
z’ = ---------------- x 100 (%)
Kcv
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các nhân tố sau:
-Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
-Tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận doanh nghiệp.
- Quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.
- Tỷ lệ lạm phát.
Giới hạn tối đa của tỷ suất lợi tức (trừ trường hợp khủng hoảng) là tỷ suất lợi
nhuận bình quân. Tỷ suất lợi tức không có giới hạn tối thiểu nhưng phải lớn hơn không
(0< z’ < p’). Trong giới hạn ấy tỷ suất lợi tức lên xuống, phụ thuộc vào quan hệ cung
cầu của tư bản cho vay và biến động theo chu kỳ vận động của tư bản công nghiệp.
Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, tỷ suất lợi tức có xu hướng giảm,
đồng thời còn là công cụ điều tiết nền kinh tế, hỗ trợ cho các tập đoàn tư bản khi gặp
khó khăn.
Vũ Văn Thành 0932008296
113
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

c. Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa, ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
* Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa:
Tín dụng tư bản chủ nghĩa là hình thức của tư bản cho vay, được thể hiện dưới
hai hình thức cơ bản là tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương nghiệp: là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh
doanh, mua bán chịu (bán trả chậm) hàng hóa với nhau.
Đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa, và thường thì gía bán chịu
phải cao hơn gía bán hàng hóa lấy tiền ngay bởi vì trong đó gồm cả lợi tức. Tuy nhiên,
mục đích chủ yếu của tín dụng thương nghiệp không phải là để thu lợi tức, mà để thực
hiện gía trị hàng hóa, góp phần tiêu thụ hàng hóa nhanh chóng từ đó thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi giới, là
hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các
tầng lớp dân cư khác trong xã hội .
Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển dự trên sự phát triển của tín dụng thương
nghiệp. Đồng thời, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho tín dụng thương nghiệp phát
triển hơn.
* Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chúc kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới
giữa người đi vay và người cho vay.
Ngân hàng có 2 nghiệp vụ chính là: nhận gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận
gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền, trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu
lợi tức của người đi vay. Tỷ suất lợi tức cho vay phải cao hơn tỷ suất lợi tức nhận gửi.
Lợi nhuận ngân hàng là khoảng chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận
gửi, trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản
thu khác về kinh doanh tư bản tiền tệ.
Trong cạnh tranh, ngân hàng cũng tham gia quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi
nhuận, nghĩa là lợi nhuận ngân hàng cũng có xu hướng ngang bằng lợi nhuận bình
quân.
Ngân hàng còn đóng vai trò thủ quỹ cho xã hội, quản lý tiền mặt, phát hành tiền
giấy, trung tâm thanh toán của xã hội. Nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều
kiện vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, di chuyển tư bản từ ngành này sang
ngành khác dễ dàng hơn, tăng nhanh tốc độ chu chuyển của tiền tệ, giảm lượng tiền
mặt lưu thông.
* Phân biệt tư bản ngân hàng và tư bản cho vay:
Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản không hoạt động, thu nhập của tư bản
cho vay là lợi tức (chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân). Lợi tức vận động theo
quy luật của tỷ suất lợi tức. Nguồn vốn của tư bản cho vay là tư bản nhàn rỗi.

Vũ Văn Thành 0932008296


114
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, tư bản chức năng nên tư bản ngân hàng
cũng tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận ngân hàng vận
động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Nguồn vốn của ngân hàng gồm có: tư
bản tiền tệ của chủ ngân hàng, tư bản tiền tệ nhàn rỗi của các nhà tư bản công thương
nghiệp, tư bản tiền tệ của các nhà tư bản chuyên cho vay, tiền tiết kiệm của các tầng lớp
dân cư.
d. Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán:
* Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp lớn mà vốn của nó được hình
thành từ sự đóng góp của nhiều người thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có gía trị do công ty cổ phần phát hành, ghi
nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (cổ đông), đồng thời còn đảm bảo
cho cổ đông có quyền được lĩnh một phần thu nhập (gọi là cổ tức) của công ty căn cứ
vào gía trị cổ phần và tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ phiếu được mua,
bán trên thị trường chứng khoán theo thị gía cổ phiếu.
Thị gía cổ phiếu phụ thuộc vào hai nhân tố chính:
- Mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại, cổ tức càng cao thì thị gía cổ phiếu càng lớn
và ngược lại.
- Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng. Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng càng cao
thì thị gía cổ phiếu càng thấp và ngược lại. Ngày nay, thị giá cổ phiếu, còn chịu tác
động của nhiều yếu tố như: kỳ vọng về cổ tức, triển vọng phát triển của công ty cổ
phần, tình hình chính trị ở trong và ngoài nước, tâm lý nhà đầu tư…
* Tư bản giả:
Thị giá chứng khoán thường xuyên biến động, được C. Mác gọi là tư bản giả
Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có gía và mang lại
thu nhập cho những người sở hữu chứng khoán đó.
Tư bản giả có các đặc điểm sau:
Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó, có thể mua bán được. Vì là tư bản
giả nên sự tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị trường không cần có sự thay
đổi tương ứng của tư bản thật.
* Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các loại chứng khoán như: cổ phiếu,
trái phiếu, công trái...
Thị trường chứng khoán được chia thành: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường không chính thức (OTC) và thị trường chính thức.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản, thị trường chứng khoán là thị trường phản
ứng rất nhạy bén với những thay đổi của nền kinh tế. Vì vậy, người ta ví thị trường
chứng khoán như là “phong vũ biểu” của nền kinh tế tư bản.
Vũ Văn Thành 0932008296
115
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

e. Địa tô tư bản chủ nghĩa :


* Sự hình thành quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp
Trong lịch sử, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp được hình
thành theo hai con đường chính:
Thứ nhất, dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh
theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sử dụng lao động làm thuê. Đó là con
đường của các nước Đức, Ý, Nga, . . .
Thứ hai, thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xóa bỏ chế độ canh tác ruộng
đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp. Đó là con
đường diễn ra ở các nước Pháp, Anh, . . .
Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là sự
tham gia của 3 giai cấp chủ yếu: chủ sở hữu ruộng đất (địa chủ), nhà tư bản thuê ruộng
đất để sản xuất kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê cho nhà
tư bản.
* Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa:
Cũng giống như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản
kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng vì phải
thuê ruộng đất của địa chủ nên ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp còn phải thu thêm được một phần gía trị thặng dư dôi ra nữa, tức là lợi nhuận
siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, do tính độc quyền
trong sản xuất nông nghiệp, phần lợi nhuận siêu ngạch này được nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp trả cho chủ đất dưới hình thái địa tô.
Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa (R) là phần lợi nhuận siêu ngạch do công nhân
làm thuê trong nông nghiệp tạo ra và nhà tư bản thuê đất phải nộp cho chủ sở hữu
ruộng đất.
Địa tô chính là một bộ phận gía trị thặng dư ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản
đầu tư vào nông nghiệp (lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp).
* Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:
Địa tô chênh lệch:
Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch được xác
định bằng chênh lệch giữa gía cả sản xuất chung của thị trường với gía cả sản xuất cá
biệt của một số doanh nghiệp. Nhưng khác với công nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch
trong nông nghiệp ổn định ở những doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi, do ruộng đất
là tư liệu sản xuất cơ bản, ruộng đất tốt xấu khác nhau, điều kiện thuận lợi khác nhau
dẫn đến gía cả sản xuất cá biệt của từng đơn vị sản phẩm trên từng loại đất có sự khác
nhau, mà gía cả của sản phẩm nông nghiệp được xác định bởi điều kiện sản xuất trên
ruộng đất xấu nhất, để đảm bảo cho nhà đầu tư vào nông nghiệp trên ruộng đất xấu
vẫn thu được lợi nhuận bình quân. Khoảng chênh lệch về gía trị thặng dư thu được ở
điều kiện sản xuất thuận lợi so với điều kiện sản xuất xấu nhất là lợi nhuận siêu ngạch.
Vũ Văn Thành 0932008296
116
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Lợi nhuận siêu ngạch này sẽ được chuyển hóa thành địa tô chênh lệch.
Như vậy, địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, thu được trên những ruộng
đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn, nó là chênh lệch giữa gía cả sản xuất chung
được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và gía cả sản xuất cá
biệt trên ruộng đất tốt, trung bình, hoặc có vị trí thuận lợi.
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, nguồn gốc của nó là
phần gía trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Địa tô chênh lệch gắn liền với
độc quyền kinh doanh nông nghiệp theo lối tư bản chủ nghĩa.
Có hai loại địa tô chênh lệch: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch_II.
Địa tô chênh lệch I : là địa tô chênh lệch thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ
tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt), có vị trí thuận lợi (gần nơi tiêu thụ, gần đường
giao thông).
Ví dụ: Địa tô chênh lệch I thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ và tốt.
p Gsx Gsx
TB Sản R
Loại cá biệt chung
đầu lượng chênh
ruộng Tổng của của Tổng
tư ( tạ) lệch I
SL 1 tạ 1 tạ SL
Tốt 100 20 6 120 20 30 180 60
T.Bình 100 20 5 120 24 30 150 30
Xấu 100 20 4 120 30 30 120 0
Địa tô chênh lệch II : là địa tô thu được do thâm canh.
Thâm canh là tăng vụ, hoặc đưa tiến bộ kỹ thuật mới làm tăng độ màu mỡ trên
mảnh ruộng đó, từ đó nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích canh tác.
Địa tô tuyệt đối: Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh
nông nghiệp đều phải nộp cho chủ đất dù thuê ruộng đất tốt hay xấu.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, do có sự độc quyền tư hữu ruộng đất, nên đã cản
trở sự phát triển của sản xuất trong nông nghiệp, nên nông nghiệp thường lạc hậu hơn
so với công nghiệp, vì thế cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thường thấp
hơn trong công nghiệp. Vì vậy, nếu tỷ suất giá trị thặng dư ngang nhau, và với một
lượng tư bản ứng ra bằng nhau, thì lượng gía trị thặng dư thu được trong nông nghiệp
bao giờ cũng cao hơn lượng gía trị thặng dư thu được trong công nghiệp.
Ví dụ: có hai nhà tư bản đầu tư vào nông nghiệp và công nghiệp đều có số tư
bản 100, cấu tạo hữu cơ (c/v) của tư bản trong công nghiệp là 4/1, cấu tạo hữu cơ của
tư bản trong nông nghiệp là 7/3, vì nông nghiệp thường sử dụng nhiều lao động hơn.
Giả sử m’ = 100% (cả nông nghiệp và công nghiệp), thì tổng giá trị sản phẩm và gía trị
thặng dư sản xuất ra trong từng lĩnh vực sẽ là :
CN: 80C + 20v + 20m = 120

Vũ Văn Thành 0932008296


117
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

NN: 70C + 30v + 30m = 130


Chênh lệch giữa tổng gía trị sản phẩm nông nghiệp với tổng giá trị sản phẩm
công nghiệp là: 130 - 120 = 10 đây chính là địa tô tuyệt đối, phần chênh lệch này nhà
tư bản đi thuê đất phải trả cho địa chủ. Sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã ngăn cản quá
trình tự do di chuyển tư bản từ các ngành khác vào nông nghiệp và do đó đã ngăn cản
quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận giữa nông nghiệp với công nghiệp và các
ngành khác.
Vậy địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn cấu tạo
hữu cơ của tư bản trong công nghiệp, nó là chênh lệch giữa gía trị nông sản phẩm và
gía cả sản xuất chung của các ngành khác trong xã hội..
So sánh giữa địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối:
Giống nhau: về thực chất, địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch đều là lợi nhuận
siêu ngạch, đều có nguồn gốc là gía trị thặng dư do lao động không công của công
nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra.
Khác nhau: độc quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh
lệch, độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối.
* Gía cả ruộng đất:
Theo Mác giá cả ruộng đất là địa tô tư bản hóa. Bởi đất đai đem lại địa tô, tức
mang lại một thu nhập ổn định bằng tiền, nó giống như là tư bản cho vay đem lại lợi
tức cho người chủ sử hữu tư bản. Vì vậy, gía cả ruộng đất phụ thuộc vào địa tô do
ruộng đất đem lại và tỷ suất lợi tức hiện hành.
R
Grđ = --------------
z’
Trong đó Grđ: là giá cả ruộng đất
R : là địa tô
z’ : tỷ suất lợi tức
Khi tỷ suất lợi tức giảm xuống thì gía cả ruộng đất sẽ tăng lên, đồng thời khi địa
tô tăng, thì giá cả rộng đất cũng tăng. Ngày nay, quan hệ cung-cầu về đất đai bị mất
cân đối, do nhu cầu đất đai ngày càng tăng làm cho địa tô có xu hướng tăng lên. Đồng
thời, tình trạng đầu cơ đất đai làm cho gía cả đất đai tăng cao.

Vũ Văn Thành 0932008296


118
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương VI
HỌC THUYẾT KINH TẾ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
1. Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư
bản độc quyền
Nghiên cứu CNTB trong giai đoạn tự do cạnh tranh, Mác đã dự báo: tự do cạnh
tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất sẽ dẫn đến
sự ra đời của các tổ chức độc quyền. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Lênin nhận
định về sự hình thành CNTB độc quyền là do:
- Tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất của CNTB
phát triển cao, dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, từ đó hình thành các xí
nghiệp có quy mô lớn.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đã dẫn đến nâng cao năng suất lao động,
tăng tích lũy, hình thành những xí nghiệp quy mô lớn, tạo điều kiện hình thành các tổ
chức độc quyền.
- Do sự tác động bởi các quy luật kinh tế cơ bản của CNTB như: quy luật giá trị,
quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy, quy luật cạnh tranh…làm thay đổi cơ cấu
kinh tế của nền sản xuất tư bản theo hướng tập trung quy mô lớn.
- Cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi tích tụ và tập trung sản xuất, đồng thời làm phá sản
những nhà sản xuất nhỏ, hoặc gia nhập những tổ chức kinh tế lớn, từ đó tạo điều kiện
cho các tổ chức độc quyền ra đời.
- Những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên, làm phá sản các xí
nghiệp nhỏ, thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung.
- Sự phát triển của hệ thống tín dụng và thị trường chứng khoán, góp phần hình
thành các doanh nghiệp lớn và các công ty cổ phần, có khả năng chi phối nền kinh tế.
2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Vào đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như: Anh, Pháp, Mỹ, xuất hiện
những tổ chức kinh tế lớn, chi phối một số ngành như điện lực, khai khoáng, chế tạo
máy, dầu lửa, sắt thép…các tổ chức kinh tế này có quy mô lớn, nên khó bị đánh bại
trong cạnh tranh, từ đó dẫn đến sự thỏa hiệp, liên kết, để nắm giữ độc quyền một số
ngành. Như vậy, tổ chức độc quyền kinh tế là những doanh nghiệp lớn, hoặc liên minh
của các nhà tư bản lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một
số loại sản phẩm, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

Vũ Văn Thành 0932008296


119
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Để liên kết giữa các nhà tư bản nhằm tạo thể độc quyền. họ có thể thực hiện dưới
các hình thức như:
- Liên kết dọc, tức liên kết giữa các nhà tư bản trong cùng ngành sản xuất, kinh
doanh.
- Liên kết ngang là liên kết giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất, kinh doanh
khác nhau.
b. Các tổ chức độc quyền ra đời và phát triển từ thấp đến cao, dưới các hình
thức cơ bản sau:
- Các-ten (cartel) là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định
giữa các xí nghiệp thành viên để thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị
trường tiêu thụ, thời hạn thanh toán… còn việc sản xuất và tiêu thụ vẫn do bản thân
mỗi thành viên thực hiện.
- Xanh-đi-ca (Syndicat) là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc lưu thông,
tiêu thụ sản phẩm do một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công
việc độc lập của mỗi thành viên.
- Tờ-rớt (Trusts) là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm
thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài chính đều do một ban quản trị quản lý, điều
hành. Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo giá trị
cổ phần đóng góp và hiệu quả kinh doanh.
- Công-xóoc-xi-om (Comsortium) là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và
quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxóocxiom khong chỉ có
các nhà tư bản lớn mà còn cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng
liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một
côngxóocxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên ket trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc
về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù. Nó có khả năng chi phối và ảnh hưởng đến
nền kinh tế của một nước.
- Công-gô-lô-mê-rát (Conglomerate) là liên minh độc quyền mang tính quốc tế,
nó hoạt động và chi phối ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau và ảnh hưởng đến
nhiều nước. Ngày nay các Công-gô-lô-me-rát chính là các tập đoàn tư bản tài chính
quốc tế, có khả năng chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều nước.
c. Tư bản tài chính
Khi hình thành các tổ chức độc quyền trong công nghiệp, thì đồng thời trong
ngân hàng cũng diễn ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản với quy mô lớn, dẫn đến
hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Cạnh tranh làm cho các ngân hàng
nhỏ bị phá sản, hoặc phải sát nhập vào những ngân hàng lớn, ngoài ra các tổ chức độc
quyền trong công nghiệp đòi hỏi phải có những ngân hàng lớn để đáp ứng vốn cho nó,
từ đó các tổ chức độc quyền trong ngân hàng ra đời.
Sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền lớn về ngân hàng, làm thay đổi vai trò
của ngân hàng, từ chỗ chỉ là trung gian trong thanh toán và tín dụng, đến nay đã nắm

Vũ Văn Thành 0932008296


120
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

giữ và chi phối một lựơng lớn tư bản tiền tệ, từ đó có thể chi phối, khống chế các tổ
chức độc quyền công nghiệp và các hoạt động của nền kinh tế. Trước sự chi phối ngày
càng lớn của các tỏ chức độc quyền trong ngân hàng, các tổ chức độc quyền trong
công nghiệp tìm cách xâm nhập vào hoạt động của ngân hàng, hoặc thành lập ngân
hàng riêng để huy động vốn. Quá trình liên kết giữa các tổ chức độc quyền trong công
nghiệp với các tổ chức độc quyền trong ngân hàng, đã hình thành các tập đoàn tư bản
tài chính. Lênin gọi là bọn đầu sỏ tài chính.
Các tập đoàn đầu sỏ tài chính chi phối hoạt động kinh tế thông qua chế độ tham
dự, bằng cách mua và nắm giữ cổ phiếu khống chế trong các “công ty mẹ”, tiếp theo
các công ty này lại chi phối các “công ty con”…từ đó giúp cho các tập đoàn đầu sỏ tài
chính có thể chi phối một lượng tư bản lớn hơn nhiều lần so với số vốn của nó. Ngoài
ra, tư bản tài chính còn phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu, đầu cơ bất động sản…để
tăng quy mô vốn và thu lợi nhuận cao.
Các tập đoàn đầu sỏ tài chính chi phối hoạt động chính trị thông qua việc đưa
người vào bộ máy nhà nước, hoặc mua chuộc hối lộ các viên chức nhà nước, để chi
phối đường lối, chính sách của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích cho các tập đoàn tư bản
tài chính.
d. Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là đầu tư tư bản ra nước ngoài, nhằm thu được lợi nhuận cao từ
các nước nhập khẩu. Nguyên nhân xuất khẩu tư bản trong giai đoạn CNTB độc quyền
là do:
- Các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản tài chính lớn đã tích lũy được
một lượng lớn tư bản và có một lượng tư bản “thừa” cần đầu tư ra nước ngoài nhằm
thu lợi nhuận cao hơn so với đầu tư ở trong nước.
- Các nước còn kém phát triển thường thiếu vốn đầu tư trong khi lại có nguồn
nguyên liệu dồi dào, giá nhân công rẻ, từ đó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất khẩu tư bản có thể nhà nước hoặc tư nhân thực hiện, dưới hai hình thức chủ
yếu là:
- Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) được thực hiện dưới hình thức tư
bản nước ngoài mua lại các doanh nghiệp của nước sở tại, đầu tư mới 100% vốn, hoặc
góp vốn cổ phần với nhà nước hoặc tư nhân của nước sở tại.
- Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức mà các tập đoàn tư bản
tài chính cho chính phủ, doanh nghiệp nước ngoài vay vốn, hoặc đầu tư vào thị trường
chứng khoán ở nước ngoài.
- Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư sản dùng nguồn vốn ngân sách để
đầu tư ra nước ngoài, hoặc cho vay. Nhà nước cũng dùng ngân sách để viện trợ ưu đãi,
hoặc viện trợ không hòan lại, nhằm thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị,
quân sự.

Vũ Văn Thành 0932008296


121
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do các tập đoàn tư bản tài
chính tư nhân thực hiện, thường được đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có lợi nhuận
cao, khả năng thu hồi vốn nhanh.
e. Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền
Khi các tập đoàn tư bản tài chính mở rộng xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, sẽ dẫn
đến mâu thuẫn gay gắt giữa các tập đoạn tư bản, từ đó đòi hỏi phải có sự phân chia thị
trường thế giới giữa các tập đoàn tư bản tài chính lớn. Thị trường của các nước đang
phát triển là nơi có nhiều tiềm năng và nguồn lực to lớn, có thể đem lại lợi nhuận cao
cho các tập đoàn tư bản tài chính, từ đó dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt và phân chia
lại thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư bản tài chính lớn. Sự phân chia thị trường
thế giới giúp cho các tập đoàn tư bản tài chính củng cố vị trí độc quyền, đảm bảo lại
ích cho các tổ chức độc quyền, hạn chế thiệt hại.
f. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền lớn, vẫn không giải
quyết được những mâu thuẫn, đồng thời do sự phát triển không đều về kinh tế, quân sự
dẫn đến thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc, như sự phát triển nhanh
chóng của Đức, Nhật, Ý, đòi phân chia lại thuộc địa với các nước như: Anh, Pháp, từ
đó dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và chiến tranh thế giới
lần thứ hai (1939-1945), để phân chia lại thuộc địa giữa các nước đế quốc.
Sự phân chia lãnh thổ ngày nay, không phải bằng xâm chiếm thuộc địa như trước
đây, mà thông qua chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự, dẫn đến các nước kém phát triển
phải lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển cả về kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại
giao.
3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai
đoạn CNTB độc quyền.
a. Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh
Trong giai đoạn độc quyền cạnh tranh vẫn không bị xóa bỏ, mà còn gay gắt,
quyết liệt, đa dạng và có những tác động nghiêm trọng. Cạnh tranh trong giai đoạn độc
quyền bao gồm:
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau: bao gồm cạnh tranh giữa các
tổ chức độc quyền trong cùng một ngành, hoặc giữa các tổ chức độc quyền ở trong
ngành có liên quan với nhau. Sự cạnh tranh này thường dẫn đến sự thỏa hiệp, hoặc liên
kết với nhau để đem lại lợi ích chung, đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các tổ chức ngoài độc quyền thường
làm phá sản hoặc thôn tính các tổ chức ngoài độc quyền.
- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền: thường diễn ra đối với các cổ
đông nắm giữ cổ phần lớn, hoặc thành viên hội đồng quản trị, nhằm giành cổ phiếu
khống chế để nắm quyền kiểm soát, chi phối các tổ chức độc quyền.
b. Hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư
Vũ Văn Thành 0932008296
122
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

CNTB độc quyền có những biểu hiện mới, nhưng không vượt ra khỏi các quy luật vận
động của CNTB nói chung. Tuy nhiên, trong giai đoạn CNTB độc quyền, các quy luật
kinh tế của sản xuất hàng hóa TBCN có những biểu hiện mới:
- Về quy luật giá trị: sự thống trị của các tổ chức độc quyền đã dẫn đến việc áp
đặt giá cả độc quyền bao gồm: giá cả độc quyền thấp khi các tổ chức độc quyền mua
sản phẩm của các nhà sản xuất nhỏ; giá cả độc quyền cao khi các tổ chức độc quyền
bán sản phẩm. Giá cả độc quyền vẫn không hoàn toàn thoát ly khỏi giá trị, mà thực
chất thông qua giá cả độc quyền mà các tổ chức độc quyền, chiếm đoạt một phần giá
trị thặng dư của những người sản xuất nhỏ và thu nhập của người tiêu dùng. Giá cả
độc quyền vẫn phải đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất cộng với khoản lợi nhuận độc
quyền cao. Quy luật giá cả độc quyền, chính là sự biểu hiện của quy luật giá trị trong
giai đoạn CNTB độc quyền.
- Quy luật giá trị thặng dư: trong giai đoạn CNTB độc quyền, thông qua giá cả
độc quyền, các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền cao. Lợi nhuận độc
quyền chính là biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc
quyền. Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền bao gồm: phần lao động không công của
công nhân trong các xí nghiệp độc quyền; phần lao động không công của các xí nghiệp
không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhỏ bị các tổ chức độc
quyền chèn ép; một phần lao động của những người sản xuất nhỏ; phần lao động
không công của công nhân ở các nước mà các tổ chức độc quyền đầu tư. Như vậy, quy
luật lợi nhuận độc quyền chính là biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư, trong giai
đoạn CNTB độc quyền.
II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
1. Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
a. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản độc quyền Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản
độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là khuynh hướng tất
yếu. Do những nguyên nhân sau đây:
Một là, Tích tụ và tập trung tư bản tăng dẫn đến sự ra đời của các tổ chức kinh tế
lớn, đòi hỏi phải có sự điều tiết, can thiệp mạnh mẽ của nhà nước. Nói cách khác, lực
lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội hóa cao dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với
quan hệ sản xuất mạng tính chất tư nhân TBCN, do đó tất yếu phải có sự điều chỉnh về
quan hệ sản xuất, từ đó CNTB độc quyền nhà nước ra đời.
Hai là, Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, dẫn đến hình thành một
số ngành mà các tổ chức độc quyền tư nhân, không muốn đầu tư và phát triển do vốn
đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, ít lợi nhuận như: nghiên cứu vũ trụ, khoa học cơ bản,
giao thông, năng lượng…từ đó đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nước, hình thành
các tổ chức kinh tế của nhà nước trong các ngành trên, làm cho CNTB độc quyền nhà
nước ra đời.
Vũ Văn Thành 0932008296
123
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Ba là, sự chi phối và thống trị của các tổ chức độc quyền tư nhân, đã dẫn đến
mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp tư sản với vô sản và các tầng lớp nhân dân, đòi hỏi
nhà nước phải can thiệp thông qua những hình thức như: nâng cao phúc lợi xã hội,
điều tiết thu nhập, trợ cấp thất nghiệp…để xoa dịu những mâu thuẫn.
Bốn là, Sự bành trướng và phát triển của các liên minh độc quyền quốc tế, đã dẫn
đến nhứng mâu thuẫn và xung đột giữa các nước tư bản với nhau, giữa các tập đoàn tư
bản độc quyền quốc tế với các nước. Do đó, phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước
tư sản vào các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Ngoài ra, do mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau dẫn đến những cuộc chiến
tranh thế giới, đồng thời để chống lại ảnh hưởng của phong trào XHCN, mở đầu là
cách mạng Tháng Mười Nga, từ đó đòi hỏi phải tăng cường sự can thiệp và điều tiết
của nhà nước, dẫn đến sự ra đời của CNTB độc quyền nhà nước.
b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Nếu nói ngắn gọn thì CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các
tổ chức độc quyền tư nhân, với sức mạnh của nhà nước tư sản, hình thành một thiết
chế và thể chế thống nhất, nhằm phục vụ trước hết lợi ích của các tổ chức độc quyền
và cứu nguy cho CNTB.
Nói cụ thể, CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của CNTB nói
chung và CNTB độc quyền nói riêng. Nó là sự thống nhất của ba quá trình: Tăng
cường sức mạnh cho các tổ chức độc quyền; tăng cường vai trò can thiệp của nhà nước
vào kinh tế; kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của
nhà nước, trong đó nhà nước bị chi phối và phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền tư
nhân.
Trong giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước, nhà nước tư bản đã trở thành một
nhà tư bản khổng lồ, sở hữu những doanh nghiệp lớn, góp vốn cổ phần vào các tập
đoàn tư bản, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, thuê mướn và bóc lột lao
động làm thuê…Tuy nhiên, ngoài chức năng của nhà tư bản, nhà nước tư sản có có
chức năng chính trị, sử dụng các công cụ bạo lực để trấn áp xã hội, đồng thời thực hiện
một số chức năng xã hội để xoa dịu mâu thuẫn.
Như vậy, CNTB độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội
trong giai đoạn CNTB độc quyền, chứ không phải là một chính sách nhất thời.
Như chúng ta biết, bất kỳ một nhà nước nào cũng đều có vai trò kinh tế nhất định,
song do có sự khác nhau về bản chất của mỗi một chế độ xã hội và sự phát triển ở từng
giai đoạn, mà nhà nước có vai trò kinh tế khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do
cạnh tranh, nhà nước ít can thiệp vào kinh tế, chủ yếu sử dụng cộng cụ luật pháp và
thuế, đến giai đoạn CNTB độc quyền và độc quyền nhà nước, nhà nước không chỉ can
thiệp sâu vào các họat động kinh tế, điều tiết các hoạt động sản xuất, phân phối, trao
đổi và tiêu dùng, đồng thời còn nắm giữ và chi phối khu vực kinh tế của nhà nước.

Vũ Văn Thành 0932008296


124
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tóm lại: CNTB độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản
xuất TBCN trong giai đoạn độc quyền nhằm xoa dịu những mâu thuẫn, thích nghi với
điều kiện mới, đồng thời duy trì sự tồn tại của CNTB.
2. Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
a. Sư kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền với nhà nước
CNTB độc quyền nhà nước ra đời đã dẫn đến tình trạng: Một số cá nhân, hôm
nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là
bộ trưởng.
Sự kết hợp về nhân sự còn được thực hiện thông qua các Hội chủ doanh nghiệp,
các hội này nắm trong tay nguồn lực kinh tế lớn, từ đó chi phối, chính sách kinh tế và
đường lối chính trị có lợi cho các tổ chức độc quyền và các tập đoàn tư bản tài chính
lớn. Trong một số giai đoạn vai trò của các hội này rất lớn, mà người ta gọi chúng là:
Quyền lực thực tế đằng sau quyền lực chính quyền, chính phủ đằng sau chính phủ.
Thông qua các Hội chủ doanh nghiệp, mà các tổ chức độc quyền đưa người vào
trong bộ máy của nhà nước, nắm giữ các chức vụ quan trọng, đồng thời nhà nước cũng
“cài” người vào trong các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ chính thức hoặc danh
dự, từ đó trở thành người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền, cứu nguy cho các tập
đoàn tư bản khi cần thiết. Sự kết hợp và xâm nhập này, phản ánh sự kết hợp về nhân
sự giữa các tổ chức độc quyền với bộ máy của nhà nước.
Ngày nay sự kết hợp về nhân sự được thực hiện qua việc các tập đoàn tư bản tài chính,
tài trợ tiền cho các nghị sĩ, hoặc ứng cử viên tổng thống khi tranh cử, từ đó sẽ chi phối
các nhân vật này sau khi trúng cử.
b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời và phát triển thì sở hữu nhà nước
cũng đựơc tăng cường. Sở hữu nhà nước độc quyền là sở hữu của tập thể giai cấp tư
bản độc quyền, nó ủng hộ và phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền. Sở
hữu độc quyền nhà nước không chỉ tăng về quy mô, mà còn kết hợp với sở hữu độc
quyền tư nhân, để tăng thêm sức mạnh về kinh tế.
Sở hữu độc quyền nhà nước bao gồm: Tài nguyên, bất động sản, động sản, những
doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ vốn 100% hoặc vốn của nhà nước chi phối, ngân
sách nhà nước, các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng như giao thông, năng lượng, bảo
hiểm xã hội, giáo dục, y tế…
Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành dưới các hình thức: nhà nước xây
dựng các doanh nghiệp bằng 100% vốn ngân sách của nhà nước; mua lại các doanh
nghiệp của tư nhân khi làm ăn thua lỗ; góp vốn cổ phần vào trong các doanh nghiệp
của tư nhân; liên doanh, liên kết với nước ngoài…
Sở hữu độc quyền nhà nước có chức năng và nhiệm vụ:
Một là, mở rộng quy mô sản xuất của chủ nghĩa tư bản độc quyền, tạo điều kiện
cho sự phát triển của CNTB. Chức năng này được thể hiện thông qua việc nhà nước
Vũ Văn Thành 0932008296
125
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

đầu tư phát ở các lĩnh vực mà tư nhân không không có khả năng đầu tư, không muốn
đầu tư, hoặc đầu tư không hiệu quả.
Hai là, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức độc quyền tư nhân đầu tư vào
những ngành có hiệu quả. Hỗ trợ các tổ chức độc quyền khi gặp khó khăn.
Ba là, sở hữu độc quyền nhà nước là chỗ dựa về kinh tế của nhà nước, để điều
tiết các hoạt động kinh tế, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, chống đỡ khủng
hoảng và đảm bảo lợi ích cho các tập đoàn tư bản tư nhân.
Sở hữu độc quyền nhà nước biểu hiện ra bên ngoài như là sở hữu “ có tính xã hội”,
nhưng thực chất vẫn là sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu nhà nước vẫn phục vụ quyền lợi
cho các tập đoàn tư bản độc quyền lớn. Người lao động dù có cổ phần trong các doanh
nghiệp của nhà nước, thì cổ phần đó chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, bản thân họ vẫn là
người lao động làm thuê.
c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Trong giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước, nhà nước đã tham gia tích cực vào
việc điều tiết các hoạt động kinh tế. Khi nghiên cứu vai trò của nhà nước trong giai
đoạn CNTB độc quyền, Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, do tình hình thực tế thúc bách, nhà nước đã tăng
cường điều tiết đối với các hoạt động sản xuất và phân phối.
Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản độc quyền thông qua những thiết chế và
thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý của nhà nước, gắn với hệ
thống chính sách, công cụ để điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế, nhằm đảm
bảo lợi ích cho các tập đoàn tư bản độc quyền, đồng thời giải quyết một số mâu thuẫn
về kinh tế, xã hội. Ví dụ trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây, và những xung đột
quân sự ở một số khu vực hiện nay, nhà nước tư sản đã giúp cho các tập đoàn tư bản
sản xuất vũ khí thu hàng tỷ đô la lợi nhuận.
Ngày nay, hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản được thực hiện dưới các
hình thức như: hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát, dự báo, kế hoạch…đồng thời sử dụng
các công cụ luật pháp, kinh tế và hành chính, kết hợp với ưu đãi và trừng phạt. Chính
sách kinh tế của nhà nước tư sản ngày nay, bao gồm: Chính sách chống khủng hoảng
kinh tế, chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách chống
lạm phát, chính sách hỗ trợ các tập đoàn tư bản khi gặp khó khăn…ngoài chính sách
kinh tế, nhà nước tư sản cũng thực hiện một số chính sách xã hội như: trợ cấp thất
nghiệp, điều tiết thu nhập, tăng phúc lợi xã hội, để giải quyết mâu thuẫn xã hội. Để
thực hiện các chính sách kinh tế và xã hội, nhà nước tư sản sử dụng các nguồn lực và
công cụ như: ngân sách nhà nước, thuế, đầu tư, hỗ trợ, hệ thống tài chính-tiền tệ,
nguồn lực của các doanh nghiệp nhà nước.
III. VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN.
1. Vai trò của CNTB đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội.

Vũ Văn Thành 0932008296


126
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Sự phát triển của CNTB từ giai đoạn tư do cạnh tranh, đến giai đoạn độc quyền,
độc quyền nhà nước, nếu chưa xét đến những mặt trái của nó, thì CNTB đã có những
đóng góp tích cực đối với nền sản xuất xã hội
Một là, Phát triển sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao năng suất lao động, tạo ra một
khối lượng của cải vật chất to lớn. Sự ra đời và phát triển của CNTB đã giải phóng loài
người thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc, chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, đồng thời phát triển nền kinh tế hàng hóa
lớn TBCN. Dưới tác động của quy luật giá trị và giá trị thặng dư, cùng với các quy luật
kinh tế của sản xuất hàng hóa, CNTB đã nâng cao năng suất lao động và tạo ra một
khối lượng của cải vật chất khổng lồ, như Các Mác đã khẳng định: CNTB ra đời chưa
đầy 100 năm, nhưng nó đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ bằng tất các
các xã hội trước cộng lại.
Hai là, Phát triển lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của CNTB, đã thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật-công nghệ ngày càng
được nâng cao, chuyển từ lao động thủ công lên cơ khí hóa, tự động hóa, hiện đại hóa.
Ngày nay, các nước tư bản phát triển vẫn là các nước đi đầu trong việc ứng dụng và
phát triển những công nghệ mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Cùng với sự
phát triển của kỹ thuật, công nghệ, là quá trình chinh phục tự nhiên, nâng cao năng
suất lao động, hiệu quả kinh tế, giải phóng sức lao động.
Ba là, thực hiện xã hội hóa sản xuất. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất
hàng hóa lớn, CNTB đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và
chiều sâu. Thể hiện qua sự phát triển của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa
sản xuất, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ, tích
tụ và tập trung sản xuất, làm cho quá trình sản xuất được liên kết và phụ thuộc lẫn
nhau, hình thành hệ thống sản xuất mang tính xã hội. Đồng thời, mở rộng phân công
lao động động và hợp tác quốc tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và quốc tế hóa kinh
tế.
Bốn là, nâng cao trình độ quản lý, hình thành tác phong lao động công nghiệp.
Thông qua cuộc cách mạng kỹ thuật và cách mạng khoa học kỹ thuật, CNTB đã nâng
cao dần trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, xóa bỏ nề nếp, thói quen của người sản xuất
nhỏ, hình thành tác phong lao động công nghiệp.
Năm là, thiết lập nền dân chủ tư sản. CNTB đã xây dựng và thiết lập nền dân chủ
tư sản, hơn hẳn so với hệ thống chính trị của chế xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội
phong kiến, mở đường cho sự phát triển của chế độ xã hội mới tự do, dân chủ và văn
minh.
Tóm lại: sự phát triển của CNTB, với những đóng và thành tựu của nó đối với
các lĩnh vực kinh tế và xã hội, đã tạo những điều kiện, tiền đề cần thiết cho sự ra đời,
xây dựng và phát triển của CNXH. Tuy nhiên, sự ra đời của CNXH không phải diễn ra
một cách tự nhiên, tự phát, mà phải thông qua cuộc cách mạng xã hội, cuộc cách mạng
này có thể diễn ra bằng phương pháp hòa bình, hay bạo lực, phải tùy theo bối cảnh
quốc tế ở từng thời điểm, điều kiện cụ thể của mỗi nước trong từng giai đoạn.
Vũ Văn Thành 0932008296
127
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

2. Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản


Ngoài những đóng góp tích cực, CNTB cũng có những hạn chế và mâu thuẫn
chưa giải quyết được.
Thứ nhât, hạn chế về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản. Khi nghiên cứu lịch sử
ra đời của CNTB trong giai đoạn đầu, gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy. Các
Mác đã vạch rõ thực chất tích lũy nguyên thủy của CNTB là xâm chiếm, cướp bóc
thuộc địa, tước đoạt những người sản xuất nhỏ mà trực tiếp là nông dân, buôn bán, trao
đổi không ngang giá, quá trình này đã được lịch sử ghi lại với những trang đẫm máu
và lửa.
Thứ hai, sự bóc lột lao động. Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của CNTB là quá
trình bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê. Mặc dù sự bóc lột của tư bản đối
với lao động, đã có những bước tiến nhất định so với các xã hội trước đó, đồng thời
tạo ra động lực cho sự phát triển, tuy nhiên sự bóc lột này cũng dẫn đến mâu thuẫn gay
gắt giữa tư bản và lao động, phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.
Thứ ba, mâu thuẫn gay gắt giữa các nước tư bản đã dẫn đến những cuộc chiến
tranh thế giới và xung đột ở các khu vực. Điển hình là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1914-1918) và cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), với mục đích là
tranh giành thị trường thuộc địa và khu vực ảnh hưởng, từ đó đã để lại cho loài người
những hậu quả nặng nề như hàng triệu người vô tội bị giết hại, cơ sở hạ tầng bị phá
hủy, nền kinh tế bị khủng hoảng, thất nghiệp, môi trường bị tàn phá. Ngày nay, CNTB
cũng chính là tác nhân gây ra cuộc chạy đua vũ trang, xung đột quân sự ở các nước,
các khu vực, cụ thể như việc NATO xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu,
sát biên giới với Nga, Mỹ đưa quân vào Afganistan, Irắc, hậu thuẫn cho Israel gây bất
ổn ở Trung Đông, sự can thiệp của Mỹ ra bên ngoài, cùng với chi phí quân sự tăng cao
là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế mang tính toàn cầu, đang lan rộng năm 2008-
2009.
Thứ tư, CNTB đã tạo ra sự phân hóa giàu, nghèo ngày càng lớn. Theo tính toán
của các chuyên gia, thì mức độ chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa những nước
giàu nhất với những nước nghèo nhất khoảng 250 lần. Các nước nghèo, do tác động
của khủng hoảng kinh tế và chiến tranh mức sống, thu nhập và điều kiện sống bị giảm
đi nhanh chóng như: Xomali, Afganistan, Irac, Palestin. Trong khi đó các nước tư bản
phát triển và các tập đoàn tư bản lớn, đã thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ
việc bán vũ khí, bán công nghệ, xuất khẩu tư bản, cho vay…Các nước nghèo không
chỉ bị giảm sút về thu nhập mà còn kéo theo gắng nặng nợ nần, nguồn tài nguyên bị
cạn kiệt, môi trường bị tàn phá.
Thứ năm, những mâu thuẫn và hạn chế ngay trong lòng các nước tư bản, như mâu
thuẫn giữa các tập đoàn tư bản lớn với các nhà sản xuất nhỏ, mâu thuẫn giữa tư bản

Vũ Văn Thành 0932008296


128
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

với lao động, mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản với các tầng lớp nhân dân, tội phạm
và các tệ nạn xã hội tăng, mất cân bằng về môi trường sinh thái, khủng hoảng kinh tế.
3. Giới hạn lịch sử của CNTB
Những mâu thuẫn và hạn chế của CNTB, bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB
là: mâu thuẫn giữa sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, mang tính xã hội hóa, với
quan hệ sản xuất tư nhân TBCN dẫn đến kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mặc dù ngày nay, CNTB đã có sự điều chỉnh nhất định như: tăng cường quy mô sở
hữu về tư liệu sản xuất, mở rộng hệ thống phân phối và nâng cao trình độ quản lý, qua
đó đã giảm bớt được các mâu thuẫn. Nhưng sự điều chỉnh đó, vẫn không vượt qua
được giới hạn của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích của các nhà tư bản.
Trên cơ sở đó Các Mác và V.I.Lênin đã nhận định: khi CNTB phát triển đến giai đoạn
nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân TBCN, sẽ bị phá vỡ, thay vào đó là quan hệ sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất, thay vào đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa, nhưng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Vũ Văn Thành 0932008296


129
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương VII
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÁCH MẠNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN


1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
a. Khái niệm giai cấp công nhân
Mác-Ăngghen dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp công nhân
giữa thế kỷ XIX như: giai cấp vô sản, giai cấp hoàn toàn chỉ dựa vào bán sức lao động
của mình, giai cấp lao động làm thuê ở thế kỷ XIX; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp
công nhân hiện đại; giai cấp công nhân đại công nghiệp … Những thuật ngữ này đều
đồng nghĩa để biểu thị khái niệm giai cấp công nhân. Dù tên gọi có khác nhau nhưng
nhìn chung, theo cách diễn đạt của Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân có hai đặc
trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, xét về phương thức lao động, giai cấp công nhân là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đây là đặc trưng cơ bản phân biệt người công
nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công
trường thủ công.
Thứ hai, xét về địa vị trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công
nhân không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, bị nhà tư bản bóc lột giá trị
thặng dư. ( Đây là đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản, vì vậy
C.Mác và Ph.Ăngghen thường sử dụng khái niệm giai cấp vô sản).
Ngày nay với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của khoa học –
công nghệ, giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ của C.Mác, cụ thể
như sau:
- Bên cạnh bộ phận công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện bộ phận
công nhân trong nền công nghiệp tự động hóa, do áp dụng phổ biến công nghệ thông
tin vào sản xuất.
- Xuất hiện bộ phận công nhân dịch vụ gắn với nền sản xuất công nghiệp và hoạt
động theo lối công nghiệp.
- Giai cấp công nhân có trình độ mọi mặt ngày càng cao, ngày càng có nhiều
người thuộc tầng lớp trí thức tham gia vào đội ngũ công nhân, nên bộ phận công nhân
bán sức lao động bằng trí óc ngày càng tăng, do đó, giá trị thặng dư do giai cấp công
nhân làm ra cho nhà tư bản ngày càng nhiều.
- Một số công nhân có tư liệu sản xuất phụ tại gia đình, có cổ phần ở nhà máy, xí
nghiệp, đời sống của công nhân được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, trong thực tế
số cổ phần và tư liệu sản xuất của họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận
Vũ Văn Thành 0932008296
130
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

tư liệu sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản.
Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động
cho nhà tư bản.
Xuất phát từ quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu
sự biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, chúng ta có thể định
nghĩa:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao. Là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của
cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội. Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai
cấp công nhân về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản
và bị bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng
với nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác
lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân
họ”.
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi xem xét giai cấp công nhân, chủ
yếu dựa vào đặc trưng thứ nhất, còn đặc trưng thứ hai, nếu xét toàn bộ giai cấp thì giai
cấp công nhân là người chủ xã hội, giữ vai trò lãnh đạo. Song xét về mặt cá nhân vẫn
còn một bộ phận công nhân đi làm thuê, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
Như vậy, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương
trong các ngành khác không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp, không hoạt
động theo kiểu công nghiệp như: y tế, văn hóa, giáo dục… là người lao động nói
chung, không phải là công nhân.
b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn thể nhân loại thoát khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu… Xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua hai bước:
- Thứ nhất,” giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất
trước hết trở thành sở hữu nhà nước”.
- Thứ hai, “ giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì
thế mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp và xóa bỏ
nhà nước với tư cách là nhà nước”.
(C.Mác-Ph.Ăngghen:Toàn tập-2002, tập 20, tr.389)

Vũ Văn Thành 0932008296


131
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Bước thứ nhất rất khó khăn, nhưng bước thứ hai lại càng khó hơn. Đó là xây dựng
một xã hội mới không có áp bức bóc lột, tiến lên một xã hội không còn giai cấp và
thực hiện nguyên tắc “ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a. Địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản
Về số lượng: Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân chiếm ưu
thế về số lượng. Đúng như Mác đã dự báo: Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng
mở rộng, ngày càng phát triển thì” Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp”
Về chất lượng: do điều kiện lao động gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp
hiện đại, và để tồn tại đã buộc giai cấp công nhân phải không ngừng học tập vươn lên
sao cho đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại. do vậy đội ngũ
công nhân được tri thức hóa cũng ngày càng tăng.
Về quyền lợi: Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có lợi ích cơ
bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với
quần chúng lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy chính quyền về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Khi nghiên cứu về địa vị Kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân C.Mác-
Ph.Ăngghen nhận thấy:
- Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
Do không có tư liệu sản xuất, bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề; lại được trang bị
học thuyết cách mạng khoa học là chủ nghĩa Mác-Lênin và được Đảng tiên phong lãnh
đạo đã tôi luyện cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp có tinh thần triệt để cách
mạng. Mác và Ph.Ăngghen viết:” Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai
cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng…” ( Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản)
- Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Do điều kiện sản xuất tập trung và trình độ kỹ thuật-công có cơ cấu tổ chức sản
xuất chặt chẽ đã rèn luyện cho giai cấp công nhân tính tổ chức và kỷ luật. Cuộc đấu
tranh kinh tế, chính trị chống giai cấp tư sản đã tôi luyện họ trở thành giai cấp có ý
thức tổ chức kỷ luật cao.
- Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.
Do giai cấp công nhân ở các nước tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế- xã hội
giống nhau, gắn với nền công nghiệp hiện đại có trình độ xã hội hóa ngày càng cao
chẳng những ở mỗi nước mà còn ở trên phạm vi quốc tế. Giai cấp công nhân đều có kẻ
Vũ Văn Thành 0932008296
132
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thù chung, có mục tiêu đấu tranh chung là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Đây là những cơ sở khách quan để tạo nên bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân.
3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
a. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển chính Đảng của giai cấp
công nhân
Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân. hai ông đã xây dựng nên thuyết về một xã hội mới.
Học thuyết này đã phản ánh đúng những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, phản
ánh được tâm tư nguyện vọng của giai cấp công nhân. Đặc biệt, chỉ ra một cách đúng
đắn con đường, điều kiện, biện pháp… để thực hiện nguyện vọng đó. Vì vậy, nó đã
được giai cấp công nhân tiếp thu nhanh chóng và coi đó là “vũ khí lý luận” của giai
cấp mình.
Chủ nghĩa Mác có nhu cầu xâm nhập vào phong trào công nhân để hướng dẫn
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và qua đó kiểm nghiệm, bổ sung hoàn chỉnh
học thuyết của mình. Còn giai cấp công nhân, từ thất bại trong các cuộc đấu tranh với
giai cấp tư sản, họ đang rất cần có lý luận cách mạng, khoa học để dẫn đường. Khi lý
luận của chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân, một bộ phận tiên tiến
trong giai cấp công nhân đã tiếp thu được học thuyết cách mạng của Mác. Họ dựa vào
lý luận của chủ nghĩa Mác để xác định cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược…
Họ đứng ra tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở nước mình.
Chính bộ phận ưu tú đó hình thành nên chính Đảng của giai cấp công nhân – đó là
Đảng Cộng sản.
V.I.Lênin đã khái quát quá trình hình thành chính đảng của giai cấp công nhân và
nêu thành quy luật: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân.
Tuy nhiên trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực
hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở
những nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra Đảng Cộng sản.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự
phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và
thực sự cách mạng.
b. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất của một giai cấp, nó đại biểu tập trung cho
nguyện vọng, trí tuệ, lợi ích của giai cấp đó. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản
với giai cấp công nhân được thể hiện như sau:

Vũ Văn Thành 0932008296


133
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, là đội
tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu có trình độ lý luận cao nhất để lãnh đạo giai cấp
công nhân và cả dân tộc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Đảng Cộng sản là tổ chức biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất,
trí tuệ của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và dân tộc.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – chính trị của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ
sung lực lượng chủ yếu làm cho Đảng tồn tại và lớn mạnh.
Do đó, Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ, không thể
tách rời. Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân, nhưng
phải là người giác ngộ về sứ mệnh của giai cấp công nhân, phải đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân. Với một Đảng Cộng sản chân chính, thì sự lãnh đạo của Đảng
chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
c.Vai trò của Đảng cộng sản
- Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, phân tích đúng đắn hoàn cảnh
lịch sử, đề ra mục tiêu, đường lối chính sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển
của đất nước.
- Đảng giáo dục đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị
lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi
cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc đứng lên hành động theo
đường lối chính sách của Đảng nhằm hoàn thành thắng lợi những mục tiêu đã đề ra,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó
a. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư
bản hoặc tiền tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp công nhân đóng
vai trò lãnh đạo cùng với nhân dân lao động đứng lên xây dựng một xã hội mới công
bằng, dân chủ, văn minh.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu theo hai nghĩa:
+ Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị,
cuộc cách mạng này kết thúc khi giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động giành
được chính quyền, thiết lập nên nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
+ Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến cách mạng
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó bắt đầu bằng một cuộc cách
mạng chính trị nhằm để giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và kết thúc khi đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Vũ Văn Thành 0932008296


134
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Tất cả các cuộc cách mạng diễn ra trong lịch sử xét cho cùng, đều bắt nguồn từ
nhu cầu khách quan, đó là nhằm giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự kìm hãm của
quan hệ sản xuất lỗi thời.
Tương tự như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa có nguyên nhân sâu xa xuất phát
từ sự phát triển vượt trội của lực lượng sản xuất trong xã hội đương thời. Khi quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Đây là nguồn gốc tạo nên đối kháng giữa lao động và tư bản, giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản. Đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, những mâu thuẫn trên ngày càng
trầm trọng đưa đến khả năng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi
trong từng nước và ở khâu yếu nhất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa khi có đầy đủ
những điều kiện khách quan và chủ quan.
2. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Mục tiêu giai đoạn một của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành chính quyền
về tay nhân dân. “Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng”
(V.I.Lênin).
Mục tiêu giai đoạn hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người
khỏi áp bức nô dịch, giải phóng xã hội khỏi sự trì trệ và tiếp tục phát triển, xây dựng
một xã hội mới trên cơ sở công bằng, dân chủ, văn minh. Khi mà “Xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”.
b. Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Trên lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, dùng bạo lực cách mạng đấu tranh giành chính quyền. Trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội: không ngừng nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân lao
động, mở rộng dân chủ, thu hút nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, làm cho nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định là ra sức phát
triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Muốn vậy đòi hỏi: phải thay đổi vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất bằng
việc thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa dưới nhiều hình thức thích hợp, gắn người lao động với tư liệu sản xuất; áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, để không ngừng nâng cao năng suất lao
động, tạo của cải dồi dào cho xã hội; thực hiện phân phối theo lao động, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa văn minh trên
thế giới, cách mạng xã hội chủ nghĩa từng bước xây dựng thế giới quan, nhân sinh
quan mới cho người lao động, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa giàu lòng
yêu nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, có hiểu biết, có năng lực làm chủ xã hội.
c. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Vũ Văn Thành 0932008296
135
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động ra khỏi xiềng xích nô lệ, nên động lực cách xã hội chủ nghĩa cũng chính là giai
cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động.
- Giai cấp công nhân:
Là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng tiên tiến và
cách mạng. Thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân
càng giác ngộ về lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, do đó giai cấp công nhân vừa là động
lực cơ bản, chủ yếu, vừa giữ vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là yếu
tố quyết định hàng đầu, đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Giai cấp nông dân:
Là giai cấp có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân.
Với số lượng đông đảo trong dân cư, đây là động lực cách mạng to lớn của cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khi được đại đa số
nông dân tham gia ủng hộ, đây là điều kiện đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, là cơ sở xây dựng chính quyền nhà nước, đảm bảo cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa thắng lợi.
- Tầng lớp trí thức:
Tầng lớp trí thức không đại biểu cho bất kì một phương thức sản xuất nào, không
có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục vụ cho chế độ nào thì mang ý thức hệ của giai
cấp đó.
Trong đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trí thức có vai trò rất quan trọng. Trí thức là những người có đóng góp to lớn trong
chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước;
tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước và tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách đó.
Trong cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lượng giá trị chất xám trong
sản phẩm ngày càng tăng thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức ngày càng
cao.
3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Tính tất yếu, cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với
nông dân và các tầng lớp lao động khác…
- Tính tất yếu …
+ Khi tổng kết phong trào công nhân ở Châu Âu nhất là ở Anh, Pháp nửa cuối
thế ky XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra nguyên nhân thất bại là do giai cấp công
nhân không liên minh được với “người bạn đồng minh tự nhiên” của mình là giai cấp

Vũ Văn Thành 0932008296


136
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

nông dân. Do đó, giai cấp công nhân luôn luôn đơn độc và cách mạng vô sản đã trở
thành “bài ca ai điếu”.
+ Trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin vận dụng và phát triển nguyên
lý liên minh công, nông của C.Mác –Ph.Ăngghen và đã giành thắng lợi trong Cách
mạng Tháng Mười Nga 1917.
V.I.Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân không chỉ liên minh với nông dân mà còn
liên minh với các tầng lớp lao động khác như tiểu thương, thợ thủ công, trí thức… để
tạo thành sức mạnh, hoàn thành nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I. Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô
sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên
phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải
vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v…” (V.I.Lênin:Toàn tập-1997,
tập38, tr.452).
+ Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp
công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. V.I. Lênin đặc biệt lưu ý mối liên minh
công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nguyên tắc cao nhất của
chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô
sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Qua mối liên minh
này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về
mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là
điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt
chính trị – xã hội, là yếu tố quyết định trước tiên trong cách mạng x hội chủ nghĩa.
- Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh …
+Thứ nhất, dưới chủ nghĩa tư bản giai cấp công nhân, giai cấp nông dân đều là
những người lao động, đều bị áp bức bóc lột. Do vậy giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân dễ dàng thông cảm, dễ dàng liên minh với nhau để chống kẻ thù chung là
giai cấp tư sản.
+Thứ hai, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp và nông
nghiệp là hai ngành sản xuất chính trong xã hội. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ
giữa công nhân và nông dân thì hai ngành kinh tế này không thể phát triển được. Công
nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và bà con nông dân. Nông
nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho toàn xã hội, tạo ra nông sản phục vụ
cho công nghiệp. V.I.Lênin khẳng định: “ Công xưởng xa hội hóa sẽ cung cấp những
sản phẩm của mình cho nông dân và nông dân lại cung cấp lại lúa mì. Đó là hình thức
tồn tại duy nhất có thể được của xã hội xã hội chủ nghĩa, là hình thức duy nhất để xây
dựng chủ nghĩa xã hội”.
+Thứ ba, xét về mặt chính trị – xã hội giai cấp công nhân và những người lao
động khác là lực lượng chính trị to lớn trong xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà
nước, trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Do vậy có thể nói giai cấp nông dân là
người bạn “tự nhiên”, tất yếu của giai cấp công nhân.
Vũ Văn Thành 0932008296
137
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

b. Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác…
- Liên minh về chính trị: trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm
giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác là cùng nhau tham gia vào chính
quyền nhà nước từ cơ sở đến trung ương, cùng nhau bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
ngày càng vững mạnh.
Khối liên minh này trở thành cơ sở vững chắc cho nhà nước xã hội chủ nghĩa,
tạo thành nòng cốt trong mặt trận dân tộc thống nhất.
- Liên minh về kinh tế: Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất, vì có liên minh
về kinh tế chặt chẽ mới thực hiện được sự liên minh trong các lĩnh vực khác.
V.I.Lênin đã chỉ ra nội dung chủ yếu của giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là liên minh về quân sự, thì khi tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là liên minh về kinh tế.
Thực hiện liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai
giai cấp. Hoạt động kinh tế phải vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước, của xã hội, đồng
thời phải thường xuyên quan tâm tới lợi ích của giai cấp nông dân. Nếu kết hợp đúng
đắn các lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội, nó trở thành một động lực to lớn
thúc đẩy xã hội phát triển, ngược lại nó trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã
hội.
Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên quan tâm tới xây dựng
một hệ thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô viết, V.I.Lênin không chỉ
quan tâm tới xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân,
mà ông còn quan tâm tới xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với tàng
lớp trí thức. V.I.Lênin cho rằng: “ Nếu không quan tâm tới điều đó thì không thể xây
dựng được một nền sản xuất công nghiệp hiện đại” và không thể đứng vững được
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Và “ Trước sự liên minh của các đại
biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng
vững được”.(V.I.Lênin:Toàn tập-1978, tập 40, tr.218)
- Nội dung văn hóa - xã hội của liên minh…
Nội dung văn hóa-xã hội là một nội dung quan trọng trong xây dựng khôi liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Điều đó được cắt nghĩa bởi các lý do sau đây:
+ Một là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên một nền tảng công nghiệp hiện
đại. Những người mù chữ, những người có trình độ văn hóa thấp không thể tạo ra
được một xã hội như vậy.

Vũ Văn Thành 0932008296


138
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Hai là, chủ nghĩa xã hội với mong muốn xây dựng một xã hội nhân văn, nhân
đạo, quan hệ giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác là quan
hệ hữu nghị tương trợ lẫn nhau. Điều đó chỉ có thể có được trên cơ sở một nền văn hóa
phát triển của nhân dân.
+ Ba là, chủ nghĩa xã hội tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao đông tham
gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Nhân dân muốn thực hiện được
công việc quản lý của mình cần phải có một trình độ văn hóa, phải hiểu biết về chính
sách, pháp luật.
Theo V.I.Lênin cuộc đấu tranh khắc phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, trì trệ,
thói quan liêu cửa quyền là một công việc khó khăn, vì “kẻ thù ở ngay chúng ta là chủ
nghĩa tư bản vô chính phủ và việc trao đổi hàng hóa vô chính phủ”. Đây là kẻ thù giấu
mặt, chúng ta khó nhận ra và phải traỉ qua một thời kỳ lâu dài “…không thể thực hiện
nhanh được như nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ quân sự”.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh dưới góc độ kinh tế giữ vai
trò quyết định. Điều này do sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định, do phải
gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, để thực hiện việc thỏa mãn lợi ích
kinh tế cả trước mắt và cả lâu dài, cơ bản của xã hội. Như vậy, sự liên minh về kinh tế
là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định.
c. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác
Muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cần phải đảm bảo những nguyễn tắc sau:
- Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong khối liên minh.
Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân
tán, không có hệ tư tưởng đoc lập. Do đó, chỉ đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “…
chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thể giải phóng quần chúng tiểu nông
thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội”
- Hai là, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện.
V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản Nga là phải bằng những
việc làm cụ thể để cho giai cấp nông dân thấy rằng đi với giai cấp vô sản có lợi hơn đi
với giai cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực hiện trên
tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp lao động khác mới bền vững và lâu dài.
- Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích.
Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác có những lợi
ích cơ bản là thống nhất: họ đều là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ
nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh giữa họ.

Vũ Văn Thành 0932008296


139
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Song giữa các giai tầng này là những chủ thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân
đại diện cho phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác gắn với chế độ tư hữu nho, mâu thuẫn với phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa. Do vậy cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này, phải
chú ý tới những lợi ích thiết thực của nông dân, các tầng lớp lao động khác. Sau nội
chiến ở Nga, V.I.Lênin đã áp dụng chính sách kinh tế mới, thay chính sách trưng thu
lương thực thừa, bằng chính sách thuế lương thực. Nhà nước quy định nghĩa vụ đóng
thuế lương thực cho nông dân, sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế, người nông dân tự do
trao đổi phần lương thực thừa. Điều đó đã phát huy được tính tích cực của người nông
dân, đã nhanh chóng đưa nước Nga thoát khỏi những khó khăn sau thời kỳ nội chiến.
V.I.Lênin cho rằng: “ Chúng ta phải để cho nông dân, với tư cách là người sản xuất
nhỏ có được một phạm vi tự do khá lớn. Không nâng cao kinh tế nông dân, chúng ta
không thể giải quyết được tình hình lương thực”( Sđd,tập 43, tr.373), cần phải có
những nhượng bộ nhất định đối với nông dân.
III. HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trình
độ Hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa
phát
Triển Hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa
Kinh
Hình thái KT-XH phong kiến
tế
Xã Hình thái KT-XH chiếm hữu nô lệ
hội
Hình thái KT-XH cộng sản nguyên thủy

Thời gian

- Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát hiện ra quy luật khách quan
của quá trình chuyển biến cách mạng căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loài người
là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội phát triển từ thấp đến cao diễn
ra như “một quá trình lịch sử tự nhiên”.
- Sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách
quan. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất đặc biệt là nền công nghiệp
hiện đại, dựa trên các thành tựu khoa học – công nghệ đã phát triển ngày càng cao thì
trình độ xã hội hóa cũng càng cao. Điều đó đã tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu

Vũ Văn Thành 0932008296


140
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

sản xuất chủ yếu. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản. Đây là mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hòa.
Giai cấp tư sản đã dùng rất nhiều biện pháp như tăng cường sự can thiệp của nhà
nước vào kinh tế, thành lập các tập đoàn tư bản… với mong muốn làm giảm những
mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân. Song sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà nước, nhân danh nhà nước để nắm tư liệu
sản xuất. Do vậy, mâu thuẫn đối kháng trong kinh tế và trong xã hội không hề suy
giảm. đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa đưa đến sự ra đời hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa
a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Khái niệm:
+ Bước quá độ là bước chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội tư bản và
tiền tư bản lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ
khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi Chủ nghĩa xã
hội đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tính tất yếu:
+ Theo C.Mác: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị…”
+ Theo V.I.Lênin:
“ Cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được
những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực trong cuộc sống và phải trải qua một cuộc
đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản
lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản…”).
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa
xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn
đối kháng giai cấp, không còn tình trạng áp bức bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần
phải có một thời gian cải biến cách mạng khá lâu dài.
- Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có
trình độ cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật
nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.
- Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
xã hội tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do
vậy cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Vũ Văn Thành 0932008296
141
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những
công việc đó.
- Hai loại hình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội:
+ Quá độ trực tiếp từ những nước Tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội thì
thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn vì những nước này đã có đại công nghiệp và cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại.
+ Quá độ gián tiếp từ những nước tư bản chủ nghĩa trung bình và những nước
chưa qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Theo V.I.Lênin, đó là kiểu quá độ đặc biệt hoặc ” đặc biệt của đặc biệt” phải trải
qua rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì các nước này chưa qua “ trường
học dân chủ tư sản” và chưa có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là những nhân tố của xã
hội mới và những tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tập
quán…
+ Nội dung kinh tế: là nền kinh tế nhiều thành phần
Theo V.I.Lênin: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế,
có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội? Bất cứ ai cũng thừa nhận
là có…” V.I.Lênin nêu ra 5 thành phần kinh tế gồm:
+ Kinh tế nhà nước.
+ Kinh tế tập thể.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Kinh tế tư bản tư nhân.
+ Kinh tế tư bản nhà nước.
Trong đó kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm nhận
các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng
và tài chính, tín dụng.
+ Nội dung chính trị: Nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố,
ngày càng hoàn thiện. Do kết cấu kinh tế đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội
cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai tầng này vừa hợp
tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có
trình độ, ý thức khác nhau. Thu nhập, ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau có sự
khác nhau.

Vũ Văn Thành 0932008296


142
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Nội dung văn hóa – tư tưởng: Chủ nghĩa Mác-Lênin, thế giới quan và hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân từng bước giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của xã hội. Bên cạnh đó, còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông v.
v… V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là” kẻ thù giấu mặt hết sức nguy
hiểm, nguy hiểm hơn cả bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hóa cũng
tồn tại văn hóa cũ, văn hóa mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
-Thực chất của thời kỳ quá độ… là thời kỳ diển ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với giai cấp công nhân
và quần chúng lao động đã giành được chính quyền đang ra sức đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra
trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên truyền vận động là chủ
yếu, bằng hành chính và luật pháp.
b. Chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa)
- Khái niệm Chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là “giai đoạn thấp của xã hội
cộng sản” theo cách gọi của Các Mác và Ph.Ăngghen. Theo hai ông thì trong giai đoạn
này, trình độ phát triển kinh tế – xã hội trước hết là trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất còn thấp. Của cải làm ra chưa thật dồi dào do đó phải “lấy lao động làm
thước đo trong phân phối của cải vật chất” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản).
- Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
+Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp.
Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh
trình độ phát triển kinh tế – kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là đặc trưng cho
cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại công nghiệp cơ
khí là cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tính
cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất kỹ
thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ
của xã hội tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin đã đề ra kế hoạch điện khí hóa toàn nước Nga,
ông đã nêu lên quan niệm: [ chủ nghĩa xã hội = chính quyền xô viết + điện khí hóa
toàn quốc]. Ngày nay, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải có trình độ
cao hơn nhiều, phải là tự động hóa.
+Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy
toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào
trong tay nhà nước…”
Do vậy chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được
xác lập đầy đủ. Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn hai hình thức là sở hữu tập thể và
sở hữu toàn dân, người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội; không còn
tình trạng người bóc lột người.
Vũ Văn Thành 0932008296
143
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới.
Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa, không còn
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho người lao động kết hợp
hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa
xã hội cũng tạo ra cách tổ chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân,
dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao như vậy,
một mặt đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động, mặt khác
phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.
+Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân
phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có
những hạn chế, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là cơ bản nhất.
Ngoài phân phối theo lao động, người lao động còn được phân phối theo phúc lợi xã
hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây
dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông v.v… phục vụ mọi người
trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế –
xã hội, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đây là một nội dung quan trọng
trong thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn này.
+Thứ năm, xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai
cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực
và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước là cơ
quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động; thực hiện trấn áp những thế lực phản động, những lực lượng chống đối chủ
nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước này tập hợp
đại biểu các tầng lớp nhân dân, nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân,
tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với
tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn nguyên nghĩa như
nhà nước tư bản chủ nghĩa mà là “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự quản, tự giác
ngày càng cao của nhân dân, quyền tự do dân chủ của nhân dân ngày càng được mở
rộng; biện pháp bạo lực trấn áp ngày càng giảm đi. Tất cả những điều đó nhằm chuẩn
bị cho sự tự tiêu vong của nhà nước trong giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Thời đại ngày nay, giai cấp
công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được các dân
tộc, tạo nên sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lý và trong
Vũ Văn Thành 0932008296
144
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thực tiễn cuộc sống, đấu tranh bảo vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không
ngừng phát huy những giá trị của dân tộc, nâng chúng lên ngang tầm với yêu cầu của
thời đại.
+Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng
con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con
người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi sự bóc lột
về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Tới
xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu
sản xuất, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thực hiện việc xóa bỏ đối
kháng giai cấp, xóa bỏ bóc lột, con người có điều kiện phát triển tài năng cá nhân,
mang tài năng đó đóng góp cho xã hội; thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội,
trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội của con người, bình đẳng nam – nữ, bình đẳng
giữa các dân tộc v.v…
Những đặc trưng trên từng bước được hình thành và hoàn thiện trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa
C.Mác trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội
loài người đã có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã
hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản).
- Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội
tuôn ra dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con
người được giảm nhẹ, lúc đó nhân loại mới thực hiện được nguyên tắc làm theo năng
lực hưởng theo nhu cầu. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết:
“Khi mà lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản
thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn
diện của cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải
xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn
chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
- Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện
phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn có sự khác
biệt giữa thành thị và nông thôn, tới “khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn
giai cấp nữa (nghĩa là giữa các thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào
nữa về những quan hệ xã hội của họ đối với những tư liệu sản xuất xã hội) chỉ lúc đó
“nhà nước mới không còn nữa và mới có thể nói đến tự do”. Chỉ lúc đó, một nền dân
chủ thực sự hoàn bị, thật sự không hạn chế mới có thể có được và được thực hiện. Chỉ
lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì lý do đơn giản là một khi thoát khỏi
chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự dã man…

Vũ Văn Thành 0932008296


145
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các qui tắc sơ thiểu của đời sống
chung xã hội”.
Qua phân tích của V.I.Lênin đã cho thấy, khi xã hội đạt được trình độ phát triển
cao như vậy thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối
tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy, dân chủ cũng không còn; nhà nước, luật pháp tự tiêu
vong, vì lúc này không cần tới sự trấn áp của nhà nước, pháp luật trở thành phong tục,
tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình
thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, cho chúng ta những nhận thức đúng đắn về
giai đoạn hiện nay:
Một là, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái
kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế – xã hội đảm bảo
cho sự xuất hiện của giai đoạn này.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con
người.
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản
chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tùy thuộc vào
sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong
một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư
sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản”. Khi chưa
đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện
vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của
chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính chất giai cấp của
nhà nước, của dân chủ vẫn tồn tại.

Vũ Văn Thành 0932008296


146
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương VIII
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY LUẬT
TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I. XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
a. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ
- Để có quan điểm đúng đắn về dân chủ và nền dân chủ, ta cần nghiên cứu một
cách khái quát lịch sử của vấn đề dân chủ.
Từ thời nguyên thủy, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp lực nhau để
sản xuất, để chống thiên tai, thú dữ, đã tổ chức ra những hoạt động chung mang tính
cộng đồng và cử ra những người đứng đầu, đồng thời sẵn sàng phế truất họ nếu họ
không thực thi được những quy định mà cộng đồng yêu cầu. Thời Hy Lạp cổ đại, khi
có ngôn ngữ, chữ viết thì việc “cử ra và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức
lực của nhân dân.
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời (ở Aten, Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ thứ VIII đến
thế kỷ thứ VI trước công nguyên) giai cấp chủ nô lập ra nhà nước lấy tên là nhà nước
dân chủ. Khi đó khái niệm “dân chủ” chính thức được sử dụng (từ “dân chủ” do hai từ
Démos và kratos – tức nhân dân và quyền lực – ghép lại). Nhưng “dân” lúc này theo
luật pháp của giới chủ nô quy định gồm: giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số
trí thức và người tự do, còn đại đa số là nô lệ thì không được coi là dân. Về thực chất,
đây là nhà nước dân chủ của giai cấp chủ nô.
Trong chế độ tư hữu nói chung (phong kiến, tư bản) do các giai cấp tư hữu thống
trị xã hội, nhà nước vẫn là nhà nước áp bức bóc lột nhân dân. Ngay cả trong chế độ
dân chủ tư sản đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về dân chủ, nhưng nhà nước đó về
thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà
chỉ là nhà nước của giai cấp tư sản thống trị nhân dân.
Chỉ đến khi Cách mạng xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, mới
bắt đầu một thời đại mới, khi đó nhân dân lao động đã giành lại chính quyền, tư liệu
sản xuất, giành lại quyền lực thực sự của nhân dân, tức là dân chủ thực sự và lập ra
Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực
hiện quyền lực của nhân dân.
Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dân chủ và có
quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực của dân. (Dân là những ai còn phụ
thuộc vào quan niệm của giai cấp thống trị xã hội).
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ

Vũ Văn Thành 0932008296


147
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

+ Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của
con người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá
trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc
lột, bất công.
+ Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà
nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ
chung chung”.
Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này là
đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn với
nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Điều này là tất yếu cho mọi chế
độ dân chủ, kể cả chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ
phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp
bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo V.I.Lênin “dân chủ là bình
đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để dành quyền bình đẳng có một
ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai
cấp”.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa
bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp, dân chủ được thực
hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể dân chủ” hay
“nền dân chủ”.
- Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính
chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của
xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng luật
pháp. V.I.Lênin viết:” Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những
hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi
hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta “(V.I.Lênin:Sđd, tập 33,
tr.123). Do đó, nền dân chủ luôn gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ
và mang bản chất của giai cấp thống trị. Chính vì vậy, kể từ khi nền dân chủ ra đời thì
dân chủ trở thành một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị, phạm trù đa nghĩa.
b. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu
ra đời của một nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với
quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của
dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được
hình thành “ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ được hình thành, phát triển dần dần, từng
bước phù hợp với quá trình phát triển của kinh tế, chính trị và văn hóa – xã hội”.

Vũ Văn Thành 0932008296


148
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Trong quá trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những
đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước đảm bảo thỏa mãn ngày càng cao các nhu
cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân. Đây chính là đặc
trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy dân chủ xã hội
chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc.
- Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình
xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về
vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động. Đặc trưng này được hình
thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích của toàn xã hội (do Nhà nước của giai cấp công nhân đại diện) nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất
cả các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào
công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính sách, hiến pháp,
pháp luật…). Mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà
nước các cấp.
- Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện tồn tại
với tư cách là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ
mang tính giai cấp. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân,
đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và
phản động. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy
định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân
chủ theo lối mới trong lịch sử.
c. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Từ việc nắm vững và phân tích thực tế lịch sử đã diễn ra trong sự phát triển dân
chủ của nhân loại, nhất là qua những quy luật phát triển của các nền dân chủ chủ nô,
nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã dự báo khoa học
qua nhiều luận điểm cơ bản về tính tất yếu nổ ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn liền với tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
- Động lực của quá trình phát triển xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ.
Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân,
để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Như vậy, thực

Vũ Văn Thành 0932008296


149
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan, một động lực của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chính
là quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ mới đảm bảo
cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
quy luật của sự hình thành và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và thực
hành dân chủ, là quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị , chuẩn mực nguyên tắc
của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách mạng chuyển giao quyền lực thực sự về cho
nhân dân với mục đích lôi cuốn nhân dân vào quá trình sáng tạo xã hội mới.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây
dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết, nó
trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là điều
kiện cần thiết tất yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực hiện dân
chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng
cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu hiện của dân chủ cực
đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.
Với ý nghĩa đó “Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nó vừa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới”.
2. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà Đảng Cộng sản lãnh đạo
nhân dân tổ chức ra để qua đó, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của
mình; cũng qua đó mà giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo được toàn xã
hội trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng kế thừa và phát huy những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được trong lịch sử về vấn đề nhà nước và dân chủ. Ví dụ:
+ Thừa nhận quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền bầu
cử và bãi miễn các thành viên nhà nước.
+ Kế thừa tính hợp lý về cơ cấu tổ chức có tính pháp quyền của Nhà nước Tư
sản: cũng có các cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ…) và cơ
quan tư pháp (Tòa án, Viện Kiểm sát) nhưng quyền lực là thống nhất, không có “tam
quyền phân lập” như nhà nước tư sản.
b. Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Vũ Văn Thành 0932008296
150
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì bất kỳ nhà nước nào cũng có ba
đặc trưng cơ bản: quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định; có một hệ thống
các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên
trong xã hội; hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do
bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân,
vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc nên nhà nước xã hội chủ nghĩa
còn có những đặc trưng riêng của nó, đó là những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai cấp
nào đó, nhà nước đó thực hiện một chính sách giai cấp vì lợi ích của tất cả những
người lao động nhưng đồng thời vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua
chính đảng của nó đối với nhà nước vẫn được duy trì.
- Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà
nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cả
những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân, nhà nước chuyên chính vô sản
thực hiện sự trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
- Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng, chuyên
chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ
yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, và
theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là: ngày càng hoàn thiện các
hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
- Năm là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước
không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế – xã hội
cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “ tự tiêu
vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.
Với những đặc trưng đó, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.
Chức năng giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ
chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng
những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã
hội.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó bạo lực, trấn áp cũng là
cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin đều cho rằng với bản chất của nhà nước vô sản, thì việc tổ chức, xây
Vũ Văn Thành 0932008296
151
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà
nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên. Giai đoạn tiếp theo là phải sử dụng quyền lực nhà
nước “để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”. Như vậy, rõ ràng chức
năng tổ chức và xây dựng phải là chức năng chủ yếu của Nhà nước của giai cấp công
nhân.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin khẳng
định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội mới, đó là
chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng hơn cả việc đập tan
sự phản kháng của giai cấp tư sản.
Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ:
+ Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân;
+ Quản lý văn hóa xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa,
+ Thực hiện sự nghiệp giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện
+ Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại
nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển
và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin đã làm rõ nhiệm
vụ của nhà nước vô sản trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Đối với lĩnh vực kinh tế, nhà nước vô sản phải nhanh chóng phát triển mạnh số
lượng sản phẩm, củng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng suất lao động được
xem là nhiệm vụ quan trọng.
Đối với lĩnh vực xã hội, phải xây dựng được quan hệ xã hội mới, hình thành
những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có khả
năng vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện từng
bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thông qua những tổ chức thích hợp.
c. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con người
do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao động “phá
hủy nhà nước tư sản” chiếm lấy chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết. Đồng thời, trong thời kỳ
Vũ Văn Thành 0932008296
152
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

quá độ cũng còn có các giai cấp, tầng lớp trung gian khác và do địa vị kinh tế – xã hội
vốn có, các giai cấp này thường dao động, họ không thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã
hội. Trước thực tế đó, giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết phục, lôi cuốn họ
đi theo mình trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa
đóng vai trò là thiết chế cần thiết đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với
toàn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những
giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, đòi hỏi phải có một thiết chế nhà nước phù
hợp. Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi gây tác
hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời… Các quyền đó phải được thể
chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là quá trình tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá
trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ
định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề tồn tại và
phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Bởi vậy để đảm bảo cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây dựng và không ngừng hoàn
thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa – một trong những công cụ chủ yếu của quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một từ Việt gốc Hán: Văn có nghĩa là vẻ đẹp, hóa có nghĩa là thay
đổi, biến đổi, làm cho thay đổi, biến hóa. Nói gộp lại, văn hóa hiểu theo nghĩa gốc là
“làm cho trở nên đẹp đẽ, văn vẽ”.
Có nhiều định nghĩa về văn hóa:
- Định nghĩa nêu trong “Tuyên bố về những chính sách văn hóa” của Hội nghị
quốc tế về văn hóa ở Mêhicô năm 1982:
“Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho
chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và
dấn thân một cách đạo lý.

Vũ Văn Thành 0932008296


153
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chính nhờ văn hóa mà con người thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết
mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản
thân, tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những công
trình vượt trội lên bản thân.”
- Định nghĩa nêu trong giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học( 2003):
“Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người và loài
người sáng tạo ra nhờ lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của
mình. Văn hóa biểu hiện trình độ phát triển mà xã hội đạt được trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được hiểu chủ yếu là văn hóa tinh thần, trước hết là tư
tưởng, lý luận và những gì được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động
tinh thần của con người. Tư tưởng cũng như văn học, nghệ thuật là những biểu hiện
trực tiếp của văn hóa tinh thần.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ quan niệm về văn hóa bao hàm cả hai cấp độ
rộng, hẹp đó. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo,văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”.(Hồ Chí Minh:Toàn tập -1995,tập 53,tr.431)
Văn hóa với Văn minh, Văn hiến, Văn vật
Trong các từ điển, từ “văn minh” thường có một nghĩa chung là “trình độ phát
triển”. Trong khi văn hóa luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh là một
lát cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát triển của văn hóa ở từng giai đoạn. Nói đến
văn minh, người ta còn nghĩ đến các tiện nghi. Như vậy, văn hóa và văn minh còn
khác nhau ở tính giá trị: trong khi văn hóa chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần,
thì văn minh chủ yếu thiên về các giá trị vật chất mà thôi.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến
sự khác biệt về phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc; còn văn minh thì có tính quốc tế,
nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ cái vật chất thì dễ
phổ biến, lây lan.
Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó
nhiều hơn với phương Tây đô thị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, tại
cựu lục địa Âu – Á (Eurasia) đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là “phương Tây” và
“phương Đông”: phương Tây là khu vực tây bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy
Uran); phương Đông là khu vực đông nam gồm châu Á và châu Phi. Các nền văn hóa
cổ đại lớn nhất mà nhân loại từng biết đến đều xuất phát từ phương Đông: Trung Hoa,
Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập..
Vũ Văn Thành 0932008296
154
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Ở Việt Nam còn có các khái niệm văn hiến và văn vật. Sự phân biệt bốn khái
niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật được trình bày trong bảng sau:

VĂN VẬT VĂN HIẾN VĂN HÓA VĂN MINH


Thiên về giá Thiên về giá Chứa cả giá trị vật Thiên về giá trị vật chất
trị vật chất trị tinh thần chất lẫn tinh thần – kĩ thuật
Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển
Có tính dân tộc Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp Gắn bó nhiều hơn với
phương Tây đô thị
(Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm trong “ Cơ sở văn hóa Việt Nam” )
b. Khái niệm nền văn hóa
Khái niệm văn hóa được nói đến ở đây là hiểu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là văn
hóa tinh thần. Theo nghĩa này, nền văn hóa là tổng thể những hành vi và suy tư mà
những người cùng sống trong một cộng đồng cần phải chia sẻ, thực hiện, mô phỏng,
học tập, sáng tạo. Dựa vào nền văn hóa có thể phân biệt các cộng đồng khác nhau.
(Nền văn hóa của một dân tộc bao gồm: niềm tin, quy tắc ứng xử, ngôn ngữ, tập tục, lễ
nghi, nghệ thuật, kỹ thuật, trang phục, cách sản xuất và chế biến thức ăn, các hệ thống
chính trị, kinh tế, tôn giáo tín ngưỡng v.v…).
Tóm lại khái niệm nền văn hóa thường gắn với một xã hội trong đó đại đa số thành
viên, nếu không muốn nói là tất cả, đều có chung phương cách sống và tư duy. Nói đến nền
văn hóa thường là nói đến đời sống văn hóa đã có chiều dài lịch sử, đã có chiều cao là
những nhân tài với những sản phẩm tiêu biểu có giá trị cao về văn hóa.
c. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội
chủ nghĩa đã hình thành. Theo V.I.Lênin,” văn hóa vô sản không phải ngẫu nhiên mà
có, nó không phải do nhũng người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản phát
minh ra. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số nhũng kiến
thức mà loài ngươì đã tích lũy được dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”.
Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề
chính trị và tiền đề kinh tế. Từ hai tiền đề đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực đời
sống tinh thần và nền văn hóa vô sản hay còn gọi là nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa
được xây dựng.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên
nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa

Vũ Văn Thành 0932008296


155
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đưa
nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Chính vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định sự
thay thế nền văn hóa tư sản bằng nền văn hóa vô sản là một sự thay đổi lớn về tư
tưởng, “ lịch sử tư tưởng là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch
sử đấu tranh tư tưởng”.
d. Những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Một là, chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư tưởng, quyết định phương hướng phát triển
nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng, ý thức là cốt lõi của mọi nền văn hóa. Trong mọi thời đại, tư tưởng
của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị của thời đại đó. Chính vì vậy, sau khi giai
cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là một tất yếu. Vai trò chủ đạo của chủ nghĩa
Mác-Lênin đối với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân
lao động thực sự trở thành chủ thể tự giác sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của xã hội
mới.
- Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng
rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của
quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình xây dựng xã hội mới.
Trong các xã hội cũ, giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và
trên cơ sở đó cũng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền văn hóa của xã hội.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa không còn là đặc quyền đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội từng bước tạo ra tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây
dựng nền văn hóa mới. Chính trong quá trình đó, văn hóa hướng tới nhân dân, dân tộc
va mọi thành tựu văn hóa trở thành tài sản của nhân dân.
Văn hóa luôn có sự kế thừa. Sự kế thừa và sáng tạo của nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và
hướng tới nhân dân, dân tộc. Do đó, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa
mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Ba la, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát
triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng
cộng sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của
nhà nước đối với văn hóa sẽ làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất
phương hướng chính trị.
Vũ Văn Thành 0932008296
156
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang xây dựng chính là “nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
- Khi nói đến nền văn hóa tiên tiến là nói đến văn minh tinh thần ở trình độ cao,
thể hiện những giá trị truyền thống của dân tộc hòa quyện làm một với những tinh hoa
của thế giới hiện đại. Nền văn hóa phát triển trên cơ sở một mặt bằng dân trí cao và
một nền khoa học công nghệ đủ sức giải quyết các vấn đề của cuộc sống, đáp ứng
những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng lên của quảng đại quần chúng
nhân dân.
- Nền văn hóa tiên tiến phải là một nền văn hóa thấm nhuần những tư tưởng
yêu nước và tiến bộ, mà cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lênin, là lý tưởng độc lập dân tộc
và Chủ nghĩa xã hội, là mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển
phong phú, toàn diện của con người.
- Nền văn hóa tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức
biểu hiện, trong phương thức, phương tiện chuyển tải nội dung.
- Nền văn hóa tiên tiến nhất thiết phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Nói dân tộc là nói văn hóa, cũng như nói văn hóa không được quên cội nguồn dân tộc.
2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Việc xây dựng nền văn hóa xã hội Chủ nghĩa được đặt ra một cách tất yếu, xuất
phát từ những căn cứ sau:
- Thứ nhất, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là cần thiết và tất yếu để
thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho nó phù hợp với phương thức sản
xuất mới xét về mặt kinh tế đã hình thành. Chủ nghĩa xã hội hình thành với tư cách là
một chế độ xã hội kiểu mới không chỉ dựa trên những tiền đề hiện thực về kinh tế và
chính trị mà còn là tiền đề văn hóa. Cách mạng văn hóa bao hàm trong nó cả những cải
biến cách mạng về tư tưởng và hệ tư tưởng, có nhiệm vụ giải quyết trực tiếp tiền đề
văn hóa đó.
- Thứ hai, xây dựng nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải
tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của xã hội cũ để lại, thanh toán triệt để những
tư tưởng lạc hậu, lỗi thời, phản động của giai cấp thống trị cũ đã hằn sâu trong tư
tưởng và ý thức các tầng lớp nhân dân, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực có trong
những di sản truyền thống và phong tục, tập quán và lối sống.
- Thứ ba, xây dựng nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình
khắc phục tình trạng thiếu thốn văn hóa. Theo V.I.Lênin, sự thiếu thốn này là trở ngại
lớn nhất đối với những người xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi họ đã giành được
chính quyền.
V.I.Lênin viết: “Về mặt kinh tế và chính trị, chính sách kinh tế mới hoàn toàn
đảm bảo cho chúng ta có khả năng xây dựng được nền móng cho nền kinh tế Xã hội
chủ nghĩa. Tất cả chỉ là tùy ở lực lượng văn hóa của giai cấp vô sản và của đội tiền
phong của nó” (V.I.Lênin toàn tập, Tập 45, tr.74)

Vũ Văn Thành 0932008296


157
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Thứ tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu
khách quan: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh te - xã hội phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì
một xã hội công bằng dân chủ văn minh, vì sự phát triển tự do, toàn diện của con
người. Điều đó cho thấy văn hóa là kết quả của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng
đồng thời các nhân tố văn hóa cũng luôn luôn gắn bó với đời sống kinh tế – xã hội và
trở thành động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 (Khóa VIII) của Đảng ta nêu rõ: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế – xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội.
Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự
phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục
tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa
là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn
hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện
chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỉ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của phát triển”.
3. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
a. Những nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Một là, cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của
xã hội mới.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác, sáng tạo của
quần chúng nhân dân. Do đó, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới
trở thành nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nâng cao trí tuệ vừa là
nhu cầu cấp bách, vừa là nhu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao dân trí trở thành một điều kiện chủ quan tiếp nhận, kế thừa tri thức mà nhân
loại đã có được để xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao dân trí gắn liền với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, hình thành đội ngũ
trí thức mới. Muốn vậy, cần hình thành trong các thế hệ thanh niên, đặc biệt là trong
các thế hệ sinh viên một hệ thống tri thức hiện đại, một tâm hồn thấm đượm giá trị văn
hóa dân tộc.
- Hai là, xây dựng con người phát triển toàn diện với đạo đức và lối sống văn
hóa lành mạnh làm cho nguồn lực con người và nền văn hóa mới, thực sự là động lực
phát triển và mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội
Nhiệm vụ này được đặt ra như là sự phản ánh kết quả tổng hợp của toàn bộ quá
trình giáo dục văn hóa, xây dựng và phát triển văn hóa trong Chủ nghĩa xã hội.
Đây chính là tính hướng đích của cách mạng tư tưởng và văn hóa phù hợp với
bản chất và mục tiêu của Chủ nghĩ a xã hội.

Vũ Văn Thành 0932008296


158
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Con người Xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của xã hội mới được biểu hiện phổ biến
trong quần chúng lao động: công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, học sinh,
sinh viên. Đó là thế hệ những người được rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách
mạng, là những người lao động đã trưởng thành, là các thế hệ trẻ kế tiếp. C.Mác từng
nói: tương lai của Chủ nghĩa cộng sản như thế nào, điều đó tùy thuộc vào việc giáo dục
thế hệ trẻ đang lớn lên của giai cấp công nhân.
Những con người Xã hội chủ nghĩa đó thể hiện một mẫu nhân cách mới: sống
có lý tưởng, sống có trách nhiệm với công việc, với xã hội, với mọi người và với chính
mình. Họ phải là những con người có học thức, có niềm tin khoa học, có năng lực hoạt
động sáng tạo, làm việc với tính tổ chức, tính kỷ luật cao, đấu tranh cho lẽ phải, chân
lý, cho sự công bằng, bình đẳng và dân chủ. Đó là những con người có sự phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, sự phong phú về đời sống tinh thần.
Những con người và lối sống mới Xã hội chủ nghĩa đó là sự thể hiện trình độ
phát triển văn hóa cao của cá nhân và cộng đồng.
Đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh của xã hội vừa được biểu hiện ở đời sống
văn hóa cá nhân, đời sống văn hóa gia đình lại vừa thúc đẩy mỗi cá nhân trở thành một
nhân cách văn hóa, vừa tạo dựng các gia đình – những tế bào của xã hội thành các gia
đình văn hóa. Như thế, đời sống văn hóa tinh thần của Chủ nghĩa xã hội vừa như một
môi trường xã hội với chất lượng cao về đạo đức, văn hóa và lối sống, lại vừa đồng
thời là sự tổng hợp phong phú các hoạt động văn hóa của xã hội hướng vào sự phát
triển cá nhân và cộng đồng nhằm tạo ra văn hóa nhân cách của cá nhân, văn hóa gia
đình và văn hóa của xã hội. Chất lượng sáng tạo, cảm thụ văn hóa, giao tiếp văn hóa
được tạo ra từ đó, như điều mà V.I.Lênin đã nói: phải làm cho những người lao động
có thể thực sự hưởng được tất cả những phúc lợi của nền văn hóa, văn minh và dân
chủ.
- Ba là, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa
Lối sống là biểu hiện sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau, là
tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần
của con người; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh te - xã hội và có tác động
đến hình thái kinh tế xã hội đó. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính
nguyên tắc của xã hội xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành
một nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa
+ Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng
đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại
và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.
+ Gia đình là một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù
Nếu như văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra, nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình thì gia đình chính là
Vũ Văn Thành 0932008296
159
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù. Tính chất, bản sắc của gia đình được duy trì, bảo
tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mỗi thành viên gia
đình trong sự tương tác, gắn bó với văn hóa cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp và
tầng lớp của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc.
+ Khái niệm gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa
Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là gia đình hình thành trong quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là
sản phẩm của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
Luật hôn nhân – gia đình ngày càng hoàn thiện là cơ sở pháp lý để thực hiện
chế độ hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, một vợ, một chồng, xây dựng gia đình bình
đẳng, dân chủ, hòa thuận, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc, bền vững.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo đem lại nhiều cơ hội, điều kiện phát huy đầy đủ
khả năng của mỗi công dân, mỗi gia đình, nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn
của mỗi thành viên, góp phần xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm góp
phần xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ
giữa gia đình và xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình hòa thuận hạnh
phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định, lành mạnh của xã hội. Ngược lại,
xã hội phát triển ổn định, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho gia đình ấm no, hạnh phúc.
Hơn nữa, xét về mối quan hệ lợi ích thì trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của gia đình và
lợi ích của xã hội về cơ bản là phù hợp.
Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát
triển trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ nhũng
yếu tố lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tư bản chủ
nghĩa, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.
Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là gia đình tiến bộ, đánh dấu bước phát triển
của các hình thức gia đình trong lịch sử nhân loại. Xây dựng gia đình văn hóa xã hội
chủ nghĩa đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội. Con người mới của xã hội mới khi tạo
dựng cho hạnh phúc gia đình cũng là góp phần cho sự phát triển của xã hội. Với ý
nghĩa đó, việc xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa trở thành một nội dung
quan trọng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; là sự thể hiện tính ưu việt của nền văn
hóa ấy so với các nền văn hóa trước đó.
Có nhiều nội dung quan trọng cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng gia
đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, nhưng việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội là nội dung quan trọng nhất. Mối quan
hệ trong gia đình là một bộ phận của quan hệ xã hội đồng thời là biểu hiện của quan hệ
xã hội. Phải tạo dựng mối quan hệ vợ chồng bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau về
mọi mặt. Bình đẳng, thương yêu, tôn trọng nhau là những yếu tố gắn bó mật thiết với
nhau trong quan hệ vợ chồng. Mối quan hệ giửa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em

Vũ Văn Thành 0932008296


160
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

trong gia đình là mối quan hệ huyết thống, tình cảm của tình thương yêu và trách
nhiệm.
Chủ nghĩa xã hội luôn luôn tạo điều kiện vật chất và tinh thần tốt nhất trong
điều kiện có thể để mọi gia đình ấm no hạnh phúc và cũng đòi hỏi gia đình cung cấp
cho xã hội những người công dân có sức khỏe tốt, có trí tuệ phát triển. Tạo dựng được
mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội là
yếu tố cơ bản để xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho
gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi con người, góp phần
trực tiếp xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới.
b. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp
công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản và
Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội.
- Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa. Đây là vấn đề có
tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối chính sách văn hóa
của mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật,
chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm,
chủ trương của Đảng cộng sản.
- Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết
hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với việc tiếp thu có chọn
lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại. V.I.Lênin viết: Văn hóa vô sản là sự phát
triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được,” đó là
con đường đang và sẽ tiếp tục đưa văn hóa vô sản, cũng như chính trị-kinh tế học do
Mác hoàn chỉnh lại”.
- Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng
tạo văn hóa. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn
hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, Đảng cộng
sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn
đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
1. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc
a. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc
- Khái niệm dân tộc

Vũ Văn Thành 0932008296


161
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.
Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp
đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập và thay thế vai trò của phương thức sản xuất phong kiến.
Ở một số nước phương Đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc thù, đặc
biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình
thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó
có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
+Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt
kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc,
bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể
hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
+Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và ý thức về sự thống nhất
quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa
và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ
nước.
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, với nghĩa thứ hai, dân
tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc. Dưới giác độ môn học chủ
nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Tuy nhiên, chỉ khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mối liên hệ với nghĩa thứ
hai thì sắc thái nội dung của nó mới bộc lộ đầy đủ.
- Các đặc trưng cơ bản của dân tộc
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất
của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của
dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
+ Cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc cư trú đan xen
với nhiều dân tộc anh em.
+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của
quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Có nét tâm lý riêng (tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân
tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả
cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng
trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời
mỗi đặc trưng có một vị trí xác định.

Vũ Văn Thành 0932008296


162
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo, xây dựng từng
bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khoa học.
b. Hai xu hướng phát triển của các dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân
tộc.
- Xu hướng thứ nhất: Do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các
cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Trong thực
tế xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành
lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
- Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác dụng nổi bật
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm
xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ
quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp
rất nhiều khó khăn, trở ngại. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự
nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên
hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm áp bức, bóc lột các dân tộc
còn nghèo nàn, lạc hậu.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin phát hiện đang
phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa
dạng.
* Xét trên phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng
thứ nhất biểu hiện trong sự nổ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh
của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân
tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao
hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ
sung hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và
đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng
giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng trên đều loại trừ các tư tưởng và hành
vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti dân tộc, dân tộc hẹp hòi, xung đột dân tộc.
* Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội,
khi tình trạng áp bức giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng
áp bức dân tộc cũng sẽ bị xóa bỏ. Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công
Vũ Văn Thành 0932008296
163
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

nhân trở thành giai cấp cầm quyền, tạo tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đồng thời cũng mở ra quá trình hình thành và phát triển của dân tộc xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi sự cải tạo, xây dựng từng
bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ xã hội, quan hệ dân tộc theo các nguyên
lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời
từ kết quả toàn diện trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, tư tưởng.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc trong thời
đại ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi
với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” là
nguyên tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.( Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 8 của Đảng,1996,tr.84 )
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có
ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một
trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng,
tan rã của một quốc gia dân tộc.
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và
chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản
và trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc giải quyết
vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa
các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội.
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào sự
tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga;
phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ: “Các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
lại”.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và
chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp
bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế.

Vũ Văn Thành 0932008296


164
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các
dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế
thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nhà nước tư bản phát triển đối với các
nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc
tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân
tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của
dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành
lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ
và lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với
các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ
xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp
với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng
chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ
các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa (sôvanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến
bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân
tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó
bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình
đẳng dân tộc. Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
2. Vấn đề tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo
Vũ Văn Thành 0932008296
165
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

a. Khái niệm tôn giáo


Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh
của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực
lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phán ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. C. Mác
và Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử; một
lực lượng xã hội, trần thế”.(C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập-1994, tập 20, tr.437)
Tôn giáo có nguồn gốc từ sự bất lực và sự sợ hãi của con ngưòi trước sức mạnh
của giới tự nhiên. Ngoài ra trong xã hội có giai cấp, tôn giáo còn bắt nguồn từ sự áp bức
bóc lột giai cấp.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Theo C. Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn
hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống
như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” ( Sđd, tập 1,tr.570)
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý
của con người. Trong hệ thống những lời răn dạy của giáo lý tôn giáo cũng có những
điều góp phần hướng con người đến những việc thiện, tránh điều ác.
b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa
- Nguyên nhân nhận thức: Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to
lớn về khoa học và công nghệ, giúp con người có thêm khả năng để nhận thức xã hội
và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan còn nhiều vấn đề khoa học chưa thể
làm rõ. Do đó, tâm lý sợ hãi, trông chờ và tin tưởng vào thần, thánh, phật… chưa thể
gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín
ngưỡng, tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, lối sống của một bộ phận nhân dân
qua nhiều thế hệ, trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của
cuộc sống. Mặc dù, xã hội đã có những biến đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội…
nhưng tín ngưỡng, tôn giáo không thay đổi kịp tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã
hội mà nó phản ánh.
- Nguyên nhân chính trị – xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo, có những điểm
còn phù hợp với Chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước Xã hội chủ

Vũ Văn Thành 0932008296


166
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

nghĩa, đáp ứng được yêu cầu tinh thần của bộ phận nhân dân. Vì vậy tôn giáo vẫn tồn
tại trong Chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức, các thế lực chính
trị vẫn lợi dụng tôn giáo để thực hiện cho mưu đồ chính trị của mình. Cùng với nỗi lo
sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong Chủ nghĩa xã hội nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ
quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai
tầng xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, con người còn chịu tác
động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó làm cho con người có tâm lý thụ
động, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở
một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý
thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát
huy văn hóa (có chọn lọc) của nhân loại trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết.
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy việc giải
quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những
quan điểm sau:
- Một là: Chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội Xã hội chủ
nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan
và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống tín điều và giáo lý của
mình, tôn giáo phần nào làm hạn chế khả năng vươn lên làm chủ của con người. Vì
vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải
gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan
của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
- Hai là: Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công
dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của
tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức, chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước.
Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân.
- Ba là: Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo
một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn
giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao mức sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín
ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với Chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không

Vũ Văn Thành 0932008296


167
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật
cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo.
- Bốn là: Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là nhiệm
vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi
dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội
của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị trong
lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời
chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo
chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, xây
dựng xã hội mới. Giải quyết vấn đề này phải khẩn trương, kiên quyết, vừa thận trọng
vừa có sách lược đúng đắn.
- Năm là: Phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân
về các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng khác nhau. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch
sử- cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề liên quan đến tôn
giáo.

Vũ Văn Thành 0932008296


168
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Chương IX
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC


1. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu
tiên trên thế giới
a. Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã
hội khoa học, phân tích và tổng kết các sự kiện lịch sử diễn ra trong đời sống kinh tế –
xã hội của hoàn cảnh lịch sử mới, V.I.Lênin đã từng bước lãnh đạo Đảng của giai cấp
công nhân nước Nga tập hợp lực lượng đấu tranh chống chế độ chuyên chế Nga
hoàng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 7 tháng 11 năm 1917 ( theo lịch
hiện nay là ngày 25 tháng 10) . Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu
tiên trong lịch sử, Nhà nước Xô Viết do V.I.Lênin đứng đầu đã ra đời trong “ mười
ngày rung chuyển thế giới ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định:” Giống như mặt
trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng
triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc
cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.( Hồ Chí Minh: Toàn tập-2000,
Tập 12, tr. 300)
b. Ý nghĩa lịch sử từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
- Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã chứng minh những dự báo thiên tài
của Các Mác và Ph.Angghen về sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế – xã hội Cộng
sản chủ nghĩa.
- Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới:
“Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt bỏ hình thức
cuối cùng của chế độ nô lệ: chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nô lệ làm thuê. Thoát khỏi
được chế độ nô lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào chế độ tự do chân chính”.
( V.I.Lênin:Toàn tập-1978, tập 38, tr.364 )
- Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười là cột mốc đánh dấu sự mở đầu một
thời đại lịch sử mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới.
- Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã cỗ vũ hàng loạt các nước đứng lên đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, xóa bỏ tàn tích của chế độ thực
dân phong kiến. Nhiều nước trong số đó đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành hệ thống trên thế
giới.
c. Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới
Sau cách mạng Tháng Mười, đặc biệt là sau khi Liên bang cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) ra đời đã xây dựng một mô hình tổ chức xã hội dựa
Vũ Văn Thành 0932008296
169
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

trên thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, người ta gọi là “mô hình Xô
Viết”.
- Điều kiện kinh tế-xã hội ở Liên Xô lúc này cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền
kinh tế vốn lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ nhất, sau đó là
nội chiến, tiếp đó là chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc và bị bao vây cấm vận
về kinh tế.
- Từ năm 1918 đến mùa xuân 1921 để bảo đảm cung cấp lương thực cho quân
đội, cho tiền tuyến, cho nhân dân thành thị trong điều kiện lương thực cực kỳ khan
hiếm, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã đề ra chính sách cộng sản thời
chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản
độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác.
- Tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc, tại Đại hội X Đảng Cộng sản
Nga với việc đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều
kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước
là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Sở dĩ chủ nghĩa tư bản nhà nước
dưới điều kiện chuyên chính vô sản có ý nghĩa quan trọng và tác dụng to lớn như vậy
vì theo V.I.Lênin, đó là một thứ chủ nghĩa tư bản có liên quan với nhà nước. Nhà nước
đó là nhà nước của giai cấp vô sản, đội tiên phong của chúng ta. Thông qua việc sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có
chọn lọc tất cả những tài sản vật chất-kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm
sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học- kỹ thuật và trình
độ khoa học quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản.
- Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một trong những phương thức
phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh
lực lương sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà kết quả căn bản của sự xã hội hóa này là
thể hiện ở việc phát triển ngày càng mạnh mẽ một nền sản xuất hàng hóa quá độ xã
hội chủ nghĩa, giai đoạn trung gian của nền sản xuất hảng hóa xã hội chủ nghĩa trong
tương lai.
- Sau khi V.I.Lênin mất, đường lối đúng đắn này đã không được thực hiện đầy
đủ. Hơn nữa, đường lối đó thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu
những năm 30 ( TKXX) nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ.
Trong điều kiện như vậy, để nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc
công nghiệp, nhà nước Xô Viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập
trung cao, một cơ chế có thể thực hiện được khi chính quyền đã thuộc về giai cầp công
nhân và nhân dân lao động. Thực tế Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp
công nghiệp hóa với thời gian chưa đầy 20 năm, mà trong hai thập kỷ ấy, đã mất quá
nửa thời gian nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến
tranh. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể cho phép phát huy cao độ tinh thần anh
dũng hy sinh của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, mới có thể thực hiện những kỳ
tích như vậy. Không thể phủ nhận vai trò to lớn có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu
tiên này của chủ nghĩa xã hội.
Vũ Văn Thành 0932008296
170
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

2. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những thành tựu
a. Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 Nga năm 1917 và đặc
biệt là từ năm 1922, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô)
ra đời đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản
lên Chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Năm 1924 cách mạng xã hội chủ nghĩa thành
công ở Mông Cổ, ra đời nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa thứ hai trên thế giới.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời ở
Đông Au (Anbani, BaLan, Bungari, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggary, Nam Tư,
Rumani, TiệpKhắc), ở Việt Nam (9/1945), ở Triều Tiên (9/1948) và ở Trung Quốc
(10/1949), Cu Ba (1/1959). Chủ nghĩa xã hội đã phát triển thành một hệ thống trên thế
giới, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật,
trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ trên thế
giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của các thế lực phản động quốc tế. Hội nghị 81 Đảng
cộng sản và công nhân của các nước trên thế giới ( tháng 11 năm 1960 tại Matxcơva,
Liên Xô) đã khẳng định:” Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài
người”( Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Matxcơva, 1960, NXB Sự thật,
Hà Nội, 1961)
b. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Trong quá trình hình thành phát triển, hơn 70 năm qua, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử trọng đại:
- Đã xây dựng được một hệ thống giá trị riêng của mình, đã phát triển lực lượng
sản xuất và nâng cao trình độ sản xuất gấp nhiều lần so với trước cách mạng:
ê Trước năm 1917, Nga là nước tư bản trung bình, đúng thứ 5 thế giới về sản xuất
công nghiệp. Sau 20 năm cách mạng (1937) tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô
vươn lên đứng đầu Châu Au và thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Mỹ.
ê Từ năm 1961 – 1970, GDP của Liên Xô tăng bình quân 8,5% /năm. Tính đến
năm 1960, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới gồm 13 nước, với dân số 1 tỷ
người (toàn thế giới là 3 tỷ người), GDP của các nước xã hội chủ nghĩa chiếm
khoảng 1/3 của thế giới.
ê Năm 1985: tổng sản phẩm của Mỹ: 4.166,8 tỉ USD; Liên Xô: 2.234,78 tỉ USD;
Nhật: 1.958,5 tỉ USD.
- Đã xóa bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người.
- Đã thực hiện một chế độ phúc lợi xã hội và giáo dục, văn hóa, y tế … cho toàn
dân. Trước cách mạng tháng Mười, ¾ nhân dân Nga mù chữ, chỉ sau 20 năm,
nạn mù chữ đã xóa xong. Cuối năm 1980, Liên Xô là một trong những nước có
trình độ học vấn cao nhất thế giới( 164 triệu người có trình độ trung học và đại
học, số lượng các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực đứng vào hàng đầu thế giới)

Vũ Văn Thành 0932008296


171
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Đã đi đầu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ:


ê 1957: Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới.
ê 1961: Phóng con tàu vũ trụ đầu tiên có người điều khiển.
ê 1986: Chế tạo trạm không gian đầu tiên trên vũ trụ.
- Liên Xô đã cứu loài người khỏi thảm họa phát xít, đã góp phần đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh hạt nhân.
- Đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng trên thế giới, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội: Các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần làm phát triển mạnh mẽ
phong trào giải phóng dân tộc. Năm 1919, các nước thuộc địa chiếm 72% diện tích
và 70% dân số thế giới, tới nay chỉ còn 0,7% diện tích và 5,3% dân số thế giới.
Hàng trăm nước đã giành được độc lập. Trên một trăm nước tham gia vào phong
trào không liên kết. Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được sự cổ
vũ của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ,
công bằng xã hội… Các nhà nước tư sản ở các nước này đã phải nhượng bộ và
chấp nhận nhiều yêu sách của người lao động.
Những thành tựu đó nói lên tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội, đã ăn sâu bén rễ
trong xã hội, không thể phủ định.
II. SỰ KHỦNG HOẢNG, SỤP ĐỔ CỦA MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI XÔ
VIẾT VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ
1. Sự khủng hoang và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết
Trong quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện thực theo “mô
hình Xô Viết” đã trải qua con đường không bằng phẳng, bên cạnh những thành tựu và
sáng tạo cũng có những vấp váp và mắc phải không ít những sai lầm. Những sai lầm
ấy chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã làm cho các nước Xã hội chủ nghĩa
lâm vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng xuất hiện những năm 80 của TK XX. Lúc
đầu diễn ra trong kinh tế, sản xuất đình đốn, người lao động chán nản, từ đó dẫn đến
xáo trộn về chính trị, xã hội.
- Bắt đầu ở Ba Lan, công nhân đình công năm 1987, thành lập công đoàn đoàn
kết, trở thành đảng đối lập ở Ba Lan.
- 9/11/1989: Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức( Đông Đức) tuyên bố giải tỏa bức
tường Béclin, giải tỏa biên giới giữa Đông và Tây Đức.
- 2/12/1989: Cuộc gặp không chính thức Xô – Mỹ, tuyên bố chấm dứt “chiến
tranh lạnh”.
- 3/12/1989: Ủy ban trung ương Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức từ chức
tập thể.
- 21/12/1989: Chính quyền ở Rumani bị lật đổ bằng bạo lực, tổng bí thư Đảng
Xe-au-xê-xcu( Ceaucescu) bị tử hình.

Vũ Văn Thành 0932008296


172
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- 29/12/1989: Haven (đứng đầu phe đối lập) lên làm tổng thống Tiệp Khắc.
- 15/1/1990: Đảng công nhân thống nhất BaLan chấm dứt hoạt động.
- 5/2/1990: Liên Xô chấp nhận đa đảng.
- 27/2/1990: Liên Xô thực hiện chế độ tổng thống theo thể chế chính trị phương
Tây.
- Sau chính biến ngày 19/8/1991: Goócbachốp từ chức, tuyên bố giải thể Đảng
Cộng sản. Liên Xô tan rã.
2. Nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã
hội Xô Viết
a. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội Xô Viết
Bên cạnh những thành tựu to lớn, mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết cũng có
những sai lầm, khuyết tật có tính nguyên tắc mà chủ yếu là:
u Xây dựng một xã hội trên nền tảng gần như duy nhất chỉ có hai thành phần
kinh tế (Quốc doanh và tập thể), không chấp nhận sự tồn tại khách quan của
các thành phần kinh tế khác, không chấp nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, trong khi lực lượng sản xuất còn thấp kém đã làm kìm hãm nhiều
động lực để phát triển kinh tế.
v Trong quản lý, áp dụng chế độ tập trung, quan liêu, bao cấp và phân phối bình
quân đã làm cho các đơn vị sản xuất thụ động, người lao động ỷ lại, khiến nền
kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ.
w Thực hiện công nghiệp hóa theo kiểu cổ truyền của thời kỳ tiền tư bản chủ
nghĩa, lãng phí mà không hiệu quả. Trong khi ở các nước tư bản phát triển,
giai cấp tư sản đã nhạy bén áp dụng những thành tựu cách mạng khoa học –
công nghệ vào sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Điều này
làm cho khoảng cách phát triển kinh tế và năng suất lao động từ năm 1973 ở
các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng thụt lùi so với một số nước tư bản phát
triển.
x Xây dựng một nền dân chủ nặng về hình thức, chưa đảm bảo cho nhân dân lao
động thực sự làm chủ mọi mặt của đời sống xã hội.
- Về mặt xã hội, đã không chú ý thích đáng đến việc xây dựng con người theo
hướng phát huy nhân tố con người, phát huy tính năng động sáng tạo của nhân dân xây
dựng xã hội mới:
+ Đã tuyệt đối hóa mặt xã hội của con người, cường điệu tính cộng đồng, tính
tập thể làm cho vai trò cá nhân bị lu mờ, không quan tâm đúng mức tới nhu
cầu vật chất, chưa thực sự chú ý đến lợi ích cá nhân người lao động; có lúc, có
nơi đã đồng nhất lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân.
+ Đã đề cao quá mức tính giai cấp, tính quốc tế coi nhẹ tính nhân loại, không
chú ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc.
Vũ Văn Thành 0932008296
173
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Những thiếu sót này đã làm cho nhiều thế hệ người sống trong xã hội mới lâm
vào tình trạng thụ động, ỉ lại, xuôi chiều.
Tất cả những sai lầm nêu trên đã hạn chế tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng, chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng toàn diện, buộc các nước phải cải tô,
cải cách, đổi mới. Trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới, nhiều Đảng Cộng sản lại
mắc phải những sai lầm mang tính chất nguyên tắc. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực
thù địch ở bên ngoài, kết hợp với những kẻ phản bội ở bên trong đã tấn công làm sụp
đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Au và Liên Xô.
b. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp
Nếu nói khái quát về nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đo của chủ nghĩa
xã hội hiện thực vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90(Thế kỷ XX) thì
có thể nêu lên 3 nguyên nhân:
ê Thứ nhất, do sai lầm chủ quan của các Đảng Cộng sản ở các nước Xã hội chủ
nghĩa.
ê Thứ hai, do sự phản bội của các phần tử cơ hội trong các cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng và Nhà nước.
ê Thứ ba, do sự tiến công điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch cả trong và ngoài nước.
Trong ba nguyên nhân nêu trên thì nguyên nhân chủ yếu là do sai lầm chủ quan
của các Đảng Cộng sản, đã nhận thức và vận dụng không đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào thực tiễn cuộc sống, đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, không tôn trọng
quy luật khách quan của cuộc sống. (đã phân tích ở phần trên).
“Sự thật cay đắng là Đảng Cộng sản Liên Xô đã rời khỏi vũ đài chính trị, trước
hết bởi vì Đảng đã tách rời cơ sở xã hội của mình là giai cấp công nhân và những
người lao động và không còn đại diện cho lợi ích của họ.”(Báo sự thật, Nga, bài viết
của B.Xlavin: Vượt qua những trở ngại của sự tự lừa dối).
“Sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô là hậu quả của sự sụp đổ của mô hình
Chủ nghĩa xã hội nhà nước quan liêu được xây dựng ở nước ta vào cuối những năm
1920 và cuối cùng đã không vượt qua được sự cạnh tranh với các nước tư bản phát
triển về năng suất lao động cũng như mức sống nhân dân. Đặc biệt điều này trở nên
dễ thấy trong những điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật ”.( Báo sự
thật, Nga, Sđd).
Về nguyên nhân thứ hai do sự phản bội của các phần tử cơ hội trong cơ quan lãnh
đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Trong sự sụp đổ của Liên Xô, đó là kết quả trực
tiếp của sự phản bội của Goóc-ba-chốp. Goóc-ba-chốp đã thực hiện đường lối hữu
khuynh, cơ hội và xét lại từ sau Đại hội 29 của Đảng Cộng sản Liên Xô (1988):
- Đề xướng tính “công khai” phủ định những thành tựu của Chủ nghĩa xã hội
hiện thực.
- Thực hành “dân chủ hóa”, tiếp tay cho bọn vô chính phủ và bạo loạn xã hội.
Vũ Văn Thành 0932008296
174
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Hô hào “thuyết đa nguyên”, phủ định những nguyên lý về chuyên chính vô sản
của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Chủ trương “cải tổ tận gốc” thể chế chính trị, áp đặt thể chế chính trị phương
Tây.
- Thực hiện “cải tổ triệt để” đối với Đảng, từng bước làm tan rã Đảng Cộng sản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, không căn cứ vào vai trò nổi bật của cá
nhân mà rút ra kết luận sai lầm “anh hùng làm nên lịch sử” nhưng cũng thừa nhận
rằng, nhà lãnh đạo cá biệt có thể đóng vai trò quan trọng trong thời khắc lịch sử. Goóc-
ba-chốp suốt đời coi Đảng Cộng sản và Chủ nghĩa xã hội là đối tượng đả kích, từng
bước làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và làm sụp đổ Chủ nghĩa xã hội.
Năm 1999, trong buổi diễn giảng tại trường Đại học An-ka-ra (Thổ Nhĩ Kỳ)
ông ta nói: “Mục đích đời tôi là tiêu diệt Chủ nghĩa cộng sản độc tài thống trị nhân
dân”. Điều đó lộ rõ ý đồ cải tổ của bản thân ông ta.
(Trích trong bài “Hội thảo khoa học Chủ nghĩa xã hội thế giới bước vào thế kỷ
21” của Phòng nghiên cứu Mác-Lênin thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc tổ
chức ngày 19 š 21/12/2000 tại Bắc Kinh)
Về nguyên nhân thứ ba, do sự tiến công điên cuồng của Chủ nghĩa đế quốc
(Bao vây, cấm vận, gây sức ép về kinh tế, chính trị và quân sự, thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình”).
Không thể phủ nhận vai trò sức ép của Phương Tây trong toàn bộ lịch sử của
nhà nước Xô Viết và các nước xã hội Chủ nghĩa khác, nhưng không một sức ép bên
ngoài nào có thể đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống đó, nếu trong
lòng hệ thống xã hội chủ nghĩa không có những sai lầm, khuyết tật dẫn đến sự sụp đổ
của nó. Cho nên đây là một nguyên nhân quan trọng nhưng không quyết định.
III. TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
a. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi
Chủ nghĩa tư bản hiện đại từ những năm 60 của thế kỷ XX đã tiến hành những
bước điều chỉnh để thích nghi, trước mắt hiện đang còn có tiềm năng phát triển kinh tế
nhờ ứng dụng được những thành tựu mới của khoa học – công nghệ, cải tiến phương
pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách
xã hội. Tuy vậy, Chủ nghĩa tư bản trước đây và hiện nay vẫn không hề thay đổi về bản
chất. Xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn là một chế độ áp bức bóc lột, đầy dẫy những bất
công (Thế giới ngày nay vẫn có đến 1,2 tỷ người phải chịu nghèo đói, bệnh tật, mù
chữ, chiến tranh, hưởng mức thu nhập dưới 1 USD/ ngày; 2,5 tỷ người nghèo có tổng
thu nhập chỉ bằng thu nhập của 250 tỷ phú giàu nhất thế giới gộp lại; 1/3 lực lượng lao
động toàn thế giới, tức là khoảng 1 tỷ người bị thất nghiệp ở các mức khác nhau; tại
hơn 100 nước đang hoặc kém phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người giảm đi so

Vũ Văn Thành 0932008296


175
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

với thập niên trước, hàng ngày có đến 30.000 trẻ em chết bệnh mà lẽ ra có thể được
cứu sống; số người mù chữ lên đến hơn 800 triệu người).
Mâu thuẫn cơ bản, vốn có của nó, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất diễn ra ngày càng sâu sắc. Về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn giữa 2 giai cấp cơ bản
trong xã hội (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản) diễn ra dưới những hình thức và
nội dung mới không kém phần quyết liệt.
Mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các
trung tâm tư bản lớn (Mỹ – Tây Au – Nhật Bản) tiếp tục phát triển. Chính sự vận động
của các mâu thuẫn nội tại nói trên và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các dân
tộc trong hệ thống các nước tư bản sẽ quyết định số phận của Chủ nghĩa tư bản.
b. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng xã hội tư bản
Sự phát triển của quá trình xã hội hóa, đặc biệt là ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản
hiện đại gắn liền với sự phát triển các nhân tố phủ định các quan hệ kinh tế xã hội,
chính trị đang trở nên lỗi thời của chủ nghĩa tư bản. Quá trình xã hội hóa đã tạo ra
những tiền đề vật chất đầy đủ cho sự ra đời của xã hội mới. Sự chuẩn bị tiền đề vật
chất đó được thể hiện ở hai mặt: Kỹ thuật hiện đại và hình thức tổ chức xã hội mới đối
với nền sản xuất.
Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ
những năm qua đã và đang kéo theo sự biến đổi có tính chất cách mạng của cơ cấu
kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, đang mở ra một giai đoạn quá độ từ văn minh công
nghiệp lên nền văn minh mới trong lịch sử phát triển của loài người; đang hình thành
một lực lượng sản xuất xã hội hoàn toàn mới có năng suất và chất lượng cao hơn nhiều
so với đại công nghiệp cơ khí – vốn là cơ sở kỹ thuật đã xác định nền văn minh công
nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Lực lượng sản xuất mới đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất
mới ra đời. Do đó, quan hệ sản xuất mới, chế độ xã hội mới – chế độ cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội sẽ ra đời thay thế cho chế độ tư bản chủ
nghĩa.
c. Tính đa dạng của các xu hướng phát triển của thế giới đương đại
Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc cách mạng Khoa học – Công
nghệ đang phát triển như vũ bão. Bộ mặt của thế giới thay đổi từng ngày, từng giờ
dưới tác động của cách mạng Khoa học – Công nghệ. Trên thế giới có sự bùng nổ
mạnh mẽ về thông tin, góp phần thức tỉnh các dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự
chủ, tự cường. Do đó, các dân tộc có bước đi đa dạng, có quyền lựa chọn con đường
phát triển để phù hợp với đặc điểm cụ thể của dân tộc mình.
2. Chủ nghĩa xã hội, tương lai của xã hội loài người
a. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự
cáo chung của chủ nghĩa xã hội
Để làm rõ vấn đề này ta cần lưu ý 3 điểm:

Vũ Văn Thành 0932008296


176
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

-Thứ nhất, mô hình Chủ nghĩa xã hội theo kiểu Xô Viết lâm vào khủng hoảng
là hiện tượng có thể xảy ra, nhưng không tất yếu dẫn đến sự sụp đổ. Vấn đề quyết định
là đường lối cải tổ, cải cách có đúng hay không.
-Thứ hai, sự sụp đổ của các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Au và Liên Xô không
phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới nói chung. Chủ nghĩa xã
hội vẫn tồn tại và phát triển ở các nước đã đứng vững trong cơn thử thách vừa qua (Trung
Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cu Ba, Lào với hơn 1,4 tỷ người).
-Thứ ba, sự sụp đổ của các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Au và Liên Xô
không bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, từ những nguyên lý của Chủ
nghĩa Mác-Lênin. Đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình tổ chức xã hội có nhiều điểm
không phù hợp với lý tưởng nhân đạo của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
b. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, đổi mới, đạt được
những thành tựu to lớn
Sau chấn động của sự kiện Liên Xô – Đông Au, những người Cộng sản và lực
lượng xã hội chủ nghĩa trên thế giới đều suy ngẫm và tổng kết bài học kinh nghiệm
của phong trào xã hội chủ nghĩa trước đây, nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
để khôi phục phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại đã tiến hành cải cách, đổi mới để tìm ra mô hình mới của Chủ nghĩa xã hội.
Ở Trung Quốc, thành công lớn nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong
những năm cải cách, mở cửa vừa qua là đã từng bước xây dựng được một mô hình xã
hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc (Dựa trên Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình). Xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa đa sở hữu trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể.
Thành tựu nổi bật nhất của Trung Quốc là trên lĩnh vực kinh tế với tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất thế giới (GDP tăng mỗi năm từ 9 š 10%). Trung Quốc đã trở thành
nền kinh tế lớn thứ 4 trên thế giới (Chỉ sau Mỹ, Nhật, Đức). Chính trị – xã hội ổn
định.
Ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kiên định mục tiêu xã hội
chủ nghĩa.
- Về mặt kinh tế-xã hội: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đa dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối theo lao
động, đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp ;
phát triển đồng bộ các loại thị trường từ hàng hóa đến dịch vụ, thị trường chứng
khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm
nghèo, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Về mặt chính trị-xã hội : Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với những cam kết quốc
tế; giảm dần sự can thiệp vi mô, can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp, gia tăng quản lý vĩ mô, sự phân quyền cho các địa phương; Thực
Vũ Văn Thành 0932008296
177
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

hiện dân chủ, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng
sự giám sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân
các cấp, của các tổ chức xã hội, tinh giảm bộ máy và biên chế…
+ Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng gồm; các hội nghề nghiệp,
văn hóa, tôn giáo, xã hội… các tổ chức này ngày càng có vai trò to lớn trong các
lĩnh vực mà Nhà nước không với tay tới như từ thiện, cứu trợ người nghèo v.v…
+ Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế: Liên
hợp quốc, các tổ chức khu vực, đặc biệt là gia nhập WTO, trở thành những quốc
gia tích cực trong hội nhập ASEAN, APEC.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của Đảng đang được đổi mới theo
hướng khoa học, dân chủ và hiệu quả hơn. Công cuộc đổi mới đất nước đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng, được quốc tế thừa nhận. Tình hình kinh tế –
xã hội có bước chuyển biến tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định con đường đang
đi là đúng.
Các nước xã hội chủ nghĩa khác như Cu Ba, Lào trong công cuộc đổi mới cũng
bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị.
Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, sau khi vượt qua những thử thách gay gắt
của cuộc khủng hoảng, đã ra sức tìm tòi mô hình xã hội chủ nghĩa phù hợp với hoàn
cảnh và đặc điểm của nước mình. Đó cũng là sự đóng góp phát triển để làm phong phú
thêm những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
c. Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia trong thế
giới đương đại
Trong bối cảnh của tình hình thế giới, Chủ nghĩa xã hội khoa học đang đứng
trước những khó khăn và thách thức mới, song điều đó không có nghĩa là lý luận của
Chủ nghĩa xã hội khoa học đã trở nên lạc hậu.
Thực tế lịch sử cho thấy, học thuyết Mác trước kia cũng như hiện nay, càng
trong khó khăn thử thách thì càng tỏ rõ sức sống mới.
Ở các nước tư bản phát triển ngày nay, người ta càng nghiên cứu Mác và Chủ
nghĩa Mác nhiều hơn, vì khi đi sâu nghiên cứu lý luận của Mác, họ đã nhìn thấy được tính
khoa học và tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển của xã hội loài người. (đặc biệt
trong bối cảnh diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính…)
Ở phần lớn các nước trong hệ thống Tư bản chủ nghĩa (trên 100 nước) đang
phát triển hoặc còn ở tình trạng chậm phát triển về kinh tế, đang gặp rất nhiều khó
khăn về kinh tế, như người ta nhận xét “Châu Á nghèo, Châu Phi đói, Châu Mỹ La-
tinh nợ nần chồng chất”. Nhiều nước đang tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, chống áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển. Tại
Châu Mỹ – Latinh, từ 1998 đến nay, các đảng cánh tả tiến bộ đã thắng cử liên tiếp tại
các cuộc bầu cử tổng thống, trở thành đảng cầm quyền tại một số quốc gia ở Trung và

Vũ Văn Thành 0932008296


178
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

Nam Mỹ (Venezuela, Chile, Brazil, Argentina, Panama, Urugoay, Bolivia, Nicaraoa


và Ecuador…).
Tổng thống Venezuela, Hugo Chavez đã tuyên bố nước ông sẽ xây dựng Chủ
nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin và những tư tưởng cách
mạng, tiến bộ của Ximôn Bôlivia, tư tưởng nhân đạo của Thiên Chúa giáo.Về chính
trị, nhấn mạnh tư tưởng dân chủ cách mạng, chính quyền nhân dân, xây dựng nhà
nước pháp quyền, thực hiện công bằng xã hội, mọi người đều có vai trò cho dù đó là
thổ dân…
Về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước và hợp tác xã nắm vai trò chủ đạo; giành lại chủ quyền quốc gia đối với tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch và môi sinh…
Về xã hội, thực hiện phân phối công bằng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng và
phân hóa xã hội…
Về đối ngoại, thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả
các nước lấy hợp tác thay thế cạnh tranh; lấy hội nhập thay cho bóc lột; đấu tranh cho
một thế giới đa cực, dân chủ.
Về cách làm, bước đi: kế thừa những mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô, Đông Âu trước nay; không rập khuôn, sao chép, mà phải thường xuyên đổi mới và
sáng tạo; bên cạnh phát triển kinh tế, coi trọng các giá trị đạo đức, tinh thần; đoàn kết
dân tộc; chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa như CuBa, Việt
Nam, Trung Quốc…
Tổng thống Bolivia E.Morales nói: chủ nghĩa xã hội là ước mơ của các dân tộc
Mỹ Latinh. Chủ nghĩa xã hội này dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, nó phải có sức mạnh
như thế nào để người ta cổ vũ dân tộc họ vươn tới. Các nước Ecuador và Nicaraoa
cũng tuyên bố lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa.
Kết luận
Thành tựu cải cách, đổi mới ở các nước Xã hội chủ nghĩa hiện nay cùng với xu
hướng thiên tả ở Mỹ – Latinh đã chứng minh cho nhận định của Đảng ta tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều
kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới Chủ nghĩa xã hội”.
(Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X-2001, tr.14)
TÀI LIỆU THAM KHẢO TRA CỨU CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
- Diện tích trái đất : 510.000.000 km2
- Diện tích lục địa : 149.000.000 km2
- Diện tích các đại dương : 316.000.000 km2
- Độ cao trung bình của các lục địa : 850 m

Vũ Văn Thành 0932008296


179
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

- Độ cao nhất trên lục địa : 8.848 m


- Độ cao nhỏ nhất trên lục địa : -392 m
- Độ sâu trung bình của các đại dương: :-3.795 m

- Cụ thể của các châu sau đây


CHÂU ÂU
Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày Ngôn ngữ
(km2) (nghìn người) độc lập
1 Ailen 70.283 3.681 17-03(1949) Ailen, Anh
2 Aixơlen 102.819 276 17-06(1944) Aixolen
3 Anbani 28.748 3.119 29-11(1944) Anbani
4 Anđôra 453 72 08-09(1955) Catalan
5 Liên hiệp Anh 244.100 58.649 21-04 Anh
& Bắc Ailen
6 Ao 83.853 8.140 26-10(1955) Đức
7 Balan 312.683 38.718 03-05(1791) Balan
8 Bêlarut 207.600 10.315 03-07(1991) Bêlarut
9 Bỉ 30.519 10.141 21-07 Hà Lan,
Pháp
10 Bồ Đào Nha 92.082 9.869 10-06(1580) Bồ Đào Nha
11 Bôxnia- 51.129 3.675 15-10(1991) Xecbi,
Hêcxêgôvina Crôaxi
12 Bungari 110.910 8.336 03-03(1878) Bungari
13 Crôaxia 56.538 4.481 30-05(1991) Crôaxi
Xechi
14 Đan Mạch 43.069 5.270 16-04 Đan Mạch
15 Liên Bang Đức 357.000 82.133 03-10(1990) Đức
16 Extônia 45.100 1.429 24-02(1990) Extônia
17 Hà Lan 41.548 15.678 30-04-1570 Hà Lan
18 Hy Lạp 131.944 10.600 25-03(1821) Hy Lạp
19 Hunggari 93.032 10.116 20-08(1989) Hungari
20 Italia 301.268 57.369 02-06(1946) Italia
21 Latvia 64.559 2.424 18-11(1918) Latvia
22 Litva 65.200 3.696 06-09(1991) Litva

Vũ Văn Thành 0932008296


180
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

23 Lixtenxtai 160 32 15-18(1966) Đức


24 Lucxembua 2.586 422 23-06(1921) Lecdobuoc
25 Manta 316 284 21-09(1964) Manta
26 Maxêđônia 25.713 2.100 02-08 Maxêđôni
27 Mônacô 2 33 19-11 Pháp
Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày Ngôn ngữ
(km2) (nghìn người) độc lập
28 Mônđôva 33.700 4.378 27-08(1991) Mônđôva
29 NaUy 323.895 4.419 17-05(1905) NaUy
30 Nam Tư 102.173 103.638 27-04(1992) Xecbi
31 Liên Bang Nga 17.075.400 147.434 12-06(1991) Nga
32 Pháp 551.500 58.683 17-07(1789) Pháp
33 Phần Lan 338.130 5.154 06-12(1917) Phần Lan
34 Rumani 237.500 22.474 01-12(1918) Rumani
35 Sec 78.864 10.282 28-10 Sec
36 Tây Ban Nha 504.782 39.628 12-10 Tây Ban
Nha
37 Thụy Điển 449.964 8.875 06-06(1890) Thuy Điển
38 Thụy Sĩ 41.290 7.299 01-08(1291) Đức
39 Ucraina 603.700 50.861 24-08(1991) Ucren
40 Vatican 0.44 1 22-10(1978) Italia,
Latinh
41 Xan Marinô 61 26 03-09
42 Xlôvakia 49.025 5.377 01-09(1992) Xlovac
43 Xlôvênia 20.251 1.993 25-06(1991) Xlôvênia
CHÂU Á
Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày độc lập Ngôn ngữ
(km2) (nghìn
người)
1 Amênia 29.800 3.530 27-08-1991 Amênia
2 Adecbaigian 86.600 7.669 30-08-1991 Adecbaigian
3 Apganixtan 652.000 21.254 19-08-1991 Pastô, Phacxi
4 Các tiểu VQ Ả 83.600 2.353 2-12-1971 Ả Rập
Rập thống nhất
5 Ả Rập Xê Ut 2.149.690 20.181 23-09-1931 Ả Rập

Vũ Văn Thành 0932008296


181
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

6 Tatgikixtan 143.100 6.015 9-09-1991 Tatgic


7 Thái Lan 513.115 60.300 5-12- Thái
8 Thổ Nhĩ Kỳ 779.452 64.479 29-10-1923 Thổ Nhĩ Kỳ
9 Triều Tiên 120.540 23.348 9-9-1948 Triều Tiên
10 Trung Quốc 9.600.000 1.262.368 1-10-1949 Quan Hóa
11 Tuốc Mê Ni 488.100 4.309 27-10-1991 Tuốcmêni
Xtan
12 An Độ 3.287.590 982.223 26-01-1950 Hindu, Anh
13 Ba Ranh 680 595 16-12-1971 Ả Rập
14 Băng La Đet 143.998 124.774 26-03-1971 Bengali
15 Bruney 5.765 315 23-2-1984 Mã Lai
16 Butan 47.000 2.004 17-2 Đông Kha
17 Ca Dac Xtan 2.717.300 16.319 25-10-1991 Cadac
18 Udo Bekixtan 447.400 23.574 1-9-1991 Udobec
19 Việt Nam 330.991 75.355 2-9-1945 Việt Nam
20 Xingapo 639 3.476 9-8-1965 Mã Lai
21 Xiri 185.180 15.333 17-4-1946 A Rập
22 Xrilanca 65.610 18.455 4-2-1948 Xinhale
23 Ye Men 527.968 16.887 22-5-1990 A Rập
24 Campuchia 181.035 10.718 9-11-1954 Khơme
215 Cata 11.437 579 3-9-1971 A Rập
26 Gioocđani 89.210 6.304 25-5-1946 A Rập
27 Côoet 17.818 1.811 25-2-1991 A Rập
28 Curoguxtan 198.500 6.304 25-5-1946 Cưrơgư
29 Grudia 69.700 5.059 9-4 Grudia
Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày độc lập Ngôn ngữ
2
(km ) (nghìn
người)
30 Đông timo 15.000 857 20-5 Tetun,
giava,Bđn
31 Hàn Quốc 99.020 46.109 3-10-1948 Triều Tiên
32 Inđônêxia 1.919.400 206.338 17-8-1945 Giava
33 Iran 1.648.100 65.758 11-2-1979 Phacxi
34 Ixraen 14.100 5.163 1948 Hêbrơ
35 Lào 236.800 7.163 2-12-1975 Lào

Vũ Văn Thành 0932008296


182
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

36 Libang 10.452 3.191 22-11-1943 A Rập


37 Malaixia 329.750 21.410 31-08-1957 Malai
38 Manđivơ 298 271 26-7-1965 Đihơvi
39 Mi an ma 676.552 25.790 11-7-1921 Miến
40 Nêpan 147.181 22.487 28-12 Nêpan
41 Mông Cổ 1.565.000 2.579 11-7-1921 Mông Cổ
42 Nhật Bản 372.765 126.181 23-12 Nhật
43 Oman 212.457 2.382 8-11-1970 Arập.. Anh
44 Pakixtan 803.944 148.166 23-3-1956 A Rập
45 Palextin 27.000 3.500 1-1-1965 Ả Rập
46 Philippin 27.000 72.944 12-6-1960 Philippino
47 Síp 9.251 711 1-10-1960 Hilap
48 IRắc 434.924 21.800 17-7-1968 Bát Đa

CHÂU ĐẠI DƯƠNG


Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày độc lập Ngôn ngữ
1 Kiribati 754 81 12-7-1979 Anh
2 Macsan 181 60 1-5 Anh, macsan
3 Micrơndi 702 144 3-11 Anh
4 Nauru 21 11 31-1-1968 Nauru
5 Niu di len 270.074 3.796 6-2-1840 Anh
6 Oxtrylia 7.668.480 18.520 26-1-1768 Anh
7 Palau 494 19 1-10 Palau
8 Papua niughi ne 462.840 4.600 Anh, mơtu
9 Phitgi 18.274 796 10-10-1970 Anh
10 Xa Moa 2.934 174 1- 6-1962 Anh, xoama
11 Tơnga 748 98 4-6-1970 Tơnga
12 Tuvalu 26 11 1-10-1978 Tuvalu

Vũ Văn Thành 0932008296


183
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

13 Vanuatu 14.763 182 30-7-1980 Bixlama


14 Xô lômơn 28.894 417 7-7-1978 Anh

CHÂU PHI

Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày độc Ngôn ngữ
lập
1 Ai cập 1.001.450 65.987 23-7-1952 A Rập
2 Angieri 2.381.740 30.081 5-7-1962 A rập
3 Angôla 1.246.700 12.092 11-11-1975 Bồ Đào Nha
4 Bênanh 12.622 5.781 1-8-1960 Pháp
5 Botxoana 581.730 1.570 30-9-1966 Anh
6 Namibia 823.168 1.660 21-3-1990 Anh
7 Namphi 1.221.037 39.357 31-2-1961 Aprican
8 Nighe 1.267.000 10.078 20-9-1960 Pháp
9 Nighêria 923.768 106.409 7-10-1960 Anh
10 Ruanda 26.338 26.338 1-7-1962 Ruanda, Pháp
11 Sat 1.284.000 7.270 20-9-1960 A Rập, Pháp
12 Buockina 274.200 11.305 4-8-1983 Motxi, Pháp
phaxo
13 Burundi 27.834 6.457 1-7-1962 Rundi
Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày độc Ngôn ngữ
lập
14 Camorun 475.442 14.305 20-5-1972 Anh, Pháp
15 Capve 4.033 408 5-7-1975 Bồ Đào Nha
16 Coma 1.862 658 6-7-1975 Como, Pháp
17 Congo 342.000 2.758 15-8-1960 Pháp, Congo
18 Tandania 945.090 32.102 26-4-1964 Xvahili, Anh
19 Togo 56.785 4.397 27-4-1960 Pháp
20 Trung Phi 622.984 3.485 13-8-1960 Sango, Pháp
21 Tuynidi 163.610 9.335 20-3-1956 A Rập
22 Uganda 236.860 20.554 9-10-1962 Luganđa, Anh
23 Xao Tome và 964 141 12-7-1975 Bồ Đào Nha
Prinxirê
24 CHDC Congo 2.344.885 49.139 30-6-1965 Pháp

Vũ Văn Thành 0932008296


184
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

25 Cot divoa 322.464 14.292 17-2-1960 Pháp


26 Dambia 752.620 8.781 24-10-1964 Anh, Bemba
27 Dimbabue 390.759 11.373 18-4-1980 Anh
28 Eritoria 93.679 3.577 24-5-1993 Tirinia, Ả Rập
29 Etiopi 1.128.220 59.649 28-5-1974 Amharich
30 Xarauy 266.000 275 27-2-1976 A Rập
31 Xaysen 455 76 5-6-1976 Pháp
32 Xenegan 196.723 9.003 4-4-1960 Pháp
33 Xiera Leon 71.740 4.568 27-7-1961 Anh
34 Xoadilen 17.365 952 6-9-1968 Xixvati, Anh
35 Xomali 637.657 9.237 21-10-1969 Xomali
36 Gabong 267.667 1.167 17-8-1960 Pháp
37 Gana 283.533 19.162 6-3-1957 Anh
38 Gambia 11.295 1.229 18-2-1965 Anh
39 Gibuti 23.200 623 27-6-1977 A Rập, Pháp
40 Ghine 245.957 7.337 2-10-1958 Phulani, Pháp
41 Ghine bitxao 36.125 1.161 10-9-1974 Bồ Đào Nha
42 Xudang 2.505.813 28.292 1-1-1956 Ả Rập
43 Ghine xích đạo 28.057 431 12-10-1968 Tây ban nha
44 Kenia 580.370 29.008 12-12-1963 Xvahili, Anh
45 Lexotho 30.355 2.062 4-10-1968 Lexotho. Anh
46 Liberia 111.369 2.666 26-7-1847 Anh
47 Libi 1.759.540 5.339 1-9-1969 A Rập
48 Madagaxca 587.041 15.057 20-9-1960 Mangat, Pháp
49 Malauy 117.484 10.346 6-7-1964 Anh
50 Mali 1.240.192 10.694 22-9-1960 Pháp
51 Maroc 458.730 27.377 3-3-1956 Ả Rập
52 Morixo 2.040 1.141 12-3-1968 Anh
53 Modambich 799.380 18.880 25-6-1975 BĐN
54 Môritani 1.025.520 2.529 28-11-1960 Ả Rập

CHÂU MỸ

Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày độc Ngôn ngữ
lập
Vũ Văn Thành 0932008296
185
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

1 Achentina 2.776.661 36.123 25-5-1810 Tbn


2 Antigoa & 442 67 1-11-1981 Anh
Babbuda
3 Bacbađôt 431 268 30-11-1966 Anh
4 Bahama 13.935 269 10-7-1873 Anh
5 Bêlixê 22.965 230 21-9-1981 Anh
6 Bôlivia 1.098.582 7.957 6-8-1825 Quechua,
Tbn
7 Barxin 8.511.965 165.851 7-9-1822 BĐN
8 Canađa 9.976.139 30.563 1-7-1867 Anh, Pháp
9 Chilê 756.945 14.824 18-9-1810 TBN
10 Côlômbia 1.141.748 40.803 20-7-1819 TBN
11 Côxtra Rica 50.700 3.841 15-9-1821 TBN
12 Cuba 114.494 11.116 1-1-1959 TBN
13 Đôminica 751 71 3-11-1978 Anh
14 Đôminicana 48.443 8.232 27-2-1844 TBN
15 Êcuađo 283.561 12.175 10-8-1809 TBN
16 Goatêmala 108.889 10.801 15-9-1809 TBN
17 Grênađa 344 93 7-2-1974 Anh
18 Guyana 214.970 850 26-5-1966 Anh
19 Haiti 27.750 7.952 1-1-1804 pháp
Stt Quốc gia Diện tích Dân số Ngày đ.lập Ngôn ngữ
20 Haimaica 10.991 2.538 6-8-1962 Anh
21 Hoa Kỳ 9.170.002 274.028 4-7-1776 Anh
22 Hônđurat 112.088 6.147 15-9-1821 TBN
23 Mêhicô 1.985.200 95.831 16-9-1810 TBN
24 Nicaragoa 130.700 4.807 19-7-1979 TBN
25 Panama 77.082 2.767 3-11-1903 TBN
26 Paragoay 406.752 5.222 14-5-1811 Goarani –
TBN
27 Pêru 1.285.216 24.797 28-7-1821 TBN
28 Triniđat & 5.128 1.283 31-8-1962 Anh
Tôbagô
29 Urugoay 177.410 3.289 25-8-1828 TBN
30 Vênêxuêla 912.050 23.242 5-7-1811 TBN

Vũ Văn Thành 0932008296


186
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

31 Xanta luxia 616 150 22-2-2979 Anh


32 Xanvađo 21.393 6.032 15-9-1821 TBN
33 Xen kit &nêvit 261 39 19-9-1983 Anh
34 Xen vinxen & 389 112 27-10-1979 Anh
Grênađin
35 Xurinam 163.265 414 25-11-1975 Hà lan

hĩa không tự tiêu vong mà phải thông qua một cuộc cách mạng xã hội.

Chương mở đầu: NHẬP MÔN..........................................................................................1


I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN....................................................1
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU.............6
Chương I: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG...............................................8
I. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC....................................................................8
II. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC................................9
Chương II: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT..........................................................20
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT................................20
II. HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT..................21
III. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
............................................................................................................................. 26
IV. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT..............36

Vũ Văn Thành 0932008296


187
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

V. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN (quy luật mâu thuẫn)..............................41
VI. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH..........................................................44
VII. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG..........................................46
Chương III: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ......................................................55
I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT.................................................................................................................. 55
II. BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
............................................................................................................................. 58
III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI,.........................................59
TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI......................................59
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI
KINH TẾ – XÃ HỘI LÀ MỘT QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN....................62
V. GIAI CẤP, ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI......................64
VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI,.................................68
VÀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN..............................................68
Chương IV: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ.......................................................................72
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ..................................................
CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA............................................................................73
II. HÀNG HÓA.........................................................................................................73
III. TIỀN TỆ...............................................................................................................76
IV. QUI LUẬT GIÁ TRỊ............................................................................................79
Chương V: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ................................................80
I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN TỆ THÀNH TƯ BẢN........................................80
II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ..........................................83
III. TIỀN LƯƠNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN..................................................87
IV. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ.....................................................
THÀNH TƯ BẢN - TÍCH LŨY TƯ BẢN............................................................88
IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ......................................................
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ..........................................................................................89
VI. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC................................................
BIỂU HIỆN CỦA GÍA TRỊ THẶNG DƯ..............................................................95
Chương VI: HỌC THUYẾT KINH TẾ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN ........................VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
107
I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN...............................................................107
II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC..........................................111

Vũ Văn Thành 0932008296


188
Trường CĐKTĐN Bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của CNMLN

III. VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN...................................................................................................................114
Chương VII: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÁCH........
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................................................114
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN........................................114
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA...............................................................114
III. HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA............................114
Chương VIII : NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY
LUẬT .............TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
114
I. XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA...........114
II. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.......................................114
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO..........................................114
Chương IX: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG.................114
II. SỰ KHỦNG HOẢNG, SỤP ĐỔ CỦA MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI XÔ
VIẾT VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ...............................................................114
III. TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.......................................................114

TÀI LIỆU THAM KHẢO TRA CỨU CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.......................114

Vũ Văn Thành 0932008296


189

You might also like