Professional Documents
Culture Documents
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả trong luận án này trung thực và chưa từng được ai công
bố trước đây.
PT Phẫu thuật
BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ VIỆT – ANH
Chỉ số thương tật cổ bàn chân FADI (foot and ankle disability index)
Hiệp hội chỉnh hình cổ bàn chân AOFAS (American orthopaedic foot
Hoa Kỳ and ankle society)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương do thể dục thể thao và tai nạn giao thông hiện nay đang là
mối quan tâm hàng đầu, không chỉ do số lượng gia tăng mà còn do mức độ
nặng và tính chất phức tạp của nó. Trong các chấn thương này, tổn thương
dây chằng chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Theo thống kê, tại Mỹ có đến
100.000 trường hợp cần tái tạo dây chằng chéo trước hàng năm, trong đó 10%
cần tái tạo lại [30], [31]. Tại nước ta, tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể
nhưng tỷ lệ này cũng đang có chiều hướng gia tăng. Chỉ tính riêng tại Bệnh
viện Chấn Thương Chỉnh Hình, số bệnh nhân được mổ tái tạo DCCT: năm
1999: 40 ca; 2001: 65 ca; 2002: 135 ca; 2003: 157 ca [8], [10]. Do đó, nhu
cầu mảnh ghép tái tạo dây chằng ngày càng gia tăng.
Các tổn thương dây chằng khớp gối ngày nay không chỉ gia tăng về số
lượng mà còn phức tạp hơn do tính trầm trọng của thương tổn (tổn thương
nhiều dây chằng, không thể khâu nối tận tận…). Để phục hồi đặc tính giải
phẫu, cơ học và chức năng của dây chằng người ta thường sử dụng các mảnh
ghép tự thân, đồng loại lấy từ ngân hàng mô hoặc mảnh ghép nhân tạo.
Tại Việt Nam, chưa sử dụng mảnh ghép nhân tạo, mảnh ghép đồng loại còn
hạn chế vì nguy cơ lây nhiễm và ngân hàng mô chưa đáp ứng được nhu cầu.
Chính vì vậy mảnh ghép tự thân được sử dụng nhiều nhất trong điều kiện
nước ta hiện nay.
Có nhiều nguồn gân ghép tự thân như gân xương bánh chè, gân cơ
thon- bán gân, gân cơ tứ đầu. Mỗi loại gân ghép vẫn còn tồn tại một số khuyết
điểm tại vùng lấy gân của nó. Chẳng hạn như gân xương bánh chè vẫn còn tỷ
lệ yếu cơ chế duỗi, gãy xương bánh chè, đau vùng trước gối. Gân cơ thon-
bán gân thì yếu cơ chế gấp gối, mất đi thành phần quan trọng bảo vệ DCCT
tái tạo bằng cách ngăn mâm chày di chuyển ra trước [17],[52],[64],[65],[68].
2
Đối với những trường hợp phải tái tạo nhiều dây chằng cùng một lúc
hoặc các mảnh ghép tự thân kinh điển không sử dụng được (không đáp ứng về
kích thước hoặc bị hỏng trong quá trình lấy mảnh ghép) hoặc trong những
trường hợp phải thay lại dây chằng đã thay trước đó bị hỏng thì đòi hỏi thêm
nguồn lấy ghép [59], [62], [73], [77]. Chính vì vậy việc tìm kiếm thêm các
nguồn gân ghép tự thân ngoài vùng gối trở thành mối quan tâm của các nhà
chỉnh hình.
Mảnh ghép lý tưởng trong phẫu thuật tái tạo cần đáp ứng các yêu cầu
tiêu chuẩn cơ bản như đặc tính cơ sinh học, sự liền mảnh ghép về mặt sinh
học, mức độ dễ dàng khi lấy ghép, độ vững chắc khi cố định, thương tổn tại vị
trí lấy ghép và hướng phục hồi hoạt động thể thao sau tái tạo. Nhiều loại
mảnh ghép đã được áp dụng thành công trên lâm sàng [39], [62].
Hai gân mác mặt ngoài cẳng chân có cùng chức năng dạng cổ chân và
lật sấp bàn chân. Trong đó, gân MD được sử dụng trong nhiều phẫu thuật
chỉnh hình tái tạo dây chằng ngoài vùng gối như dây chằng bên ngoài cổ
chân, tái tạo gân gót [81]. Nhiều nghiên cứu về cơ sinh học mảnh ghép gân
MD [22], [49]. Nghiên cứu ứng dụng mảnh ghép gân MD trong tái tạo dây
chằng vùng gối nói chung [85] và tái tạo DCCT nói riêng [15], [35], [43]. Các
nghiên cứu này đều đánh giá ảnh hưởng của việc lấy gân MD lên cổ chân
không đáng kể. Trong nước có một nghiên cứu về giải phẫu, cơ học gân MD
và ảnh hưởng của việc lấy mảnh ghép gân MD lên cổ chân [6], [7]. Tuy nhiên
chưa có nghiên cứu chi tiết và theo dõi dài hạn về giải phẫu, cơ sinh học gân
MD và ứng dụng trong tái tạo DCCT cũng như dây chằng vùng gối [7], [15],
[22], [35], [42], [43], [49], [55], [81], [85]. Liệu rằng gân MD có thể là nguồn
gân ghép tự thân hay không?
Để trả lời câu hỏi liệu rằng gân MD có thể là nguồn gân ghép tự thân
hay không, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu, cơ học
3
gân MD, ứng dụng làm mảnh ghép tái tạo dây chằng chéo trước” với các mục
tiêu nghiên cứu:
1: Xác định đặc điểm giải phẫu, độ bền chắc gân MD đoạn cẳng chân-
cổ chân. So sánh với gân cơ thon, bán gân.
2: Nhận xét hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của kĩ thuật lấy mảnh ghép
gân MD bằng dụng cụ chuyên dụng trên thực nghiệm.
3: Đánh giá kết quả điều trị nội soi tái tạo dây chằng chéo trước bằng
mảnh ghép gân MD tự thân.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GÂN MD: GIẢI PHẪU, CƠ SINH HỌC, ỨNG DỤNG TÁI TẠO
DÂY CHẰNG CHÉO KHỚP GỐI
1.1.1. Giải phẫu học gân MD
Nguyên ủy cơ MD
Khoang ngoài cẳng chân có 2 cơ: cơ mác dài và cơ mác ngắn, trong đó
cơ MD nằm nông hơn và dài hơn cơ mác ngắn. Nó có nguyên ủy từ chỏm và
2/3 trên của mặt ngoài xương mác, mặt sâu của cân sâu, vách gian cơ trước và
sau, thỉnh thoảng có vài sợi xuất phát từ lồi cầu ngoài xương chày.
Hình 1.1. Cơ MD
“Nguồn: Nguyễn Quang Quyền, 2010” [13]
5
Hình 1.3. Rãnh gân cơ MD dưới xương hộp và cấu trúc ống
được che phủ bởi dây chằng gan chân dài
“Nguồn: Nguyễn Quang Quyền, 2010” [13]
Gân MD băng qua lòng bàn chân theo hướng chéo và bám tận bằng hai
trẽ vào nền xương bàn một và xương chêm trong, thỉnh thoảng có trẽ thứ ba
kéo dài bám vào nền xương bàn hai.
Tại hai nơi gân chuyển hướng: bên dưới mắt cá ngoài và xương hộp,
gân dày lên và tại vị trí thứ hai, một xương nhỏ sợi sụn thường phát triển nội
gân. Một bao hoạt dịch thứ hai bao gân khi nó băng qua lòng bàn chân.
Tƣơng quan
Phía trên cơ MD nằm phía sau cơ duỗi các ngón chân dài, cơ duỗi ngón
cái dài và phía trước cơ dép. Phía dưới cẳng chân nó nằm phía sau gân cơ mác
7
ngắn. Giữa hai đầu nguyên ủy của chỏm xương mác và thân xương mác, có
một khe mà thần kinh mác chung đi xuyên qua. Thần kinh mác chung chia
thần kinh mác nông và thần kinh mác sâu. Thần kinh mác sâu ra khoang trước
chi phối vận động cho cơ khoang trước. Thần kinh mác nông đi giữa cơ mác
dài và cơ mác ngắn đoạn 1/3 trên.
Hình 1.4. Nơi bám tận gân MD vào xương chêm trong
và nền xương bàn 1
“Nguồn: Nguyễn Quang Quyền, 2010” [13]
8