You are on page 1of 47

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc



ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÁO CÁO TỔNG KẾT NGHIÊN CỨU HỘI THI

“SINH VIÊN ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG PHÂN


TÍCH KINH TẾ, TÀI CHÍNH, QUẢN TRỊ KINH DOANH NĂM 2018”

MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
VÀ CHẤT LƯỢNG LỢI NHUẬN
CỦA DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Tôn Nhân

Nhóm thực hiện


1. Trần Kim Hiền K144091197
2. Trịnh Hải Linh K144091217
3. Phạm Lê Minh Tú K154010076
4. Trần Nguyễn Khánh Thanh K154080842
LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian nghiên cứu, học tập tại khoa Kế toán - Kiểm toán trường Đại học
Kinh Tế-Luật Trực thuộc Đại Học Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh, được sự giúp đỡ
quý báu của các thầy giáo, cô giáo nhóm nghiên cứu đã hoàn thành bài báo cáo
nghiên cứu khoa học. Hoàn thành bài báo cáo này, cho phép nhóm nghiên cứu
được bày tỏ lời cảm ơn các thầy cô giáo công tác tại Trung tâm Nghiên cứu Kinh
tế và Tài chính trường Đại học Kinh Tế-Luật trực thuộc Đại Học Quốc Gia TP.Hồ
Chí Minh đã giúp đỡ nhóm nghiên cứu hoàn thành bài báo cáo này. Đồng thời
nhóm nghiên cứu xin chân thành gửi lời cảm ơn đặc biệt về sự hướng dẫn tận tình
của thầy Nguyễn Tôn Nhân đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ nhóm nghiên cứu trong
suốt quá trình hoàn thành bài báo cáo này. Tuy vậy, do thời gian có hạn, cũng như
kinh nghiệm còn hạn chế của sinh viên nên trong bài nghiên cứu này sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Vì vậy, nhóm nghiên cứu rất mong
nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các đồng môn
để nhóm nghiên cứu có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến thức của mình, phục vụ
tốt hơn công tác thực tế sau này.
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................... i
1 Tổng quan nghiên cứu .......................................................................................................................... 1
2 Cơ sở lý thuyết ...................................................................................................................................... 4
2.1 Khái niệm và phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận......................................................... 4
2.1.1 Khái niệm chất lượng lợi nhuận ............................................................................................ 4
2.1.1. Các phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận ................................................................. 7
2.1.2 Các mô hình phổ biến đo lường chất lượng lợi nhuận dựa vào mô hình dồn tích .............. 11
2.2 Vai trò của thành viên độc lập trong HĐQT ................................................................................ 16
3 Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................................... 20
3.1 Chọn mẫu .................................................................................................................................... 20
3.2 Mô hình hồi quy .......................................................................................................................... 21
3.3 Mô tả biến phụ thuộc (Chất lượng lợi nhuận) ............................................................................ 24
3.4 Mô tả biến độc lập ...................................................................................................................... 25
3.4.1 Tỷ lệ vốn vay ...................................................................................................................... 25
3.4.2 Dòng tiền ............................................................................................................................. 26
3.4.3 Cơ hội đầu tư....................................................................................................................... 26
3.4.4 Chất lượng công ty kiểm toán ............................................................................................. 28
3.4.5 Độ lớn của công ty .............................................................................................................. 29
4 Kết quả thực nghiệm và kiểm định mô hình ....................................................................................... 32
4.1 Kết quả thực nghiệm................................................................................................................... 32
4.2 Kết quả kiểm định mô hình ......................................................................................................... 34
5 Tóm tắt và kết luận ............................................................................................................................. 36
LỜI MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của đề tài
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, báo cáo tài chính (BCTC)
có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp thông tin đối với nhà đầu tư,
các tổ chức quản lý, điều hành thị trường, là điều kiện thúc đẩy thị trường chứng
khoán (TTCK) phát triển hiệu quả và lành mạnh. Trong bối cảnh thị trường chứng
khoán còn khá non trẻ ở Việt Nam, thực tế nội dung thông tin và công bố thông tin
định kỳ trên BCTC và báo cáo thường niên của các công ty niêm yết gần đây bộc lộ
một số vấn đề có ảnh hưởng quan trọng đến tính hữu ích của thông tin và tính minh
bạch của thị trường. Vào tháng 1/2007, Thời báo kinh tế Việt Nam đăng tin, nhiều
nhà đầu tư nhỏ lẻ đã thua lỗ từ hàng trăm đến hàng tỷ bạc do mua cổ phiếu của các
công ty lần đầu lên sàn có giá bị đẩy lên quá. Điều này cho thấy rằng, nhà đầu tư
thường bị thu hút bởi số lượng lợi nhuận. Vậy số lượng lợi nhuận được công bố
trên các BCTC của các doanh nghiệp liệu có đánh giá đúng thực trạng thình hình
tài chính?
Trong bài phỏng vấn PGS.TS Đặng Văn Thanh, Phó chủ tịch Hội Kế toán và
Kiểm toán Việt Nam (VAA), Chủ tịch Câu lạc bộ Kế toán trưởng toàn quốc, ông
cũng đề cập đến thách thức lớn nhất của việc lập và công bố BCTC đó chính là tính
minh bạch. Ông nhấn mạnh vai trò công khai và tính minh bạch của BCTC, tuy
nhiên, thực trạng hiện nay vấn đề công khai, minh bạch lại chưa có sự ràng buộc
chặt chẽ về mặt pháp lý, nên rất nhiều trường hợp mới chỉ là công khai và dừng lại
ở yêu cầu công khai, trong khi cái cần hơn lại là sự minh bạch, điều này trước hết là
gây khó khăn cho nhà đầu tư khi dựa vào những con số lợi nhuận được công bố trên
BCTC để nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp, trong đó có thực
trạng tài chính.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch của BCTC, nhưng yếu tố
cơ bản và quan trọng nhất đó chính là mâu thuẫn trong lợi ích giữa người lập
(người đại diện – quản lý) và người sử dụng BCTC (chủ sở hữu – nhà đầu tư). Để
bảo vệ lợi của nhà đầu tư cũng như nâng cao chất lượng lợi nhuận thì buộc phải có
một hệ thống kiểm soát hoạt động quản trị hiệu quả trong công ty. Trong bài nghiên
cứu của Fama 1980; Fama và Jensen 1983 đã chỉ ra rằng Hội đồng quản trị
(HĐQT) là phần tử cơ bản trong quản lý doanh nghiệp bởi họ có khả năng kiểm

i
soát chất lượng BCTC, kiểm soát quản lý cấp cao đồng thời đại diện cho cổ đông.
Và nhân tố quan trọng giúp phát huy tối ưu hoạt động kiểm soát quản trị của HĐQT
là sự hợp thành và tỷ lệ của Thành viên Độc lập trong HĐQT công ty (Fields và
Keys 2003). Thành viên độc lập của HĐQT tránh được sự thông đồng với quản trị
của công ty vì thu nhập của họ phụ thuộc vào hiệu suất đánh giá thi hành. Cổ đông
bên ngoài sẽ yêu cầu những thành viên độc lập trong HĐQT kiểm soát quá trình
BCTC, công việc nội bộ với mục tiêu bảo vệ cổ đông đặc biệt là đối với cổ đông
nhỏ và vừa. Như vậy, thành viên độc lập trong HĐQT có thể hạn chế sự chủ quan
của quản trị bằng chức năng kiểm soát, điều khiển việc thực hiện BCTC của quản
lý. Và khi tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT càng cao thì hiệu suất kiểm soát gia
tăng và vì vậy làm tăng kỳ vọng chất lượng lợi nhuận. Nhóm nghiên cứu mong đợi
rằng tỷ lệ Thành viên Độc lập trong HĐQT cao sẽ cải thiện được chất lượng lợi
nhuận bằng cách hạn chế hành vi thao túng lợi nhuận của ban quản lý cấp cao công
ty hay có thể nói tỷ lệ Thành viên độc lập trong HĐQT càng cao thì chất lượng lợi
nhuận càng cao, BCTC càng minh bạch, đảm bảo thông tin công bố, hạn chế rủi ro
cho nhà đầu tư.

Mục tiêu đề tài


Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối quan hệ tuyến tính
giữa tính độc lập của Hội đồng quản trị và chất lượng lợi nhuận của các doanh
nghiệp niêm yết tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 – 2016. Từ đó, đưa ra đề xuất
cho người sử dụng thông tin lợi nhuận được công bố trên các BCTC cũng như kiến
nghị các doanh nghiệp về việc nâng cao chất lượng lợi nhuận.

Nội dung nghiên cứu


Nội dung của bài nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng với khuôn khổ quản lý
và nhà đầu tư về vấn đề hành vi quản trị lợi nhuận và cải thiện chất lượng của
BCTC. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung giải thích mối liên hệ tuyến tính giữa
thành viên độc lập trong HĐQT và chất lượng lợi nhuận ở các công ty niêm yết trên
sàn chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu được chia theo cấu trúc sau. Phần 1 chúng
tôi đưa ra một góc nhìn tổng quát về các nghiên cứu về vai trò của thành viên độc
lập trong HĐQT. Phần 2 chúng tôi trình bày khái niệm của chất lượng lợi nhuận và
vai trò của thành viên độc lập trong HĐQT. Phần 3 chúng tôi phát triển các giả thiết
các thể kiểm chứng được và phương pháp đo lường. Phần 4 trình bày kết quả thực

ii
nghiệm và kiểm định. Và phần cuối cùng trình bày tóm tắt và kết luận của nghiên
cứu.

iii
1 Tổng quan nghiên cứu
Công ty đại chúng (Công ty cổ phần) là loại hình doanh nghiệp đóng vai
trò quan trọng trong nền kinh tế hiện đại. Lý thuyết người đại diện ra đời vào
những năm 1970 khi các nhà kinh tế nghiên cứu việc phân chia rủi ro giữa
người ủy quyền và người đại diện do họ có mục tiêu và sự phân công lao động
khác nhau. Công ty được sở hữu bởi những cổ đông (người ủy quyền), nhưng
hoạt động kinh doanh lại được điều hành bởi những nhà quản lý (người đại
diện). Có hai cách trả lương cho người đại diện: (i) trả khoản lương cố định, (ii)
trả theo hiệu quả kinh doanh. Đa số, nhà quản lý được trả lương phối hợp cả hai
cách trên bởi lẽ nhà đầu tư muốn tối đa hóa nguồn tài sản họ đầu tư do vậy nếu
chỉ trả lương cho người đại diện theo khoản lương cố định sẽ làm cho họ không
có động lực để sử dụng tối đa nguồn lực đó. Người ủy quyền (chủ sở hữu) giao
phó công việc cho người đại diện thông qua một hợp đồng, hợp đồng này có
khuynh hướng khuyến khích nhà quản lý tối đa hóa giá thị trường và lợi nhuận
của công ty. Nhằm đạt được các mục tiêu mà nhà đầu tư kỳ vọng (ví dụ: để giữ
công việc hoặc để được thưởng theo hợp đồng…) người đại diện sẽ thực hiện
các quyết định đầu tư, hoặc có các chính sách rủi ro cao hay có thể bóp méo kết
quả trên BCTC thông qua vận dụng các chính sách kế toán để đạt được mục
tiêu và hưởng lợi cá nhân. Khi này, xuất hiện xung đột lợi ích giữa cổ đông và
người đại diện. Lý thuyết đại diện cho rằng xung đột sẽ phát sinh khi có thông
tin không đầy đủ và bất cân xứng giữa người ủy quyền và người đại diện
(thường thì người đại diện biết nhiều thông tin hơn người ủy quyền về công
việc mình làm) (Fama and Jensen 1983). Sự tồn tại của thông tin không hoàn
hảo và thông tin không đối xứng dẫn tới những hành vi cơ hội của người đại
diện. Do đó, hoạt động giám sát của HĐQT cho các quyết định được thực hiện
bởi nhà quản lý trở nên quan trọng nhằm đảm bảo lợi ích của các cổ đông
(Fama and Jensen 1983).
Sau vụ sụp đổ lịch sử công ty Enron và Worldcom, Mỹ đã ban hành Đạo luật
Sarbanes – Oxley (SOX) bảo vệ nhà đầu tư, khôi phục và mang lại tính minh
bạch cho thị trường chứng khoán. Đạo luật bổ sung các quy định ràng buộc
trách nhiệm cá nhân của ban quản lý cấp cao đối với độ tin cậy của BCTC, bên
cạnh đó yêu cầu các công ty đại chúng phải có những thay đổi trong kiểm soát
nội bộ, đặc biệt là kiểm soát công tác kế toán. Một số nghiên cứu trước chỉ ra

1
tác động tích cực của các thành viên độc lập của công ty trong việc thực hiện
các quyết định nhằm mục đích làm gia tăng tài sản cho cổ đông (Bai et al. 2004;
Cravens & Wallace 2001; Choi et al. 2007; Cotter et al. 1997) và hạn chế hành
vi quản trị lợi nhuận của ban điều hành. Như trong nghiên cứu thực nghiệm khi
sử dụng mẫu là các công ty ở US, Dechow et al. (1996) và Beasley (1996) đưa
ra kết quả rằng những công ty mà có số lượng thành viên độc lập trong HĐQT
chiếm đa số thì dường như ít có gian lận kế toán. Xie et al. (2003) cũng đưa ra
kết luận rằng hành vi quản trị lợi nhuận ít xảy ra đối với những công ty mà
trong HĐQT có sự hiện diện của các thành viên độc lập. Ajinkya et al. (2005)
cũng đã chỉ ra rằng những công ty ở US mà có tỷ lệ thành viên độc lập trong
HĐQT cao thì khả năng mà các dự báo về lợi nhuận sẽ chính xác hơn và cung
cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư. Peasnell et al. (2000, 2005) cũng thấy
rằng hành vi quản trị lợi nhuận của ban quản lý cấp cao của các công ty ở UK
giảm khi tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT tăng lên. Khi sử dụng mẫu các
công ty ở Hy Lạp, Dimitropoulos và Asterio (2010) thấy rằng các doanh nghiêp
mà có tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT cao thì lợi nhuận được báo cáo có
chất lượng cao hơn. Và khi sử dụng số liệu của Canada, Park & Shin (2004)
cũng đã tìm ra rằng tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT làm giảm mức độ
quản trị lợi nhuận của ban điều hành cấp cao.

Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình quản trị doanh nghiệp được sử dụng
rộng rãi đó là môt hình một tầng (one-tier) và mô hình hai tầng (two-tier). Hầu
hết các quốc gia ở khu vực Đông Á theo mô hình quản trị doanh nghiệp một
tầng. Tuy nhiên, nó cũng không giống với mô hình quản trị một tầng nguyên
thủy của Đức mà được điều chỉnh theo mô hình quản trị của Nhật. Trong hệ
thống quản trị doanh nghiệp của các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài
Loan, Indonesia và Việt Nam… gồm Hội đồng quản trị và cả Ban kiểm soát.
Những năm gần đây, các quốc gia ở Đông Á cũng đã tiến hành áp dụng Đạo
luật SOX trong xây dựng hệ thống quản trị của các công ty niêm yết. Đặc biệt
nhấn mạnh vai trò của thành viên độc lập trong HĐQT trong vai trò giám sát và
kiểm soát nôi bộ đặc biệt là trong công tác kế toán. Mặc dù không giống hoàn
toàn mô hình hai tầng, tuy nhiên hầu kết các nghiên cứu trước khi sử dụng số
liệu ở các quốc gia như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… cũng chỉ ra rằng
thành viên độc lập trong HĐQT có vai trò quan trọng trong việc hạn chế hành
vi thao túng lợi nhuận của ban điều hành. Khi sử dụng mẫu số liệu các công ty

2
ở Trung Quốc, hàng loạt các nghiên cứu như của Bai (2004), Chen (2012), Firth
(2007), Lai (2007), Qinghua (2007) đưa ra kết quả rằng các công ty có thành
viên độc lập trong HĐQT càng cao thì hành viên quản trị lợi nhuận càng thấp.

Tuy nhiên, một số nghiên cứu khi sử dụng số liệu ở các quốc gia theo mô
hình hai tầng có điều chỉnh theo mô hình của Nhật Bản tức là mô hình quản trị
vừa có HĐQT vừa có Ban kiểm soát, thì khi thực hiện mô hình OLS đo lường
tác động của tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT lên chất lượng lợi nhuận
(chất lượng lợi nhuận được đo lường theo mức độ dồn tích bất thường) thì lại
không có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu trước giải thích rằng biến tỷ lệ
thành viên độc lập không có ý nghĩa thống kê vì biến này là biến nội sinh (M.
2009, Adams, Hermalin et al. 2010, Dimitropoulos and Asteriou 2010).

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam bằng cách đánh giá
liệu rằng tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT (tính độc lập giữa HĐQT và ban
điều hành) có cải thiện chất lượng lợi nhuận, hạn chế hành vi thao túng lợi
nhuận thông qua chức năng giám sát và kiểm soát hoạt động kế toán. Đồng thời
xem xét liệu rằng biến tỷ lệ độc lập trong HĐQT và chất lượng lợi nhuận có nội
sinh hay không.

3
2 Cơ sở lý thuyết
2.1 Khái niệm và phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận
Khái niệm chất lượng BCTC là một khái niệm vô cùng rộng lớn và chất lượng
BCTC thì khó có thể quan sát trực tiếp được, xuất phát từ đặc tính này mà các
nghiên cứu trước cũng đã sử dụng rất nhiều cách đo lường khác nhau. Tùy thuộc
vào mục đích mà các nghiên cứu sẽ lựa chọn một cách đo lường phù hợp. Có thể
chia phương pháp đo lường chất lượng BCTC thành 2 nhóm phương pháp chính:
Đo lường theo đặc điểm chất lượng BCTC và đo lường theo chất lượng lợi nhuận.

Đối với phương pháp đo lường chất lượng BCTC theo đặc điểm chất lượng
BCTC thì mục đích hướng đến của phương pháp này đó là đánh giá mức độ hữu
ích của thông tin thông tin qua các đặc điểm chất lượng. Trong khi các phương
pháp đo lường chất lường lợi nhuận tập trung vào khía cạnh của việc quản trị lợi
nhuận hay giá cả của cổ phiếu.

Vì mục tiêu của nhóm nghiên cứu là làm rõ vai trò của thành viên độc lập
trong HĐQT trong việc giám sát và kiểm soát hoạt động kế toán, hạn chế hành vi
thao túng lợi nhuận của ban quản lý cấp cao, nâng cao tính minh bạch của lợi
nhuận báo cáo ra bên ngoài. Do đó, nhóm nghiên cứu lựa chọn đánh giá chất lượng
BCTC theo khía cạnh đo lường chất lượng lợi nhuận.

2.1.1 Khái niệm chất lượng lợi nhuận


Theo IASB (2008) thì “Mục tiêu chung của BCTC là cung cấp thông tin tài
chính về tổ chức và thông tin đó phải được trình bày hữu ích và từ đó để các nhà
đầu tư, người cho vay và các chủ nợ tiềm năng đưa ra quyết định đầu tư với tư
cách là người cung cấp vốn. Thông tin được xem là hữu ích cho nhà cung cấp vốn
đưa ra quyết định có thể cũng hữu ích đối với các đối tường khác khi sử dụng
thông tin trên BCTC”. Theo đó, chất lượng lợi nhuận (Earning quality) được định
nghĩa như sau:

“Chất lượng lợi nhuận càng cao càng cung cấp nhiều thông tin hơn về đặc
điểm hiệu suất tài chính của công ty cho người sử dụng (đặc biệt là đối với nhà đầu
tư vốn) để đưa ra quyết định…” (Dechow, Ge et al. 2010)

Dechow, Ge et al. 2010 nhấn mạnh rằng (i) chất lượng lợi nhuận dùng để
người sử dụng ra quyết định bởi vì bản chất nó cũng là một thông tin trên BCTC,
(ii) chất lượng lợi nhuận được báo cáo phụ thuộc vào khả năng cung cấp thông tin

4
về hiệu suất hoạt động tài chính của công ty và (iii) chất lượng lợi nhuận được xác
định liên quan đến kết quả hoạt động tài chính và hệ thống kế toán đo lường hoạt
động tài chính công ty.

Như vậy ta có thể hiểu rằng, chất lường lợi nhuận dùng để đo lường hiệu
suất hoạt động của tổ chức, từ đó để có thể giúp người sử dụng thông tin đưa ra các
quyết định thích hợp. Một công ty có hiệu suất hoạt động hiệu quả có thể do công
ty tối đa được doanh thu hoặc do công ty có thể giảm thiểu được chi phí. Đánh giá
hiệu suất hoạt động nhằm đảm bảo rằng công ty hoạt động hiệu quả hạn chế rủi ro
khi quyết định đầu tư vốn.
Để đi sâu vào khái niệm EQ, chúng ta định nghĩa lợi nhuận được báo báo
(Reported Earnings) như sau:
𝑅𝑒𝑝𝑜𝑟𝑡𝑒𝑑 𝐸𝑎𝑟𝑛𝑖𝑛𝑔𝑠 ≡ 𝑓(𝑋)
Chức năng của 𝑓 đại diện cho hệ thống kế toán để chuyển X không quan sát
được thành lợi nhuận có thể quan sát được. Ta có thể hiểu rằng lợi nhuận đồng thời
là phép đo và biểu thị cho hiệu suất hoạt động (X).
Nếu trong một kỳ hoạt động thì ta có thể quan sát được hiệu suất hoạt động,
khi này nó sẽ bao gồm dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh và hoạt động thanh
lý tài sản. Nhưng khi trải qua nhiều kỳ hoạt động thì hiệu suất hoạt động lại được
biểu thị qua ba thành phần (i) dòng tiền được tạo ra từ hoạt động trong kỳ; (ii) giá
trị dòng tiền được tạo ra trong hiện tại những hiệu suất hoạt động lại được biểu
diễn ở kỳ sau và (iii) dòng tiền được tạo ra trong hiện tại những hiệu suất hoạt
động lại được biểu diễn ở kỳ trước” (cơ sở kế toán dồn tích). Trong bối cảnh giá trị
của cổ phiếu, thì “giá trị của công ty nằm ở sự nắm giữ hoạt động tạo ra giá trị”
(Penman and Sougiannis 1998).
Định nghĩa về chất lượng lợi nhuận cần chú ý hai đặc điểm sau. Đầu tiên,
những thành phần X là những yếu tố không quan sát được và định nghĩa của nó
không hướng đến một bên liên quan cụ thể (ví dụ như cổ đông hoặc chủ nợ). Tuy
nhiên, nó lại liên quan đến yếu tố đặc biệt trong hoạt động của công ty, như là giá
và sản phẩm, và có thể thay đổi theo các yếu tố liên quan và theo nhu cầu ra quyết
định khác nhau của người sử dụng. Ví dụ, mô hình ra quyết định quan trọng của
các nhà cung cấp tài chính dài hạn có thể dựa vào giá trị thanh lý của tài sản trong
kỳ khi các khoản phải trả đến hạn, trong khi mô hình ra quyết định đối với các nhà
cung cấp tài chính ngắn hạn thì lại là luồng tiền dự kiến, từ đó ta nhận thấy rằng
hiệu suất hoạt động (X) có thể ảnh hưởng khác đến quá trình ra quyết định của hai

5
đối tượng sử dụng thông tin này. Cũng như Ban soát xét lương chỉ quan tâm đến
các thành phần của hiệu suất kiểm soát của ban điều hành. Đây là vấn đề gây tranh
cãi rất nhiều bởi lẽ các nghiên cứu trước cho rằng cần xem xét đến tính hữu ích từ
thông tin kế toán được xác định phụ thuộc vào mô hình ra quyết định và hệ thống
kế toán.
Điểm lưu ý thứ hai đó là số lượng lợi nhuận được báo cáo không bằng với
hiệu suất hoạt động (X) mà nó là một chức năng của X. Hệ thống kế toán không
thể đo lường hiệu suất một cách hiệu quả vì ba lý do sau:
(1) Có nhiều mô hình ra quyết định khác nhau: Hệ thống kế
toán cung cấp số lượng lợi nhuận đơn thuần không thể bằng
với hiệu suất hoạt động bởi vì nó không tương đương với tất
cả mô hình ra quyết định. Thông tin tài chính được rất nhiều
đối tượng sử dụng, những nhà thiết lập chuẩn mực họ đã cố
gắng cân bằng thông tin được báo cáo trên BCTC mà không
phụ thuộc vào đối tượng ra quyết định cụ thể.
(2) Sự thay đổi của hiệu suất hoạt động (X): công ty sẽ lựa chọn
các nguyên tắc để đo lường X (như theo các chuẩn mực kế
toán. Không có một thước đo nào là hoàn hảo. Ví dụ như
trong giá vốn hàng bán (Cost of good sold), nó là một thước
đo đại diện để báo cáo giá trị hàng tồn kho vào cuối kỳ. Chi
phí trong giá vốn hàng bán được định nghĩa cụ thể và thời
gian ghi nhận trong các chuẩn mực. Tuy nhiên, kết quả đo
lường giá vốn hàng bán theo chuẩn mực sẽ không phải là
một thước đo tốt để đưa ra quyết định liên quan đến hiệu
suất như hiệu suất giá vốn hàng bán của chuỗi của hàng bán
lẻ sẽ khác so với công ty sản xuất dầu.
(3) Quá trình thực hiện: Hệ thống thông tin kế toán đo lường
những cấu trúc không quan sát được của hiệu suất hoạt
động bằng các thước đo và phán đoán kế toán, từ đó có thể
tạo ra những lỗi có thể do vô ý hoặc cố ý (hành vi quản trị
lợi nhuận).

6
2.1.1. Các phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận

Có rất nhiều phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận. Bảng 1 dưới đây
tóm tắt một số phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận được sử dụng phổ biến
hiện nay.

Bảng 1: Các phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận được sử dụng phổ
biến

Mô hình đo lường chất lượng lợi nhuận Lý thuyết Ưu/Nhược


điểm
Tính bền vững Những công Ưu: Phù hợp
𝐸𝑎𝑟𝑛𝑖𝑛𝑔𝑠𝑡+1 = 𝛼 + 𝛽𝐸𝑎𝑟𝑛𝑖𝑛𝑔𝑡 + 𝜀𝑡 ty mà có lợi với quan
𝛽 đo lường tính bền vững nhuận càng điểm về lợi
bền vững thì nhuận của
có tỷ số lợi Graham và
nhuận/dòng Dodd khi cho
tiền càng bền rằng dòng
vững. Mô tiền hữu ích
hình này sẽ cho việc
hữu ích hơn đánh giá giá
khi bỏ DCF trị vốn hóa
vào-dựa vào Nhược: Tính
giá trị vốn bền phụ
hóa thuộc vào cả
hiệu suất
hoạt động
cũng như là
hệ thoogn đo
lường kế
toán.

Độ lớn thành phần dồn tích Tổng dồn Ưu: Đo


𝐷ồ𝑛 𝑡í𝑐ℎ = 𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛𝑡 − 𝐷ò𝑛𝑔 𝑡𝑖ề𝑛𝑡 tích càng lớn lường một
𝐷ồ𝑛 𝑡í𝑐ℎ thì chất cách trực tiếp
= ∆(𝑑ò𝑛𝑔 𝑣ố𝑛 ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔 𝑘ℎô𝑛𝑔 𝑏ằ𝑛𝑔 𝑡𝑖ề𝑛) lượng càng dồn tích dựa
𝐷ồ𝑛 𝑡í𝑐ℎ = ∆(𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛 ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔 𝑟ò𝑛𝑔) thấp bởi vì vào hệ thống
chúng biểu kế toán mà
diễn cho có liên quan

7
phần lợi tới hệ thống
nhuận ít bền dòng tiền.
vững (thành Nhược: Hiệu
phần dòng suất hoạt
tiền bền vững động cơ bản
hơn thành của các công
phần dồn ty có dồn
tích) tích lớn khác
với các công
ty có dồn
tích nhỏ. Vì
vậy, tính bền
vững thấp
hơn trong
phần dôn
ftichs có thể
được dẫn sắt
bởi cả hiệu
suất hoạt
động cơ bản
và quy định
đo lường.
Phần dư từ mô hình dồn tích Phần dư từ Ưu: Đo
Phần lỗi từ mô hình hồi quy dồn tích (Xem mô hình dồn lường này cố
bảng 2) tích biểu diễn gắng tách
phần thao phần lợi
túng lợi nhuận bị thao
nhuận hoặc túng hoặc lỗi
các lỗi từ ước từ ước lượng.
lượng, hành Các các đo
vi thao túng lường tư
lợi nhuận và phương pháp
lỗi do ước này được
lượng đều chấp nhận là
làm giảm một phương
tính hữu ích pháp luận để
để ra quyết xác định
định phần lợi
nhuận bất
thường.

8
Nhược: Các
kiểm định về
xác định/kết
luận của
hành vi quản
trị lợi nhuận
là kiểm định
chung với lý
thuyết và lý
thuyết số liệu
dồn tích bất
thường cũng
như là đại
diện cho lợi
nhuận bị thao
túng bởi ban
điều hành
cấp cao.
Các biến bị
bỏ qua tương
quan được
kiên kết với
các nguyên
tắc cơ bản
đặc biệt là
hiệu suất, là
mối quan
tâm sự phụ
thuộc các
khoản dồn
tích bất
thường về
nguyên tắc
cơ bản và
tính đồng
nhất của các
yếu tố quyết
định/hâu quả
được giả
thuyết với

9
các nguyên
tắc cơ bản.
Tính trơn mượt Sự trơn mượt Ưu: Tính
𝜎(𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛)/𝜎(𝑑ò𝑛𝑔 𝑡𝑖ề𝑛) của dòng tiền trơn mượt
Tỷ số này càng thấp thì dòng lợi nhuận càng có thể cai xuất hiện phổ
trơn mượt mà nó liên quan tới dòng tiền thiện tính biến được
bền vững của thực hành ở
lợi nhuận và nhiều quốc
thông tin về gia trên thế
lợi nhuận. giới
Tuy nhiên, Nhược: Khó
ban điều để gỡ tính
hành cấp cao trơn mượt lợi
hướng đến sự nhuận được
trơn mượt báo cáo mà
của dòng tiền phản ánh tính
trong dài hạn trơn mượt
và điều này của (i) quá
dẫn đến thiếu trình lợi
tính kịp thời nhuận cơ
và ít thông bản; (ii)
tin trong số nguyên tắc
liệu lợi kế toán; và
nhuận (iii) hành vi
cố ý thao
túng lợi
nhuận
Ghi nhận thiếu tính kịp thời (TLR) Đây là một Ưu:Tháo gỡ
Earningst+1=α0+α1Dt+β0Rett+ β1Dt×Rett+ 𝜀𝑡 yêu cầu cho quá trình đo
Với Dt=1 nếu RETt<0. β1 cao thì thời gian TLR để lường bằng
nhận biết các khoản lỗ tốt hơn chống lại sự cách giả định
lạc quan vốn rằng trả về
có của ban một cách
điều hành. thích hợp
TLR biểu phản ánh
diên cho chất thông tin cơ
lượng lợi bản
nhuận cao Nhược: Hiệu
ứng ròng của
TLR đối với

10
chất lượng
lợi nhuận
không xác
định vì TLR
dẫn đến tính
bền vững
thấp theo
thời gian. Cả
hai tính bền
vững và TLR
ảnh hướng
đến tính hiệu
quả của quá
trình ra quyết
định khi dựa
vào thông tin
trên lợi
nhuận. TLR
là chỉ số dựa
trên lợi
nhuận.

2.1.2 Các mô hình phổ biến đo lường chất lượng lợi nhuận dựa vào mô hình
dồn tích
Thông thường người ta chia dồn tích ra thành hai loại là dồn tích bình
thường (normal accrual) và dồn tích bất thường (abnormal accrual). Dồn tích bình
thường là những điều chỉnh nhằm phản ánh đúng hiệu suất hoạt động cơ bản, còn
dồn tích bất thường là những điều chỉnh nhằm bóp méo hiệu suất cơ bản bằng các
nguyên tắc kế toán hay bằng hành vi quản trị lợi nhuận (Earning management –
EM). EM có thể được thực hiện do hệ thống đo lường chưa hoàn hảo. Mục tiêu
chung của các mô hình dồn tích là đo lường phần dồn tích bất thường. Ở bảng 2
tóm tắt hầu hết các mô hình dồn tích được sử dụng rộng rãi, mà được đánh giá là
có khả năng xác định dồn tích bất thường cao. Các mô hình dồn tích được xây
dựng nhằm đánh giá dồn tích bất thường và nó được xây dựng dựa trên khái niệm

11
phân loại giữa dồn tích bất thường và dồn tích bình thường. Có 2 lỗi cơ bản khi
thực hiện phân loại dồn tích bất thường và dồn tích bình thường. Loại I là sự phân
loại sai khi xem khoản dồn tích đó là bất thường khi nó lại đại diện cho hiệu suất
cơ bản, và loại II ngược lại loại I đó là xem khoản dồn tích là bình thường nhưng
nó lại bị điều chỉnh có chủ ý nhằm bóp méo hiệu suất cơ bản (lỗi II được xem là lỗi
nghiêm trọng hơn lỗi loại I)

Bảng 2: Các phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận theo khái niệm dồn
tích
Mô hình dồn tích Lý thuyết Ghi chú
Mô hình Jones (1991) Dồn tích là một chức Tính tương quan hoặc lỗi
𝐴𝑐𝑐𝑡 = 𝛼 + 𝛽1 ∆𝑅𝑒𝑣𝑡 năng của tăng trưởng của hiệu suất công ty có
2
+ 𝛽2 𝑃𝑃𝐸𝑡 + 𝜀𝑡 doanh thu và khấu hao thể bị chệch. R khoảng
là một chức năng của tài 12%. Phần dư tương
sản cố định. Tất cả giá quan với dồn tích, lợi
trị được tính bằng tổng nhuận và dòng tiền
tài sản
Mô hình Jones hiệu chỉnh Mô hình hiệu chỉnh loại Đưa ra một vài cải thiện
(1991) bỏ phần tăng trưởng về khả năng giải thích
𝐴𝑐𝑐𝑡 = 𝛼 + 𝛽1 (∆𝑅𝑒𝑣𝑡 doanh thu bán nợ cho của mô hình so với mô
− ∆𝑅𝑒𝑐𝑡 ) khách hàng trong năm hình nguyên thủy ban
+ 𝛽2 𝑃𝑃𝐸𝑡 + 𝜀𝑡 để xác định phần bị thao đầu (khi doanh thu bị
túng thao túng)
Đưa ra một vài cải thiện
về khả năng giải thích
của mô hình so với mô
hình nguyên thủy ban
đầu (khi doanh thu bị
thao túng)
So khớp hiệu suất (Kothari So khớp quan sát công Có thể àm giảm khả năng
et al., 2005) ty theo năm với công ty kiểm định. Chỉ áp dụng
𝐷𝑖𝑠𝐴𝑐𝑐𝑡 khác cùng ngành và khi hiệu suất có vấn đề
− 𝑀𝑎𝑡𝑐ℎ𝑒𝑑 𝑓𝑖𝑟𝑚 𝑠 𝐷𝑖𝑠𝐴𝑐𝑐𝑡 năm với ROA gần nhất.

AA từ mô hình Jones
(hoặc từ mô hình hiệu
chỉnh)
Dechow and Dichew (2002) Dồn tích được mô 𝜎(𝜀𝑡 ) hoặc giá trị tuyệt
approach phổng như là một chức đối của 𝜀𝑡 đại diện cho
năng của quá khứ, hiện chất lượng dồn tích, dùng

12
∆𝑊𝐶 = 𝛼 + 𝛽1 𝐶𝐹𝑂𝑡−1 tại và tương lai của để đo lường độ lớn lỗi
+ 𝛽2 𝐶𝐹𝑂𝑡 dòng tiền nhằm mục của dồn tích (vì lấy giá trị
+ 𝛽2 𝐶𝐹𝑂𝑡+1 đích thay đổi thời gian tuyệt đối nên không quan
+ 𝜀𝑡 ghi nhận lơi nhuận trọng là âm hay dương).
Tập trung vào dồn tích
ngắn hạn không nhắm tới
lỗi của dồn tích trong dài
hạn.
Những lỗi ước lượng do tùy Phân tách độ lệch chuẩn Lỗi ước lượng bản chất là
ý (Francis et al., 2005) của phần dư từ mô hình thành phần dự báo từ hồi
𝑇𝐴𝐶𝑡 = 𝛼 + 𝛽1 𝐶𝐹𝑂𝑡−1 + dồn tích thành những quy 𝜎(𝜀𝑡 ).
𝛽2 𝐶𝐹𝑂𝑡 + 𝛽3 𝐶𝐹𝑂𝑡+1 + thành phần bản chất mà
𝛽4 ∆𝑅𝑒𝑣𝑡 + 𝛽5 𝑃𝑃𝐸𝑡 + 𝜀𝑡 nó phản ánh môi trường
hoạt động của công ty
𝜎(𝜀𝑡 ) = 𝛼 + 𝜆1 𝑆𝑖𝑧𝑒𝑡 + và thành phần thực hiện
𝜆2 𝜎(𝐶𝐹𝑂)𝑡 + 𝜆3 𝜎(𝑅𝑒𝑣)𝑡 + tùy ý (𝑣𝑡 ) phản ánh lựa
𝜆4 𝑙𝑜𝑔(𝑂𝑝𝑒𝑟𝐶𝑦𝑐𝑙𝑒)𝑡 + chọn của quản lý
𝜆5 𝑁𝑒𝑔𝐸𝑎𝑟𝑛𝑡 + 𝑣𝑡

Jones (1991) định nghĩa về quá trình dồn tích dựa theo độ tăng trưởng doanh
thu và tài sản cố định (đối với khoản dồn tích từ nguồn vốn hoạt động và khấu
hao). Có nghĩa là nguồn vốn hoạt động liên quan đến khoản phải thu, hàng tồn kho
và các khoản phải trả mà những khoản này phụ thuộc vào doanh thu. Doanh thu là
môi trường hoạt động kinh tế của công ty, và đây là một trong những yếu tố mà các
nhà đầu tư/chủ nợ thường sẽ nhìn vào để đánh giá hiệu suất hoạt động của công ty.
Còn đối tài sản cố định, công ty phải thực hiện trích khấu hao nhằm phản ánh
khoản chi phí. Doanh thu và chi phí khấu hao là đối tượng mà các nhà quản trị
thường nhắm vào để bóp méo hiệu suất cơ bản. Như vậy ta có mô hình đo lường
dồn tích như sau:

𝑨𝒄𝒄𝒕 = 𝜶 + 𝜷𝟏 ∆𝑹𝒆𝒗𝒕 + 𝜷𝟐 𝑷𝑷𝑬𝒕 + 𝜺𝒕

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chéo do đó quy mô các công ty sẽ rất khác nhau,
dẫn đến hiện tượng phương sai thay đổi (heteroscedasticity). Các nghiên cứu trước
thực hiện chia cho độ trễ của tổng tài sản nhằm giảm bớt hiện tượng phương sai
thay đổi:

13
𝑨𝒄𝒄𝒕 𝟏 ∆𝑹𝒆𝒗𝒕 𝑷𝑷𝑬𝒕
= 𝜶( ) + 𝜷𝟏 ( ) + 𝜷𝟐 ( ) + 𝜺𝒕
𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏 𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏 𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏 𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏

Biến độc lập của mô hình Jones (1991) giải thích được 10% sự thay đổi của
biến phụ thuộc (Hệ số xác định R2=10%). Khả năng giải thích của mô hình thấp đó
là vì những nhà quản trị có quyền quyết định đáng kể đến quá trình dồn tích, mà họ
dùng để che dấu hiệu suất cơ bản. Tuy nhiên, phần dư (residual) từ mô hình Jones
có quan hệ tuyến tính cao với tổng dồn tích (80%) (Dechow et al., 2003), và quan
hệ tuyến tính cùng chiều với hiệu suất lợi nhuận và ngược chiều với dòng tiền
(Dechow et al., 1995). Những kết quả trên gợi ý cho chúng ta rằng khả năng sai sót
loại I cao. Thêm vào đó, Dechow et al. chỉ ra rằng khả năng giải thích của dồn tích
bất thường thấp hơn tổng dồn tích khi xác định hành vi quản trị lợi nhuận, điều này
chỉ ra rằng sử dụng phần dư của mô hình Jones đại diện cho dồn tích có chất lượng
thấp do hành vi quản trị lợi nhuận là lỗi loại II.
Dechow et al. (1995) sửa đổi mô hình của Jones để điều chỉnh khoản doanh
thu ghi nợ để cố gắng làm giảm lỗi loại II. Thông thường các nhà quản trị dùng
phần doanh thu bán chịu để đẩy lợi nhuận trong kỳ hiện tại (tức là hành vi thao
túng lợi nhuận), do đó khi loại trừ doanh thu bán chịu làm gia tăng khả năng giải
thích của mô hình Jones đồng thời phần dư từ mô hình hiệu chỉnh không còn quan
hệ tuyến tính với tổng doanh thu và phản ánh tốt ơn phần lợi nhuận bị thao túng.
Tuy nhiên, mô hình hiệu chỉnh vẫn chưa khắc phục được lỗi loại I.
Holthausen et al. (1995) và Kothari et al. (2005) đề suất cách phản bác quan
điểm về mối liên hệ tuyến tính giữa hiệu suất hoạt động và phần dư từ mô hình
Jones và mô hình hiệu chỉnh của Jones. Cả hai đều đề xuất kiểm soát mức độ dồn
tích theo ROA. Kothari et al. (2005) xác định một công ty có ROA gần nhất và
trong cùng một ngành để chọn mẫu và loại bỏ AA (lấy từ phần dư từ mô hình
Jones hoặc mô hình hiệu chỉnh) để tạo ra so khớp hiệu suất phần dư. Cách này áp
được áp dụng phù hợp nhất khi hiệu suất có vấn đề. Ví dụ, giả sử rằng ROA là
20% cho công ty A và công B, với công ty A sử dụng dồn tích tùy ý để làm tăng
ROA lên 2% cho đặt ngang với 20%. Công ty B không thực hiện thao túng lợi
nhuận; nó đạt được ROA 20% bởi vì nó có dồn tích bình thường (dồn tích không
tùy ý) cao hơn so với công ty A. Nối công ty B và công A sẽ đưa ra được rằng mức
độ dồn tích tùy ý của công ty A nên giống với của công ty B, nhưng việc so khớp
này không chính xác khi thực hiện so khớp với công ty có ROA 18%.

14
Theo quan điểm khác, Dechow và Dichew (2002) xem chức năng so khớp
với dòng tiền là một vấn đề quan trọng cơ bản và vì vậy ông cho rằng mô hình dồn
tích là một chức năng của dòng tiền hiện tại, quá khứ và dòng tiền tương lai. Bởi
vì, dồn tích có thể dự đoán được dòng tiền trong tương lại phải trả/phải thu và nó
sẽ bị triệt tiêu khi dòng tiền đã được ghi nhận trước là doanh thu chưa thực hiện/đã
trả trước (tức là dòng tiền đã được trả/nhận nhưng thực tế nghiệp vụ chưa thực
hiện, ví dụ như những khoản đặt cọc trước). Tác giả tập trung đến khoản dồn tích
nguồn vốn hoạt động trong ngắn hạn và cố gắng không hướng đến mô hình dồn
tích dài hạn và mối quan hệ của khoản dồn tích nguồn vốn hoạt động trong ngắn
hạn với dòng tiền. R2 từ mô hình này cao hơn mô hình điều chỉnh của Jones, R2
khoảng 47% đối với công ty, 34% đối với ngành và 29% đối với mẫu tổng hợp. Độ
lệch chuẩn phần dư của mô hình đại diện cho chất lượng lợi nhuận. Khi độ lệch
chuẩn càng lớn thì lợi nhuận càng ít bền vững, vòng quay hoạt động dài hơn, dồn
tích lớn hơn và có nhiều dòng tiền, khoản dồn tích và lợi nhuận bay hơi. Khuyến
điểm của mô hình đó là tác giả sử dụng dấu (dấu âm/dương) trong mô hình, điều
này làm giảm khả năng kiểm tra khi nghiên cứu dự báo hiệu suất bị bóp méo thông
qua thủ tục kế toán theo một hướng cụ thể (ví dụ như bóp méo nhằm mục đích làm
lợi nhuận tăng). Thêm vào đó, mô hình của Dechow và Dichev không dùng để xác
định những khoản dồn tích bị bóp méo trong dài hạn. Đây là một hạn chế lớn của
mô hình bởi vì PPE và lợi thế thương mại (goodwill) dường như bị ảnh hưởng bởi
hành vi quản trị lợi nhuận hoặc bị bóp méo trong thủ tục kế toán mà có thể ảnh
hưởng đặc biệt quan trọng cho việc đánh giá chất lượng lợi nhuận.
Francis et al. (FLOS) (2005a) sửa đổi và mở rộng mô hình của Dechow và
Dichew theo hai cách. Thứ nhất, như được đề suất bởi MCNichols (2002), họ thêm
phần tăng trưởng lợi nhuận để cố gắng phản ánh hiệu suất hoạt động, và họ thêm
PPE để mở rộng mô hình nhằm đo lường bao quát dồn tích bao gồm phần khấu
hao. Tuy nhiên, FLOS không điều tra xem liệu rằng những điều chỉnh này có lợi
hay giấu đi những sai sót loại I và loại II. Cách thứ 2 họ hướng đến mô hình
Dechow/Dichew để phân tách độ lệch chuẩn của phần dư thành đo lường mức độ
công ty của ước lượng sai sót vốn có (bẩm sinh) và những lỗi dự đoán do cố ý điều
chỉnh. Điều này cho phép tác giả đưa ra các công bố về “các lựa chọn quản lý” (tức
là những lỗi cô ý) tránh bởi Dechow và Dichev. Cụ thể, FLOS (2005) ước tính mô
hình dự đoán dồn tích của họ bởi ngành-năm và tính toán độ lệch chuẩn của phần
dư cho mỗi công ty j trong năm t [𝜎(𝜀𝑡 )] dựa vào giá trị của 𝜀𝑡 trong của năm t-4
xuyên suốt đến năm t (5 năm). Độ lệch chuẩn của phần dư 𝜎(𝜀𝑡 ) là một đo lường

15
chất lượng dồn tích (Accrual Quality-AQ); cao hơn độ lệch chuẩn đưa ra chất
lượng thấp hơn. Để phân tách AQ thành 2 thành phần dồn tích bình thường và
thành phần dồn tích do cố ý, FLOS đưa hình dạng AQ như là một chức năng đặc
tính của công ty được xác định theo Dechow và Dichev (2002):

𝜎(𝜀𝑗 )𝑡 = 𝜆0𝑗 + 𝜆1𝑗 𝑆𝑖𝑧𝑒𝑗,𝑡 + 𝜆2𝑗 𝜎(𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠)𝑗,𝑡 + 𝜆3𝑗 𝜎(𝐶𝐹𝑂)𝑗,𝑡 + 𝜆4𝑗 𝑂𝑝𝑒𝑟𝐶𝑦𝑐𝑙𝑒𝑗,𝑡
+ 𝜆5𝑗 𝑁𝑒𝑔𝐸𝑎𝑟𝑛𝑗,𝑡 + 𝜈𝑗,𝑡

Giá trị dự báo 𝜎(𝜀𝑗 )𝑡 biểu diễn chất lượng lợi nhuận trong hệ thông dồn tích
để nắm bắt được hiệu suất cơ bản, và phần dư (𝜈𝑗,𝑡 ) biểu diễn chất lượng dồn tích
cố ý điều chỉnh. Chú ý rằng những đặc tính bản chất cũng có thể ảnh hưởng đến
những lỗi ước lượng và những điều chỉnh, mà nó làm giảm khả năng của (𝜈𝑗,𝑡 ) để
phản ánh những chủ tâm (tức là thuộc lỗi loại I). Ngoài ra nó có thể làm giảm độ
lệch (theo một hướng không rõ ràng) vào đại diện theo hướng cố ý (lỗi loại II).
Hơn nữa nghiên cứu được yêu cầu để đánh giá đánh giá độ quan trọng của những
quan điểm này.

2.2 Vai trò của thành viên độc lập trong HĐQT
Theo lý thuyết người đại diện, quá trình ra quyết định đối với công ty đại
chúng được thực hiện qua bốn bước sau:
(1) Đề suất sử dụng các nguồn lực (sử dụng vốn) và đưa ra các điều
khoản hợp đồng cam kết hiệu quả và đảm bảo rủi ro khi thực hiện kế
hoạch
(2) Xem xét, đánh giá hiệu quả và rủi ro của đề xuất và phê duyệt ý kiến
được đề xuất
(3) Triển khai các đề xuất đã được xét duyệt
(4) Giám sát và đánh giá việc thực hiện các đề xuất, đưa ra quyết định
khen thưởng.

Quá trình (1) và (3) là hai chức năng ra quyết định của nhà điều hành
(decision management) và quá trình (2) và (4) là hai chức năng phê chuẩn và giám
sát các quyết định. Theo như lý thuyết Người đại diện đã được trình bày ở phần
trên thì quyết định thực hiện bởi người đại diện rất quan trọng bởi vì nó gây ra rủi
ro đối với tài sản của những nhà đầu tư khi góp vốn. Vì lý do đó, việc thực hiện
theo bốn bước ra quyết định ở trên là rất cần thiết nhằm giảm xung đột lợi ích của

16
người ra quyết định với cổ đông và giảm thiểu rủi ro khi thực hiện đưa ra quyết
định kinh doanh/đầu tư.
Các nhà đầu tư thường đa dạng hóa khoản mục đầu tư để đa dạng hóa rủi ro
bằng cách sở hữu các loại chứng khoán ở các công ty khác nhau do đó tạo ra một
vấn đề tự do thực hiện (free-rider)(Fama and Jensen 1983). Bởi vì, số lượng cổ
phiếu mà họ sở hữu không đủ lớn để tạo động lực và cũng như là đưa các nguồn
lực để kiểm soát quá trình ra quyết định và quá trình thực hiện của ban điều hành.
Cho nên họ cần một cơ quan không những có chức năng giám sát và đánh giá hiệu
quả quá trình thực hiện ra quyết định mà còn có chức năng giảm chi phí khi tách
người đại diện và người sở hữu (Theo lý thuyết người đại diện).
Theo nghiên cứu của Fama & Jensen (1983), ông nhấn mạnh chức năng
quan trọng của HĐQT là giảm thiểu chi phí theo lý thuyết Người đại diện. Cổ đông
ủy quyền kiểm soát nội bộ và các quyết định khác cho HĐQT. HĐQT có trách
nhiệm trong hoạt động kiểm soát nội bộ, HĐQT phải thực hiện hoạt động giám sát
việc đưa ra quyết định và đánh giá hiệu suất thực hiện trong cả công ty lớn hay
nhỏ. Mặc dù HĐQT lại ủy quyền hầu hết chức năng ra quyết định và chức năng
điều hành của mình cho ban điều hành cấp cao, nhưng HĐQT vẫn giữ được quyền
điều hành cuối cùng trên cả nhà điều hành cấp cao. HĐQT được ủy quyền thực
hiện các công việc như là phê chuẩn, xét duyệt các quyết định quan trọng, chọn
hay loại bỏ các quyết định của ban điều hành (người đại diện). HĐQT chịu trách
nhiệm thiết lập một hệ thống kiểm soát thích hợp trong công ty và giám sát sự tuân
thủ của các quản lý cấp cao trong hệ thống.
Tuy nhiên, nếu quyền kiểm soát và giám sát của HĐQT không thể hạn chế
quyền ra quyết định của ban điều hành cấp cao thì hoạt động của HĐQT không
hiệu quả. Williamson (1984) lưu ý rằng, bởi vì ban điều hành có lợi thế về thông
tin do làm việc toàn thời gian và sự hiểu biết về nội tại bên trong công ty, HĐQT
có thể bị dễ dàng trờ thành công cụ của nhà điều hành, dẫn đến làm giảm lợi ích
của cổ đông. Sự hiện diện của thành viên cấp cao trong HĐQT có thể dẫn đến
thông đồng hoặc chuyển sự giàu có của cổ đông (Fama 1980). Do đó, HĐQT thông
thường gồm các thành viên bên ngoài (outside members), đây là những người thực
hiện việc giám sát và kiểm soát hoạt động một cách độc lập, như là một trọng tài
đứng giữa để đưa ra các quyết định một cách khách quan, đặc biệt là giải quyết vấn
đề bất đồng của các nhà điều hành bên trong và phê chuẩn các quyết định mà ảnh
hưởng nghiêm trọng đến những vấn đề đại diện (Fama và Jensen 1983). Kết luận
của Rosenstein and Wyatt (1990) cho thấy các cổ đông đánh giá cao sự hiện diện

17
của các thành viên độc lập bên ngoài bằng các bằng chứng khi xác thực lợi nhuận
của cổ phiếu bất thường khi thành viên HĐQT bên ngoài được thêm vào trong
HĐQT. Trong thực tế, giá trị của thành viên độc lập trong HĐQT cũng đang được
nhìn nhận rõ hơn.
Fama (1980) và Fama & Jenden (1983) đặt giả thuyết rằng sự hiện diện của
HĐQT làm tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ, và thành
phần thành viên trong HĐQT là những người không phải là nhân viên quản lý
(non- employee directors) của công ty. Các nghiên cứu trước nhấn mạnh rằng các
thành viên trong HĐQT có động cơ để phát triển danh tiếng của mình – họ là
những chuyên gia trong việc kiểm soát việc ra quyết định bởi vì thị trường bên
ngoài cho giá dịch vụ của họ được tính theo hiệu suất của họ khi trong vai trò
HĐQT. Hầu hết các thành viên độc lập trong HĐQT đều là những điều hành cấp
cao hoặc người ra quyết định quan trong ở công ty khác. Giá trị của họ phụ thuộc
vào vị trí quan trọng của họ đối với ở công ty khác. Họ cam kết với thị trường là họ
có thể thực hiện việc để đảm bảo cho các quyết định qua quan trọng được thực
hiện bởi người đại diện qua (1) Họ là những người chuyên gia trong việc đưa quyết
định, có chuyên môn và kinh nghiệm (2) họ hiểu được sự quan trọng của việc kiểm
soát các quyết định và (3) họ có kinh nghiệm làm việc với những hệ thống kiểm
soát việc ra quyết định như vậy. Nghiên cứu trước đã chỉ ra những những quản lý
cấp cao đã từng bị dính các trường hợp điều hành kém hiệu quả thì sẽ có rất ít hoặc
không có công ty khác mời làm thành viên cố vấn trong HĐQT (Kaplan and
Reishus (1990). Do đó, ngoài chức năng phê duyệt, giám sát và giảm mâu thuẫn
cho ban điều hành thì HĐQT còn hoạch định các chính sách dài hạn cho công ty.
Khi đó, vai trò của các thành viên độc lập được mời làm cố vấn sẽ rất quan trọng,
bởi lẽ họ sẽ đưa ra một góc nhìn bao quát về xu hướng thị trường cũng như điều
chỉnh các mục tiêu hướng tới dài hạn hơn là ngắn hạn (bởi vì ban điều hành thường
hướng tới các mục tiêu ngắn hạn để đạt được mục đích và đây cũng chính là mâu
thuẫn lợi ích theo lý thuyết người đại diện). Không chỉ là “trọng tài” trong các cuộc
tranh luận của ban quản lý cấp cao công ty, thành viên độc lập trong HĐQT còn
bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông tiểu số. Do các cổ đông chủ chốt có thể tìm cách
tối đa hóa lợi ích của mình và chiếm đoạt tài sản của các nhà đâu tư khác cũng như
từ các bên liên quan (Shleifer & Vishny 1997; Holderness 2003). Do đó, trong khi
các cổ đông lớn có thể khai thác lợi ích của sự kiểm soát cá nhân, có quyền tiếp
cận trực tiếp thông tin, các cổ đông bên ngoài sẽ phụ thuộc vào hoạt động giám sát
của HĐQT.

18
Những nghiên cứu thường phân loại thành viên trong HĐQT thành hai loại
là thành viên độc lập (independent directors) và thành viên không độc lập (grey
directors) (Beasley 1996). Một thành viên độc lập là thành viên của HĐQT, những
người này sẽ không liên can tới những chức vụ quản lý khác hoặc những lợi ích
của công ty hoặc liên can tới công ty con. Họ chỉ liên quan đến HĐQT của công ty.
Ngược lại, thành viên không độc lập trong công ty sẽ có những yếu tố tiềm tàng
chống lại các thành viên độc lập bởi vì họ liên quan trực tiếp đến công việc của nhà
điều hành. Trong khi, họ có thể không là nhân viên hiện tại của công ty nhưng sự
độc lập của những thành viên này bị suy giảm bởi họ có thể là ban điều hành, nhà
cung cấp/tư vấn, luật sư bên ngoài thực hiện công việc pháp lý cho công ty, nhà
điều hành cấp cao đã về hưu, hoặc các nhà đầu tư vốn cho công ty.
Vì hạn chế về thông tin bên trong công ty nên nhóm nghiên cứu không thể
xét đến tính độc lập liên quan đến việc sở hữu cổ phiếu hay là nhân viên cũ theo
khái niệm của Beasley (1996). Chúng tôi xét khái niệm thành viên độc lập trong
HĐQT theo khía cạnh khi phân chia thành viên điều hành và không điều hành để
xem xét giả thuyết liệu rằng khi tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT cao
sẽ nâng cao hiệu quả giám sát quá trình lập BCTC từ đó hạn chế hành vi quản trị
lợi nhuận của ban điều hành, giảm khoản dồn tích bất thường và từ đó nâng cao
tính minh bạch của BCTC.

19
3 Phương pháp nghiên cứu
3.1 Chọn mẫu
Nhóm nghiên cứu tiến hành lấy 100% công ty niêm yết trên sàn chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Mẫu ban đầu gồm 430 công ty. Nhóm
nghiên cứu loại bỏ 150 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng
và bất động sản. Sau đó, nhóm nghiên cứu tiến hành lấy dữ liệu từ năm 2010-2016.
Nhóm nghiên cứu tiếp tục loại bỏ các doanh nghiệp bị mất số liệu, mới thành lập
chưa đủ 7 năm, tổng cộng loại 146 doanh nghiệp. Mẫu nghiên cứu còn lại là 134
doanh nghiệp, tổng cộng số quan sát là 938 (firm-year).
Thông tin về tỷ lệ vốn vay, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, tổng tài sản,
doanh thu, tài sản cố định, phải thu và lợi nhuận trước thuế được thu thập từ các
BCTC của các doanh nghiệp niêm yết từ cơ sở dữ liệu Thomson Reuters của Trung
Tâm Nghiên Cứu Kinh Tế Tài Chính của Trường Đại học Kinh Tế - Luật. Và
thông tin về thành viên độc lập trong HĐQT và công ty kiểm toán được nhóm
nghiên cứu thu tập bằng tay qua các báo cáo thường niên.
Bảng 3 trình bày số liệu thống kê cho các biến được sử dụng trong nghiên
cứu. Bảng 3 cho thấy trung bình khoảng 60% thành viên độc lập trong HĐTQ , với
tối thiểu là 14% và tối đa là 100% thành viên độc lập trong HĐQT. Tỷ lệ vốn vay
trung bình là 0.52 so với tổng tài sản. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trung
bình khoảng 0.06 so với tổng tài sản.

Bảng 3: Mô tả số liệu thống kê của biến độc lập


Mean Median Min. Max.
Independent board 0.16 0.6 0.14 1
Leverage 0.49 0.52 0.03 0.97
Cash flows 0.06 0.06 -142 0.64
Investment 1.12 0.89 0.13 8.88
opportunities
Firm size 11.64 11.53 10.49 14.26
Independent board biểu diễn tỷ lệ giữa số thành viên độc lập trong HĐQT và tổng số thành viên
trong HĐQT; Leverage biểu diễn tỷ lệ giữa tổng số nợ trên trên sổ sách và tổng tài sản; Cash flows là
tỷ lệ giữa dòng tiền hoạt động và tổng tài sản; Investment opportunities biểu diễn tỷ lệ giá trị nguồn
vốn trên thị trường và giá trị nguồn vốn trên sổ sách; Big4 là một biến giả, nhận giá trị là 1 nếu công
ty kiểm toán thuốc Big 4 và là nếu không thuộc Big4; Firm size biểu diễn độ lớn của công ty.

20
Bảng 4: Hệ số tương quan giữa các biến độc lập
Independe Leverage Cash Investment Firm
nt board flows opportunities size
Independent 1
board
Leverage -0.206 1
Cash flows 0.063* -0.273 1
Investment 0.140*** -0.130 0.259 1
opportunities
Firm size 0.195*** -0.156 0.180 0.650 1
EQ_ModJones biểu diễn chất lượng lợi nhuận, được đo lường từ mô hình điều chỉnh Jones (Dechow et
al.1995); Independent board biểu diễn tỷ lệ giữa số thành viên độc lập trong HĐQT và tổng số thành viên
trong HĐQT; Leverage biểu diễn tỷ lệ giữa tổng số nợ trên trên sổ sách và tổng tài sản; Cash flows là tỷ lệ
giữa dòng tiền hoạt động và tổng tài sản; Investment opportunities biểu diễn tỷ lệ giá trị nguồn vốn trên thị
trường và giá trị nguồn vốn trên sổ sách; Big4 là một biến giả, nhận giá trị là 1 nếu công ty kiểm toán thuốc
Big 4 và là nếu không thuộc Big4; Firm size biểu diễn độ lớn của công ty;
*** Mức ý nghĩa 1 %; ** Mức ý nghĩa 5%; * Mức ý nghĩa 10%

Phân tích của Bảng 4 cho thấy tằng có một số tương quan đáng kể giữa các
biến. Biến giả (Big4) không có trong Bảng 4, bởi vì hệ số tương quan Pearson
không tính đến biến giả. Mặc dù các biến có quan hệ tuyến tính như hệ số vẫn nhỏ
hơn 0.8 nên giữa các biến độc lập không có tương quan tuyến tính cao. Và vì các
biến có xu hướng tương quan tuyến tính với nhau nên mức giải thích R2 sẽ cao hơn
so với thực tế.

3.2 Mô hình hồi quy


Để giải thích mối liên hệ giữa thành viên độc lập trong HĐQT và chất lượng
lợi nhuận, đầu tiên chúng ta chạy mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất (OLS):
𝑬𝑸𝒊𝒕 = 𝜷𝟎 + 𝜷𝟏 (𝑰𝒏𝒅𝒆𝒑𝒆𝒏𝒅𝒆𝒏𝒕 𝒃𝒐𝒂𝒓𝒅𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟐 (𝑳𝒆𝒗𝒆𝒓𝒂𝒈𝒆𝒊𝒕 )
+ 𝜷𝟑 (𝑪𝒂𝒔𝒉 𝒇𝒍𝒐𝒘𝒔𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟒 (𝑰𝒏𝒗𝒆𝒔𝒕𝒎𝒆𝒏𝒕 𝑶𝒑𝒑𝒐𝒓𝒕𝒖𝒏𝒊𝒕𝒊𝒆𝒔𝒊𝒕 )
+ 𝜷𝟓 (𝑩𝒊𝒈𝟒𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟔 (𝑭𝒊𝒓𝒎 𝑺𝒊𝒛𝒆𝒊𝒕 ) + 𝜺𝒊𝒕
Với:

 EQit= chất lượng lợi nhuận của công ty i trong năm t, được đo lường bằng cách sử dụng mô
hình điều chỉnh của Jones (EQ được lấy từ phần dư của mô hình, nó là dồn tích bất thường).
 Independent Boardit= Số thành viên độc lập trong HĐQT chia tổng số thành viên trong
HĐQT của công ty i trong năm t.
 Leverageit=Tổng nợ ghi trên sổ sách chia cho tổng tài sản của công ty i trong năm t
 Cash flowsit=Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh chia tổng tài sản của công ty i trong năm t-1
 Investment Opportunitiesit= Tỷ lệ giá trị cổ phiếu trên thị trường chia cho tổng giá trị cổ phiếu
trong sổ sách

21
 Big4it= là biến giả (dummy variable): 1 nếu kiểm toán viên thuộc công ty Big4 và là 0 nếu
kiểm toán viên không phải kiểm toán viên thuộc công ty Big4
 FirmSizeit=log giá trị vốn hóa của công ty i trên thị trường trong kỳ
 𝜀𝑖𝑡 =những yếu tố còn lại của công ty i trong năm t
 𝛽0 là hằng số, 𝛽1 đến 𝛽6 là hệ số.

Việt Nam là thị trường kinh tế mới nổi nằm trong khu vực Nam Á. Khu vực
này có thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự hiệu quả hiệu quả. Hiện
nay, số lượng dòng tiền đầu tư từ nước ngoài vào thị trường mới nổi đang gia tăng.
Tuy nhiên, nhà đầu tư lại khá dè chừng khi đầu tư vào thị trường này bởi lẽ chất
lượng lợi nhuận thấp hay có thể nói tính minh bạch của BCTC chưa cao, đồng thời
do cơ chế pháp lý bảo vệ nhà đầu tư thấp và nền pháp lý lỏng lẻo. Nghiên cứu
trước đưa ra kết luận rằng, khi dòng tiền đầu tư từ các cổ đông lớn sẽ làm tăng giá
trị của công ty, đây cũng là một trong những động lực mà các doanh nghiệp trong
thị trường mới nổi cố gắng thu hút các nhà tư lớn nhằm làm tăng giá trị của công
ty. Từ kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu trước chỉ ra rằng các quốc gia thuộc
khu vực có nên kinh tế mới nổi có chất lượng lợi nhuận thấp. Khi chất lượng lợi
nhuận bị đánh giá thấp, doanh nghiệp khó có thể thu hút dòng tiền đầu tư bên
ngoài. Đối mặt với khả năng không thể thu hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài, các
quốc gia như Nhật, Đài Loan, Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam đã thực hiện
các thay đổi trong luật doanh nghiệp cũng như các chính sách khuyến khích để
nâng cao chất lượng lợi nhuận thông qua nâng cao khuôn mẫu pháp lý bảo vệ nhà
đầu tư. Một trong những điểm quan trọng của chính sách đó là doanh nghiệp phải
cải cách hệ thống quản trị doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp Việt Nam đã yêu cầu
doanh nghiệp phải có ít nhất 1/3 số lượng thành viên độc lập trong HĐQT. Khi
chất lượng lợi nhuận thấp, chính phủ có những động thái yêu cầu các công ty đại
chúng phải thực hiện tổ chức bộ máy quản trị theo các tiêu chuẩn nhất định, bên
cạnh đó thực hiện khuyến khích họ không chỉ tuân thủ đúng tỷ lệ thành viên trong
HĐQT mà tỷ lệ này càng cao càng tốt. Với hành động này, các quốc gia trong khu
vực Đông Á hy vọng rằng có thể kéo chất lượng lợi nhuận của các công ty đại
chúng trong nước, thu hút dòng vốn từ các nhà đầu tư lớn từ bên ngoài, nâng cao
giá cổ phiếu trên thị trường. Do đó, EQ thấp có thể tác động ngược lại lên tỷ lệ
thành viên độc lập trong HĐQT, khi này trong mô hình sẽ xảy ra hiện tượng nội
sinh giữa biến Chất lượng lợi nhuận và biến tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT.
Các nghiên cứu trước cũng đã đưa ra kết luận rằng xuất hiện vấn đề nội sinh trong
mô hình OLS khi đo lường tác động của tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT lên

22
chất lượng lợi nhuận (M. 2009, Adams, Hermalin et al. 2010, Dimitropoulos and
Asteriou 2010).

Bên cạnh chạy mô hình hồi quy OLS, nhóm nghiên cứu tiến hành thực hiện
mô hồi quy hai giai đoạn (Two Stage Least of Square-2SLS). Mô hình hồi quy
2SLS sử dụng công cụ ước lượng thay thế khi có vấn đề tiềm tàng biến tỷ lệ thành
viên độc lập là biến nội sinh. Thành viên độc lập trong HĐQT là giá trị được lựa
chọn do đó nó có thể bị tác động bởi những kết quả và những đặc tính của công ty
trong năm. Đối với doanh nghiệp niêm ở Việt Nam hiện nay, quyết định lựa chọn
thành viên trong hội đồng quản trị có thể bị phụ thuộc vào chất lượng lợi nhuận.
Khi đó, sẽ xảy ra vấn đề nội sinh trong mô hình và kết quả từ mô hình OLS sẽ bị
chệch và không còn phù hợp. Mô hình 2SLS được thực hiện cụ thể như sau:

Bước 1:

𝐈𝐧𝐝𝐞𝐩𝐞𝐧𝐝𝐞𝐧𝐭 𝐁𝐨𝐚𝐫𝐝𝐢𝐭
= 𝛂𝟎 + 𝛂𝟏 (𝐁𝐨𝐚𝐫𝐝 𝐒𝐢𝐳𝐞𝐢𝐭 ) + 𝛂𝟐 (𝐋𝐞𝐯𝐞𝐫𝐚𝐠𝐞𝐢𝐭 )
+ 𝛂𝟑 (𝐂𝐚𝐬𝐡 𝐅𝐥𝐨𝐰𝐬𝐢𝐭 ) + 𝛂𝟒 (𝐈𝐧𝐯𝐞𝐬𝐭𝐦𝐞𝐧𝐭 𝐎𝐩𝐩𝐨𝐫𝐭𝐮𝐧𝐢𝐭𝐢𝐞𝐬𝐢𝐭 )
+ 𝛂𝟓 (𝐁𝐢𝐠𝟒𝐢𝐭 ) + 𝛂𝟔 (𝐅𝐢𝐫𝐦 𝐒𝐢𝐳𝐞𝐢𝐭 ) + 𝛈𝐢𝐭

Bước 2:
𝑬𝑸𝒊𝒕 = 𝝀𝟎 + 𝝀𝟏 (𝑰𝒏𝒅𝒆𝒑𝒆𝒏𝒅𝒆𝒏𝒕 𝑩𝒐𝒂𝒓𝒅 𝒊𝒕 ) + 𝝀𝟐 (𝑳𝒆𝒗𝒆𝒓𝒂𝒈𝒆𝒊𝒕 )
+ 𝝀𝟑 (𝑪𝒂𝒔𝒉 𝒇𝒍𝒐𝒘𝒔𝒊𝒕 ) + 𝝀𝟒 (𝑰𝒏𝒗𝒆𝒔𝒕𝒎𝒆𝒏𝒕 𝑶𝒑𝒑𝒐𝒓𝒕𝒖𝒏𝒊𝒕𝒊𝒆𝒔𝒊𝒕 )
+ 𝝀𝟓 (𝑩𝒊𝒈𝟒𝒊𝒕 ) + 𝝀𝟔 (𝑭𝒊𝒓𝒎 𝑺𝒊𝒛𝒆𝒊𝒕 ) + 𝝑𝒊𝒕
Với:
 Independent Board là thành viên độc lập trong hội đồng quản trị sau
khi dùng công cụ đo Board Sizet
 Board Sizet được định nghĩa như là số lượng thành viên trong HĐQT
của công ty i trong năm t.

Số lường thành viên trong HĐQT được sử dụng như một công cụ đo vì hai
lý do sau. Thứ nhất, tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT dường như sẽ nhỏ hơn
khi tăng số lượng tổng thành viên trong HĐQT lên (Chen & Al-Najjar 2012; Klein
2002; Mak & Li 2001). Thứ hai, công ty có số lượng thành viên trong HĐQT lớn
có lẽ thể có khả năng mời thành viên từ bên ngoài vào HĐQT mà không mất đi
quyền đại diện với tư cách người trong cuộc (Agrawal & Knoeber 1996).

23
Để kiểm tra liệu rằng có tồn tại vấn đề biến nội sinh và liệu rằng việc sử
dụng công cụ đo (Board Size) đã sử dụng là hợp lý, chúng ta biểu diễn kiểm định
biến nội sinh như kiểm định của Hausman. Để kiểm định tồn tại biến nội sinh,
bước đầu tiên ta thực hiện như trong mô hình đầu tiên của ước lượng 2SLS. Phần
dư 𝜂̂
𝑖𝑡 thu được và thêm vào mô hình OLS như sau:
𝑬𝑸𝒊𝒕 = 𝜷𝟎 + 𝜷𝟏 (𝑰𝒏𝒅𝒆𝒑𝒆𝒏𝒅𝒆𝒏𝒕 𝒃𝒐𝒂𝒓𝒅𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟐 (𝑳𝒆𝒗𝒆𝒓𝒂𝒈𝒆𝒊𝒕 )
+ 𝜷𝟑 (𝑪𝒂𝒔𝒉 𝒇𝒍𝒐𝒘𝒔𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟒 (𝑰𝒏𝒗𝒆𝒔𝒕𝒎𝒆𝒏𝒕 𝑶𝒑𝒑𝒐𝒓𝒕𝒖𝒏𝒊𝒕𝒊𝒆𝒔𝒊𝒕 )
+ 𝜷𝟓 (𝑩𝒊𝒈𝟒𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟔 (𝑭𝒊𝒓𝒎 𝑺𝒊𝒛𝒆𝒊𝒕 ) + 𝜷𝟕 (𝜼̂𝒊𝒕 ) + 𝜺𝒊𝒕

Nếu hệ số 𝛽7 là có ý nghĩa thống kê, nó có nghĩa rằng trong mô hình tồn tại
vấn đề biến nội sinh. Trong trường hợp không tồn tại vấn đề biến nội sinh trong
mô hình thì ước lượng OLS cho kết quả tốt hơn 2SLS và ngược lại, khi mô hình
tồn tại vấn đề nội sinh thì 2SLS sẽ cho kết quả tốt hơn.

3.3 Mô tả biến phụ thuộc (Chất lượng lợi nhuận)


Theo lý thuyết chuẩn mực kế toán, chúng tôi sử dụng dồn tích bất thường làm
đại diện cho chất lượng lợi nhuận. Dồn tích bất thường được ước lượng theo mô
hình của Jones nhưng mô hình này đã được điều chỉnh theo Dechow (1995) và mô
hình này thường được sử dụng trong các nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận
(Chen, Elder et al. 2007, Nabar and Boonlert‐U‐Thai 2007, Van Tendeloo and
Vanstraelen 2008, Lin and Hwang 2010).
Mô hình điều chỉnh của Jones hồi quy, tổng dồn tích dựa vào ba giá trị: thay
đổi doanh thu (∆𝑅𝑒𝑣𝑖𝑡 ), sự thay đổi trong khoản phải trả (∆𝑅𝑒𝑐𝑖𝑡 ) và tài sản cố
định (PPE). Tất cả các biến số và hệ số chặn đều được chia cho độ trễ của tổng tài
sản để tránh hiện tượng phương sai thay đổi. Khoản dồn tích bình thường được dự
đoán từ ước lượng OLS và dồn tích bất thường sẽ là phần dư của mô hình. Mô
hình hồi quy OLS được viết như sau:
𝑇𝐴𝐶𝐶𝑖𝑡 1 ∆𝑅𝑒𝑣𝑖𝑡 − ∆𝑅𝑒𝑐𝑖𝑡 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡
= 𝛼1 ( ) + 𝛼2 ( ) + 𝛼3 ( ) + 𝜀𝑖𝑡
𝑇𝐴𝑖𝑡−1 𝑇𝐴𝑖𝑡−1 𝑇𝐴𝑖𝑡−1 𝑇𝐴𝑖𝑡−1
Với:
 ∆Rev bằng Doanh thu năm sau (t) trừ Doanh thu năm trước (t-1)
 ∆Rec bằng Phải thu năm sau (t) trừ Phải thu năm trước (t-1)
 𝑇𝐴𝐶𝐶 là tổng dồn tích = Lợi nhuận trước thuế - Dòng tiền
 𝑇𝐴 là tổng tài sản nhưng được lấy theo độ trễ (Lấy của năm trước t-1)

24
3.4 Mô tả biến độc lập
Các nghiên cứu trước chỉ ra rằng không chỉ có yếu tố thành viên độc lập
trong HĐQT tác động đến chất lượng lợi nhuận (hoặc hành vi quản trị lợi nhuận),
mà còn có một số biến khác được đưa ra nhằm khuyến khích nâng cao chất lượng
lợi nhuận. Các nghiên cứu trước cho rằng tỷ lệ vốn vay (leverage), dòng tiền (cash
flows), cơ hội đầu tư (investment opportunities), chất lượng công ty kiểm toán (các
công ty thuộc Big 4) và độ lớn công ty là những yếu tố tác động đến chất lượng lợi
nhuận.

3.4.1 Tỷ lệ vốn vay


Tỷ số vốn vay là một trong những tỷ số của công cụ tài chính. Công ty sử
dụng khoản vốn vay (bao gồm nợ dài hạn và ngắn hạn) dùng để thúc đẩy lợi nhuận
nên còn được gọi là đòn bẩy tài chính. Khi tỷ lệ vốn vay cao, nó cho thấy được
rằng công ty đang sử dụng đòn bẩy tài chính lớn tuy nhiên công ty lại có thể đi
kèm những rủi ro. Ví dụ như rủi ro về thanh khoản hoặc nếu tỷ lệ vốn vay quá cao,
chi phí vay vốn cũng như lãi phải trả cao từ đó sẽ kéo lợi nhuận giảm xuống.
𝑻ổ𝒏𝒈 𝒏ợ
𝑳𝒆𝒗𝒆𝒓𝒂𝒈𝒆 =
𝑻ổ𝒏𝒈 𝒕à𝒊 𝒔ả𝒏

Tỷ lệ vốn vay có thể tác động tiêu cực hoặc tích cực đến chất lượng lợi
nhuận. Quan điểm thứ nhất cho rằng khi công ty có tỷ lệ vốn vay cao thì ban điều
hành có nhiều cơ hội để thao túng khoản dồn tích để làm tăng kết quả lợi nhuận
(Ali et al. 2008; DeFond & Jiambalvo 1994; Jiang et al. 2008). Để có thể tái huy
động nợ ban điều hành công ty càng có động cơ điều chỉnh lợi nhuận để cho các
chủ nợ tin vào tình hình hoạt động của công ty hoặc sợ vi phạm những điều khoản
nợ trong hợp đồng nợ (nếu vi phạm điều khoản, chủ nợ sẽ tăng lãi suất hoặc yêu
cầu trả lại các khoản nợ do sợ rủi ro). Do đó, nếu tỷ lệ vốn vay tăng thì khoản dồn
tích bất thường tăng lên và chất lượng lợi nhuận giảm (Fama and Jensen 1983,
Dechow et al 1995).
Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại đưa ra lập luận rằng những công ty có sử
dụng vốn chủ yếu từ các khoản vay thì sẽ bị bên cho vay (chủ nợ) kiểm soát
nghiêm ngặt hơn quá trình lập báo cáo tài chính cũng như quá trình ra quyết định
của ban điều hành công ty và ban điều hành cũng ít có cơ hội thao túng con số lợi
nhuận (Chung, Firth et al. 2002, Park and Shin 2004, Chi‐Yih, Hung‐Neng et al.
2008).

25
𝛽2 > 0: nếu tỷ lệ vốn vay tăng, thì dồn tích bất thường tăng lên và
chất lượng lợi nhuận giảm
𝛽2 < 0: nếu tỷ lệ vốn vay tăng lên, thì dồn tích bất thường giảm và
chất lượng lợi nhuận tăng.

3.4.2 Dòng tiền


𝑫ò𝒏𝒈 𝒕𝒊ề𝒏 𝒕ừ 𝒉𝒐ạ𝒕 độ𝒏𝒈 𝒌𝒊𝒏𝒉 𝒅𝒐𝒂𝒏𝒉𝒊𝒕
𝑪𝒂𝒔𝒉 𝒇𝒍𝒐𝒘𝒔𝒊𝒕 =
𝑻ổ𝒏𝒈 𝒕à𝒊 𝒔ả𝒏𝒊𝒕−𝟏
Với: 𝐶𝑎𝑠ℎ 𝑓𝑙𝑜𝑤𝑠𝑖𝑡 là dòng tiền của công ty i trong năm t

Theo Dechow cùng với cộng sự (2010) cho rằng tổng dồn tích càng lớn thì
thành phần dồn tích bất thường càng cao. Đồng thời, ta có:

Lợi nhuận từ dồn tích = Tổng lợi nhuận – Lợi nhuận từ dòng tiền

Như vậy khi dòng tiền càng lớn thì dồn tích càng nhỏ và khi đó dồn tích bất
thường càng thấp, lợi nhuận ít bị ảnh hưởng từ hành vi điều chỉnh lợi nhuận của
ban điều hành. Các nghiên cứu Alves (2014), Dechow (1995) và Yang (2008) đều
đưa ra kết luận rằng thành phần dồn tích càng cao thì dồn tích bất thường càng cao,
từ đó chất lượng lợi nhuận càng thấp.
𝛽3 là hệ số của dòng tiền trong mô hình. Vì dòng tiền càng lớn thì dồn tích
bất thường càng thấp và chất lượng lợi nhuận càng lớn nên 𝛽3 mang dấu âm và khi
𝛽3 càng lớn thì chất lượng lợi nhuận càng cao.

3.4.3 Cơ hội đầu tư


𝑮𝒊á 𝒄ủ𝒂 𝒄ổ 𝒑𝒉𝒊ế𝒖 𝒕𝒓ê𝒏 𝒕𝒉ị 𝒕𝒓ườ𝒏𝒈
𝑰𝒏𝒗𝒆𝒔𝒕𝒎𝒆𝒏𝒕 𝑶𝒑𝒑. =
𝒈𝒊á 𝒄ủ𝒂 𝒄ổ 𝒑𝒉𝒊ế𝒖 𝒕𝒓ê𝒏 𝒔ổ 𝒔á𝒄𝒉

Cơ hội đầu tư là tỷ lệ giữa giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu và giá trị
sổ sách của vốn chủ sở hữu. Các công ty có cơ hội phát triển cao có thể cần phải
đầu tư nhiều vào tài sản ngắn hạn với dự đoán sẽ tăng trưởng doanh thu trong
tương lai. Thực tế cho thấy rằng việc đầu tư quá mức vào tài sản ngắn hạn có thể
dẫn đến mối quan hệ tích cực giữa cơ hội tăng trưởng và các khoản dồn tích bất
thường. Dẫn đến Các nhà quản trị có thể thực hiện các hành vi gian lận và sai trái
trong việc báo cáo các số liệu trong bảng báo cáo tài chính khi doanh nghiệp có sự
phát triển chậm lại hoặc đảo chiều với mục đích duy trì sự phát triển nhất định
(Summers & Sweeney 1998). Những kỳ vọng cũng như những mục tiêu đã được

26
đề ra là một động lực to lớn cho các nhà quản lý thực hiện quản trị lợi nhuận, và
dồn tích được điều chỉnh là một công cụ hữu ích để đạt được mục tiêu đó. Các cơ
hội đầu tư có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng thu nhập bằng cách tăng
quản trị lợi nhuận. Iyengar và cộng sự (2010) tìm thấy một mối liên hệ tiêu cực
giữa chất lượng lợi nhuận được báo cáo và cơ hội tăng trưởng của một công ty.
Đồng quan điểm đó, Park & Shin (2004) và Chen et al. (2011) cũng cho thấy các
doanh nghiệp có cơ hội đầu tư cao hơn có xu hướng tham gia quản lý thu nhập.
Theo những lý thuyết thông thường cho thấy rằng bản thân một công ty có
tổ chức hiệu quả hay không đều phụ thuộc vào các yếu tố như môi trường pháp lý
và thể chế, công nghệ và mức độ cạnh tranh trong nghề để tối đa hóa lợi nhuận
tương lai của doanh nghiệp (Watts & Zimmerman, 1986), các yếu tố đó giúp doanh
nghiệp đưa ra quyết định thiết lập các cơ hội đầu tư. Điều này cũng ngụ ý rằng, cơ
hội đầu tư sẽ ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận để họ đạt được mục tiêu
cần theo đuổi (Jensen & Meckling, 1995). Do đó chi phí bỏ ra cho thông tin trong
các trường hợp này sẽ gia tăng, nhà quản lý có thể lựa chọn để tối đa hóa lợi ích
riêng của họ và tự nâng cao phúc lợi dự kiến – phúc lợi được các cổ đông khác trả
(tác động xấu).
Theo lý thuyết kế toán thì các nhà quản lý có thể chọn một trong hai phương
pháp kế toán cụ thể để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, hoặc một cơ hội để giúp các
nhà đầu tư giảm chi phí khác khi kí kết hợp đồng với các bên (Holthausen, 1990).
Từ lợi thế của người kí kết hợp đồng, các nhà quản trị có thể sử dụng các khoản lợi
nhuận như một phương tiện để truyền tải các thông tin nội bộ cho nhà đầu tư, giúp
cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả (Scott, đưa ra năm 2006).
Cơ hội đầu tư ảnh hưởng đến các chính sách tài chính, chia cổ tức và bồi
thường của công ty. Các doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư, tiếp cận nhiều đối
với các dự án có giá trị ròng lớn thì khó giám sát và quản lý bởi vì khi tỷ lệ giá trị
doanh nghiệp tăng lên do cơ hội đầu tư tăng thì khả năng giám sát các hoạt động
quản lý giảm (ví dụ như Gaver & Gaver, 1993; Smith & Watts, 1992).
Cơ hội đầu tư đại diện cho kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận của thị trường
trong tương lai. Cố gắng đạt được những kỳ vọng như vậy có thể là một dộng lực
cho các nhà quản trị. Summers and Sweeney (1998) chỉ ra rằng các nhà quản trị
phi đạo đức có thể thực hiện báo cáo sai báo cáo tài chính khi sự tăng trưởng chậm
lại hoặc đổi chiều, để duy trì sự tăng trưởng nhất quán.
𝛽4 > 0 (tác động tiêu cực đến chất lượng lợi nhuận): Khi cơ hội đầu
tư tăng lên dồn tích bất thường cũng tăng lên, cất lượng lợi nhuận giảm
xuống

27
3.4.4 Chất lượng công ty kiểm toán
Khả năng quản lý thu nhập của công ty cho lợi ích cá nhân được coi là bất
lợi cho độ tin cậy của báo cáo tài chính. Một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến
thu nhập quản trị - được đo bằng mức dồn tích được điều chỉnh- phổ biến trong
công ty là kiểm toán Các công ty được các kiểm toán viên Big Four kiểm toán sẽ
có chất lượng cao hơn so với các công ty được kiểm toán không phải là Big Four.
Kiểm toán viên của Big 4 nhạy cảm hơn với chi phí của việc khách hàng báo cáo
sai, ảnh hưởng của nó lên danh tiếng của kiểm toán viên và có khả năng đòi hỏi
chất lượng lợi nhuận tốt hơn (Jere R. Francis, 2008). Một giải thích cho rằng khách
hàng Big 4 có dồn tích bất thường nhỏ hơn, đồng nghĩa rằng kiểm soát viên Big 4
thúc ép sự quản lý lợi nhuận tích cực, do đó các công bố lợi nhuận đáng tin hơn.(
Becker, DeFond, Jiambalvo, và Subramanyam 1998; Francis 1999)
Big Four là bốn công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu trên thế giới hiện nay.
Big4 xử lý phần lớn các công việc kiểm toán cho các công ty có giao dịch công
khai lớn nhất ở mọi quốc gia và cũng như nhiều công ty tư nhân khác nó tạo ra sự
độc quyền trong nghành công nghiệp kiểm toán toàn cầu.Big Four bao gồm
Deloitte, Ernst & Young, KPMG, và PricewaterhouseCoopers.
Việc lý giải biến big 4 tác động lên chất lượng lợi nhuận được thể hiện qua
các cách lý giải sau :
 Môi trường tranh chấp giữa các công ty đòi hỏi họ phải giữ vững
lợi thế và chất lượng.
 Big 4 là các tổ chức quốc tế vận hành trên toàn thế giới nên họ
muốn đảm bảo danh tiếng của mình. Kiểm toán viên không phải
của Big 4 không có vốn danh tiếng để chịu quá nhiều rủi ro như
các doanh nghiệp Big 4 và vì vậy họ không có động lực mạnh mẽ
để thúc ép chất lượng lợi nhuận cao hơn và sự có sự qua loa về rủi
ro của các khách hàng.
 Kiểm toán viên Big 4 cáng đáng chất lượng lợi nhuận cao hơn
thông qua nguyên tắc thận trọng kế toán chặt chẽ hơn trong báo
cáo tài chính của khách hàng.
Theo DeAngelo's (1981), người chứng minh phân tích rằng quy mô công
ty kiểm toán có mối quan hệ tích cực với chất lượng kiểm toán, nhiều nghiên cứu
chỉ ra rằng Big Four kiểm toán viên cung cấp kiểm toán chất lượng cao hơn so với
Kiểm toán viên không thuộc Big Four. Các kiểm toán viên Big Four có khả năng
hạn chế sử dụng quản lý thu nhập của khách hàng hơn vì các kiểm toán viên trong
công ty lớn sẽ độc lập hơn so với các công ty còn lại.
Teoh và Wong (1993) ghi rằng các hệ số phản hồi thu nhập (ERCs) của
khách hàng Kiểm toán bởi Big Four kiểm toán viên là cao hơn của khách hàng

28
được kiểm toán bởi không Big Four kiểm toán viên. Palmrose (1986) chỉ ra mối
quan hệ tích cực giữa chi phí kiểm toán và quy mô công ty kiểm toán. Becker et al.
(1998) thấy rằng các công ty có các kiểm toán viên không thuộc Tập đoàn Big
Four có thu nhập cao hơn đáng kể nhờ các khoản dự phòng theo quyết định so với
các công ty có kiểm toán viên Big Four.
Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy chất lượng kiểm toán đã hạn chế việc
quản lý thu nhập, các công ty do cách tiếp cận khoan dung hơn và ít hoài nghi hơn
đối với kiểm toán, cho thấy những thay đổi trong môi trường pháp lý để kiểm toán
ảnh hưởng đến khuyến khích của kiểm toán viên để giảm quản lý thu nhập
(Francis, 2004).
Các công ty Big 4 cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn cho khách hàng, khách
hàng chọn dịch vụ tư vấn càng mắc thì chất lượng lợi nhuận công ty họ sẽ càng
được thực hiện tốt. Big 4 còn củng cố niềm tin rằng nghiệp vụ của các chuyên gia
tư vấn của Big4 giúp chất lượng lợi nhuận công ty khách hàng càng cao hơn.Các
nghiệp vụ của các chuyên gia tư vấn của Big4 giúp chất lượng lợi nhuận cty khách
hàng càng cao hơn. Big4 có thể đề cử một nhân viên tư vấn như là một chuyên gia
là phần không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng. Sử dụng tốt nhóm người
này giúp "đánh giá tốt hơn các giao dịch phức tạp, đánh giá kế toán điều trị, và xác
định những khu vực mà sự hoài nghi chuyên nghiệp bổ sung có thể được bảo
đảm”.
Khi xem xét trường hợp của biến Big Four thì biến này không phải là một
biến định lượng một cách trực tiếp được nên chúng tôi định nghĩa biến này như là
một biến giả, biến giả này là biến nhị nguyên nhận giá trị 1 đối với trường hợp
công ty có báo cáo kiểm toán năm đó là kiểm toán thuộc công ty Big Four và giá
trị 0 đối với ngược lại ( không được kiểm toán bởi công ty thuộc Big Four).
Các nghiên cứu trước đó cho thấy rằng kiểm toán viên Big Four ít có khả
năng cho phép lợi nhuận quản trị cao hơn so với kiểm toán viên không Big Four
(DeFond &amp; Jiambalvo, 1991; DeFond &amp; Jiambalvo, 1994; Francis,
1999). Vậy nên chúng tôi dự đoán phân tích của chúng tôi sẽ cho kết quả rằng khi
biến này bằng 1 sẽ làm cho chất lượng lợi nhuận tăng lên và lợi nhuận quản trị bị
hạn chế lại.

3.4.5 Độ lớn của công ty


Chúng ta sử dụng hai cách đo lường độ lớn công ty thông qua: tổng tài sản
và giá trị thị trường. Bởi vì đây là các biến được sử dụng phổ biến trong các bài
nghiên cứu. Với mỗi cách đo lường tồn tại những ưu điểm hoặc nhược điểm, và
không đo lường nào có thể nắm hết được các đặc điểm của công ty. Thông thường,

29
tổng tài sản đo lường tổng nguồn lực công ty; vốn hóa trên thị trường thể hiện cơ
hội tăng trưởng của công ty và điều kiện thị trường chứng khoán.
Tổng tài sản (Total assets) thể hiện thành phần giá trị của tất cả tài sản được
sở hữu bởi công ty. Tài ẩn là bất cứ những gì mà có thể cung cấp lợi ích kinh tế
trong tương lai và những giá trị cí thể được đo lường tin cậy và xác thực. Ví dụ
như tiền gửi ngân hàng, hàng tồn kho, khoản phải thu, cổ phiếu và bảo hiểm khác,
đất, tòa nhà, xe tải, thiết bị…. Tổng tài sản có thể đưa ra toàn cảnh về độ lớn (size)
của công ty, những đo lường này không tổng quát hết toàn bộ. Nhiều công ty có tài
sản vô hình đáng kể nhưng không xuất hiện trong bảng cân đối kế toán bởi vì
không có cách để đo lường giá trị của nó. Một ví dụ của công ty The Walt Disney,
khi các nhân vật được phát triển trong công ty, nó là giá trị không thể đo lường
dưới các quy tắc chuẩn kế toán. Cuối cùng, tổng tài sản sẽ không thể nói cho chúng
ta biết được một cách hiệu quả một công ty sử dụng tài sản của nó như thế nào để
tạo ra lợi nhuận hoặc doanh thu.
Giá trị vốn công ty trên thị trường là tổng giá trị của tất cả cổ phiếu công ty
đang lưu hành trên thị trường. Được tính bằng giá trị hiện hành của cổ phiếu nhân
cho số lượng số cổ phiếu được sở hữu bởi cổ đông. Về bản chất, vốn hóa của công
ty trên thị trường là đánh giá của tổng thể của thị trường chứng khoán về độ lớn
công ty. Hầu hết là không thay đổi, nguồn vốn thị trường của công ty sẽ khác với
tài sản ròng (net assets), nó bằng tài sản trừ đi tổng nợ phải trả. Khi nguồn vốn thị
trường liên quan trực tiếp tới giá chứng khoán, nó dẫn tới những tính toán không
xuất hiện trên bảng cân đối kế toán –không chỉ liên quan đến các tài sản vô hình
như Mickey Mouse, mà còn cả chuyên môn quản lý, kỳ vọng tăng trưởng, kỳ vọng,
thị trường của bản thân công ty. Do đó, nhóm nghiên cứu tiến hành đo lường độ
lớn của công ty dựa vào giá trị vốn hóa thị trường mà không dựa vào tổng tài sản.

𝑳𝒐𝒈(𝑴𝒂𝒓𝒌𝒆𝒕 𝑪𝒂𝒑𝒊𝒕𝒂𝒍𝒊𝒛𝒂𝒕𝒊𝒐𝒏)

Có hai quan điểm khác nhau tồn tại liên quan đến chiều tác động của quy mô
doanh nghiệp lên lợi nhuận quản trị. Theo Warfield, Wild và cộng sự, 1995 ,
Francis, 1999 cho rằng các công ty có quy mô lớn có quản trị lợi nhuận thấp hơn
so với các công ty nhỏ bởi sự hoạt động hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ
cũng như BCTC được kiểm toán bởi một công ty Big 4. Quan điểm đối nghịch lại
lại cho rằng các công ty có quy mô lớn thì quản trị lợi nhuận càng tăng nhiều hơn
so với các công ty có kích thước nhỏ. Trong một nghiên cứu của Barton và Simko
(2002), họ chỉ ra các công ty có quy mô lớn phải thực hiện quản trị lợi nhuận bởi

30
áp lực của nhà đầu tư, sự mong đợi của các nhà phân tích lên họ lớn hơn. Nelson,
Elliott và Tarpley (2002) lập luận rằng việc quản lý thu nhập của công ty lớn thực
tiễn đã bị bỏ qua bởi các kiểm toán viên. Điều này càng nhấn mạnh rằng các công
ty có quy mô lớn có thể quản lý thu nhập của họ nhiều hơn các doanh nghiệp nhỏ.

Bảng 5: Tóm tắt biến


Biến độc lập Cách đo lường Dấu dự đoán trong
mô hình hồi quy

Thành viên độc lập 𝑇ℎà𝑛ℎ 𝑣𝑖ê𝑛 𝑘ℎô𝑛𝑔 𝑡â𝑚 𝑔𝑖𝑎 đ𝑖ề𝑢 ℎà𝑛ℎ 𝜷𝟏 < 𝟎
(Independence Board) 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡ℎà𝑛ℎ 𝑣𝑖ê𝑛 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝐻Đ𝑄𝑇

Tỷ lệ vốn vay (Leverage) 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑛ợ 𝜷𝟐 < 𝟎


𝐿𝑒𝑣𝑒𝑟𝑎𝑔𝑒 =
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛
Hoặc 𝜷𝟐 > 𝟎

Dòng tiền (Cash flows) 𝐶𝑎𝑠ℎ 𝑓𝑙𝑜𝑤𝑠𝑖𝑡 𝜷𝟑 < 𝟎


𝐷ò𝑛𝑔 𝑡𝑖ề𝑛 𝑡ừ ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔 𝑘𝑖𝑛ℎ 𝑑𝑜𝑎𝑛ℎ𝑖𝑡
=
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛𝑖𝑡−1

Cơ hội đầu tư (Investment 𝐼𝑛𝑣𝑒𝑠𝑡𝑚𝑒𝑛𝑡 𝑂𝑝𝑝. 𝜷𝟒 > 𝟎


Opportunities) 𝐺𝑖á 𝑐ủ𝑎 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 𝑡𝑟ê𝑛 𝑡ℎị 𝑡𝑟ườ𝑛𝑔
=
𝑔𝑖á 𝑐ủ𝑎 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 𝑡𝑟ê𝑛 𝑠ổ 𝑠á𝑐ℎ

Chất lượng kiểm toán =1: công ty kiểm toán thuộc Big4 𝜷𝟓 < 𝟎
(Big4)
=0: Công ty kiểm toán khác

Độ lớn công ty 𝐿𝑜𝑔(𝑀𝑎𝑟𝑘𝑒𝑡 𝐶𝑎𝑝𝑖𝑡𝑎𝑙𝑖𝑧𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛) 𝜷𝟔 > 𝟎


(Firm size)

31
4 Kết quả thực nghiệm và kiểm định mô hình
4.1 Kết quả thực nghiệm

Bảng 6: Trình bày kết quả hồi quy tuyến tính OLS và 2SLS như sau:
Biến phụ thuộc EQ_ModJones
OLS 2SLS
Biến độc lập Hệ số P-value Hệ số P-value
Constant 0.00 -0.182 0.03
-0.271
Independent board 0.35 -0.251 0.02**
-0.014
Leverage -0.188 0.00*** -0.224 0.00***
Cash flows -0.837 0.00*** -0.844 0.00***
Investment opportunities 0.042 0.00*** 0.043 0.00***
Big 4 -0.015 0.02** -0.005 0.60
Firm size 0.033 0.00*** 0.039 0.0***
R-squared 69.41% 61.67%
Adjusted R-squared 69.21% 61.42%
F-statistic 348.68 279.12
EQ_ModJones biểu diễn chất lượng lợi nhuận, được lấy từ phần dư của mô hình điều chỉnh Jones (Dechow et
al.1995); Independent board biểu diễn tỷ lệ giữa số thành viên độc lập trong HĐQT và tổng số thành viên
trong HĐQT; Leverage biểu diễn tỷ lệ giữa tổng số nợ trên trên sổ sách và tổng tài sản; Cash flows là tỷ lệ
giữa dòng tiền hoạt động và tổng tài sản; Investment opportunities biểu diễn tỷ lệ giá trị nguồn vốn trên thị
trường và giá trị nguồn vốn trên sổ sách; Big4 là một biến giả, nhận giá trị là 1 nếu công ty kiểm toán thuốc
Big 4 và là nếu không thuộc Big4; Firm size biểu diễn độ lớn của công ty;
*** Mức ý nghĩa 1 %; ** Mức ý nghĩa 5%; * Mức ý nghĩa 10%

Bảng 6 báo cáo kết quả mô hình hồi quy OLS và 2SLS để kiểm tra giả thiết
rằng thành viên độc lập trong HĐQT có xu hướng cải thiện chất lượng lợi nhuận
bằng cách hạn chế hành vi thao túng lợi nhuận của ban điều hành.
Nếu cả hai kết quả OLS và 2SLS nhất quán với nhau khi đó tất cả các biến
trong mô hình ngoại sinh, tuy nhiên khi 2SLS và OLS đưa ra ý nghĩa thống kê
khách nhau, thì mô hình có thể xảy ra nội sinh (Hausman 1978). Huasman (1978)
đã đề xuất cách kiểm định để xác định kết quả hồi quy OLS hay 2SLS là tốt hơn
đồng thời kiểm định hiệu quả của biến công cụ. Bảng 7 dưới đây trình bày kết quả
kiểm định Hausman.

32
Bảng 7: Trình bày kết quả kểm định Hausman:
Biến độc lập Coef. t test
Constant -0.182 0.01
Independent board -0.251 0.01
Leverage -0.224 0.00
Cash flows -0.844 0.00
Investment
opportunities 0.043 0.00
Big 4 -0.005 0.55
Firm size 0.039 0.00
𝜼̂𝒊𝒕 0.243 0.01

Kết quả kiểm định cho ta thấy rằng hệ số 𝛽7 có ý nghĩa thống kê. Chứng tỏ
rằng, biến thành viên độc lập là biến nội sinh, kết quả mô hình 2SLS đáng tin cậy
hơn mô hình OLS và mô hình biến công cụ thực hiện là hiệu quả. Biến thành viên
độc lập trong HĐQT và chất lượng lợi nhuận có quan hệ tuyến tính qua lại lẫn
nhau. Vì có quan hệ tuyến tính qua lại giữa biến thành viên độc lập trong HĐQT và
chất lượng lợi nhuận nên khoảng tin cậy của hệ số 𝛽1 trong ước lượng OLS trở nên
rộng và hệ số ước lượng bị mất ý nghĩa thống kê.
Vì hồi quy 2SLS đáng tin cậy hơn, nên nhóm nghiên cứu báo cáo kết quả và
tiến hành thực hiện các kiểm định tính vững dựa trên kết quả hồi quy 2SLS. Do đó,
từ kết quả của Bảng 6 và kết quả kiểm định Hausman cho thấy rằng thành viên độc
lập trong HĐQT có khả năng làm giảm khoản dồn tích bất thường, có nghĩa ban
điều hành ít có khả năng thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận nếu tỷ lệ thành viên
độc lập trong HĐQT cao. Những công ty có tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT
cao có xu hướng tạo ra chất lượng lợi nhuận cao hơn so với những công ty có tỷ lệ
thành viên độc lập trong HĐQT thấp. Chúng ta có thể thấy được rằng thành viên
độc lập trong HĐQT là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận.
Kết quả thồng nhất với các bài nghiên cứu trước như là của Beassley (1996),
dechow 1996, Park & Shin 2004, Peasnell (2000, 2005) và Xie (2003).
Như vậy, giống như các quốc gia phát triển về thị trường vốn (khi phân chia
quyền sở hữu và quyền điều hành), kết quả thực nghiệm dựa vào mẫu các công ty
ở Việt Nam cũng chỉ ra rằng những thành viên không tham gia điều hành trong
HĐQT giúp bảo vệ lợi ích của cổ đông và giảm mâu thuẫn lợi ích giữa những nhà
đầu tư thiểu số với những cổ đông lớn/nhà điều hành.

33
Trong thực tế, thành viên độc lập trong HĐQT đóng vai trò quan trọng trong
hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và ngày càng được quan tâm. Điều
này được thể hiện thông qua các đạo luật áp dụng đối với các quốc gia theo mô
hình vừa có BGS và HĐQT như Nhật, Đài Loan, Trung Quốc, Indonesia. Luật
doanh nghiệp của các quốc gia này gần đây đã bổ sung quy định bắt buộc tỷ lệ
thành viên độc lập trong HĐQT phải chiếm đa số. Báo cáo Ngân hàng Thế Giới ví
thành viên độc lập trong HĐQT như là một cầu nối giữa Ban kiểm soát và Ban
điều hành cấp cao.
Đối với các biến số khác trong mô hình 2SLS, chúng ta thấy rằng mối quan
hệ tuyến tính giữa tỷ lệ vốn vay và dồn tích bất thường, khi những công ty có tỷ lệ
vốn vay cao thì khoản dồn tích bất thường thấp, tức là ban điều hành ít có cơ hội
thao túng lợi nhuận hơn do họ bị bên cho vay (chủ nợ) kiểm soát nghiêm ngặt hơn
quá trình lập báo cáo tài chính. Dòng tiền có quan hệ tuyến tính ngược chiều với
dồn tích bất thường, khẳng định rằng các doanh nghiệp có lưu chuyển tiền mặt lớn
ít có khả năng sử dụng các khoản dồn tích để bơm số liệu lợi nhuận, phù hợp với
kết quả của Dechow (1995), Chen (2007). Điều này có thể khẳng định rằng các
doanh nghiệp có dòng tiền cao thì chất lượng lợi nhuận cũng cao.
Phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước như của Park & Shin (2004)
và Chen (2001), kết quả từ mô hình hồi quy của chúng tôi cho thấy rằng cơ hội đầu
tư và độ lớn của công ty càng lớn thì dồn tích bất thường càng cao, chứng tỏ rằng
khi cơ hội đầu tư và độ lớn của công ty cao thì nhà quản trị càng có cơ hội tham gia
thao túng lợi nhuận.
Biến chất lượng công ty kiểm toán (Big4) không có ý nghĩa thống kê trong
mô hình hồi quy 2SLS.

4.2 Kết quả kiểm định mô hình


Để đảm bảo hiệu quả kết quả từ mô hình, chúng tôi thực hiện các kiểm định
quan trọng trong mô hình hồi quy 2SLS để đảm bảo kết quả là tốt. Chúng tôi thực
hiện kiểm định White để kiểm tra vấn đề phương sai sai số thay đổi. Kết quả cho
thấy rằng mô hình bị vấn đề phương sai sai số thay đổi. Nhóm nghiên cứu thực
hiện chức năng reboot trên Eviews để xuất kết quả có tính đến vấn đề phương sai
sai số thay đổi. Ý nghĩa thống kê không có sự thay đổi sau dùng công cụ reboot (ý
nghĩa thống kê của biến thành viên độc lập thay đổi <5%).

34
Tiếp theo đó, nhóm nghiên cứu thực hiện kiểm định vấn đề đa cộng tuyến
bằng cách thực hiện kiểm định VIF (variance inflation factor), kết quả được báo
cáo như bảng sau:
Biến VIF
Independent board 1.1
Leverage 1.1
Cash flows 1.1
Investment
opportunities 1.8
Firm size 1.4
Leverage 2.1

Dựa vào kết quả trên, chúng tôi kết luận rằng mô hình hồi quy không có vấn
đề về đa cộng tuyến. Bên cạnh các thử nghiệm mô hình. Nhóm nghiên cứu thực
hiện các thử nghiệm theo lý thuyết. Đầu tiên là về mô hình đo lường dồn tích bất
thường theo mô hình ban đầu của Jones và mô hình điều chỉnh Jones. Mô hình
nguyên gốc của Jones được viết như sau:
𝑻𝑨𝑪𝑪𝒊𝒕 𝟏 ∆𝑹𝒆𝒗𝒊𝒕 𝑷𝑷𝑬𝒊𝒕
= 𝜶𝟏 ( ) + 𝜶𝟐 ( ) + 𝜶𝟑 ( ) + 𝜺𝒊𝒕
𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏 𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏 𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏 𝑻𝑨𝒊𝒕−𝟏

Kết quả của mô hình nguyên mẫu Jones thì mức độ giải thích của mô hình
này thấp hơn (R2=4.6%), trong khi đó mức độ giả thích của mô hình hiệu chỉnh là
6.5% do đó mô hình hiệu chỉnh tốt hơn mô hình gốc ban đầu. Sau đó, chúng tôi
kiểm tra liệu rằng khi sử dụng log(tài sản) có đưa ra kết quả thống kê tốt hơn khi
sử dụng log(vốn vốn hóa thị trường) hay không. Kết quả R2 giảm từ 61.67% còn
60.47% và biến Tỷ lệ thành viên độc lập thay đổi mức ý nghĩa thống kê nhỏ hơn
5%. Như vậy sử dụng vốn hóa trên thị trường để đo lường độ lớn của công ty sẽ tốt
hơn so với khi sử dụng tổng tài sản để đo lường.

35
5 Tóm tắt và kết luận
Cổ đông không có khả năng trực tiếp theo dõi hành vi của ban quản lý nên
các cổ đông sẽ dựa vào hoạt động giám sát của HĐQT (Jensen 1993). Việc đưa các
thành viên độc lập vào trong HĐQT nhằm gia tăng khả năng giám sát hoạt động
của ban điều hành (Fama 1980). Theo quan điểm này, các nghiên cứu trước cho
rằng thành viên độc lập trong HĐQT bảo vệ lợi ích của các cổ đông và làm dịu đi
các xung đột về lợi ích cổ đông và ban điều hành (Dechow & Dichev 2002;
García-Meca & Sánchez-Ballesta 2009; Koa & Chen 2004; Mather & Ramsay
2006; Peasnell et al. 2000, 2005).
Do đó, thành viên độc lập có khả năng bảo vệ lợi ích của cổ đông bằng cách
cải thiện chất lượng lợi nhuận. Những thành viên độc lập trong HĐQT có thể cải
thiện được chất lượng lợi nhuận bằng cách giảm lợi nhuận bị thao túng bởi ban
điều hành, tức là giảm dồn tích bất thường. Nghiên cứu của chúng tôi xem xét liệu
rằng thành viên độc lập trong HĐQT có giúp cải thiện chất lượng lợi nhuận bằng
cách hạn chế hành vi thao túng khoản dồn tích bất thường trong thị trường vốn ở
Việt Nam hay không. Từ kết quả thực nghiệm lấy từ 134 doanh nghiệp niêm yết
trên sàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến 2016, chúng tôi kết luận rằng
thành viên độc lập trong HĐQT giúp cả thiện chất lượng lợi nhuận bằng cách giảm
dồn tích bất thường. Trong thực tế, những công ty mà có tỷ lệ thành viên độc lập
trong HĐQT cao báo cáo lợi nhuận có chất lượng cao hơn (chất lượng lợi nhuận
được đo bằng thành phần dồn tích) so với những công ty có tỷ lệ thành viên trong
HĐQT thấp. Kết quả thực nghiệm cho ta thấy rằng chất lượng lợi nhuận của các
công ty niêm yết tại Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ thành viên độc lập trong
HĐQT. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu tìm ra được rằng biến tỷ lệ thành viên độc
lập là biến nội sinh với biến phụ thuộc chất lượng lợi nhuận (khi chất lượng lợi
nhuận được đo lường bằng phần dồn tích bất thường theo mô hình điều chỉnh
Jones).
Kết quả còn cho thấy dòng tiền, tỷ lệ vốn vay có ảnh hưởng tích cực đến
chất lượng lợi nhuận, còn biến cơ hội đầu tư và độ lớn công ty có ảnh hưởng ngược
chiều với chất lượng lợi nhuận. Cùng với xu hướng phát triển thị trường vốn ở
châu Á hiện nay, các nhà đầu tư từ các nước có thị trường vốn phát triển khuyến
nghị các công ty đại chúng đang theo mô hình vừa có BKS vừa có HĐQT nên
chuyển theo mô hình quản trị doanh nghiệp một cấp nguyên mẫu. Tuy nhiên việc
này là rất khó, cần có chi phí và thời gian để thực hiện đồng thời nó phụ thuộc rất
nhiều vào cơ chế thị trường nội tại. Trước mắt, để có thể phát triển thị trường vốn

36
các doanh nghiệp cần nhận thức tầm quan trọng tính minh bạch của BCTC và một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch của BCTC đó là chức năng giám
sát và kiểm soát của thành viên độc lập trong HĐQT.
Nghiên cứu của chúng tôi có những đóng góp sau. Đầu tiên, từ kết quả thực
nghiệm chúng ta có thể thấy rằng tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT cao có thể
cải thiện được chất lượng lợi nhuận bằng cách giám sát hiệu quả cơ hội thao túng
lợi nhuận của ban giám đốc ở các doanh nghiệp Việt nam. Kết quả này giúp ủy ban
quản lý chứng khoán nhấn mạnh tầm quan trọng của thành viên trong HĐQT, từ đó
có cơ chế quản lý chặt chẽ hơn về điểm này nhằm nâng cao tính minh bạch của
BCTC. Bởi lẽ hiện nay, mặc dù luật doanh nghiệp đã có quy định về tỷ lệ thành
viên độc lập trong HĐQT tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn còn thiếu hoặc có áp
dụng thì rất lơ là mà chưa chú trọng đến tầm quan trọng của các thành viên này.
Cuối cùng, giúp nhà đầu tư cũng có thể nhận ra tầm quan trọng của thành viên độc
lập trong HĐQT, những thành viên này sẽ là bảo vệ quyền lợi của bản thân nhà
đầu tư.
Tuy nhiên, nghiên cứu còn một số hạn chế. Thứ nhất, do thời gian nghiên
cứu còn hạn chế nên số lượng biến quan sát nhỏ và nó có thể ảnh hưởng đến kết
quả. Thứ hai, nghiên cứu của chúng tôi tính toán chất lượng lợi nhuận dựa vào
khoản dồn tích bất thưởng của mô hình Jones. Mặc dù mô hình này được chấp
nhận trong nghiên cứu kế toán, tuy nhiên mô hình vẫn còn tồn tại yếu điểm đó là
phân loại những sai sót theo loại I và loại II và mô hình này chỉ đo lường chất
lường lợi nhuận theo một khía cạnh nhất định. Thứ ba việc lựa chọn các biến kiểm
soát có thể bị thiếu các biến quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận làm
cho mức độ giải thích của mô hình thấp. Và cuối cùng, vì hạn chế về thông tin
nhóm nghiên cứu chỉ có thể xác định liệu rằng thành viên độc lập là thành viên
không tham gia hoạt động điều hành chứ không thể xác định các yếu tố độc lập
khác như có phải là nhà cung cấp, là nhân viên cũ/nhân viên đã về hưu, có sở hữu
cổ phần hay không.

37
Tài liệu tham khảo
Adams, R. B., B. E. Hermalin and M. S. Weisbach (2010). "The Role of Boards of Directors in Corporate
Governance: A Conceptual Framework and Survey." Journal of Economic Literature 48(1): 58-107.

Chen, K. Y., R. J. Elder and Y.-M. Hsieh (2007). "Corporate Governance and Earnings Management: The
Implications of Corporate Governance Best-Practice Principles for Taiwanese Listed Companies."
Journal of Contemporary Accounting & Economics 3(2): 73-105.

Chi‐Yih, Y., L. Hung‐Neng and L. T. Boon (2008). "Managerial Ownership Structure and Earnings
Management." Journal of Financial Reporting and Accounting 6(1): 35-53.

Chung, R., M. Firth and J.-B. Kim (2002). "Institutional monitoring and opportunistic earnings
management." Journal of Corporate Finance 8(1): 29-48.

Dimitropoulos, P. E. and D. Asteriou (2010). "The effect of board composition on the informativeness
and quality of annual earnings: Empirical evidence from Greece." Research in International Business
and Finance 24(2): 190-205.

Fama, E. F. and M. C. Jensen (1983). "Separation of Ownership and Control." The Journal of Law and
Economics 26(2): 301-325.
Hausman, J. A. (1978). "Specification Tests in Econometrics." Econometrica 46(6): 1251-1271.
Lin, J. W. and M. I. Hwang (2010). "Audit Quality, Corporate Governance, and Earnings Management:
A Meta‐Analysis." International Journal of Auditing 14(1): 57-77.

M., B. R. (2009). ""Weak" Governance May Be Optimal Governance: A Discussion of "Corporate


Governance and Backdating of Executive Stock Options"*." Contemporary Accounting Research 26(2):
447-451.

Nabar, S. and K. K. Boonlert‐U‐Thai (2007). "Earnings Management, Investor Protection, and National
Culture." Journal of International Accounting Research 6(2): 35-54.

Park, Y. W. and H.-H. Shin (2004). "Board composition and earnings management in Canada." Journal
of Corporate Finance 10(3): 431-457.

Penman, S. H. and T. Sougiannis (1998). "A Comparison of Dividend, Cash Flow, and Earnings
Approaches to Equity Valuation*." Contemporary Accounting Research 15(3): 343-383.

Van Tendeloo, B. and A. Vanstraelen (2008). "Earnings Management and Audit Quality in Europe:
Evidence from the Private Client Segment Market." European Accounting Review 17(3): 447-469.

Agrawal, A. and C. R. Knoeber (2009). "Firm Performance and Mechanisms to Control Agency
Problems between Managers and Shareholders." Journal of Financial and Quantitative Analysis 31(3):
377-397.

Ali, S., Salleh, NM & Hassan, MS (2008). "Ownership Structure and Earnings Management in Malaysian
Listed Companies: the size effect." Asian Journal of Business and Accounting Horizons 1(2): 89-116.

38
Barton, J. and P. J. Simko (2002). "The Balance Sheet as an Earnings Management Constraint." The
Accounting Review 77(s-1): 1-27.

Baysinger, B. D. and H. N. Butler (1985). "Corporate Governance and the Board of Directors:
Performance Effects of Changes in Board Composition." Journal of Law, Economics, & Organization
1(1): 101-124.

Becker, C. L., M. L. Defond, J. Jiambalvo and K. R. Subramanyam (1998). "The Effect of Audit Quality on
Earnings Management*." Contemporary Accounting Research 15(1): 1-24.

Bushman, R., Q. Chen, E. Engel and A. Smith (2004). "Financial accounting information, organizational
complexity and corporate governance systems." Journal of Accounting and Economics 37(2): 167-201.

Byrd, J. W. and K. A. Hickman (1992). "Do outside directors monitor managers?: Evidence from tender
offer bids." Journal of Financial Economics 32(2): 195-221.

Chen, C. H. and B. Al-Najjar (2012). "The determinants of board size and independence: Evidence from
China." International Business Review 21(5): 831-846.

Chen, C. J. P. and B. Jaggi (2000). "Association between independent non-executive directors, family
control and financial disclosures in Hong Kong." Journal of Accounting and Public Policy 19(4): 285-
310.

Chen, K. Y., R. J. Elder and Y.-M. Hsieh (2007). "Corporate Governance and Earnings Management: The
Implications of Corporate Governance Best-Practice Principles for Taiwanese Listed Companies."
Journal of Contemporary Accounting & Economics 3(2): 73-105.

Chen, X., Q. Cheng and X. Wang (2015). "Does increased board independence reduce
earningsmanagement? Evidence from recent regulatory reforms." Review of Accounting Studies 20(2):
899-933.

Choi, J.-H., J.-B. Kim and Y. Zang (2010). "Do Abnormally High Audit Fees Impair Audit Quality?"
AUDITING: A Journal of Practice & Theory 29(2): 115-140.

Chung, R., M. Firth and J.-B. Kim (2002). "Institutional monitoring and opportunistic earnings
management." Journal of Corporate Finance 8(1): 29-48.

DeAngelo, L. E. (1981). "Auditor size and audit quality." Journal of Accounting and Economics 3(3):
183-199.

Dechow, P., W. Ge and C. Schrand (2010). "Understanding earnings quality: A review of the proxies,
their determinants and their consequences." Journal of Accounting and Economics 50(2): 344-401.

Dechow, P. M. and D. J. Skinner (2000). "Earnings Management: Reconciling the Views of Accounting
Academics, Practitioners, and Regulators." Accounting Horizons 14(2): 235-250.

DeFond, M. L. and J. Jiambalvo (1994). "Debt covenant violation and manipulation of accruals."
Journal of Accounting and Economics 17(1): 145-176.

39
Fama, E. F. and M. C. Jensen (1983). "Agency problems and residual claims." The Journal of Law and
Economics 26(2): 327-349.

Fama, E. F. and M. C. Jensen (1983). "Separation of Ownership and Control." The Journal of Law and
Economics 26(2): 301-325.

Fields, T. D., T. Z. Lys and L. Vincent (2001). "Empirical research on accounting choice." Journal of
Accounting and Economics 31(1): 255-307.

Fouad, A. and R. B. Ahmed (2001). "Growth opportunities and earnings management." Managerial
Finance 27(12): 72-81.

Gul, F. A., S. G. Lynn and J. S. L. Tsui (2002). "Audit Quality, Management Ownership, and the
Informativeness of Accounting Earnings." Journal of Accounting, Auditing & Finance 17(1): 25-49.
Holderness, C. G. (2003). "A Survey of Blockholders and Corporate Control." Economic PolicyReview
9(1): 51-64.

John, K. and L. W. Senbet (1998). "Corporate governance and board effectiveness1This paper was an
invited paper on the occasion of the JBF 20th anniversary.1." Journal of Banking & Finance 22(4): 371-
403.

Kaplan, S. N. and D. Reishus (1990). "Outside directorships and corporate performance." Journal of
Financial Economics 27(2): 389-410.

Kim, Y., M. S. Park and B. Wier (2012). "Is Earnings Quality Associated with Corporate Social
Responsibility?" The Accounting Review 87(3): 761-796.

Klapper, L. F. and I. Love (2004). "Corporate governance, investor protection, and performance in
emerging markets." Journal of Corporate Finance 10(5): 703-728.

Klein, A. (2002). "Audit committee, board of director characteristics, and earnings management."
Journal of Accounting and Economics 33(3): 375-400.

Leuz, C., D. Nanda and P. D. Wysocki (2003). "Earnings management and investor protection: an
international comparison." Journal of Financial Economics 69(3): 505-527.

McNichols, M. F. (2000). "Research design issues in earnings management studies." Journal of


Accounting and Public Policy 19(4): 313-345.

Park, Y. W. and H.-H. Shin (2004). "Board composition and earnings management in Canada." Journal
of Corporate Finance 10(3): 431-457.

Peasnell, K. V., P. F. Pope and S. Young (2000). "ACCRUAL MANAGEMENT TO MEET EARNINGS
TARGETS: UK EVIDENCE PRE- AND POST-CADBURY." The British Accounting Review 32(4): 415-445.

Sarkar, J., S. Sarkar and K. Sen (2008). "Board of directors and opportunistic earnings management:
Evidence from India." Journal of Accounting, Auditing & Finance 23(4): 517-551.

40
Shleifer, A. and R. W. Vishny (1997). "A Survey of Corporate Governance." The Journal of Finance
52(2): 737-783.

Summers, S. L. and J. T. Sweeney (1998). "Fraudulently Misstated Financial Statements and Insider
Trading: An Empirical Analysis." The Accounting Review 73(1): 131-146.

Van Tendeloo, B. and A. Vanstraelen (2008). "Earnings Management and Audit Quality in Europe:
Evidence from the Private Client Segment Market." European Accounting Review 17(3): 447-469.

Watts, R. L. and J. L. Zimmerman (1990). "Positive Accounting Theory: A Ten Year Perspective." The
Accounting Review 65(1): 131-156.

Yang, C., Lai, HN and Tan, BL (2008). "Managerial Ownership Structure and Earnings Management."
Journal of Financial Reporting & Accounting 6(1): 35-53.

41

You might also like