You are on page 1of 11

TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

Bài
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO,
BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

I. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO


A. VỊ TRÍ CỦA BIỂN ĐẢO VÀ CÁC VÙNG BIỂN VIỆT NAM
1. Vị trí của biển đảo Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình
Dương, nằm bên bờ Tây của Biển Đông (tiếp giáp với Biển Đông ở cả ba phía: Đông,
Nam và Tây Nam), có vùng đất quốc gia vừa là đất liền, vừa là đảo và quần đảo, bao
gồm: Từ đỉnh Lũng Cú/Hà Giang đến Mũi Cà Mau. Với bờ biển dài 3.260 km, từ Móng
Cái đến Hà Tiên có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, có các đảo lớn như: Cát Hải, Cát Bà,
Bạch Long Vĩ, Phú Quý, Côn Đảo, Thổ Chu, Phú Quốc, Quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa. Việt Nam là quốc gia ven biển, có vị trí địa chính trị và địa kinh tế quan trọng bậc
nhất trong khu vực, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các
lãnh thổ trên thế giới. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có
biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Luật Biển Việt
Nam 2012 thì nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu kilômét vuông, gấp trên 3
lần diện tích trên đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Vùng biển nước ta có
hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ nằm trên thềm lục địa và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển, có vị trí đặc biệt quan trọng như một
tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông đất nước. Một số đảo ven bờ còn
có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập
đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ
chủ quyền quốc gia trên biển.
2. Đường cơ sở và các vùng biển Việt Nam
a) Đường cơ sở
- Đường cơ sở thông thường: là đường sử dụng ngấn nước thủy triều thấp nhất
ven bờ biển hoặc hải đảo.
- Đường cơ sở thẳng: Là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn
nước thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do chính phủ nước ta xác
định và công bố. Đường cơ sở là căn cứ pháp lý để tính chiều rộng vùng nội thủy, vùng
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia.
Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị chia cắt hoặc có
chuổi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển.
Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định đường cơ sở
thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định đường cơ sở thẳng ven bờ lục
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm. Trừ điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh (Khánh
Hòa), các điểm còn lại đều nằm trên các đảo. Điểm A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2:
Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3: Hòn Tài Lớn (Bà Rịa - Vũng Tàu); A4: Hòn Bông Lang (Bà
Rịa - Vũng Tàu); A5 Hòn Bảy Cạnh (Bà Rịa - Vũng Tàu); A6: Hòn Hải (Bình Thuận);
A7: Hòn Đôi (Bình Thuận); A8: Mũi Đại Lãnh (Khánh Hòa); A9: Hòn Ông Căn (Khánh
Hòa); A10: Đảo Lý Sơn (Quãng Ngãi); A11: Đảo Cồn Cỏ (Quãng Trị).
b) Các vùng biển Việt Nam
- Vùng nội thuỷ: Là vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải. Vùng nội thuỷ có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên đất liền; Các tàu
thuyền nước ngoài muốn đi vào, đi qua vùng nội thủy phải xin phép.
- Vùng lãnh hải: Là vùng biển phía ngoài đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải. Lãnh hải có chiều rộng không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở
Lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh
hải của đảo, quần đảo; có chế độ pháp lý như lãnh thổ đất liền.
- Vùng tiếp giáp lãnh hải: Là vùng tiếp liền lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý.
- Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng biển ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải. Nước ta quy định chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế là 200 hải lý tính từ
đường cơ sở.
Nước ta có chủ quyền hoàn toàn đối với các quyền lợi kinh tế trong vùng đặc quyền
kinh tế như: Thăm dò, khai thác, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thiết lập các công trình
nhân tạo, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường và các hoạt động kinh tế khác.
- Thềm lục địa nước ta: Gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần
không gian tự nhiên của lục địa Việt Nam, mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho
đến bờ ngoài của rìa lục địa.
Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với thềm lục địa về
mặt: Thăm dò, khai thác, bảo vệ, quản lý các tài nguyên thiên nhiên là đương nhiên.
3. Tình hình quốc phòng an ninh trên biển, đảo hiện nay
Biển Đông có diện tích 3.448.000 km2 bao gồm có 09 nước và một vùng lãnh thổ
tham gia quản lý (Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia,
Xingapo, Philippin, Brunây và lãnh thổ Đài Loan).
- Khu vực 1: Nằm ở Vịnh Thái Lan là vùng biển mà cả Thái lan, Malaixia, Việt
Nam và Campuchia đều tuyên bố thuộc lãnh hải của mình.
- Khu vực 2: Là bắc Quần đảo Natuna, Việt Nam và Inđonêxia không nhất trí với
nhau về một số hòn đảo mà Inđonêxia đang chiếm giữ. Năm 1976, Trung Quốc tuyên
bố chủ quyền về các đảo này.
- Khu vực 3: Là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam bị Trung Quốc
chiếm giữ từ 1974, từ tay chính quyền Sài Gòn (Quần đảo Hoàng Sa cách đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi) 200km và cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 260km, với diện tích khoảng

2
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

15.000 km2, có hơn 30 đảo, đá, bãi san hô; có một số đảo lớn như đảo Hoàng Sa, Quảng
An, Tri Tôn và Phú Lâm.
- Khu vực 4: Là quần đảo Trường Sa, với diện tích khoảng 180.000 km2 (bao gồm
100 hòn đảo, bãi đá, cồn san hô), là khu vực tranh chấp phức tạp nhất trên Biển Đông và
âm mưu chiếm Biển Đông của một vài quốc gia là không thay đổi.
+ Trung Quốc thành lập Thành phố Tam Sa/tỉnh Hải Nam (19/11//2007) gồm
Trung Sa và Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, cùng với việc thiết lập căn cứ quân sự
ở Đông Hải Nam, tăng cường hiện diện hải quân ở Hoàng Sa, Trường Sa cho thấy: Trung
Quốc muốn tăng cường kiểm soát và khống chế, độc chiếm Biển Đông, gây áp lực với
các nước đang tranh chấp. Tình hình đó làm cho tranh chấp khu vực Trường Sa càng
thêm quyết liệt. Họ đe dọa các công ty nước ngoài đang làm ăn với ta về dầu khí. Trung
Quốc đang đã xây dựng các đảo, bãi đá ngầm thành những căn cứ quân sự. Ngày
7/5/2009, Trung Quốc gửi công hàm kèm sơ đồ trên đó thể hiện đường yêu sách 9 đoạn
đường “Lưỡi bò”,“đứt đoạn” lên Liên hợp quốc. Hiện nay Trung Quốc chiếm 07 đảo:
Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma, Huy Gơ, Ga Ven, Xu Bi (năm 1988), Vành Khăn (1995).
+ Đài Loan chiếm 02 đảo là Đảo Ba Bình và đảo Bàn Than.
+ Philipin cho rằng đảo Kalyan (khu vực Trường Sa gần Philipin) mang tính sống
còn đối với quốc phòng an ninh của họ. Năm 1976, họ chiếm 08 đảo và bãi đá ngầm;
tháng 5/1997, sau sự kiện Trung Quốc chiếm bãi Vành Khăn, họ đã hợp tác chặt hơn
với Mỹ và muốn thay đổi “Hiệp ước phòng thủ chung Philipin - Mỹ” và có ý định đưa
Trường Sa vào phạm vi phòng thủ chung với Mỹ. Hiện nay, Philippin chiếm 09 đảo:
Song Tử Đông (1970), Vĩnh Viễn (1970), Thị Tứ (1970), Loại Ta (1970), Đảo Dừa
(1971), Cỏ Mây (1977), An Nhơn (1971), Bình Nguyên (1971) và Công Đo (1980).
Ngày 17/02/2009, Quốc hội Philipin đã thông qua và ngày 10/04/2009 Tổng Thống đã
ký ban hành dự luật đường cơ sở; trong đó đưa một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa
và bãi cạn XCaBơRót vào quản lý theo quy chế đảo của Philippin.
+ Malaixia tuyên bố chủ quyền các đảo thuộc vùng đặc quyền kinh tế kéo dài 200
hải lý. Hiện đang xây dựng công trình quân sự, trung tâm du lịch, tăng cường lực lượng
hải quân. Hiện nay, Malaixia chiếm 07 đảo: Hoa Lau (1983), Kiệu Ngựa (1986), Kỳ
Vân (1986), Suối Cát (1986), Én Ca (1999), Sắc Lốt (1999), Thám Hiểm (1999).
Ngày 5/3/2009, Thủ Tướng Malaixia đã thăm đảo Hoa Lan thuộc quần đảo Trường Sa
và tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo này cùng vùng biển phụ cận.
+ Inđônixia tuyên bố các bãi đá ngầm san hô ở phía Bắc quần đảo Natuna (Nam
Trường Sa) thuộc chủ quyền, quyền tài phán của mình; đường cơ sở kéo dài nối điểm ngoài
cùng của các đảo xa nhất của họ; vì thế họ tranh chấp đảo, bãi đá ngầm với Trung Quốc,
Việt Nam và Malaixia. Họ tăng cường quân sự, cơ sở hạ tầng, dân sự hóa trên các đảo.
+ Brunây tuy không chiếm đảo nhưng cũng tuyên bố vùng biển của họ 200 hải lý
nên đã chồng lấn vùng phía Nam Quần đảo Trường Sa.
+ Hiện nay, huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam gồm 21 đảo;
trong đó có 9 đảo nổi và 12 đảo chìm; có thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh
Tồn. 9 đảo nổi từ Bắc sang Nam gồm: Song Tử Tây (diện tích khoảng 0,17km2), Sơn Ca,

3
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

Nam Yết, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, Trường Sa Đông, Trường Sa (diện tích
khoảng 0,2km2) và An Bang. 12 đảo chìm gồm: Đá Nam, Núi Thị, Đá Lớn, Len Đao, Cô
Lin, Tiên Nữ, Đá Tây, Tốc Tan, Đá Đông, Núi Le, Đá Lát, Thuyền Chài.
B. QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Quan điểm
* Quan điểm chung
Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong xử lý các mối quan hệ quốc tế và khu
vực hiện nay đặt ra phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo, không bị kích động, xúi
giục gây xung đột vũ trang, chiến tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa
bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của
khu vực.
* Quan điểm của Đảng đối với bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam
- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng
tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu
vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
- Xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo vững mạnh đáp ứng yêu cầu
quản lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới.
- Kiên trì đối thoại tìm kiếm giải pháp hoà bình, tham gia xây dựng Bộ quy tắc
ứng xử trên Biển Đông, kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp chính trị, ngoại
giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển đảo.
- Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất là ở
một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng và
an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí
đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay
và mai sau. Phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng thế mạnh kết hợp với bảo vệ chủ
quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta thực sự trở
thanh quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
2. Nội dung bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam
- Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển, đảo.

4
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

+ Vùng biển của Việt Nam, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước
quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
+ Bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là bảo vệ
đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên
của biển ở những nơi đó thực chất là bảo vệ lợi ỉch kinh tế ở vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của quốc gia.
- Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hoá trên biển, đảo và vùng ven biển.
+ Bảo vệ an ninh quốc gia trến mọi lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa
học công nghệ, quốc phòng, an ninh.
+ Ngăn chặn kịp thời người và phương tiện xâm nhập đất liền để tiến hành các
hoạt động phá hoại, gây rối, làm gián điệp, truyền bá văn hoá đồi trụy và thực hiện các
hành vi tội phạm khác;
+ Bảo vệ lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân trên
biển và ven biển;
+ Bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên biển và ven biển
+ Bảo vệ môi trường, xử lý các vụ ô nhiễm môi trường trên biển và ven biển;
+ Phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai;
+ Thực hiện tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn;
+ Phòng ngừa, chế ngự, xử lý các xung đột do tranh chấp lợi ích giữa các tổ chức
và cá nhân trong sử dụng và khai thác biển.
II. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
A. BIÊN GIỚI QUỐC GIA
1. Khái niệm biên giới quốc gia
Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và
mặt phẳng thẳng đứng, theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo,
các quần đảo trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vùng biển lòng đất, vùng
trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Biên giới quốc gia là giới hạn lãnh thổ của một quốc gia.
- Biên giới quốc gia xác định chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia đối
với lãnh thổ (Vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất quốc gia).
- Biên giới quốc gia được xác định bằng hệ thống các mốc quốc giới trên thực
địa, được đánh dấu bằng các tọa độ trên bản đồ và thể hiện bằng mặt thẳng đứng theo
lãnh thổ.
2. Các bộ phận cấu thành biên giới quốc gia Việt Nam

5
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

a) Biên giới quốc gia trên đất liền


- Là biên giới phân chia chủ quyền lãnh thổ trên bề mặt đất liền của Việt Nam với
các quốc gia khác.
- Biên giới quốc gia trên đất liền được hoạch định và phân giới, cắm mốc thông
qua đàm phán thương lượng giữa các quốc gia có chung biên giới; kết quả này được
ghi nhận bằng văn kiện pháp lý về phân giới cắm mốc, trong đó có một Phần và một
Điều chính mô tả chi tiết vị trí của mốc quốc giới, cọc dấu (nếu có), hướng đi của
đường biên giới và địa hình đường biên giới đi qua.
- Việt Nam có biên giới quốc gia trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp Trung Quốc,
Lào, Campuchia.
* Tình hình biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc (dài 1350 km).
Được hình thành từ cuối thế kỷ 19, Nhà Thanh và Pháp ký kết gồm hệ thống cột
mốc sơ sài (có cột mốc cách nhau 40km). Hiện nay, Việt Nam và Trung Quốc đã cắm
1.971 mốc quốc giới; trong đó có 1.549 mốc chính và 422 mốc phụ. Đây là một trong
những cột mốc quan trọng trên tuyến biên giới Việt Nam. Quá trình đàm phán phân
định cột mốc biên giới là quá trình lâu dài (hơn 7 năm), khó khăn, phức tạp. Vòng cuối
cùng diễn ra từ ngày 28 đến 31/12/2008, 2 bên đã hoàn thành đàm phán cấp Chính phủ
và ra thông báo chung về hiệp ước biên giới trên bộ, quy chế về quản lý biên giới; hai
vấn đề đàm phán cuối cùng là Thác Bản Dốc/Cao Bằng và Cửa Sông Bắc Luân/Quảng
Ninh. Việc hoàn thành cắm mốc biên giới Việt-Trung có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối
với quan hệ hai nước, tạo ra cơ hội mới cho các địa phương quản lý biên giới, thúc đẩy
giao lưu kinh tế, thương mại, du lịch, giữ vững hòa bình, ổn định, tăng cường hợp tác
toàn diện khu vực biên giới.
* Tình hình biên giới trên đất liền Việt Nam - Lào (dài 2.067 km).
Được hình thành từ thế kỷ XIV nhưng tồn tại dưới dạng chỉ để phân chia lãnh thổ
giữa hai quốc gia mà chưa phân định bằng đường biên giới. Khi Pháp chia cắt, sát
nhập nhiều vùng lãnh thổ của Lào vào Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Đầu thế kỷ XX, đường biên
giới được hình thành trên thực tế và như biên giới được tồn tại trong lịch sử; như vậy
giữa hai nước chưa có đường biên giới pháp lý mà chỉ có ranh giới hành chính được
Toàn quyền Đông Dương phân định. Năm 1976, hai nước đàm phán để phân định biên
giới; năm 1977, ký hiệp ước hoạch định biên giới; việc cắm mốc từ 1978 đến 1984 với
214 cột mốc (202 mốc chính và 12 mốc phụ) trên toàn tuyến biên giới dài 2.067 km.
Năm 1986, hai nước ký hiệp ước bổ sung; năm 1990, ký hiệp định để quản lý đường
biên giới. Theo kế hoạch thông qua năm 2008 giữa hai Nhà nước, dự án tăng dày, tôn
tạo mốc Quốc giới sẽ thực hiện trong 4 năm với 826 cột mốc. Và đến nay đã cơ bản
hoàn thành việc cắm mốc giữa Việt Nam và Lào.
* Tình hình biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia (dài 1.137 km).
Giữa thế kỷ XIX, chủ quyền biên giới này đã được chính thức ghi nhận trong văn
bản hiệp ước quốc tế. Tháng 12/1845, ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan)
và Miên (Campuchia) đã ký một hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc

6
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

Việt Nam. Năm sau, triều Nguyễn và Xiêm lại ký một hiệp ước có nhắc lại điều đó.
Đây là hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia. Như vậy đến năm 1845, các
nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có Campuchia, đã ký văn bản pháp lý công
nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam. Năm 1858, Pháp tấn công Nam Bộ chiếm 6
tỉnh Nam Kỳ (Việt Nam). Campuchia không có phản ứng gì. Trái lại Triều Nguyễn đã
điều động quân đội chống Pháp và khi thất bại Triều Nguyễn đã ký nhượng 3 tỉnh
miền Đông cho Pháp năm 1862 và 3 tỉnh miền Tây năm 1874.
Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới
giữa Nam Kỳ và Campuchia theo luật của nước Pháp. Năm 1889, Pháp và Campuchia
đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa
Nam Kỳ và Campuchia. Tất cả đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.
Như vậy chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam không chỉ khẳng định bởi tính chính đáng
trong quá trình tiếp thu và quản lý lãnh thổ cũng như công lao của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng đất này từ thế kỷ XVII đến
nay mà còn phù hợp với nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng, phù hợp thông lệ và các
công ước quốc tế hiện hành. Từ sau ngày hòa bình thống nhất đất nước đến nay, Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Campuchia
đã ký các hiệp ước:
+ Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, ký ngày 18/02/1979
+ Hiệp ước về biên giới trên đất liền, ký ngày 20/7/1983
+ Hiệp ước hoạch định biên giới giữa hai nước, ký ngày 27/12/1985
+ Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, ký ngày 10/10/2005.
Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 được Thủ tướng hai
nước Việt Nam và Campuchia ký ngày 10/10/2005 đã được Quốc hội của Campuchia và
Việt Nam phê chuẩn ngay sau đó. Hiệp ước bổ sung một lần nữa khẳng định giá trị pháp
lý của đường biên giới, được hoạch định năm 1985 và thúc đẩy quá trình phân giới cắm
mốc. Ngày 07/9/2006, đại diện Chính phủ Việt Nam và Campuchia đã khởi công xây
dựng cột mốc quốc tế đầu tiên tại cửa khẩu Mộc Bài (Việt Nam) - Ba vét (Campuchia) và
đến nay đã cơ bản hoàn thành việc cắm mốc trên bộ giữa Việt Nam và Campuchia.
b) Biên giới quốc gia trên biển
- Biên giới trên biển của một quốc gia được xác định là ranh giới phía ngoài của
lãnh thổ quốc gia trên biển, đảo.
- Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu bằng
các toạ độ trên hải đồ là ranh giới bên ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo,
lãnh hải của quần đảo của Việt Nam, được xác định theo công ước của Liên hợp quốc
về luật biển 1982 và các điều ước quốc tế giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và các quốc gia hữu quan. Như vậy đường biên giới trên biển là đường ranh giới
phía ngoài của lãnh hải, cách đều với đường cơ sở và có khoảng cách 12 hải lý tính từ
đường cơ sở. Còn đường cơ sở trong vịnh Bắc Bộ, các đảo xa bờ và quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa, Nhà nước chưa có điều kiện công bố chính thức.

7
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

c) Biên giới quốc gia trên không


Là biên giới phân định vùng trời giữa các quốc gia liền kề hoặc các vùng trời
quốc tế; được xác định bởi mặt thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển
lên trên vùng trời.
- Ngày nay khoa học công nghệ phát triển, việc xác lập biên giới quốc gia trên
không, có ý nghĩa ngày càng lớn trong việc thực hiện chủ quyền đối với vùng trời
quốc gia.
- Hiện nay chưa có quốc gia nào quy định độ cao biên giới quốc gia trên không.
d) Biên giới quốc gia trong lòng đất
- Được xác định bởi mặt thẳng đứng từ biên giới trên đất liền và biên giới trên
biển xuống lòng đất.
- Độ sâu cụ thể biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ sâu mà kỹ thuật
khoan có thể thực hiện được. Đến nay chưa có biên giới nào quy định độ sâu biên giới.
e) Khu vực biên giới
Là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế, quy định đặc biệt do
Chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực biên giới Việt Nam gồm:
- Khu vực biên giới trên đất liền gồm xã (phường, thị trấn) có một phần địa giới
hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền.
- Khu vực biên giới quốc gia trên biển được tính từ biên giới quốc gia trên biển
vào hết địa giới hành chính xã (phường, thị trấn) giáp biển và đảo, quần đảo
- Khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo biên giới quốc gia
có chiều rộng 10 km tính từ biên giới Việt Nam trở vào.
B. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
- Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp để bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích quốc gia trên khu vực
biên giới; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
- Trong hòa bình, bảo vệ biên giới quốc gia là tổng thể các biện pháp mà hệ thống
chính trị xã hội, các lực lượng vũ trang khu vực biên giới áp dụng nhằm tuần tra, giữ
gìn nguyên vẹn, chống lại sự xâm phạm biên giới quốc. Bộ đội Biên phòng là lực
lượng chuyên trách và làm nòng cốt trong bảo vệ biên giới quốc. Khi có xung đột hoặc
chiến tranh, các biện pháp bảo vệ biên giới quốc được thể hiện rõ qua các trạng thái
sẵn sàng chiến đấu.
* Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc bao gồm các nội dung sau:
Một là; Ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh về chính trị, kinh
tế, xã hội, quốc phòng an ninh; có chính sách ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân khu vực biên giới định cư ổn định, phát triển và sinh sống lâu dài; điều chỉnh dân cư
theo yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và củng cố quốc phòng an ninh khu vực biên giới.

8
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

Hai là; Tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên giới;
phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên giới
hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài đối với láng giềng.
Ba là; Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sử dụng tổng hợp các lực lượng
và biện pháp của Nhà nước chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để
giữ gìn toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.
Bốn là; Bảo vệ tài nguyên, môi trường, môi sinh. Sử dụng tổng hợp các biện
pháp đấu tranh ngăn chặn mọi hành động xâm phạm tài nguyên (trong lòng đất, trên
biển, trên không, thềm lục địa của Việt Nam) và khu vực biên giới, bảo đảm cho nhân
dân khu vực biên giới có môi trường sinh sống bền vững, ổn định và phát triển lâu dài.
Năm là; Bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực chính
trị tối cao (lập pháp, tư pháp, hành pháp) của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trên khu vực biên giới. Chống lại mọi hành động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn
hóa xã hội của đất nước khu vực biên giới. Bảo đảm mọi lợi ích của người Việt Nam ở
khu vực biên giới phải được thực hiện theo luật pháp Việt Nam, phù hợp với luật pháp
quốc tế và các hiệp định giữa Việt Nam và các nước.
Sáu là; Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Đập
tan mọi âm mưu hành động gây mất ổn định chính trị và trật tự xã hội khu vực biên
giới quốc gia. Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành động chia rẽ đoàn kết dân tộc,
phá hoại sự ổn định, phát triển khu vực biên giới.
Bảy là; Phối hợp với các nước, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động phá hoại
tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng.
Trấn áp mọi hành động khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia.
Lãnh thổ biên giới quốc gia là vấn đề thiêng liêng, quan trọng của mỗi quốc gia,
dân tộc, đồng thời là vấn đề nhạy cảm trong các quan hệ quốc tế. Trong lịch sử nhân
loại, không ít trường hợp do những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc giải quyết
các vấn đề về biên giới, lãnh thổ không thỏa đáng là nguyên nhân dẫn đến nhiều cuộc
chiến tranh giữa các quốc gia.
III. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO,
BIÊN GIỚI QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, huy động toàn
dân tham gia xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia
Sự quản lý của Nhà nước của chính quyền địa phương đối với nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định lâu dài
của biên giới, biển đảo quốc gia.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh, muốn giữ yên bờ
cõi phải dựa vào dân, huy động sức mạnh của nhân dân. Để bảo vệ vùng bỉên giới
(vùng biên cương, biên ải), các triều đại phong kiến đều dựa vào sức dân tại chỗ là chủ
yểu, bằng các biện pháp như: lập các đồn điền, đưa nhân dân ra lập các làng bản ở
vùng biên cương, hình thành từng cụm, từng khu dân cư và được giao quản lý, bảo vệ

9
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

từng đoạn, từng vùng biên giới của đất nước với hệ thống, tổ chức, hình thức, phương
pháp theo quy định của từng triều đại phù hợp với từng thời kỳ lịch sử.
Tãng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, huy động toàn dân tham
gia bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia, cần tập trung vào những nội sau:
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo các vấn đề đối nội, đối ngoại, quan hệ biên giới, đàm phán giải quyết các vấn
đề biển đảo, biên giới, lãnh thổ, xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện.
- Mọi chủ trương giải quyết về chủ quyền biển đảo, biên giới, ký kết các hiệp định
với nước ngoài liên quan đến biên giới quốc gia đều do Nhà nước thống nhất quản lý,
khắc phục tình trạng tùy tiện, lạm quyền làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
- Nền tảng, cốt lõi của huy động toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo,
biên giới quốc gia là xây dựng ý chí sức mạnh của toàn dân, là “phòng tuyến nhân dân
vững chắc” trong bảo vệ biên giới, biển đảo. Vì vậy, cần hoàn thiện chiến lược về xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới, biển đảo.
2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân để bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo.
- Một là, đổi mới và nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm trong toàn Đảng,
toàn dân, các ngành, các cấp, các lực lượng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân, gắn với xây dựng thế trận trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Đây là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và triển khai
thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
- Hai là, phát triển bền vững kinh tế, văn hóa - xã hội là những nhân tố quan trọng,
xuyên suốt, tạo tiềm lực, sức mạnh vật chất, tinh thần, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần
xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
- Ba là, phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, nâng cao năng lực quản lý, điều
hành của chính quyền địa phương trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân.
- Bốn là, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
3. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, đàm phán giải quyết
các vấn đề tồn tại về biên giới để tạo lập môi trường thuận lợi cùng phát triển
Trước những diễn biến phức tạp trên thế giới và khu vực, đặc biệt vấn đề liên
quan đến chủ quyền biên giới, biển đảo trong thời gian vừa qua hoạt động đối ngoại đã
và đang đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi
cho việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, cũng là giải pháp kết hợp sức mạnh nội lực với
ngoại lực để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để hiện thực giải pháp này, cần quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối
ngoại; thực hiện phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh, lấy hợp tác là chủ yếu,

10
TRUNG TÂM GDQP&AN TRƯỜNG QUÂN SỰ QUÂN KHU 7

không để đối đầu với các nước, nhất là nước lớn, không để bị cô lập; tích cực, chủ
động tham gia các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và quan hệ biên giới nước ta với các nước hiện
nay, tiến hành đàm phán giải quyết với các nước về biên giới lãnh thổ, tạo môi trường
ổn định, quan hệ láng giềng, hữu nghị là giải pháp cơ bàn, chủ yếu, cấp thiết để bảo vệ
và ổn định lâu dài biên giới quốc gia.
Mục tiêu đàm phán của ta với các nước là giải quyết dứt điểm các vấn đề tranh
chấp, xác lập đường biên giới hòa bình, bền vững, ồn định lâu dài, xóa bỏ những nguvên
nhân dẫn đến tranh chấp, lấn chiếm và sự quản lý tạm thời hiện nay. Các bên dàm phán
phải có thiện chí, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau. Dựa vào những yếu tố pháp lý
(luật pháp quốc tế, tư liệu, bản đồ. bằng chứng lịch sử dể đàm phán), cùng nhau đàm phán
ký kết hiệp ước bổ sung biên giới và phân giới, cắm mốc trên thực địa.
Trên cơ sở mục tiêu đã xác định, trong đàm phán giải quyết các vấn đề biên giới
với các nước láng giềng cần tiến hành theo cách: dễ trước khó sau; đủ điều kiện, cơ sở
pháp lý, tài liệu trước; chưa đủ tài liệu, chứng cứ pháp lý sau. Trong đàm phán cần
nhận rõ, giải quyết vấn đề biển đảó phải kiên trì, kiềm chế, khôn khéo, không để sơ hở
để họ tạo cớ gây căng thẳng, xung đột.
4. Nâng cao ý thức và trách nhiệm cho sinh viên Việt Nam trong sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, kích động
nhân dân và đặc biệt là trong giới trẻ nhằm gây hoài nghi, tạo ra biểu tình, sự mất ổn
định trong nước, phá hoại mối quan hệ nội bộ và giữa các nước tuyên bố có tranh
chấp, chồng lấn biển, đảo với nước ta. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta,
cùng các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội phải không ngừng tăng cường công tác
giáo dục, nâng cao trách nhiệm công dân, tăng cường đoàn kết dân tộc, tôn giáo nhằm
tạo trận địa tư tưởng vững chắc, kết hợp sức mạnh của cả dân tộc để bảo vệ chủ quyền
biên giới, biển đảo của Tổ quốc.
Sinh viên là lực lượng trẻ, có tri thức trong xã hội, là tương lai của đất nước, là
tầng lớp đi tiên phong trong các hoạt động. Sinh viên cần đi đầu trong việc tích cực
tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về công tác quản lý, xây dựng, bảo
vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam. Tăng cường định hướng tư tưởng
để sinh viên không vì yêu nước mà bị lợi dụng, lôi kéo vào hoạt động chống đối. Tăng
cường học tập, nghiên cứu, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, xây dựng, bảo vệ
chủ quyền biển đảo, lãnh thổ Việt Nam.

11

You might also like