You are on page 1of 25

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM


KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
----------

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: KINH DOANH QUỐC TẾ
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Xuân Đạo
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Như Ý
Lớp: INE306_202_D03
MSSV: 030835190299
Đề tài: Chọn một tôn giáo và phân tích ảnh hưởng của nó đến văn
hóa, đời sống- xã hội, kinh doanh và sâu hơn là kinh doanh quốc tế.

------------Tháng 04/2020-------------

1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN........................................................3
1.1 Đặt vấn đề.............................................................................................................................3
1.2 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu.....................................................................3
1.3 Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................3

CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ NHỮNG


TRIẾT LÍ TƯ TƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO...........................4
1. Đôi nét về Đạo Phật..................................................................................................................4
2. Nội dung tư tưởng Phật Giáo...................................................................................................4
3. Ảnh hưởng của Phật Gíao đến văn hóa- xã hội Việt Nam và các nước trên thế giới.............5
a) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với văn hóa Việt Nam.............................................................5
b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với Trung Quốc.......................................................................9
c) Đạo Phật với các vấn đề từ thiện của doanh nghiệp............................................................10
4. Ảnh hưởng của đạo Phật đến đời sống- xã hội......................................................................11
5. Quan điểm của Đức Phật trong kinh doanh..........................................................................12
6. Đôi nét về đặc trưng kinh doanh theo triết lý Phật Pháp.......................................................13
7. Ảnh hưởng của Phật giáo trong kinh doanh đặc biệt là kinh doanh quốc tế......................15
a) Ứng dụng tư duy đạo Phật vào kinh doanh tại Việt Nam.....................................................15
b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đến kinh doanh quốc tế.............................................................17

CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT..........................................................24


TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................25

2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1 Đặt vấn đề
Nói đến “tôn giáo”, người ta thường nghĩ đến các hoạt động từ thiện, nhưng thực tế
trong các tôn giáo, khái niệm kinh tế tôn giáo đã xuất hiện từ lâu, nó đã trở thành một
thành phần kinh tế trong quốc gia, thậm chí trong các quan hệ kinh tế thế giới. Tôn
giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống, niềm tin, giá trị và thái độ, cách ứng xử của con
người.
Tôn giáo còn ảnh hưởng đến chính trị và môi trường kinh doanh. Do đó, đến kinh
doanh tại đâu thì phải nghiên cứu, hiểu những tôn giáo phổ biến tại nơi đó, làm việc
với các đối tác cũng phải tìm hiểu xem họ theo tôn giáo nào, thì sẽ tránh được những
rủi ro trong đàm phán. Ngoài ra, tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày
của con người và do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Ví dụ, thời gian mở cửa
hoặc đóng cửa; ngày nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm... Vì vậy, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp phải được tổ chức cho phù hợp với từng loại tôn giáo đang chi phối thị
trường mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Em đã chọn đạo Phật để phân tích về tác động của đạo Phật đến đời sống xã hội văn
hóa, kinh doanh và sâu hơn là về kinh doanh quốc tế. Đây là một đề tài rất hay và
mang lại nhiều bài học hữu ích cho em đặc biệt là đối với chuyên ngành Kinh tế quốc
tế, Tuy nhiên thì do hiểu biết em còn hạn chế, bài viết chưa được sâu sắc. Em mong
thầy thông cảm và có thể góp ý cho bài làm của em.
1.2 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng của
đạo Phật đến các lĩnh vực văn hóa, đời sống xã hội, kinh doanh và sâu hơn là kinh
doanh quốc tế
Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của đạo Phật và phân tích
ảnh hưởng của nó
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp tổng hợp các phương pháp chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là logic phân tích,
tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn để phân tích đề tài

3
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ NHỮNG
TRIẾT LÍ TƯ TƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
1. Đôi nét về Đạo Phật
Đạo Phật mang tên ngời sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo Phật chính là giáo lý mà
Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ VI,
trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực Á-
Phi, Gần đây được truyền tới các nước Âu- Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình
đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hóa bản địa để hình thành
rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và
văn hóa của nhiều quốc gia
Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà- La- Môn và chế độ
đẳng cấp. Phật giáo lý giải nhìn thấu nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người
khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì để chống lại sự ngự trị
của đạo Bà- La- Môn, đặc biệt là chống lạ quan điểm của kinh Véda, nên Phật giáo
được xem là dòng triết học không chính thống. Đức Phật suất hiện như một mặt trời
sưởi ấm: buổi ban mai làm tan đi bóng đêm dày đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngày
không chỉ là vị cứu tinh cho xứ Ấn Độ thời bây giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi
mới cho nhân loại.
Nói chung, Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên
thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông
đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II
sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
2. Nội dung tư tưởng Phật Giáo
Phật giáo xuất hiện với tư cách một tôn giáo, đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, coi
nhẹ hình thức nghi lễ. Theo giáo lí của Thích Ca Mâu Ni, thế giới tự nó tồn tại, không
do ai tạo ra cả. Vạn vật là vô thường, luôn luôn biến chuyển theo luật nhân quả, sinh
ra và diệt đi, tuần hoàn không ngừng. Bốn chân lí lớn:
1) Cuộc sống là bể khổ (sinh, lão, bệnh, tử)
2) Nguyên nhân của khổ là lòng tham, sự tức giận, sự ngu si (vô minh).
3) Diệt khổ tức là diệt những nguyên nhân ấy, chấm dứt vòng luân hồi, đến cõi Niết
Bàn
4) Con đường giải thoát là tu tập theo Bát chính đạo.
Phật giáo đặt vấn đề số phận con người là do bản thân con người tạo ra và tự mình
chịu trách nhiệm, không do thần thánh định đoạt. Chủ trương bình đẳng (ai cũng có
khổ và đều có thể được giải thoát), đề cao lòng từ bi (yêu thương mọi loài, chống lại
điều ác, làm mọi điều lành). Theo Từ điển bách khoa Phật giáo:

4
(tudien.daitangkinhvietnam.org): Phật giáo là giáo lý của Phật-đà. Phật giáo không
phải là một tôn giáo, mà là một lối sống, là triết học tâm linh thực nghiệm siêu việt,
dạy người chuyển mê khai ngộ, mục đích thế gian của Phật giáo là thanh tịnh hóa xã
hội và xuất thế gian, là siêu xuất ra khỏi và chấm dứt sanh tử luân hồi. Trong Từ điển
tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên trang 290 và 774: Phật giáo = Đạo Phật "tôn giáo ra
đời ở Ấn Độ thế kỷ thứ VI TCN, do Thích Ca Mâu Ni Sáng Lập. Theo Wikipedia:
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới (các tôn giáo lớn khác là Do
Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, và Ấn Độ giáo). Phật giáo được một nhân vật lịch
sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ V trước Công nguyên. Từ những
định nghĩa trên, ta có thể thấy Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời vào
khoảng cuối thế kỷ VI trước Công nguyên với giáo lý căn bản là Tứ diệu đế (khổ đế,
tập đế, diệt đế và đạo đế). Và với Việt Nam, Phật giáo du nhập vào nước ta khoảng thế
kỷ II sau công nguyên từ Trung Quốc và Ấn Độ
Lý tưởng của đạo Phật là đóng góp mà không mong chờ sự báo đáp và người Phật tử
luôn mong đem lại lợi ích cho mọi chúng sinh trong mỗi hoạt động của mình. Với tuệ
giác của Phật Pháp và tinh thần cống hiến vô ngã đó, người Phật tử có thể đóng góp
cho xã hội bằng cách tạo ra những doanh nghiệp có khả năng làm lợi ích cho tất cả
mọi người. Vì thế căn bản của sự kinh doanh là nằm trong lời dạy của Đức Phật từ
lòng thương yêu tất cả mọi loài chúng sinh và sống an tịnh. Trong giai đoạn phát triển
của Việt Nam, Phật giáo phải khuyến khích những doanh gia dùng tài năng và óc sáng
tạo của họ đóng góp của cải vật chất và tinh thần cho sự phát triển của Việt Nam dựa
trên căn bản lời dạy của Đức Phật. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn
chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và
qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách chính, đúng
đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in
sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Vì vậy, việc
nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân
sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua 4
giai đoạn; Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc, hình thành và phát triển
rộng khắp; Thời nhà Lý- nhà Trần, phát triển cực thịnh, Từ đời Hậu Lê đến cuối thế
kỷ XIX suy thoái; từ đầu thế kỷ XX đến nay, phục hưng.

3. Ảnh hưởng của Phật Gíao đến văn hóa- xã hội Việt Nam và các nước trên
thế giới
a) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với văn hóa Việt Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam,
gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm. Văn hóa Phật giáo đã hòa mình và
hợp nhất với nền văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ, qua tư tưởng, được biểu hiện trong
nếp sống, sinh hoạt xã hội, đời sống tâm linh. Sự đan xen, hòa quyện đã thể hiện rõ

5
nét trong phong tục tập quán, trong văn học bình dân cũng như trong văn học bác học.
Từ ngữ của Phật giáo như: trí tuệ, từ bi, thiện ác, nhân quả, nghiệp báo, v.v... được sử
dụng như từ ngữ của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Phật giáo giao thoa trong nền văn
hóa Việt Nam để lại dấu ấn sau:
Những dấu ấn trong tục ngữ
Tục ngữ là ngôn ngữ dân gian mà người bình dân Việt Nam thường sử dụng để trao
đổi tư tưởng, tình cảm với nhau. Những tư tưởng trong ngôn ngữ dân gian được gọi là
văn hóa bình dân. Những từ ngữ của Phật giáo đã biến thành ngôn ngữ của người bình
dân Việt Nam thường sử dụng, đã được truyền cho nhau trong dân gian mà chúng ta
đã thấy tản mát trong văn học bình dân. Chúng tôi xin đơn cử ra đây một vài câu tục
ngữ để chứng minh giá trị sự giao thoa của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam,
điển hình như những từ ngữ: “Tội nghiệp quá!”; “Hằng hà sa số” “Lù khù nhưng ông
Cù độ mạng”, v.v...
Người bình dân mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng
thương xót, chia sẻ và thốt lên câu: “Tội nghiệp quá!” ... Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ
của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định.
Người ta muốn diễn tả số lượng người quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều
thì liền dùng câu “Hằng hà sa số” để tỏ bày. Hằng hà sa số là từ ngữ của Phật giáo với
ý nghĩa là số nhiều như cát sông hằng. Sông Hằng là chỉ cho một trong hai con sông
lớn nhất của Ấn Độ. Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng thế giới là sông Ấn (Indus) và
sông Hằng (Gange) và hai con sông này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể
dân tộc Ấn Độ phát triển và tồn tại. Trong các kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng
những ngôn từ “Hằng Hà sa số” nhằm để nói lên số lượng quá nhiều không thể đếm
được.
Trong xóm làng, có một số người với trình độ văn hóa giới hạn, cứ sống buông trôi
cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại được rất nhiều may mắn
ngoài khả năng của họ. Đối với những người này, người bình dân Việt Nam thường
dùng ngôn từ “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” để chỉ sự may mắn nói trên của họ. Lù
khù là chỉ cho hạng người khờ dại, ngây thơ, không biết chút gì về cuộc đời. Ông Cù
gọi cho đủ là ông Cù Đàm tức là chỉ cho dòng họ của Đức Phật Thích Ca. “Lù khù
nhưng ông Cù độ mạng” nghĩa là: Những người này sở dĩ được may mắn là nhờ Đức
Phật Thích Ca phù hộ.
Còn nhiều dấu ấn về tục ngữ hàm chứa tinh thần Phật giáo và những tục ngữ đó hiện
đang tàng trữ trong kho văn học Việt Nam mà ở đây chưa khai thác được để làm
phong phú cho nền văn hóa Việt Nam.
Những dấu ấn trong ca dao
Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ tâm hồn mộc
mạc, tình cảm của người bình dân Việt Nam, được lưu truyền trong dân gian. Những
câu ca dao này mang tư tưởng, tình cảm của dân tộc nhằm diễn tả luân lý, đạo đức,

6
tình ý, phong tục, tập quán, lối sống của con người... Tư tưởng Phật giáo thâm nhập
vào ca dao Việt Nam và thấm vào tâm hồn của người bình dân. Điển hình như những
bài ca dao sau đây thấm nhuần tư tưởng của Phật giáo:
Người Việt Nam, rất tin tưởng triết lý thiện ác nghiệp báo, nhân quả, luân hồi và ý
thức được giá trị nguyên lý duyên sinh (tương quan với nhau trong sự sinh tồn) của
Phật giáo. Để thể hiện tinh thần đùm bọc lẫn nhau, họ thường hát lên những câu hò,
những lời ru, nhằm khuyên nhau cách ăn ở nên “tránh dữ làm lành”, mong mỏi cuộc
sống được hạnh phúc, an vui, đồng thời hy vọng con cháu sau này nhờ ân đức đó mà
gặp may mắn trong cuộc sống, thể hiện trong câu ca dao:
Ai ơi! Hãy ở cho lành
Kiếp này không được, để dành kiếp sau.
Hai câu ca dao này hàm chứa triết lý sâu sắc của đạo Phật mà thời xưa đã được người
Việt Nam coi như triết lý sống, đó cũng tiêu biểu cho đạo đức Phật giáo là “ở cho
lành” và lại còn thể hiện tư tưởng nhân quả luân hồi qua hai câu “Kiếp này” và “Kiếp
sau”. Họ căn cứ dòng thời gian trải dài xuyên qua ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và
tương lai, mà tin tưởng rằng sẽ có kiếp sau, vì có kiếp này, cũng như tin tưởng rằng sẽ
có ngày mai vì có ngày hôm nay, mặc dù kiếp sau và ngày mai chưa bao giờ đến với
họ. Vì tin tưởng những lý lẽ đó, con người khuyên nhau một cách sống thể hiện qua
hai câu ca dao nêu trên “tránh dữ làm lành” và những điều lành đó tuy rằng không
được thụ hưởng ở kiếp này nhưng rồi sẽ được thụ hưởng ở kiếp sau chẳng bao giờ
biến mất.
Thời đại nào con người cũng cần có đạo đức hơn. Nếu con người có tài năng mà
không có đạo đức thì cũng sẽ không là người có ích cho đời. Nếu con người có đạo
đức thì sẽ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống: “Có đức không sức mà ăn”.
*Sự đóng góp của Phật Giáo cho nền văn hóa Việt Nam
Phật giáo càng phát triển và bén rễ sâu trong đời sống xã hội thì sự gắn bó với dân tộc
càng sâu sắc. Trong bối cảnh cả nghìn năm Bắc thuộc, Phật giáo Việt Nam đã hòa
mình, gắn bó với dân tộc thông qua việc vận động tín đồ, Phật tử và nhân dân đoàn kết
để phò vua, cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc. Lịch sử
dân tộc chứng minh rằng, Phật giáo đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Tín đồ, Phật tử cũng hiểu rằng đất nước có độc lập thì Phật giáo mới ổn
định, phát triển và hưng thịnh... Tinh thần Phật giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
các vua triều Lý – Trần trong trị nước, an dân mặc dù Đạo giáo và Nho giáo ở thời kỳ
này cũng phát triển. Các vị vua tài đức đã tạo nên một triều đại lấy đức từ bi làm căn
bản cho chính trị và luôn sống vì dân nên đã cố kết lòng dân để vua tôi, dân chúng
đoàn kết chung lòng chống ngoại xâm, xây dựng đất nước. Hành đạo từ bi, đạo đức
trong dân chúng nên đời sống xã hội đời Lý – Trần trở thành thuần từ và đẹp đẽ, làm
cho dân giàu nước mạnh.

7
Về văn hóa, với lịch sử gần 2.000 năm du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã thấm sâu
vào trong đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; đồng hành cùng dân
tộc là một nét đặc trưng nổi bật trong truyền thống và tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam. Đạo Phật đã thấm vào lòng dân Việt Nam từ lâu đời và những người theo
đạo Phật đều hiểu rằng Bụt đã hóa thân vào nền văn hóa dân gian. Trong văn hóa dân
gian, hình ảnh ông Bụt hiện lên như một vị thần hiền từ, luôn cứu khổ cứu nạn, trong
dân gian đã có câu nói không biết tự bao giờ: “Hiền như Bụt”. Vào thời Lý, truyện Ỷ
Lan được nhân dân ca tụng là Quan Âm Nữ và được xem là truyện dân gian cô Tấm ở
miền Kinh Bắc. Ông Bụt hiền lành là hình tượng Đức Phật trong dân gian Việt Nam,
là một kết quả rất đặc sắc của Phật giáo hội nhập vào nền văn hóa dân gian Việt Nam.
Người Việt Nam sợ thần thánh, ma quỷ, ... nhưng lại không sợ ông Bụt, bởi vì ông
Bụt tuy có quyền năng vô hạn “Phật Pháp vô biên” nhưng luôn cứu giúp con người.
Người Việt Nam luôn hình dung một ông Bụt giàu lòng thương người, đặc biệt là
người cô đơn, bị ức hiếp. Chẳng hạn chuyện Tấm Cám, cứ mỗi lần nghe Tấm khóc
nức nở, Bụt lại hiện lên an ủi, cứu giúp. Ông Bụt trong dân gian Việt Nam hiền lành,
nhân hậu tới mức không biết giận là gì, cho nên, người ta chỉ gọi là Bụt, nhưng rất đỗi
thân thương: Gần chùa gọi Bụt bằng anh/Trông thấy Bụt lành, cõng Bụt đi chơi. Đức
Phật còn hòa nhập vào người thành ra những ông Bụt mang thân người, như các vua:
Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông - vua Trần Nhân Tông thường được gọi là vua Bụt
(Phật hoàng).
Một trong những đóng góp quan trọng của văn hóa Phật giáo là ngôi chùa, rất đặc biệt
mà cũng rất gần gũi, gắn bó với người dân. Chùa đã hòa nhập vào làng xã mà biến
thành chùa làng. Chùa làng là chùa của làng, nhiều nơi lấy tên làng để đặt tên cho
chùa và thường không phải là chùa của sư, tuy rằng vẫn có sư trụ trì chùa. Chùa đã
vào làng thì theo lệ làng và được người dân gọi bằng cái tên dân làng ưa thích. Vai trò
của ngôi chùa làng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân vì ngôi chùa
góp phần hình thành tư tưởng, đạo đức, nhân cách cho dân làng. Bởi vậy, một trong
những điều đặc biệt là đất nước bị xâm chiếm nhưng làng xã Việt Nam không mất,
các sinh hoạt trong cộng đồng làng xã, trong đó có ngôi chùa vẫn cơ bản giữ được
truyền thống, ít bị đồng hóa. Người dân từ nhiều đời đã coi ngôi chùa là trung tâm văn
hóa, là trường học góp phần giáo dục nền đạo đức, lòng từ bi nên khi vừa dời đô về
Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng nhiều chùa và tuyển chọn hàng nghìn người
ở kinh thành Thăng Long xuất gia đi tu. Vì thế, thời Lý - Trần, trung tâm sinh hoạt
văn hóa dân gian ở các làng xã là quanh các ngôi chùa; sang thời Lê, khi những ngôi
đình xuất hiện và phát triển thì chùa làng vẫn không giảm đi phần quan trọng. Theo
các nhà nghiên cứu thì 95% nền văn hóa Việt Nam hình thành từ làng xã, do đó, văn
hóa Phật giáo trong đó có chùa làng góp phần không nhỏ
Những lời đức Phật dạy cách đây hơn 25 thế kỷ nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
mãi là “khuôn vàng, thước ngọc” để giúp con người hình thành nhân cách, đạo đức và
vì thế đã hòa nhập với văn hóa Việt Nam, ngày càng sâu rễ, bền gốc trong lòng dân
tộc Việt Nam. Các triều vua Lý - Trần thấy được giá trị nhân bản của văn hóa Phật
giáo nên đã tự tu và dạy cho dân chúng tu, hình thành cốt cách văn hóa Đại Việt. Hiện

8
nay, những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc nói chung và văn hóa Phật giáo nói
riêng đang có dấu hiệu bị phai nhạt. Nhiều người không hiểu giáo lý Phật giáo mặc dù
đi chùa thường xuyên, trong đó có giới trẻ. Trong khi đó, sự cám dỗ về vật chất ngày
càng lớn, đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, tệ nạn xã hội tràn lan, gây bất ổn
cho không ít gia đình và phức tạp cho xã hội, nhưng nhiều người lại không tu học,
không hiểu nhiều, hiểu sâu về văn hóa Phật giáo để giúp định hướng cho cuộc sống
của mình. Đó là vấn đề cần quan tâm, trong đó việc phát huy tinh hoa văn hóa Phật
giáo.
Ở Việt Nam có những di tích cho thấy rõ ràng nhất về sự tồn tại của Phật giáo là Chùa
Một Cột, một công trình tiêu biểu của kiến trúc Phật giáo Việt Nam.

Hình ảnh Chùa Một Cột (Hà Nội). Nguồn: Internet

b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với Trung Quốc


Ảnh hưởng rõ ràng nhất của Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Độ khi đến Trung Quốc đã
phân tách thành các dòng lớn, mang màu sắc văn hóa nước này. Phật giáo Trung Quốc
chủ yếu là Phật giáo Bắc tông Hán truyền. Ở những tỉnh như Tây Tạng, Tứ Xuyên,
Thanh Hải thì có hệ thống Tạng truyền. Tại tỉnh Vân Nam có hệ thống Phật giáo Nam
truyền. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng Phật giáo rất phù hợp cho sự phát triển
về kinh tế - xã hội và văn hóa của đất nước Trung Quốc. Với sách lược là phải khôi
phục toàn bộ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, trong đó Phật giáo cũng được
khôi phục và phát triển, đã giúp nhu cầu về tín ngưỡng cũng như tu học của con người
trong xã hội Trung Quốc ngày càng cao, và do vậy, Phật giáo đã ứng dụng các tiện ích
hiện đại để đáp ứng nhu cầu đó một cách trọn vẹn
Đạo Phật có một tầm ảnh hưởng rộng lớn, mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng
hiện nay Phật giáo được tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người chính thức theo
Phật giáo (đã làm lễ Quy y Tam bảo) vào khoảng 350 triệu đến 750 triệu người, số
người chưa chính thức theo Phật giáo nhưng có niềm tin vào Phật giáo thì còn đông
hơn con số đó rất nhiều. Chẳng hạn như Trung Quốc với 1,4 tỷ dân thì phần lớn dân

9
số đều có niềm tin vào một số quan điểm trong triết lý Phật giáo, dù trên giấy tờ tùy
thân thì họ không xác định mình là tín đồ Phật giáo.
c) Đạo Phật với các vấn đề từ thiện của doanh nghiệp
Văn hóa dân tộc ta được xây dựng trên nền tảng văn hóa Phật giáo, nên tất cả những
gì lợi cho mình, lợi cho người, đem niềm vui đến cho mình, đem niềm vui đến cho
người, hoặc sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà có lợi cho người tiêu dùng; sự
giàu có của mình góp thêm vào sự giàu có của đất nước, tiền bạc của số người giàu
được chia sẻ lại cho số người còn người nghèo, để khoảng cách giàu nghèo rút ngắn
lại, thì đó chính là văn hóa Phật giáo. Do vậy, hàng ngày trên các phương tiện thông
tin đại chúng chúng ta dễ dàng thấy những thông tin về các hoạt động từ thiện, thiện
nguyện của các doanh nghiệp, doanh nhân, tổ chức và từ tất cả các tấm lòng hướng
Phật. "Từ" là "Từ Tâm"."Thiện" là việc tốt. "Từ Thiện" là làm việc tốt "Từ Tâm".
Làm từ thiện chính là làm theo lời dạy của Đức Phật. Phật Giáo có cả một kho tàng
quý báu về lý Nhân quả - Nghiệp báo, về bốn tâm vô lượng Từ- Bi- Hỷ- Xả, về Vô
thường -Vô ngã v.v… Đấy chính là nền tảng của một xã hội nhân ái, bình đẳng và văn
minh nếu những bài học giáo lý ấy biến thành hiện thực trong cuộc sống. Có thể nói,
xã hội Việt Nam từ ngàn xưa đã có truyền thống nhân ái cũng đều bắt nguồn từ những
bài học giáo lý nói trên. Vì vậy, hoạt động từ thiện hôm nay chính là con đường chủ
động đưa Đạo Phật đến với quần chúng. Con đường này sẽ đưa chúng ta đi đến mục
tiêu góp phần xây dựng xã hội an lạc theo tinh thần Phật Giáo. Ta có thể bắt gặp một
số điển hình như nữ doanh nhân say mê làm từ thiện chị Đỗ Thị Kim Liên, Chủ tịch
HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Bảo hiểm AAA, Lãnh sự Danh dự Cộng hòa
Nam Phi tại TP.HCM, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Chống gian lận thương mại và Hỗ
trợ người tiêu dùng TPHCM (AFCA). Bởi suy nghĩ khó lòng bình tâm trước những
mảnh đời bất hạnh mà công tác từ thiện xã hội của cá nhân chị cũng như công ty cứ
dày lên theo năm tháng. Những việc làm mang tính nhân văn sâu sắc gần đây mà
AAA đã tham gia là: đồng hành cùng Báo Công An TPHCM hỗ trợ 1,5 tỷ đồng để
xây dựng cầu treo Pô Kô cho đồng bào các xã Đăk Ang, Đắk Nông, Đăk Dục huyện
Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; ủng hộ tiền cho Quỹ Vì người nghèo TPHCM; xây dựng
nhà tình thương cho đồng bào nghèo ở Trà Vinh, Bình Phước; ủng hộ đồng bào bị bão
lũ ở các tỉnh miền Trung, xây nhà tang lễ cho bà con ở Vĩnh Phúc… Ngoài ra, còn rất
nhiều trường hợp đặc biệt khác mà chị cùng Bảo hiểm AAA đã âm thầm giúp đỡ và
tiếp sức. Cảm thương trước hoàn cảnh của cháu Ari – Phin ở An Giang, mới 4 tháng
tuổi mà cha mẹ đã mất trong vụ tai nạn giao thông, chị đã nhận nuôi cháu cho đến khi
trưởng thành. Những học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, những người không may
mắn tử nạn trong vụ sập đá ở Lèn Cờ tỉnh Nghệ An và gia đình có 5 người thân ở Thái
Nguyên bị tử nạn trong vụ giao thông kinh hoàng ở Hà Nội… đều nhận được sự đồng
cảm và hỗ trợ về vật chất của nữ doanh nhân này và Bảo hiểm AAA. Bên cạnh đó Bảo
hiểm AAA đã cùng Đại sứ quán Nam Phi, Đại sứ quán Brazil, Đại sứ quán Ấn Độ,
Công ty Sữa Abbott, Liên đoàn Xiếc Việt Nam, Báo An ninh Thủ đô và Công ty Haki
chung tay đóng góp ủng hộ và tổ chức chương trình từ thiện dành cho các em nhỏ bị
ung thư đang điều trị tại Bệnh viện Ung thư Trung ương – chi nhánh K2, Tam Hiệp,

10
Thanh Trì, Hà Nội. Nhiều năm qua, CLB doanh nhân và CLB nữ doanh nhân Sài Gòn,
hai tổ chức thuộc Hiệp hội Doanh nhân TPHCM với gần 1.500 doanh nghiệp thành
viên đã có nhiều hoạt động hỗ trợ cộng đồng như khám chữa bệnh, mổ mắt, mổ hàm
ếch, xây trường học, trạm xá cho các địa phương vùng sâu, vùng xa, tặng học bổng
cho học sinh nghèo và xây tặng hàng trăm căn nhà tình thương cho đồng bào nghèo ở
vùng biên giới và các tỉnh, thành trong cả nước.
Hàng trăm doanh nghiệp là thương hiệu mạnh, trong đó có 11/30 thương hiệu được
công nhận là thương hiệu quốc gia, cũng tích cực hưởng ứng và tham gia các hoạt
động hỗ trợ cộng đồng. Có thể nói, càng thành công trong kinh doanh, các doanh nhân
càng mong muốn được chia sẻ lợi nhuận để góp phần chăm lo cho người nghèo.
Những chuyến công tác từ thiện cứ nối tiếp nhau, danh sách những người được khám
chữa bệnh, được trao tặng nhà cứ dài thêm ra và niềm vui của các doanh nhân cũng
được nhân lên khi biết những đóng góp của mình đã đem niềm vui đến cho nhiều
người, giúp nhiều gia đình vượt qua cơn khốn khó…
Tuy Đạo Phật không liên quan đến doanh nghiệp nhưng suy cho cùng chúng đều ở
chung một tổng thể, quan hệ cộng hưởng lẫn nhau. Một doanh nhân thành đạt không
phải chỉ có các kiến thức chuyên môn và thái độ làm việc tích cực mà còn phải có tinh
thần và khát vọng xây dựng công cuộc kinh doanh mới. Để đảm bảo thành công trong
kinh doanh, mỗi doanh nhân phải sàng lọc chân lý từ những sai lầm; và kiên định
trong lời nói và hành động. Và mỗi doanh nhân phải kiên định rõ ràng cho đến khi họ
thực hiện thành công mục tiêu của mình trong bất kỳ lĩnh vực nào.Để có lợi nhuận cao
và có điều kiện phát triển mạnh doanh nghiệp, ngoài tính năng động, chuyên môn giỏi,
ngoài sự nhạy bén về thời cơ và thị trường, ngoài việc xây dựng thương hiệu, ngoài tài
năng tổ chức và quản lý, nhà doanh nghiệp cần có thái độ hành xử thích đáng đối với
công nhân, nhân viên và trách nhiệm đối với toàn xã hội.
4. Ảnh hưởng của đạo Phật đến đời sống- xã hội
 Làm hòa dịu mâu thuẫn người với người, gìn giữ hòa bình thế giới
Mối quan hệ người-người nói ở đây cũng là quan hệ giữa người này với người khác,
người với xã hội, người với dân tộc, người với quốc gia. Mối quan hệ người- người
trên thế giới hiện nay có hai vấn đề chính là: – Xung đột cục bộ diễn ra không dứt, gây
ra bởi các nhân tố va chạm lợi ích dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ, tài nguyên, nhân dân
một số nơi đang chịu khổ nạn chiến tranh; trong khi vấn đề an ninh truyền thống chưa
được giải quyết thì các vấn đề an ninh phi truyền thống như chủ nghĩa khủng bố lại
ngày một gay gắt; – Phân hóa giàu nghèo Nam – Bắc ngày càng mở rộng, khá nhiều
người còn sống nghèo khổ, đói rét. Xét về lí luận, một số quan niệm cơ bản của Phật
giáo có ý nghĩa hiện thực nhất định trong việc hóa giải các vấn đề trên.
Hòa bình và chung sống hòa bình là vấn đề lớn nhất. Hai cuộc đại chiến trong thế kỉ
XX làm cho hàng chục triệu sinh linh bị tàn sát; nếu trong thế kỉ XXI lại xảy ra đại
chiến thế giới thì loài người có thể cùng nhau bị tiêu diệt. Muốn tránh chiến tranh thì
phải tiêu diệt nguồn gốc chiến tranh; một trong các nguồn gốc đó là không hiểu lí lẽ

11
Duyên khởi: loài người phải dựa nhau mà sinh tồn, lợi ta phải lợi người; không coi
trọng hòa giải, hiểu nhau, mà coi kẻ khác là cừu địch, không tôn trọng sinh mệnh kẻ
khác. Tư tưởng bình đẳng của Phật giáo có nghĩa là tôn trọng nhau, là hòa bình. Tư
tưởng từ bi thể hiện sự đồng tình, thương yêu quan tâm người khác, cũng xa rời chiến
tranh, gìn giữ hòa bình. Từ bi tế thế và “ngũ giới”, “thập thiện” đều lấy “không sát
sinh” làm đầu. Từ ngày pháp sư Thái Hư ra sức đề xướng Phật giáo nhân gian, Phật
giáo Trung Quốc luôn quan tâm gìn giữ hòa bình thế giới. Phật giáo phát huy tác dụng
quan trọng độc đáo không thể thay thế trong việc gìn giữ hòa bình thế giới.
Sự phân hóa giàu nghèo Nam – Bắc, một số người sống nghèo khổ còn là căn nguyên
gây ra loạn lạc, trực tiếp đe dọa hòa bình khu vực và thế giới. Quan niệm bình đẳng từ
bi của Phật giáo là phương hướng hóa giải các vấn đề đó. Sự bố thí là một pháp môn
tu trì quan trọng, tức dùng lòng từ bi để tạo phúc cho người khác, cho họ của cải, sức
khỏe và trí tuệ.
Quy phạm đạo đức của Phật giáo, như “Thập thiện”: không trộm cắp, không nói càn,
không tà dâm, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói xiên xẹo (khởi ngữ),
không tham dục, không sân huệ, không tà kiến đều có ích cho sự hòa hợp mối quan hệ
người-người. Bốn giới đầu trong “Ngũ giới”, tức không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm và không nói xằng đều có thể dùng để tham khảo khi xây dựng đạo đức
chung toàn thế giới.
 Điều chỉnh mâu thuẫn người với thiên nhiên, xúc tiến sự phát triển chung
và phát triển bền vững
Hòa bình và phát triển là hai vấn đề lớn nhất của loài người hiện nay. Nếu gìn giữ hòa
bình đòi hỏi hài hòa mối quan hệ người-người thì phát triển chung và phát triển bền
vững không những đòi hỏi hài hòa quan hệ người-người mà còn đòi hỏi phải điều
chỉnh thích hợp quan hệ người với thiên nhiên, sao cho môi trường sinh thái được gìn
giữ tốt. Việc con người khai thác thiên nhiên quá mức, thậm chí cướp đoạt dã man
thiên nhiên đang hủy hoại nghiêm trọng sự hài hòa người-thiên nhiên, đe dọa sự sinh
tồn của loài người.
Tư tưởng triết học Phật giáo có ý nghĩa tham khảo về mặt điều chỉnh nhận thức tính
nghiêm trọng bức thiết của vấn đề môi trường. Trước hết, thuyết Duyên khởi nhấn
mạnh mọi sự vật đều do nhiều nguyên nhân điều kiện hòa hợp mà thành, không sự vật
nào tồn tại riêng rẽ. Như trái đất nơi loài người sinh tồn là do đất, biển, trời và các loài
động vật hợp thành; nếu đất thoái hóa, biển bị nhiễm độc, tầng ôzôn bị mỏng dần, các
loài động thực vật không ngừng biến mất thì sự tồn tại của trái đất sẽ có khó khăn, loài
người sẽ khó sinh tồn được. Thuyết Duyên khởi và thuyết chỉnh thể hữu cơ Phật giáo
có thể cung cấp căn cứ lí luận cho triết học môi trường hiện đại
5. Quan điểm của Đức Phật trong kinh doanh
Theo Đức Phật kinh doanh làm ăn tranh chống đạt được về Tài sản lớn mạnh và rộng.
Đâylà thông điệp mạnh mẽ nhất đây là thông điệp mạnh mẽ nhất để chúng ta không

12
còn phải băn khoăn rằng đạo Phật có ủng hộ công việc kinh doanh buôn bán hay
không!
Không chỉ ủng hộ phương thức mưu sinh bằng kinh doanh Ngài còn chỉ rõ ba yếu tố
để thành công trong kinh doanh là có mắt, Phải khéo phấn đấu và xây dựng được cơ
bản. Có mắt là thương nhân phải biết rõ giá trị sản phẩm của mình buôn bán, ở đâu
cần sản phẩm này? Mua ở thời điểm nào, bán ở đâu và thời điểm nào để có lợi nhuận
cao nhất? Mua rồi bán ngay hay dự trữ đến lúc Nào mới bán? Ngày nay người ta
thường gọi là tầm nhìn, hay chiến lược kinh doanh. Trong chu trình vận chuyển của
sản phẩm có lúc thuận, có lúc
nghịch, người thương nhân khéo léo vận hành, xoay sợ linh hoạt ngay cả trong chu
trình
nghịch (Như đúng vụ mà hàng vẫn ít, giá vẫn cao thì gọi là khéo phấn đấu). Cuối
cùng, xây dựng được cơ bản là thương nhân phải tích lũy vốn dồi giàu và xây dựng
được niềm tin với khách hàng cũng như bạn hàng
6. Đôi nét về đặc trưng kinh doanh theo triết lý Phật Pháp
Kinh doanh là nghề đối đầu với nhiều thách thức, nhiều áp lực và luôn khiến con
người phải đưa ra những lựa chọn khó khăn giữa các lợi ích. Trong cuộc chiến thương
trường khắc nghiệt, không ít doanh nghiệp chỉ nghĩ đến tìm mọi cách thu lợi nhuận
càng nhiều càng tốt, bỏ qua khía cạnh đạo đức, đánh mất lương tâm nghề nghiệp, bất
chấp lợi ích xã hội và tổn hại môi trường. Đặc biệt, nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nhiều
doanh nghiệp sẵn sàng cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất hàng hóa kém chất
lượng, sử dụng các chất phụ gia, các hóa chất độc hại gây bệnh ung thư trong các loại
thực phẩm… Điều này đã khiến người tiêu dùng lo lắng, bất an, gây ảnh hưởng đến
sức khỏe cộng đồng, chất lượng giống nòi và cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh
tranh của nền kinh tế, đến người kinh doanh chân chính.
Từ xưa đến nay ta vẫn thường quan niệm “thương trường là chiến trường” ắt phải có “
thương vong” do cạnh tranh khốc liệt. Với quan điểm ấy hoạt động kinh doanh và tư
tưởng Phật giáo dường như không có điểm chung tuy nhiên hiện nay chúng ta đang cố
gắng xây dựng một nền văn hóa kinh doanh dựa trên tứ vô lượng tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả-
những tư tưởng cốt lõi của Phật giáo.
+ Từ
Trong bối cảnh của cuộc sống, Từ thường được hiểu là mong ước người khác được
vui vẻ và hạnh phúc. Điều này thường bắt đầu bằng sự tập trung vào những người có
mối quan hệ với chúng ta và sau đó mở rộng sự thiền định vì hạnh phúc và niềm vui
đến cho người khác. Vậy điều này có quan trọng trong kinh doanh không? Từ trong
kinh doanh là gì? Có thể bạn là một người vô cùng nhân từ hay là một người có lối
sống nghệ sĩ hay là một chuyên gia tư vấn truyền thông xã hội. Trong mỗi bối cảnh,
sự giáo dục kinh doanh truyền thống là phải đối đầu với đối thủ cạnh tranh của mình.
Bạn làm tất cả mọi việc cũng nhằm mang lại những lợi ích nhiều nhất cho mình.

13
Thắng trong kinh doanh là để áp đảo thống trị. Và thành công là để thắng càng nhiều
càng tốt. Vậy điều gì xảy ra nếu bạn làm khác đi, dẫn đầu không phải để thống trị và
lấy đi mà để cùng đứng lên nâng tầm với thật nhiều đối tác càng tốt, ngay cả với người
bạn chưa hề biết? Đó có thể coi là Từ trong kinh doanh- không vì lợi ích của riêng bản
thân mình, của doanh nghiệp mình mà đạp bằng các doanh nghiệp khác, hãy nâng cao
giá trị của bản thân mình của doanh nghiệp mình bằng cách giúp những người khác,
doanh nghiệp khác cùng phát triển.
+ Bi
Như trên ta đã phân tích “Bi” là hy vọng nhằm loại trừ những khổ đau không có lợi
cho người khác hoặc có hại cho người khác”. Làm được như thế không chỉ giúp họ
không đối kháng với bạn mà làm cho cấu trúc và sự tương tác giữa đôi bên theo chiều
hướng mà họ cùng cảm thấy mình đều chiến thắng. Trước khi bắt đầu một cuộc trò
chuyện, buôn bán, đàm phán, thỏa thuận, lùi bước hay tiến tới, bạn có thể cố gắng đặt
mình vào vị trí của đối tác. Tạo ra một bản chi tiết cá nhân về họ, về cuộc sống của họ,
sự tranh đấu, lịch sử, mong ước, đau khổ cũng như các áp lực cá nhân trong công việc.
Sau đó, hãy liên tưởng bạn là chính họ. Không để cá nhân bạn chi phối. Bạn cảm nhận
sự sợ hãi, mong ước, nguyện vọng này của họ như thế nào? Liệu bạn có khả năng
nghe, thấy, và cảm nhân họ không? Nếu được thì bạn cảm thấy như thế nào? Liệu
những cảm giác này tạo ra nhiên liệu gì cho bạn? Bạn càng có khả năng cảm nhận
những điều này, hiểu và nuôi dưỡng lòng từ bi với những nhận định về thế giới kinh
doanh như đối tác của bạn thì bạn sẽ cảm thấy cuộc đối thoại thật sự làm cách nào tạo
ra một điều gì đó chung không phải chỉ cho những gì bạn cần mà tạo ra một giá trị
mới để cùng vực dậy cả hai.
+ Hỉ
Hỉ là cảm giác mà bạn thấy những điều tốt xảy ra với người khác mà bạn mong muốn
thành công, bạn cũng cảm thấy sự thành công đó như là của bạn. Không có sự ghen tị,
không có cảm giác bị thua thiệt, mất mát. Bạn cảm thấy như họ đạt được điều thắng
lợi đó là cho bạn. Trong kinh doanh, nhiệm vụ để nuôi dưỡng hai lượng tâm đầu tiên
Từ và Bi để có khả năng cảm nhận niềm hỉ lạc cho những ai thành công xung quanh
bạn. Bởi vì khi chấp nhận cảm giác ấy có sự kết nối lẫn nhau, bạn sẽ đến được đỉnh
điểm là hiểu rằng thành công của họ cũng chính là của bạn.
+ Xả
Xả là tha thứ, từ bỏ: tha thứ những lỗi lầm của người khác; chấp nhận từ bỏ danh
vọng, tài sắc, tính mạng của mình nếu thấy cần và có lợi cho người khác. Theo quan
điểm của đạo Phật, tất cả suy nghĩ và hành động của chúng ta đều khởi nguồn từ tâm.
Do đó, việc chúng ta đề cao hay không đề cao tính nhân văn, lòng trắc ẩn và tình
thương sẽ tạo nên những khác biệt lớn lao. Nếu chúng ta có tâm tốt và lo lắng tới việc
phát triển xã hội loài người thì dù chúng ta làm việc trong lĩnh vực khoa học, chính trị
hay kinh doanh, kết quả luôn luôn là có lợi ích. Khi chúng ta có một động cơ tích cực,
các hoạt động của chúng ta sẽ có ích cho nhân loại; còn không chúng sẽ chẳng có ích

14
lợi gì. Ví dụ trong lĩnh vực kinh doanh, việc theo đuổi lợi nhuận mà không đếm xỉa gì
đến các hậu quả có hại vẫn tạo ra những niềm vui lớn khi thành công. Nhưng những
kết quả cuối cùng sẽ vẫn là đau khổ: môi trường bị tàn phá, những phương pháp kinh
doanh trái đạo đức của chúng ta loại bỏ những phương pháp khác (có đạo đức hơn) ra
khỏi công việc kinh doanh, những vũ khí mà chúng ta chế tạo ra gây nên chết chóc và
thương tật. Đã có nhiều kết quả rõ ràng minh chứng cho điều này. Bởi vì cuộc sống
của chúng ta ngày nay bị ảnh hưởng của các quyết định kinh doanh ở cấp độ này hay
cấp độ khác, việc các quyết định kinh doanh có mang màu sắc của lòng từ bi hay
không ngày càng trở nên quan trọng hơn. Vì vậy, mặc dù việc thay đổi nội tâm để phát
triển lòng từ bi là rất khó khăn, nhưng rõ ràng đó là điều xứng đáng để chúng ta cố
gắng. Lòng từ bi cũng đem đến lợi ích kinh doanh thực sự. Ích lợi đầu tiên của lòng từ
bi là nó tạo nên những nhà lãnh đạo doanh nghiệp có hiệu quả cao. Điều này có nghĩa
là gì? Có ba thành phần của lòng từ bi. Có thành phần về xúc cảm, chính là “Tôi cảm
thông với bạn.” Có thành phần về nhận thức, chính là “Tôi hiểu bạn.”Và có một thành
phần về sự thúc đẩy, đó là “Tôi muốn giúp đỡ bạn.” Vậy cái này có liên quan gì đến
việc lãnh đạo doanh nghiệp? Theo một nghiên cứu rất toàn diện của Jim Collins, và
được ghi lại trong quyển sách “Từ tốt đến vĩ đại”, thì cần có một dạng nhà lãnh đạo
đăc biệt để đưa một công ty từ tốt đẹp lên vĩ đại. Và ông ta gọi đó là “nhà lãnh đạo cấp
độ 5″. Đây là những nhà lãnh đạo mà ngoài việc có khả năng làm việc rất cao, còn sở
hữu hai phẩm chất quan trọng, và đó là sự khiêm tốn và tham vọng. Đây là những lãnh
đạo có tham vọng làm những điều thiện lành. Và bởi vì họ tham vọng làm cái thiện,
họ không có nhu cầu tự tôn. Và theo nghiên cứu, họ là những nhà lãnh đạo doanh
nghiệp tốt nhất. Và nếu bạn quan sát các phẩm chất này trong ngữ cảnh của lòng từ bi,
chúng ta thấy rằng thành phần nhận thức và xúc cảm của lòng từ bi – thấu hiểu và
thông cảm với người khác – sẽ ngăn cản, làm giảm bớt, cái mà tôi gọi là sự ám ảnh về
bản thân quá mức trong mỗi chúng ta – từ đó tạo nên những điều kiện cho tính khiêm
tốn
7. Ảnh hưởng của Phật giáo trong kinh doanh đặc biệt là kinh doanh quốc tế
a) Ứng dụng tư duy đạo Phật vào kinh doanh tại Việt Nam
Người ta vẫn thường nói “thương trường là chiến trường”. Vì vậy, không thể phủ nhận
rằng kinh doanh là nghề đối đầu với nhiều thách thức, áp lực. Đặc biệt, giữa thời buổi
kinh tế mở và đang có sự hội nhập toàn cầu, sự cạnh tranh về sản phẩm/ dịch vụ giữa
các doanh nghiệp ngày càng diễn ra gay gắt. Chủ doanh nghiệp luôn đứng trước nhiều
sự lựa chọn, cân nhắc giữa những thiệt hại và lợi ích. Trong cuộc chiến thương trường
khắc nghiệt này, không ít doanh nghiệp chỉ chú tâm đến việc làm sao thu về cho mình
thật nhiều lợi nhuận mà quên đi các giá trị đạo đức khác. Thậm chí còn bỏ qua lương
tâm nghề nghiệp mà gây tổn hại đến môi trường và các lợi ích xã hội.
Đặc biệt, nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp đã bỏ qua sức khỏe của
người tiêu dùng mà cạnh tranh không lành mạnh, thêm vào sản phẩm các chất độc hại,
phụ gia…Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp kinh doanh
chân chính vì lợi ích chung mà còn gây tâm lý bất an, lo lắng cho người tiêu dùng, sức

15
khỏe cộng đồng. Lẽ dĩ nhiên, cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh tranh và sự
phát triển chung của toàn xã hội.
Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng tư duy đạo Phật vào kinh doanh như là một giải
pháp hiệu quả cho vấn đề trên. Theo đạo Phật, nghề nghiệp của mỗi người sẽ ảnh
hưởng đến các nhìn nhận và suy nghĩ của người đó. Vì vậy, cần tránh những việc như
buôn bán chất kích thích, chất độc hại, vũ khí, sinh vật sống, không giết hại động vật
để giữ gìn lương tri cho mình.
Khái niệm kinh doanh theo triết lý nhà Phật đang ngày được lan rộng và chấp nhận.
Những triết lý này giúp nhà kinh doanh hài hòa yếu tố cạnh tranh (đặc trưng của thị
trường tư bản chủ nghĩa), gia tăng sự bền vững, hòa hiếu giữa người với người và giữa
con người với thiên nhiên. Một chuyên gia nghiên cứu kinh tế học Phật pháp người
Nhật Bản đã mô tả mô hình kinh tế học theo triết lý nhà Phật với các đặc tính cơ bản
như: mang lại lợi ích cho nhiều đối tượng; dựa trên nguyên tắc về lòng bao dung và sự
hòa hợp; bảo vệ sự vững bền của Trái Đất
*Điển hình Việt Nam kinh doanh theo triết lí Phật pháp của chủ tịch Tôn Hoa
Sen
Bên cạnh tinh thần làm việc hết mình và không nản chí trước mọi khó khăn, ông Lê
Phước Vũ (Chủ tịch Tôn Hoa Sen) đã giác ngộ, đưa triết lý nhà Phật vào cuộc sống
với suy nghĩ: "Sống và làm việc không phải cho mình mà là cho tất cả mọi người".
Triết lý đạo Phật có ảnh hưởng lớn đến đường lối kinh doanh của Hoa Sen. Có hai
tính cách đối lập trong con người ông, đó là sự khát khao mãnh liệt của một nhà kinh
doanh và đức điềm tĩnh của một nhà sư. Phương châm kinh doanh của Chủ tịch Lê
Phước Vũ là làm ăn chân chính, tạo công ăn việc làm chính đáng cho người lao động,
mang lại những hạnh phúc căn bản nhất cho con người.
 
Trước sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều đối thủ có tiềm lực tài chính mạnh, ông luôn
nhất quán với nguyên tắc kinh doanh trung thực của nhà Phật, phát triển Hoa Sen dựa
trên 3 nền tảng giá trị cốt lõi: Trung thực – Cộng đồng – Phát triển.
 
Ông khẳng định, nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Ở
Hoa Sen, tính trung thực và tính cộng đồng là hai tiêu chí được đặt lên hàng đầu và trở
thành nét văn hóa của công ty.
 
“Do hệ quả của thời kỳ bao cấp để lại, ngoài thu nhập chính thống nhiều vị cũng kiếm
thêm, riết thành quen, nên khi bắt tay xây dựng một văn hóa mới, nhận thức mới cho
người lao động cực kỳ khó. Nhưng chúng tôi nhất quyết không có chuyện huê hồng,
không chấm mút hành, tiêu, tỏi, mắm. Có lòng trung thực mới có sự tin cậy. Có tin
cậy mới xây dựng cuộc sống tốt hơn”, ông chia sẻ.
 
Đứng mũi chịu sào trước doanh nghiệp quy mô hàng ngàn người, ông Vũ kể có dạo
nguyên một tuần ông gần như không ngủ. “Trên cương vị người đứng đầu doanh
nghiệp, mối quan tâm đầu tiên phải là công ăn việc làm, cuộc sống của hàng ngàn

16
nhân viên và đằng sau đó là hàng ngàn gia đình. Nhu cầu cuộc sống phải được nâng
lên và đó là điều chính đáng”, ông nói.
 
Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, để giữ vững hoạt động kinh doanh, theo ông Vũ:
“Kinh doanh là bài toán dòng tiền. Quản lý dòng tiền tốt phải quản lý từ khâu bán
hàng, đó là hệ thống phân phối và thương hiệu. Ta không đua được với thương hiệu
lớn về chi phí tiếp thị nên phải bắt đầu từ việc nhỏ nhất, gần gũi khách hàng qua hệ
thống bán lẻ.
 
Sau đó mới đầu tư thương hiệu, nhà máy với công nghệ cao dần, hoàn thiện chất
lượng liên tục với chi phí thấp nhất. Và sau khi ổn định thị trường nội địa, chúng tôi
vươn ra xuất khẩu. Đến giờ tôi có thể khẳng định, tập đoàn Hoa Sen là doanh nghiệp
đứng đầu trong ngành tôn ở Việt Nam và có vị thế ngày càng mạnh trên thị trường
khu vực”.
 
Khi được hỏi về sự khác biệt giữa một doanh nhân bình thường và một doanh nhân là
phật tử, ông Vũ chia sẻ: “Phật tử là một doanh nhân ngược lại thì điều đầu tiên phải
tin sự vô nhân quả. Phải hiểu rằng tất cả những của cải chúng ta tạo ra đều từ phước
báu đã gieo trồng nhiều đời trước. Phước báu này do nhân quả đời trước chúng ta biết
bố thí, cúng dường, đời nay chúng ta thành công, thuận lợi trong mọi việc làm ăn, ít
gặp chướng ngại.
 
Quan trọng nhất khi doanh nhân là Phật tử và ngược lại là làm sao giữ được phương
pháp hành trì Bát chánh đạo. Tin chắc nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và thấy mình vì
mọi người nhiều hơn để mọi người vì mình”.

b) Ảnh hưởng của Đạo Phật đến kinh doanh quốc tế


Thông thường các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần phải quan tâm đến 4 vấn đề
của tôn giáo. Đó là
+ Tôn giáo thống trị
+Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội
+Mức độ thuần nhất của tôn giáo
+Sự tự do tín ngưỡng trong xã hội
Tôn giáo cũng là một trong những nhân tố làm tác động đến quyết định mua hàng của
người tiêu dùng. Ví dụ: Việt Nam ngoài các trang sức bên Phật Pháp như dây đeo,
vòng chuỗi, … Thì mỗi năm Việt Nam nhập khẩu hàng chục lô hàng về trang sức bạc,
vàng, thỉnh bùa may mắn tại các chùa ở Thái Lan. Do văn hóa tương đồng và Phật
giáo rất phổ biến với người Thái Lan.
Trong các mối quan hệ xã hội, “trách nhiệm xã hội” của Phật giáo thể hiện trong hai
nguyên tắc đạo đức là “lục hòa” và “tứ ân”. Lục hòa là sáu sự hòa hợp gồm: “Giới
hòa, kiến hòa, lợi hòa, thân hòa, khẩu hòa, ý hòa”. Hòa trong Phật giáo có nghĩa là

17
hòa với mục đích đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. Trong đời sống xã hội; thì Phật
giáo khuyên lục hòa đồng tu, nghĩa là làm tròn bổn phận, trách nhiệm của mình trong
các mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái, đạo nghĩa thầy trò, tình bằng hữu, bà con
thân quyến v.v... “Tứ trọng ân” trong đạo Phật gồm ơn cha mẹ, ơn thầy cô, ơn quốc
gia và ơn Tam bảo. Thực chất của Tứ trọng ân nhắc nhở người tu hành theo Phật giáo
là phải có bổn phận, trách nhiệm với cha mẹ bằng sự cung kính, phụng sự và cầu chúc
cha mẹ giải thoát khỏi vòng sinh tử; có trách nhiệm với quốc gia, thế giới, giúp đỡ và
cầu cho tất cả chúng sinh đều được lợi lạc, giải thoát.

Vấn đề “trách nhiệm xã hội” là một pháp thực hành mang triết lý của đạo Phật, được
coi là phương tiện để con người đạt đến hạnh phúc, đồng thời cũng là chuẩn mực,
nguyên tắc điều chỉnh hành động trong các mối quan hệ xã hội của con người. Đặc
biệt đối với doanh nghiệp, triết lý này hoàn toàn không đi ngược lại với mục tiêu lợi
nhuận. Ngược lại, nếu doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm của mình với xã hội, uy tín
và hình ảnh của doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ củng cố
được niềm tin nơi khách hàng. Đây là một tài sản vô hình mà rất nhiều doanh nghiệp
thời nay phấn đấu đạt được. Nhiều doanh nghiệp phải bỏ ra hàng tỷ đô la để mua lại
những tài sản vô hình như vậy. Đồng thời, bằng cái tâm và trí tuệ hiểu biết về việc
mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, cho khách hàng, doanh nghiệp sẽ ngày càng
khẳng định được vị thế của mình trên thương trường. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
toàn cầu, giá trị văn hóa về trách nhiệm xã hội là một trong những thế mạnh giúp
doanh nghiệp có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên trường quốc tế.
Người ta dựa vào niềm tin tôn giáo trong việc đưa ra các quyết định có ảnh hưởng đến
những người khác; khi một người có một niềm tin tôn giáo, nó đơn giản không thể
định hình nên một cuộc sống mà nó loại trừ những niềm tin đó ra khỏi mọi liên
quan thực tế (Fort, 2008). Niềm tin tôn giáo có khả năng trở thành yếu tố cấu
thành toàn bộ khuôn khổ đạo đức toàn vẹn của một người. Đó là lý do tại sao Richard
Jones đã viết:
Tôn giáo tạo ra một khuôn khổ mà nó cung cấp ý nghĩa cho toàn bộ đời sống của một
người. Do đó, nó là không thực tế để hy vọng tách rời đức tin tôn giáo khỏi lĩnh
vực quan điểm hoàn toàn riêng tư mà không có ảnh hưởng lên các hành động cộng
đồng của họ. Tôn giáo không điều chỉnh chỉ những phạm vi giới hạn trong
đời sống tôn giáo – tôn giáo không phải là hạn chế tự do hoặc đời sống riêng tư hay cá
nhân. Thay vì vậy, tôn giáo bao hàm toàn diện trong ý nghĩa rằng tất cả các khía cạnh
của cuộc sống của một người là liên quan ở mức độ này hay mức độ khác với khuôn
khổ cơ bản này (Jones, 1994).
Tư tưởng phương Tây đầu tiên về điểm chung giữa tôn giáo và kinh tế tập trung chủ
yếu vào các tác động tiêu cực của tôn giáo truyền thống vào việc cải thiện các điều
kiện vật chất của cuộc sống. Trớ trêu thay, bây giờ có một ý thức tỉnh ngộ rõ
ràng và hoài nghi về mô hình tăng trưởng và phát triển "phi luân lý," "khoa học” của
phương Tây (Daniels, 2006). Thật là kỳ lạ rằng trong một môi trường kinh doanh đòi

18
hỏi trách nhiệm đạo đức của các nhà lãnh đạo kinh doanh, một nền tảng cho sự hiểu
biết về các nghĩa vụ đạo đức - truyền thống tôn giáo - bị loại khỏi các cuộc đối thoại
mang tính xây dựng
Trong bối cảnh đó, khái niệm kinh doanh theo triết lý Phật pháp đang ngày càng được
chấp nhận và lan tỏa, giúp các nhà kinh doanh hài hòa yếu tố cạnh tranh thị trường
TBCN, với sự bền vững, hòa thuận giữa con người với con người, giữa con người với
tự nhiên. Chuyên gia nghiên cứu kinh tế học Phật pháp người Nhật Bản, Shinichi
Inoue, trong cuốn sách “Putting Buddhism to work: A new approach to management
and bussiness” phát hành năm 1997 của mình, đã mô tả mô hình kinh tế học Phật pháp
với ba đặc tính cơ bản sau:
- Là nền kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các đối tượng liên quan; 2. Là
nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc về lòng bao dung và hòa hợp; 3. Là
nền kinh tế cho phép bảo vệ Trái Đất theo cách bền vững.
-Người theo Đạo Phật chủ yếu quan tâm đến siêu thoát, song không đối
nghịch với người theo chủ nghĩa vật chất. Theo quan điểm “không ai giàu
có nếu cố bám lấy của cải, không ai được lạc thú nếu cố tìm lạc thú”, nhà
kinh tế học Phật pháp sẽ coi tiêu dùng là phương tiện cho hạnh phúc con
người, nên mục tiêu là phải đạt hạnh phúc cao nhất bằng cách tiêu dùng ít
nhất. Lúc này hàng hóa tạo ra phải đạt giá trị sử dụng cao nhất, song lại tốn
ít chi phí tạo ra nhất, giúp để dành nguồn lực cho sáng tạo. Ví dụ, khi sản
xuất hàng hóa, việc các nhà sản xuất cố tình tạo ra các sản phẩm có vòng
đời ngắn hơn, dễ hỏng hóc hơn để rút ngắn chu kỳ kinh doanh và kiếm thêm
lợi ích cho mình từ dịch vụ sửa chữa sản phẩm là một sự lãng phí và dã man
đối với người tiêu dùng.
- Theo nhà kinh tế học Phật pháp E.F Schumancher, mối quan hệ giữa người
chủ lao động và người lao động, dưới góc độ nhà kinh tế học thông thường,
mang xu hướng đối nghịch nhau. Đối với chủ lao động, lao động đơn giản
chỉ là một hạng mục chi phí cần giảm đến mức tối thiểu, nếu không áp dụng
được tự động hóa, thì cũng cần tận dụng (hay bóc lột) người lao động ở
mức tối đa có thể. Còn đối với người lao động, lao động là công việc “vô
bổ”, hi sinh thời gian và sự thoải mái của bản thân để đổi lấy tiền công. Vì
vậy, lý tưởng của người chủ là làm sao có sản phẩm, mà không cần người
làm thuê; còn lý tưởng của người làm thuê là có thu nhập, mà mình không
bị người khác bóc lột. Tất nhiên là với quan điểm này, mâu thuẫn sẽ luôn
tồn tại và dễ bị đẩy đi xa. Còn theo quan điểm Phật pháp, chức năng lao
động có ít nhất ba mặt: Tạo cho con người cơ hội thực hành và phát triển
khả năng của mình; giúp con người khiêm nhường và hợp tác với nhau; sản
xuất ra hàng hóa và dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu cuộc sống. Lao động là
phương tiện xoay quanh trung tâm là con người, khiến con người vừa có
niềm vui của lao động, vừa có hạnh phúc khi nhàn rỗi. Đối với Phật pháp,
có 2 kiểu cơ giới hóa cần phân biệt: kiểu giúp phát triển tay nghề và quyền
năng con người, hoặc biến con người làm nô lệ phục vụ máy móc. Phật

19
pháp cũng không hướng đến lý tưởng tăng mãi các ham muốn, mà hướng
đến việc làm con người trở nên thuần khiết, trong sáng. Như vậy, kinh tế
học Phật pháp giúp hài hòa quyền lợi và nguyện vọng của tất cả các chủ thể
trong kinh doanh, hướng con người đến lối sống tích cực, giàu ý nghĩa.
Tóm lại, có thể mô tả đặc trưng cơ bản của kinh tế học Phật pháp là mô hình
kinh doanh và phát triển kinh tế chịu ảnh hưởng của một số đạo lý và thuyết
pháp của Phật giáo, lấy hạnh phúc con người và hòa hợp với thiên nhiên làm
mục tiêu chủ đạo. Một số doanh nhân nổi tiếng lựa chọn triết lý kinh doanh
Phật pháp cho bản thân, như: Tiến sĩ Kazuo Inamori – Nhà sáng lập và giám
đốc của Japan Airlines, tỷ phú Kith Meng của Campuchia, nguyên thủ tướng
Thaksin Shinawatra của Thái Lan, chính trị gia Padma Jyoti của Nepal, Chủ
tịch Samsung Lee Kun-hee...
8. Xu hướng kinh doanh theo triết lý Phật pháp tại một số quốc gia
Hiện nay, các quốc gia đang theo các phái bộ Phật giáo chính hiện nay là:
- Phật giáo Đại thừa (Mahayana): Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,
Singapore, Nepal và Đài Loan;
- Phật giáo Nam tông (Theravada): Thái Lan, Sri Lanka, Myanmar, Lào, Ấn Độ và
Campuchia; - Phật giáo Mật tông (Vajrayana): Tây Tạng, Mông Cổ, Tây Nam Trung
Quốc, Bắc Ấn Độ và Butan;
 - Phật giáo Tịnh Độ Tông (Pure Land Buddhism): Khu vực Đông và Nam Á;
 - Phật giáo Thiền tông (Dhyana hay Zen Buddihism): Một phân nhánh của Phật giáo
đại thừa, hiện là một trong những pháp môn được tu tập nhiều nhất tại các nước
Phương Tây.
 Các quốc gia trên cũng đã và đang áp dụng mô hình kinh tế học Phật pháp theo cách
của riêng mình, mà dưới đây là một vài ví dụ nổi bật:
+Đất nước Butan

Nằm trên dãy núi Himalayas giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Butan là quốc gia duy nhất
coi Phật giáo Mật tông làm tôn giáo chính thức. Người Butan tin rằng, đức tin đồng
lòng của tất cả tín đồ sẽ phát triển đủ lớn để bao trùm và cứu rỗi loài người. Đức tin
đóng vai trò quan trọng trong phát triển văn hóa, đạo đức và xã hội của Butan, khuyến
khích sự tôn kính đối với tự nhiên và các sinh vật sống.

Ngay từ năm 1971, Butan đã nổi tiếng do đo lường sự thịnh vượng không phải bằng
GDP, mà bằng sự hạnh phúc (Gross National Happiness – GHN) của người dân. GHN
được dựa trên bốn thành tố chính: Quản trị tốt, phát triển kinh tế xã hội bền vững, bảo
tồn và phát triển văn hóa bản địa, và bảo vệ môi trường. Nhờ niềm tin coi trọng con
người hơn sự phát triển vật chất thuần túy, mà ảnh hưởng của những khủng hoảng tài
chính, bất động sản toàn cầu hay sự bất bình đẳng xã hội, vấn nạn môi trường, mà báo

20
giới liên tục đăng tải ngày nay, lại trở nên xa lạ với đất nước Butan nhỏ bé. Butan
đang được coi là một ví dụ điển hình cho một quốc gia đang phát triển, song từ chối
việc theo đuổi tăng trưởng kinh tế làm lợi ích tối thượng; Thay vào đó, Butan xây
dựng một cách tiếp cận toàn diện hơn, ưu tiên vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững làm trọng tâm của hệ thống chính trị.

Năm 2012, tuổi thọ trung bình của người Butan đã tăng lên gấp đôi so với 20 năm
trước đó. Chương trình học của trẻ em tại đây, cũng được thêm vào các môn kỹ thuật
nông nghiệp cơ bản và bảo vệ môi trường. Các trường học cũng áp dụng hệ thống tái
chế 100% chất thải. Đến nay, phần lớn năng lượng trong nước đã được đáp ứng bằng
thủy điện, người dân và các loài sinh vật lẫn thực vật đều chung sống hài hòa. Butan
cũng hướng đến trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về phổ cập xe điện.

So với các nước láng giềng, Butan đang được coi địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất bán
đảo Ấn Độ và xếp hạng 75 thế giới trên tổng số 190 quốc gia được xếp hạng (theo báo
cáo của World Bank năm 2018). Điều này một phần do Butan đã tách được bản thân
khỏi xu hướng chung là thèm khát tài nguyên để phát triển, từ đó mở ra những hướng
phát triển hứa hẹn nở rộ trong tương lai.

+Sri Lanka

Sri Lanka có dân số 21 triệu dân, với 70% theo đạo Phật. Do vừa mới kết thúc 26 năm
nội chiến vào năm 2009, giữa chính phủ của những người Sinhalese theo đường lối
chủ nghĩa dân tộc Phật giáo với đội quân “Những con hổ giải phóng Tamil” theo Hồi
giáo, Sri Lanka đang trong quá trình phục hồi và hòa hợp dân tộc. Một trong những
mục tiêu của quốc gia này là chiếm lại được tình cảm của cộng đồng quốc tế, và việc
tích hợp các giá trị Phật giáo vào các chính sách đối ngoại đang giúp hiện thực hóa
các mục tiêu đó. Với vị trí chiến lược nằm tại trung tâm Ấn Độ Dương, Sri Lanka đã
thu hút được nhiều sự quan tâm của Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nhật Bản và đặc biệt là Trung
Quốc. Đất nước đã tiếp nhận nhiều khoản vay từ Trung Quốc để xây dựng cơ sở hạ
tầng và hiện cũng đang gặp khó khăn để trả những khoản vay đó.

Trước những vấn đề hiện nay của Sri Lanka, ngày càng nhiều ý kiến cho rằng đất
nước nên từng bước áp dụng triết lý Phật giáo để giúp nền kinh tế phát triển bền vững
hơn. Đặc biệt, với vẻ đẹp thiên nhiên phong phú và hoang sơ, hướng phát triển về du
lịch tâm linh, sinh thái, gắn liền với bảo vệ môi trường đang dần được các nhà đầu tư
chú ý.

Các nhà kinh tế học Phật pháp của Sri Lanka cho rằng phương thuốc cho mọi vấn đề
của thế giới, như đói nghèo, bất bình đẳng, bất ổn và bạo lực, là từ bỏ các lý thuyết và
mô hình kinh tế phương Tây và áp dụng kinh tế học Phật pháp – các nguyên tắc kinh
tế đã được Đức Phật đưa ra từ 2550 năm trước. Đức Phật dạy rằng việc theo đuổi, tích
lũy và sử dụng của cải không chỉ nhằm phục vụ cá nhân, mà còn bởi trách nhiệm xã
hội và lòng trắc ẩn đối với những người kém may mắn và thành công hơn. Mặc dù
công nghệ ngày càng hiện đại, song thế giới vẫn không trở nên thực sự tốt đẹp hơn.
Thậm chí, chúng còn góp phần gia tăng sự chênh lệch về kinh tế, xã hội, gây bất ổn và

21
xung đột. Xét với tình hình hiện nay ở Sri Lanka, đây cũng có thể là một cách tiếp cận
phù hợp giữa bản sắc, văn hóa địa phương và nhu cầu từ thực tiễn.

Myanmar

Cách đây hơn 20 năm, quốc gia Myanmar quân chủ đã bị Hoa Kỳ tuyên bố áp dụng
các biện pháp trừng phạt về kinh tế do các cáo buộc vi phạm nhân quyền về đàn áp
người Hồi giáo. Các chính sách cô lập và quản lý kinh tế sai lầm của các chính phủ
trước đây đã khiến Myanmar có cơ sở hạ tầng nghèo nàn, tham nhũng đặc hữu, nguồn
nhân lực kém phát triển và không đủ khả năng tiếp cận vốn. Chính phủ Myanmar khá
chậm chạp trong việc giải quyết các trở ngại cho phát triển kinh tế, như: Quyền đất đai
không rõ ràng; Hệ thống cấp phép thương mại hạn chế; Hệ thống thu ngân sách thiếu
minh bạch và hệ thống ngân hàng lạc hậu.

Cuộc cải cách dân chủ và kinh tế ở Myanmar bắt đầu vào năm 2011. Đến khi chính
quyền dân sự lên nắm quyền năm 2015 và nằm dưới sự lãnh đạo không chính thức của
bà Aung San Suu Kyi - chính trị gia dân chủ từng được trao giải Nobel Hòa bình,
quốc gia này đã đạt được nhiều tiến bộ trong thu hút đầu tư nước ngoài và tái hòa
nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Đến tháng 10 năm 2016, Myanmar đã được Hoa Kỳ dỡ
bỏ hoàn toàn lệnh trừng phạt kinh tế. Từ đó, Myanmar trở thành một trong những thị
trường sơ khai (frontier market) hấp dẫn nhất thế giới, thu hút hàng loạt công ty đa
quốc gia lớn tới đầu tư, như Nestle, Coca-Cola, Visa…

 Có một điểm thú vị là tập đoàn Viettel hiện đang phát triển khá tốt ở thị trường
Myanmar. Sự tương đồng về văn hóa giữa Việt Nam và Myanmar cùng kiến thức,
kinh nghiệm làm việc với tốc độ khó tin tại mạng di động này là những điều khiến
nhiều người trẻ Myanmar yêu thích. Với phương thức làm việc cho phép người địa
phương làm chủ công việc và trực tiếp tạo ra những thay đổi tích cực cho đất nước,
cộng thêm mức thu nhập không nhỏ so với mặt bằng chung, đã giúp hiện thực hóa
mục tiêu 3 triệu khách hàng của Mytel trong năm 2018.

 Là quốc gia với 90% dân số theo đạo Phật giáo Nam tông, người dân Myanmar rất
nhiệt tình làm từ thiện và tình nguyện giúp đỡ lẫn nhau, kể cả người lạ. Tại trung tâm
Phật giáo của Myanmar là Mandalay và Sagaing, có hàng ngàn tu sĩ, nữ tu và cư sĩ
Phật giáo dành thời gian trong vô số tu viện và chùa chiền để thiền định và nghiên cứu
các giáo lý Phật giáo. Quan niệm của người Myanmar về quyên góp từ thiện cũng
khác so với quan điểm phổ biến hiện nay, khi họ làm từ thiện để tích đức và mong có
được tương lai tốt đẹp hơn. Điều này dẫn đến việc người dân cố gắng từ thiện hết
những gì mình có thể. Theo CIA ước tính, khoảng 26% trên tổng số 51 triệu người
Myanmar thuộc diện nghèo khổ, 41% dân số đô thị ở Myanmar sống ở các khu ổ
chuột. Tuy nhiên, Đức Phật đã chỉ rõ cách mà bạn nên làm với lợi nhuận của mình:
Hãy chia ra làm bốn phần, một phần tư cho bản thân và gia đình; một phần tư cho đầu
tư tương lai; một phần tư để quyên góp và một phần tư để tiết kiệm. Vì vậy, cho đi hết
những gì mình có không nằm trong giáo lý nhà Phật.

Thái Lan

22
Tại Thái Lan, mô hình kinh tế học Phật giáo nổi bật qua hai mô hình chính:

1)    Mô hình kinh tế hiệu quả của Hoàng gia Thái Lan (The Royal Thai Sufficiency
Economy Model):

 Mô hình này hoạt động dựa trên các nguyên tắc về điều tiết, hợp lý, tự chủ, khôn
ngoan và liêm chính được Quốc vương Thái Lan giới thiệu đến công chúng khi khủng
khoảng tài chính 1997 xảy ra và hiện được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) coi là mô hình tốt nhất cho phát triển. Mô hình này đã thành công trong thúc
đẩy sự thịnh thượng ở cấp độ cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng và khu vực từ nông
thôn đến thành thị và hứa hẹn được đưa vào chính sách quốc gia nhờ tính tương hỗ
với những chiến lược kinh tế tư bản khác. Trước cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sau
nhiều thập niên tăng trưởng mạnh mẽ, Quốc vương đã đưa ra sự thay đổi trong quan
điểm: Trở thành con hổ không còn quan trọng đối với những người luôn mong Thái
Lan sẽ trở thành con hổ thứ 5 bên cạnh “Những phép màu” ở Đông Á. Quốc vương
chỉ ra rằng điều quan trọng với chúng ta là có được một nền kinh tế tự chủ, tự đáp ứng
được nhu cầu của bản thân. Ngay từ những ngày đầu trị vì hơn 60 năm trước, Nhà vua
đã luôn sát sao theo dõi dân chúng của mình sống ra sao. Từ đó, ông nhận thấy rõ sự
hiện đại hóa đang ngày càng khiến người nông dân phải gánh những khoản chi phí lớn
hơn; Các doanh nghiệp lớn bắt đầu chèn ép các nông hộ nhỏ, và sự chênh lệch giàu
nghèo càng khiến vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp hơn. Từ đó, Nhà vua đã xây dựng
cách tiếp cận phát triển riêng, thành lập các trung tâm nghiên cứu kỹ thuật nông
nghiệp nhằm giúp đỡ người nông dân bớt vất vả. Ủy Ban Phát triển Kinh tế Xã hội
Quốc gia của Thái Lan đã nghiên cứu áp dụng ý tưởng này của Nhà vua vào xây dựng
chính sách, với các nguyên tắc: Sự điều tiết – đảm bảo không dư thừa hay quá ít; Sự
hợp lý – phân tích hậu quả của các hành động và thực hiện chúng với lòng trắc ẩn; Sự
tự chủ - không phải là tự cô lập, mà tự lực và tự giác đối phó với những cú sốc và sự
kiện ngoài ý muốn; Sự khôn ngoan – không chỉ có kiến thức, mà còn sử dụng chúng
cân nhắc sâu sắc; Sự liêm chính – bảo đảm trung thực, siêng năng và không bóc lột.
Các doanh nghiệp Thái Lan đã ứng dụng ý tưởng của Nhà vua một cách rất hiệu quả.
Ban đầu thì sản xuất quy mô nhỏ, tự chủ, tự lực nhằm giúp giảm chi phí, hạn chế vay
nợ và hướng đến tốc độ tăng trưởng vừa phải. Sau đó, tập trung ưu tiên đầu tư phát
triển nội bộ, đào tạo nhân viên, thiết kế sản phẩm và đổi mới công nghệ nhằm tăng
năng suất lao động và bảo vệ môi trường. Đây là hướng phát triển bền vững và mang
lại thành công trong lâu dài.

2)    Mô hình Phong trào cải trách Phật giáo Santi Asoke (Santi Asoke Buddhist
Reform Movement of Thailand):

Mô hình này có phạm vi phổ cập thấp, khi hướng cộng đồng giải phóng sự gắn bó vật
chất để đạt được sự tự do tâm linh. Phong trào thể hiện khuynh hướng khổ hạnh và chỉ
trích chủ nghĩa tư bản về vấn đề lòng tham, cạnh tranh và bóc lột, có một số điểm
tương đồng với mô hình kinh tế học Phật pháp. Phong trào Asoke đề xuất mô hình mà
người tham gia, khi lao động không được trả lương, nhưng được hưởng một số phúc
lợi, bao gồm: Thức ăn, chỗ ở, quần áo và thuốc men, được hỗ trợ tinh thần, giáo dục
miễn phí và môi trường tích cực cho trẻ em phát triển. Con người lúc này đóng góp

23
hầu hết tài sản của mình cho tập thể và chia sẻ các tài nguyên chung, cố gắng chăm
chỉ, cần cù, có kiến thức và sử dụng tiết kiệm tất cả nguồn lực.

Mông Cổ

Là quốc gia mà văn hoá du mục vẫn còn tồn tại và được làm giàu rất nhiều bởi
Phật giáo, tại Mông Cổ, ý thức về cộng đồng được thúc đẩy rất mạnh mẽ. Bắt đầu bởi
thực tế những người du mục chỉ có thể tồn tại bằng cách kết hợp và giúp đỡ lẫn nhau,
thay vì cạnh tranh với nhau, cộng đồng của người Mông Cổ đưa mọi kẻ mạnh và kẻ
yếu trở thành người thân và coi việc giúp đỡ người khác sống sót cũng chính là giúp
mình sống sót. Sự chia sẻ cũng không chỉ gói gọn bằng vật chất, mà còn cả về tinh
thần. Do đó, chúng ta có thể hình dung thấy bức tranh của sự phát triển không hề bỏ
lại, hay hi sinh bất kỳ cá nhân nào. Bên cạnh đó, một trong những lý tưởng quan trọng
trong Phật giáo có thể mang vào cuộc sống, đó là sự phát triển của các cá nhân (hay
quốc gia) sẽ có ý nghĩa hơn, nhanh hơn và bền vững hơn, khi đi kèm với sự giúp đỡ
và hỗ trợ người khác (hay quốc gia khác).

Hiện nay, biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng đến lối sống du mục của người Mông Cổ rất
nhiều. Trong 3 thập niên qua, khoảng 600.000 người du mục, tức 20% dân số Mông
Cổ, đã rời bỏ thảo nguyên chuyển đến Ulaanbaatar, làm dân số thủ đô tăng gấp đôi.
Kinh tế Mông Cổ ngày nay dựa nhiều vào khai thác khoáng sản, nổi bật là khai thác
than và đồng bán cho Trung Quốc. Năm 2011, kinh tế Mông Cổ tăng trưởng 17%, trở
thành điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi kinh tế Trung Quốc tăng
trưởng chậm lại, giá cả các loại hàng hóa lao dốc, khiến kinh tế Mông Cổ chật vật, rơi
vào nợ nần. Điều này đã tạo áp lực khiến quốc gia Đông Á này phải đa dạng nền kinh
tế, tăng cường đầu tư vào du lịch và phát triển nông nghiệp.

CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT


Tóm lại, Tôn giáo là một phần không thể thiếu của đời sống xã hội.

Đạo Phật phát triển mạnh và phân bố rộng khắp và có ý nghĩa tâm linh rất lớn với con
người trong nhiều lĩnh vưc về văn hóa, xã hội và về kinh doanh. Khi kinh doanh,
doanh nghiệp cần tìm hiểu thật kĩ văn hóa phong tục tập quán của từng vùng miền, về
tôn giáo, về cách suy nghĩ của con người để tránh rủi ro trong đàm phán và tránh thua
lỗ. Đạo Phật ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực và mang ý nghĩa triết lí cao cả là mang đến
niềm vui, mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người. Đối với kinh doanh và
đặc biệt là kinh doanh quốc tế, các công ty sản xuất các mặt hàng, sản phẩm mang yếu
tốt tâm linh cao, hay những doanh nghiệp làm về dịch vụ khách hàng cần quan tâm
nhiều đến tôn giáo tín ngưỡng của khách hàng có như vậy mới nắm bắt được thị
trường dễ hơn, sản phẩm thu hút người tiêu dùng hơn.

Nếu chiêm nghiệm giáo lý trong các bản kinh dạy về đời sống vật chất và tinh thần
cho Phật tử tại gia, ta sẽ thấy đức Phật hết sức quan tâm đến động cơ và nội dung đạo
đức của mọi chính sách phát triển kinh tế. Lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế phải xây

24
dựng trên nền tảng giáo lý nhà Phật, thọ trì đạo đức từ những nguyên tắc Phật giáo
mới có thể bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o

2. https://www.bbc.com/vietnamese/forum-48313898

3. https://thuvienhoasen.org/a34120/lich-su-phat-giao-viet-nam-sach-ebook-pdf

4. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Ph
%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam

5. https://123doc.net/document/130749-mot-so-anh-huong-cua-phat-giao-den-xa-
hoi-va-con-nguoi.htm

6. https://123doc.net/timkiem/%E1%BA%A3nh+h%C6%B0%E1%BB%9Fng+c
%E1%BB%A7a+t%C3%B4n+gi%C3%A1o+%C4%91%E1%BA
%BFn+kinh+doanh.htm

25

You might also like