You are on page 1of 3

Từ việc phân tích vụ án trên, nhóm xim đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy

định pháp luật hiện hành:

 Thứ nhất, về hình thức của di chúc:

Theo khoản 3 điều 631 BLDS quy định:"  Di chúc không được viết tắt hoặc viết
bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự
và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc".
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người
làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa"
Theo như điều luật trên thì người viết di chúc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ vào
từng trang giấy theo chúng tôi nghĩ điều này là không cần thiết bởi lẽ ý chí của họ
đã thể hiện từng câu, từng chữ trong bản di chúc.Chúng tôi cho rằng di chúc được
viết bằng tay là di chúc có giá trị pháp lý cao nhất, nó sẽ thể hiện đầy đủ và chính
xác ý chí của người viết di chúc. nếu ta xác định được di chúc là do chính người để
lại di chúc viết thì việc không kí từng trang giấy hoặc việc quên đánh số cho từng
trang cũng sẽ không ảnh hưởng đến ý chí của họ và di chúc đó phải được chấp
nhận một cách hợp pháp
Sẽ có trường hợp có trang di chúc bị quên đánh số trang hay không được kí thì rờ
di chúc đó không được chấp nhận vì vi phạm hình thức theo luật. Điều này nếu xảy
ra thì ta có thể thấy quyền lời của người được thừa kế ở trang di chức đó sẽ bị ảnh
hưởng và bản di chúc đó cũng không thể hiện được hết ý chí của người để lại di
chúc
 Thứ hai, theo khoản 5 điều 630 BLDS quy định:"  Di chúc miệng được coi
là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình
trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ
quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người
làm chứng."
Theo quy định này nếu không được công chứng hoặc chứng thực trong thời hạn
là 5 ngày thì di chức sẽ bị mất hiệu lực. Nhưng ở điều luật này lị không quy
định rõ ràng về việc nghĩa vụ công chứng hay chứng thực. Ở điều luật này sẽ có
nhiều cách hiểu khác nhau, có người sẽ cho rằng việc công chứng sẽ do người
hưởng di sản thực hiện, nhưng cũng có ý kiến cho rằng việc công chứng chỉ có
thể do người làm chứng thực hiện. Nhưng nếu hiểu theo ý thứ 2 cho rằng người
làm chứng sẽ phải là người đi công chứng hoặc chứng thực, nếu họ không thực
hiện thì bản di chúc đó sẽ bị mất hiệu lực điều đó cho thấy sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến người được hưởng thừa kế, trong trường hợp này sẽ phát sinh
thêm trách nhiệm của người làm chứng. Như vậy, bộ luật cần quy định rõ ràng
về trách nhiệm công chứng, chứng thực là của người hưởng di sản. Điều này sẽ
không làm ảnh hưởng đến luật cũ và sẽ thể hiện rõ ràng thủ tục để đảm bảo sự
quản lý của nhà nước.
 Thứ ba, Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng theo điều 633 quy
đinh:
"Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân
theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này"
Theo chúng tôi nên bỏ hình thức di chúc này vì người dân nếu không hiểu rõ
luật sẽ phải chịu hậu quả pháp lý của di chúc không có người làm chứng, có
thể cho rằng nếu bãi bỏ hình thức này sẽ gây hạn chế cho người để lại di
chúc, nhưng xét cho cùng thì việc di chúc có người làm chứng vẫn có lợi
hơn cho họ
 Thứ tư, bạn ghi lại những yêu cầu mà một bản di chúc phải đáp ứng để nó
được hợp pháp và có giá trị như thế nào? Di chúc hợp pháp được xác định
theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015, và vấn đề hiệu lực của di chúc được xác
định theo Điều 643. Mặt khác, Điều 630 chỉ dành một khoản để khái quát
những yêu cầu mà di chúc phải đáp ứng để hợp pháp, trong khi các khoản
còn lại giải quyết từng tình huống riêng lẻ của một di chúc. Còn Điều 643,
trong đó mô tả các tiêu chí mà theo đó di chúc có hiệu lực thi hành, nhà lập
pháp đã sử dụng kỹ thuật liệt kê để hướng dẫn các điều kiện mà theo đó di
chúc có hiệu lực thi hành, tuy nhiên vẫn còn chưa đầy đủ. Chúng ta nên liệt
kê chúng trong một luật riêng biệt để duy trì tính thống nhất và để giải quyết
các tình huống di chúc bị vô hiệu.

 Thứ năm, người lập di chúc bắt buộc phải tỉnh táo và minh mẫn. Chúng ta
nên chỉ định ai có thể lập di chúc trong đó xây dựng một cách độc lập và
chính xác khi tạo luật về người lập di chúc. Căn cứ vào quy định của pháp
luật về điều kiện để di chúc hợp pháp để đánh giá xem người lập di chúc có
đáp ứng các điều kiện luật định để di chúc hợp pháp hay không. Nhờ vậy,
tính logic của quy định từ tên gọi đến nội dung của người lập di chúc mới
được đảm bảo.

You might also like