You are on page 1of 164

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG CHUYÊN SÂU


VỀ VĂN HÓA CƠ SỞ VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
CHO CÔNG CHỨC VĂN HÓA - XÃ HỘI XÃ

(Ban hành theo Quyết định số 3714 /QĐ-BVHTTDL ngày 03 tháng 10 năm 2018
của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Hà Nội, năm 2018


MỤC LỤC

TT Tên Chuyên đề Trang


PHẦN 1: KIẾN THỨC CHUNG 2
Chuyên đề 1 Những vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hóa
2
cơ sở
Chuyên đề 2 Xây dựng và quản lý đời sống văn hóa cơ sở ở nước ta
39
hiện nay
PHẦN II: KỸ NĂNG TỔ CHỨC
72
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
Chuyên đề 3 Kỹ năng tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở 72
Chuyên đề 4 Kỹ năng xây dựng nội dung hoạt động văn hóa cơ sở 100
Chuyên đề 5 Kỹ năng thực hiện xã hội hóa các nội dung hoạt động
109
văn hóa cơ sở

1
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TÀI LIỆU
“Bồi dưỡng chuyên sâu về văn hóa cơ sở và xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở cho công chức Văn hóa - Xã hội xã”
(Ban hành theo Quyết định số 3714 /QĐ-BVHTTDL ngày 03 tháng 10 năm
2018 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

PHẦN 1. KIẾN THỨC CHUNG

Chuyên đề 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
Thời lượng: 4 tiết (- )
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích: Cung cấp cho học viên những kiến thức lý luận cơ bản
về văn hóa cơ sở và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức lý luận cơ bản về văn hóa,
đời sống văn hóa, đời sống văn hóa cơ sở trong thời kỳ đổi mới, đồng thời
ứng dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa được biểu thị như phương thức hoạt động người bao chứa
toàn bộ các sản phẩm vật chất và tinh thần của con người cũng như năng
lực phát triển của chính bản thân con người. Người ta thường gọi đó là thế
giới của con người do con người và vì con người. Văn hóa là sự phát huy các
năng lực bản chất của con người là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nên
văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động

(*)
- Lý thuyết: 2 tiết; Thảo luận : 2 tiết.

2
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội hay cách cư xử, giao tiếp… cho đến
cả những suy tư thầm kín nhất.
Năm 1988, UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa
(1988 - 1997), ông Federico Mayor (nguyên Tổng Giám đốc UNESCO) đã
đưa ra khái niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng
tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy
đã hình thành tạo nên hệ thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[58].
Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc
trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một
nhóm người trong xã hội mà nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả
cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức
tin. (Định nghĩa văn hóa của UNESCO, 2002).
Ở Việt Nam, quan niệm về văn hóa được nhận thức khá cơ bản. Hồ
Chí Minh đã đưa ra một quan niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống loài người, mới sáng tạo và phát minh ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các phương thức sử dụng
khác. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra, nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn"[52].
Văn hóa chính là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình (Trần Ngọc Thêm). Văn hóa xuất hiện khi con người tự ý thức về mình
và với thế giới xung quanh, văn hóa là không bằng lòng với cái đã có, văn hóa
là gợi, là mở. Văn hóa là sự thích ứng, là đi tìm chân trời mới của con người
(Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng).

3
Như vậy, có thể hiểu "Văn hóa là hoạt động sáng tạo của con
người trong quá khứ và hiện tại, thể hiện hành vi, trình độ ứng xử đối với
môi trường tự nhiên và xã hội, tạo ra những chuẩn mực, những giá trị làm
thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người nhằm vươn tới cái
đẹp chân - thiện - mỹ". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VIII), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết cũng xác định những
bộ phận cơ bản nhất cấu thành nền tảng tinh thần của xã hội là: "tư tưởng,
đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, giáo dục - đào tạo và khoa học -
công nghệ, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa, thể
chế và thiết chế văn hóa".
Theo các quan niệm trên, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách
tổng quát, sinh động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá
khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, trải qua bao thế kỷ, cấu thành một
hệ thống các giá trị, các truyền thống, thị hiếu thẩm mỹ và lối sống, dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Đặc trưng của văn hóa
là mang tính nhân sinh, tính lịch sử, tính hệ thống (các kết quả sáng tạo) và
tính giá trị.
Như vậy, quan niệm về văn hóa phải trên cơ sở các phương diện:
một là, văn hóa gắn với chủ thể sáng tạo, đó là sự thể hiện, phát huy, giải
phóng “năng lực bản chất người” trong tất cả mọi dạng hoạt động và quan
hệ của con người, văn hóa xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; hai là, về phương diện giá trị, văn hóa bao gồm hệ thống các giá trị
được kết tinh trong “thiên nhiên thứ hai” - với tư cách là sản phẩm của hoạt
động “mang tính tộc loại” của con người. Đây là phương diện hết sức cơ
bản và quan trọng, quy định đặc điểm về nội dung và quy luật phát triển có
tính đặc thù của văn hóa và đời sống văn hóa. Văn hóa là tổng hoà các giá trị
mà con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã

4
hội của mình, có quan hệ bản chất với khái niệm giá trị, ngôn ngữ, biểu tượng,
phong tục, tập quán, chuẩn mực, cũng như tư tưởng, đạo đức, lối sống… của
một chủ thể (cộng đồng, dân tộc).
Xây dựng đời sống văn hóa là một trong những hoạt động quan trọng
của quá trình văn hóa, trong quá trình đó con người vừa là sản phẩm vừa là
chủ thể của mọi sáng tạo.
1.2. Khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa
1.2.1. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa có liên quan chặt chẽ, phản ánh biểu hiện tập trung
nhất các mặt của quá trình văn hóa, từ hoạt động sáng tạo, hưởng thụ, đến
quan niệm giá trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo…
Khái niệm đời sống liên quan chặt chẽ và là biểu hiện bản chất của
văn hóa trong quá trình vận động biến đổi của nó. Ở nước ta, khái niệm
“đời sống văn hóa” thường gắn với khái niệm “đời sống văn hóa cơ sở”,
khái niệm này được xuất hiện và sử dụng trong ngành Văn hóa từ năm
2004. Tuy nhiên giữa hai khái niệm “đời sống văn hóa” và “đời sống văn
hóa cơ sở” cũng có sự phân biệt nhất định. Khái niệm đời sống văn hóa
cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau.
Tác giả cuốn sách "Một số kinh nghiệm quản lý và hoạt động tư
tưởng - văn hóa" quan niệm: "Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái
quát là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong môi trường
sống để duy trì, đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh
thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng
tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao
chất lượng sống của chính con người" [56]. Phải thừa nhận rằng, đây là
một bước tiến trong cách nhìn nhận về đời sống văn hóa vì nó phản ánh
được bản chất của đời sống là hoạt động và bản chất của đời sống văn hóa
là từ con người và vì con người. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn mang tính

5
khái quát, chưa phản ánh rõ nội hàm cấu trúc của đời sống văn hóa, vẫn
gặp những rào cản nhất định trong thực hành văn hóa. Chính vì vậy, để làm
rõ hơn khái niệm đời sống văn hóa, cần phải có cách tiếp cận mới dựa trên
sự kế thừa những thành quả nghiên cứu đã có.
Theo nghĩa hẹp, có thể nói: “Đời sống văn hóa chính là sự hoạt
động của các quá trình sản xuất, phân phối, lưu giữ và tiêu thụ những tác
phẩm văn hóa (sản phẩm văn hóa). Quá trình này biến các giá trị văn hóa
tiềm tàng, thành những giá trị văn hóa hiện thực sao cho những giá trị văn
hóa đó đi vào đời sống hàng ngày của mọi người trở thành một bộ phận
hợp thành không thể tách rời, một thành tố thiết yếu của đời sống” [49].
Trong cuốn sách Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, báo cáo của
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam đã viết: “Đời sống văn hóa nói chung
là một tổng hợp những yếu tố vật thể văn hóa nằm trong những cảnh
quan văn hóa, những yếu tố hoạt động văn hóa của con người, những sự
tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn
hóa trong cộng đồng người, trực tiếp làm hình thành lối sống của con
người trong xã hội…”[32].
Đời sống văn hóa chính là tổng thể sống động các hoạt động văn hóa
trong quá trình sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ biến, tiêu dùng các sản
phẩm văn hóa và sự giao lưu văn hóa, nhằm thoả mãn nhu cầu văn hóa của
một cộng đồng.
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về đời sống văn hóa. Để
đi đến một quan niệm hoàn chỉnh hơn về đời sống văn hóa, chúng ta phải
tiếp cận thêm đời sống văn hóa trong toàn bộ đời sống xã hội và phải khu
biệt, giới hạn lĩnh vực sáng tạo văn hóa trên cơ sở xuất phát từ quan niệm
văn hóa theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp.
Trước hết, nói đến đời sống văn hóa là nói đến một bộ phận trong đời
sống của con người. Khái niệm "Đời sống" được đưa ra trong Đại từ điển
tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên là “hoạt động của con người về một

6
lĩnh vực nào đó nói chung” [62]. Còn theo Từ điển bách khoa mở, thì ngoài
nghĩa nói trên, "đời sống" còn được hiểu là phương tiện để sống, lối sống
của cá nhân hay tập thể (đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm…).
Đời sống của con người bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau,
nhưng có liên quan mật thiết với nhau, chẳng hạn như: Đời sống kinh tế,
đời sống chính trị, đời sống xã hội, đời sống văn hóa... Như vậy, đời sống
văn hóa là lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lĩnh vực văn hóa có thể
được hiểu như sau: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề
cần chú ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng” [31]. Cùng với
việc xác định bốn lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều phải coi
trọng ngang nhau, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là
nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Từ
đó, Người nêu ra luận điểm phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng
để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Về mối quan hệ này, Hồ
Chí Minh đã lý giải như sau: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát
triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế?
Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước.
Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta” [53]. Với tiếp cận này, Người
khẳng định đời sống văn hóa là đời sống tinh thần.
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII thì nội hàm của
văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, “Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội”. Luận điểm này cũng được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu
Toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Xử lý tốt mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội,
là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [3].

7
Nhìn chung, đời sống văn hóa có thể được xem xét ở các bình diện sau:
Một là, quan niệm đời sống văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng: Đời
sống văn hóa về bản chất trước hết là đời sống của con người, và nói một
cách khác đời sống con người về bản chất là một đời sống văn hóa. Đời
sống văn hóa là sự thể hiện sinh động nhất phương thức các hoạt động sinh
tồn và giao tiếp ứng xử của con người với môi trường sống (cả cái tự nhiên
và cái xã hội) để đáp ứng nhu cầu. Hay nói cách khác, đời sống văn hóa
chính là tất cả những hoạt động của con người tác động vào đời sống của
mình, hướng đến các giá trị vật chất và tinh thần, nâng cao chất lượng sống
của con người.
Hai là, quan niệm đời sống văn hóa đã được khu biệt, giới hạn: Bản
chất đời sống văn hóa là bản chất đời sống con người về mặt tinh thần. Đời
sống văn hóa được giới hạn là tổng thể những hoạt động tinh thần của con
người trong quá trình sáng tạo, lưu giữ, truyền bá và thưởng thức những giá trị
văn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hoàn thiện con người.
Sở dĩ có những ý kiến khác nhau về đời sống văn hóa, trước hết là do
xuất phát từ quan niệm văn hóa theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Cả hai quan điểm đều nói đến bản chất của đời sống văn hóa: đời sống
văn hóa về bản chất chính là đời sống con người, là hoạt động sống của con
người nhằm nâng cao chất lượng sống của mình. Tuy nhiên, nếu hiểu theo
nghĩa rộng thì khó tránh được các rào cản trong thực hành và quản lý văn hóa,
vì dễ đồng nhất đời sống văn hóa với hoạt động sống. Cho nên trước hết, đời
sống văn hóa là khái niệm cần phải được nhận thức rất linh hoạt, vì mỗi đời
sống văn hóa thường gắn với với các chủ thể và không gian văn hóa nhất
định. Có đời sống văn hóa chung của mỗi xã hội, mỗi quốc gia, mỗi vùng địa
- văn hóa. Có đời sống văn hóa của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi nhóm xã hội.
Tuy có những đặc điểm chung trong đời sống văn hóa, nhưng về hình thức
biểu hiện của nó thì rất sống động [51].

8
Nhận thức khái niệm đời sống văn hóa có tính phổ biến: Đời sống
văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, phản ánh hiện thực sinh động các
hoạt động của con người trong mối quan hệ với môi trường sống (tự nhiên
và xã hội) để thích ứng trong quá trình sáng tạo những giá trị văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần đáp ứng nhu cầu, nâng cao chất lượng sống của
con người và xã hội.
Như vậy có thể hiểu: Đời sống văn hóa chính là tổng thể sống động
các hoạt động văn hóa trong quá trình sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ
biến, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa và sự giao lưu văn hóa, nhằm thỏa
mãn nhu cầu văn hóa của một cộng đồng.
1.2.2. Cấu trúc của đời sống văn hóa
Cấu trúc của đời sống văn hóa bao gồm 4 thành tố cơ bản sau:
- Chủ thể hoạt động văn hóa;
- Hệ thống các giá trị văn hóa, biểu hiện ở các sản phẩm văn hóa vật
thể và phi vật thể;
- Các thiết chế và cảnh quan, môi trường văn hóa;
- Các hoạt động văn hóa.
Chủ thể hoạt động văn hóa: Chủ thể hoạt động văn hóa chính là con
người (hay còn gọi là con người văn hóa, xã hội). Trong các yếu tố cấu
thành đời sống văn hóa của bất cứ cộng đồng dân cư nào, thì chủ thể hoạt
động văn hóa cũng đều là yếu tố quan trọng và quyết định nhất, bởi vì chỉ
có con người mới có hoạt động văn hóa. Văn hóa là sự thích ứng của con
người với môi trường tự nhiên và xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Chủ
thể của văn hóa tộc người không phải là một cá nhân đơn lẻ, mà là một
cộng đồng người nhất định có chung những đặc điểm: Nguồn gốc, phong
tục, tín ngưỡng, mối quan tâm... Đề cập đến chủ thể hoạt động văn hóa cần
chú ý đến các đặc điểm của cộng đồng đó như: Lứa tuổi, sức khỏe, nghề
nghiệp, trình độ học vấn, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, quan niệm sống,
hành vi ứng xử...

9
Hệ thống các giá trị văn hóa: Cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” định
nghĩa: “Giá trị - cái được xác định có ích, có hiệu quả trong cuộc sống vật
chất và tinh thần” [63]. Theo định nghĩa này, khi nói đến giá trị văn hóa là
nói đến những giá trị kết tinh trong các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật
thể do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Giá trị văn
hóa chính là hạt nhân của đời sống văn hóa; là nhân tố quan trọng tác động,
thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội.
Hệ thống các thiết chế và cảnh quan văn hóa: Hệ thống các thiết chế
văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy văn hóa
phát triển; nó đóng vai trò là nơi lưu giữ và chuyển tải các giá trị văn hóa
của cộng đồng đến từng cá nhân. Đó là môi trường để đảm bảo cho các
hoạt động văn hóa diễn ra trong đời sống xã hội. Vậy, thiết chế văn hóa là
gì? Có quan niệm cho rằng, “Thiết chế văn hóa là cơ quan văn hóa, có
nhiệm vụ tổ chức và điều hành quá trình sản xuất, bảo quản, phân phối và
tiêu dùng các sản phẩm văn hóa trong một cộng đồng dân cư nhất định”
[8]. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Thuật ngữ thiết chế văn hóa
được sử dụng rộng rãi trong ngành Văn hóa Việt Nam từ những năm 70 thế
kỷ XX. Thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ
sở vật chất, bộ máy tổ chức, hệ thống biện pháp hoạt động và kinh phí hoạt
động cho thiết chế đó. Ví dụ, thiết chế nhà văn hóa bao gồm ngôi nhà, bộ
máy tổ chức, nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí; chỉ riêng ngôi
nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ để gọi là thiết chế văn hóa [61].
Về phương diện tổ chức, mạng lưới thiết chế văn hóa ở nước ta được
tạo thành bởi ba hệ thống: Hệ thống thiết chế văn hóa đặt dưới sự quản lý
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; hệ thống thiết chế văn hóa thuộc các
lực lượng vũ trang; hệ thống thiết chế văn hóa của các đoàn thể (đoàn thanh
niên, công đoàn, phụ nữ…). Hệ thống thứ nhất lại chia thành 4 cấp: cấp
trung ương, cấp tỉnh (thành phố), cấp huyện (quận), cấp xã (phường).

10
Có thể kể đến một số thiết chế văn hóa gắn với các hoạt động của đời
sống văn hóa như: Trường học, thư viện, bảo tàng, nhà truyền thống, câu
lạc bộ, nhà hát, rạp chiếu phim, trung tâm văn hóa, các cơ quan thông tin
đại chúng. Đó là nơi các hoạt động văn hóa diễn ra một cách tập trung,
phản ánh những giá trị kết tinh của đời sống văn hóa cộng đồng. Nó chính
là chiếc cầu nối giữa sáng tạo và thưởng thức, là nơi diễn ra quá trình
chuyển tải những giá trị văn hóa tới cộng đồng.
Một thiết chế văn hóa được coi là hoàn chỉnh phải đảm bảo đủ 4
điều kiện: cơ sở vật chất (trụ sở, thiết bị...); bộ máy tổ chức (con người); hệ
thống biện pháp (thể chế, luật lệ...); kinh phí để vận hành hệ thống. Một số
thiết chế văn hóa tiêu biểu như: nhà truyền thống, nhà văn hóa, câu lạc bộ,
thư viện, bảo tàng, sân vận động, rạp hát, rạp chiếu phim, công viên văn
hóa, các cơ quan thông tin đại chúng… Đây là nơi các hoạt động văn hóa
diễn ra một cách tập trung, phản ánh những giá trị kết tinh đời sống văn hóa
cộng đồng.
Bên cạnh các thiết chế văn hóa nêu trên, trong quá trình xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở còn cần chú ý đến cảnh quan văn hóa. Cảnh quan
văn hóa là những sản phẩm tồn tại trong quan hệ tương tác giữa con người
và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, bao gồm các thắng cảnh tự
nhiên, các kiến trúc, công trình xây dựng, đường phố, tượng đài… Cảnh
quan văn hóa là môi trường vật chất - văn hóa mà trong đó con người sinh
sống. Nó phản ánh trực tiếp thực trạng của đời sống văn hóa. Qua kiến trúc,
cảnh quan môi trường, trật tự, vệ sinh… ít nhiều có thể khái quát đời sống văn
hóa của dân cư. Tuy chỉ là không gian vật chất do con người tạo ra nhưng
cảnh quan văn hóa lại có tác động nâng đỡ, điều chỉnh, giám sát hành vi con
người. Bên trong cảnh quan chứa đựng những chuẩn mực của cộng đồng,
cũng như thấm đượm sự lan tỏa của các giá trị văn hóa.
Các hoạt động văn hóa: Xét theo nghĩa rộng nhất của văn hóa, hoạt
động sống nào của con người cũng chứa đựng các giá trị văn hóa, từ lao

11
động, học tập, ăn, mặc, ở, đi lại đến giao tiếp, vui chơi… Tuy nhiên, ở đây,
tiếp cận theo quan niệm coi văn hóa và đời sống văn hóa chủ yếu là thuộc lĩnh
vực tinh thần, do đó hoạt động văn hóa được hiểu là những hoạt động trong
lĩnh vực tinh thần, mà mục đích và nội dung trực tiếp của nó là các giá trị
chân, thiện, mỹ. Đó cũng chính là những hoạt động sáng tạo, hưởng thụ, lưu
giữ, phát huy các giá trị văn hóa. Những hoạt động này có thể là hoạt động
của các cá nhân, nhưng luôn diễn ra trong mối liên hệ với cộng đồng.
Các hoạt động văn hóa là tổng hợp nhiều hình thức sáng tạo, hưởng
thụ, lưu giữ, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa. Hoạt động văn hóa là
hoạt động đáp ứng trực tiếp nhu cầu văn hóa của nhân dân. Có thể khái
quát một số dạng hoạt động văn hóa phổ biến như sau:
Một là, những hoạt động sáng tạo các giá trị văn hóa. Dạng hoạt
động này đòi hỏi chủ thể văn hóa phải có những trình độ, năng lực tư duy
và kỹ năng khéo léo, cũng như môi trường và điều kiện nhất định. Liên
quan đến dạng hoạt động này, có thể kể đến những hoạt động như: sáng tác
văn chương, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, âm nhạc, điêu khắc, nghiên cứu
khoa học, biểu diễn nghệ thuật. Kết quả của những hoạt động này sẽ là
những sản phẩm văn hóa vật thể hoặc phi vật thể, thấm đượm các giá trị
tinh thần.
Hai là, những hoạt động hưởng thụ các giá trị văn hóa. Dạng hoạt
động này thường rất phong phú về hình thức, tùy thuộc vào nhu cầu, sở
thích, thói quen và điều kiện của chủ thể văn hóa. Có thể nêu một số hình
thức hoạt động cơ bản thuộc dạng này như: học tập, vui chơi, lễ hội; giải
trí, thể dục thể thao, thưởng thức các loại hình nghệ thuật, du lịch, mua
sắm, tự do tín ngưỡng…
Ba là, những hoạt động lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa. Dạng
hoạt động này rất quan trọng trong đời sống văn hóa của bất cứ cộng đồng
nào, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự bảo tồn và phát triển đời sống văn
hóa không chỉ của cộng đồng đó, mà còn của cả nền văn hóa dân tộc.

12
Những hoạt động này bao gồm các hình thức cơ bản như: Khai trí (giáo
dục, đào tạo, thông tin, tuyên truyền, quảng bá); lễ hội; ứng xử của chủ thể
(trong gia đình và xã hội); hoạt động bảo tồn, bảo tàng...
Các hoạt động văn hóa cơ sở cơ bản:
- Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động: phổ biến rộng rãi trong
công chúng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như
các nhiệm vụ chính trị, các qui định của địa phương...
- Hoạt động sáng tác văn chương, nghệ thuật.
- Hoạt động biểu diễn trên sân khấu và trong điện ảnh.
- Hoạt động khai trí - giáo dục trình độ, tri thức cho mọi người: dạy
học, diễn giảng, tọa đàm, thư viện, thông tin.
- Hoạt động quảng bá các giá trị văn hóa: báo chí, xuất bản, truyền thông…
- Hoạt động lưu giữ sản phẩm văn hóa: bảo tàng, lưu trữ, triển lãm…
- Hoạt động tiêu dùng các sản phẩm văn hóa: đọc sách, báo, nghe
nhạc, xem nghệ thuật, phim ảnh, triển lãm…
- Hoạt động lễ hội, tín ngưỡng.
- Hoạt động xây dựng phong tục, nếp sống văn hóa.
- Hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí.
1.3. Khái niệm đời sống văn hóa cơ sở
Thuật ngữ “Đời sống văn hóa ở cơ sở” đã được sử dụng trong ngành
Văn hóa từ năm 1982, nhưng không phải tất cả mọi người đã có một quan
niệm thống nhất về nó. Vì vậy, trước hết phải làm rõ nghĩa của thuật ngữ
này trước khi trình bày các vấn đề tiếp theo. Thuật ngữ “Đời sống văn hóa
cơ sở” được lắp ghép bởi hai khái niệm: “Đời sống văn hóa” và “cơ sở”.
Trong đó, đời sống văn hóa được hiểu là một bộ phận của đời sống xã hội,
mà đời sống xã hội là một phức thể những hoạt động sống của con người,
nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất
được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu tinh

13
thần thì giúp con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức là một nhân
cách văn hóa” [59].
Như chúng ta đã biết khái niệm “đơn vị” được quan niệm như yếu
tố làm thành một chỉnh thể, trong mối quan hệ với chỉnh thể ấy. Hay nói
một cách khác đơn vị được quan niệm như một bộ phận trong một hệ
thống tổ chức nào đó. Còn từ ngữ “cơ sở” hàm chứa nhiều nghĩa, nhưng
nó được dùng ít nhất trên ba phương diện sau:
- Cơ sở được quan niệm như những gì căn bản, làm nền, làm gốc,
làm căn cứ chính cho một lĩnh vực hoạt động, hay một tri thức nào đó. ví
dụ: Cơ sở lý luận, cơ sở văn hóa, cơ sở vật chất…
- Cơ sở được quan niệm như một địa điểm, địa chỉ, tụ điểm trung
tâm... diễn ra một loại hình hoạt động nào đó về chính trị, kinh tế, văn hóa -
xã hội như: Cơ sở hoạt động cách mạng, cơ sở dạy nghề, cơ sở đào tạo, cơ
sở văn hóa, cơ sở y tế,...
- Cơ sở được quan niệm như một địa bàn, một đơn vị hành chính,
một tổ chức... có cơ cấu hoàn chỉnh ở cấp cuối cùng của một hệ thống.
“Đơn vị cơ sở là hình thức tổ chức cơ bản của văn hóa. Đó là những cộng
đồng dân cư liên kết với nhau trong các sinh hoạt vật chất và tinh thần diễn
ra trong đời sống hàng ngày” [60]. Khái niệm “cơ sở” ở đây được hiểu là
một địa bàn, địa điểm cụ thể, gắn với một đơn vị hành chính cơ bản hoặc
một đơn vị cụ thể của một tổ chức chính trị xã hội.
Vậy “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” là gì?
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta được đặt ra từ Đại hội toàn quốc lần thứ V
(1981). Đây là chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự
nghiệp xây dựng văn hóa, lối sống và con người phù hợp với đòi hỏi của
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói về chủ trương này,
Văn kiện Đại hội V của Đảng có đoạn viết: “Một nhiệm vụ của cách mạng
tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày

14
của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo
đảm nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng
vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng,
mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời sống văn hóa” [4].
Quán triệt tinh thần văn kiện của Đảng và Chính phủ, ngành Văn hóa
đã có những trăn trở, tìm tòi nhằm không ngừng nâng cao chất lượng hoạt
động văn hóa ở cơ sở. Từ đó đến nay, những công việc tổ chức, xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở lúc nào cũng được đặt thành công tác trọng tâm
của ngành Văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đưa ra ba chương
trình công tác mục tiêu cấp nhà nước và đã được Chính phủ thông qua, ghi
vào kế hoạch thực hiện từ năm 1994 trở đi. Trong ba chương trình ấy,
chương trình “Xây dựng và nâng cao hoạt động văn hóa, thông tin cơ sở
khu vực nông thôn” được xếp vào hàng thứ hai. Điều này một lần nữa
chứng tỏ: Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một chủ trương mang tính
chiến lược lâu dài, thực hiện suốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng. Trong
di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân”[54].
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được coi như bước đi ban đầu
của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là công việc xây dựng kết cấu hạ tầng
văn hóa để tiến hành các hoạt động giáo dục xã hội chủ nghĩa đối với nhân
dân lao động. Mục đích chủ yếu của giáo dục xã hội chủ nghĩa là nhằm
hình thành nhân cách phát triển hài hòa và toàn diện, trước mắt hướng vào
việc xây dựng nhân cách công dân, có ý thức đầy đủ về nghĩa vụ và quyền
công dân, tôn trọng Hiến pháp và Pháp luật; có ý thức xã hội chủ nghĩa,
sống theo đạo lý “mỗi người vì mọi người - mọi người vì mỗi người”, có ý

15
thức lao động tự giác; có phẩm chất đạo đức trong sáng và tình cảm lành
mạnh trong mọi quan hệ ứng xử, từ gia đình đến xã hội. Ngoài ra, xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở còn là xây dựng những điều kiện để tổ chức các
hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh cho nhân dân.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tạo dựng
một lối sống văn minh, lịch sự, những phong tục, tập quán tốt đẹp, vừa đậm
đà bản sắc dân tộc, vừa phù hợp với trào lưu văn hóa tiến bộ của nhân loại.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở về một phương diện nào đó,
còn là một cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng và văn hóa.
Đó là cuộc đấu tranh, một mặt, nhằm khẳng định các giá trị dân chủ,
nhân dân và tiến bộ của văn hóa; giáo dục nếp sống đạo đức và phong
cách ứng xử có văn hóa cho mọi người; phát triển văn hóa dân tộc đi
đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa gìn giữ vừa phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
Mặt khác, cần kiên quyết chống lại những hiện tượng và hành vi thô
bạo, lai căng, phản văn hóa, phi đạo đức và phi nhân tính. Kế thừa, phát
huy truyền thống nhân ái, nghĩa tình, thuần phong mỹ tục đi đôi với bài
trừ hủ tục mê tín di đoan và các tệ nạn xã hội.
Như vậy, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng mạng lưới
thiết chế văn hóa, tạo nên cảnh quan văn hóa ở nông thôn, cảnh quan ấy mang
đặc trưng kiến trúc của thời đại mới vừa dân tộc, vừa hiện đại, góp phần xây
dựng nếp sống văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế chung của đất nước và mỗi địa phương.
2. Hoạt động văn hóa ở cơ sở
Hoạt động văn hóa ở cơ sở bao gồm:
- Xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở (Xây dựng cơ sở vật chất).
- Tổ chức các hoạt động văn hóa ở cơ sở (Nội dung hoạt động văn
hóa ở cơ sở).

16
2.1. Xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở
Trong Đại từ điển Tiếng Việt quan niệm thiết chế như “thể chế”, là “lập
nên” hay “tạo dựng nên”. Thiết chế văn hóa có cả phần hữu hình và vô hình; có
phần cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên dùng và cả phần về tổ chức bộ máy
vận hành tổ chức hoạt động, cơ chế, chính sách. Trong trường hợp này thiết chế
còn được hiểu như thể chế thông qua vai trò điều hành nhịp nhàng cả 3 khâu
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của nhân dân nhất là trong
sáng tạo và tổ chức các hoạt động văn hóa ở cơ sở.
Thiết chế Văn hóa cơ sở được tạo dựng nên để phục vụ cho nhu cầu
văn hóa tinh thần của người dân ở cơ sở. Cần phân biệt thiết chế văn hóa
thông tin cơ sở là những thiết chế do ngành Văn hóa Thông tin cơ sở quản lý
như Nhà Văn hóa, Nhà thông tin - Triển lãm…cụm pano, cụm cổ động, đội
văn nghệ quần chúng, không những chỉ có ở cơ sở mà còn ở các cấp trên của
cơ sở như huyện, tỉnh…Còn những thiết chế văn hóa ở cơ sở là toàn bộ
những thiết chế văn hóa do cơ sở tạo ra và cơ sở trực tiếp quản lý. Sự phân
biệt này chỉ tương đối. Cho nên khi nói đến các thiết chế văn hóa cơ sở là
nhắc tới đài, trạm phát thanh - truyền thanh, phòng truyền thống, thư viện,
phòng đọc sách báo, trạm bảng tin.
Trong việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa, đặc biệt là quá trình
xây dựng hoạt động văn hóa ở cơ sở đã có nhiều công trình văn hóa mới ra
đời đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bên cạnh việc khôi phục tôn
tạo khai thác sử dụng các thiết chế cũ, hoặc có từ trước các thiết chế văn
hóa mới cơ bản đã phát huy hiệu quả và tác dụng. Tuy nhiên, vẫn còn có
một số cơ sở, một số nơi việc khai thác và sử dụng các thiết chế này còn
hạn chế. Không hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, còn lãng phí và
bị thương mại hóa.
Như vậy, thiết chế văn hóa cơ sở là những cơ quan văn hóa do ngành
văn hóa cơ sở quản lý, có chức năng thông tin và giáo dục văn hóa, có khi
kiêm cả thể thao, vui chơi giải trí…đáp ứng nhu cầu của mọi người về

17
hưởng thụ, sáng tạo và bảo lưu những giá trị văn hóa. Nói cách khác, các
thiết chế văn hóa cơ sở có chức năng giáo dục văn hóa ngoài nhà trường,
nâng cao dân trí, góp phần phát triển dân sinh, dân chủ ở cơ sở. Cùng với
các hoạt động đa dạng, đa năng phong phú thiết chế đó còn là nơi hội tụ
gắn kết cộng đồng, góp phần điều chỉnh hài hoà các mối quan hệ ở địa bàn
dân cư. Đó còn là niềm tự hào của cộng đồng.
Bên cạnh các cơ sở vật chất, thiết chế văn hóa còn bao hàm việc định
biên, định xuất cho người làm công tác văn hóa cùng với các chính sách
chế độ đảm bảo cho hoạt động chuyên môn ở cơ sở.
Nhiều địa phương đã ban hành các quy định rất tích cực cho việc xây
dựng và duy trì các thiết chế văn hóa mới như công viên, khu vui chơi giải
trí, điểm vui chơi cho trẻ em, nhà văn hóa xã, thôn, nhà Rông văn hóa;
thuyền văn hóa; trạm văn hóa thông tin, ấp, khóm. Các tổ chức văn hóa
thông tin ở cấp cơ sở cũng rất phong phú, đa dạng. Có các tổ, nhóm, đội
thông tin văn nghệ; các câu lạc bộ cho các đối tượng và cho các loại hình
hoạt động khác nhau. Các lễ hội truyền thống, lễ hội mới đã định hình ở cơ
sở. Từ thực tiễn hoạt động văn hóa cấp xã, phường ở các vùng miền trong
cả nước, có thể nhận thức về Thiết chế Văn hóa cơ sở như sau:
Thiết chế Văn hóa cơ sở là những tổ chức và hoạt động thuộc lĩnh
vực văn hóa do chính quyền và nhân dân cơ sở tạo nên, đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt của cộng đồng nhằm: xây dựng nền tảng chính trị, tư tưởng để
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự đoàn kết giữa Đảng, chính
quyền, các đoàn thể và quần chúng; bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ để
cùng xây dựng và tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, làm cho
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thiết chế Văn hóa cơ sở là công cụ trực tiếp của cấp uỷ, chính quyền
trong lãnh đạo quần chúng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Thiết chế này cung cấp những thông tin chính thống, tổ chức những hoạt

18
động văn hóa lành mạnh mà cấp uỷ, chính quyền định hướng, khuyến khích
phát triển. Đây là kênh thông tin tuyên truyền sinh động bằng nhiều cách
thức: Thông tin trực tiếp tình hình nhân dân ở cơ sở đang thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể; tổ chức các hình thức tập họp quần chúng để truyền đạt sự
chỉ đạo của Đảng, chính quyền nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội;
giới thiệu các mô hình sản xuất hiệu quả, các kiến thức khoa học kỹ thuật,
cách tổ chức đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa văn nghệ... thông qua các
hình thức sinh hoạt cộng đồng tự nguyện của nhân dân.
Thiết chế văn hóa cơ sở là nơi thực hiện phúc lợi xã hội của nhân
dân cơ sở trong hưởng thụ văn hóa qua các hội thi, liên hoan, tập luyện,
giao lưu, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống... Đây cũng là nơi họp
Chi bộ, Đoàn thể, Hội Người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân,
Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên; là nơi tổ chức các hoạt động khuyến học,
tương thân tương ái; là nơi tụ hội vui chơi thể thao, dưỡng sinh, là nơi cất
giữ các trang thiết bị, công cụ phục vụ hội họp, sinh hoạt văn hóa văn nghệ
quần chúng…Đồng thời thiết chế văn hóa cơ sở cũng bắt nguồn từ nhu cầu
gắn kết tình đồng chí, nghĩa đồng bào thể hiện trách nhiệm với cộng đồng
trong ngôi nhà chung. Cũng do điều kiện kinh tế, nhiều nơi đã tập trung các
thiết chế văn hóa cơ sở tại một địa chỉ được gọi chung là: Nhà văn hóa hoặc
Nhà Thông tin…
Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, nhất là ở cơ sở trong
khi các thiết chế cũ vẫn tồn tại song song thì thiết chế văn hóa cơ sở, cần
phải trở thành một hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ và hoàn chỉnh để là nơi
cho hệ thống chính trị cơ sở hoạt động, tích cực góp phần cho thắng lợi của
tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam với những hình
thức hoạt động sinh động, gần gũi, thiết thực với nhân dân ở cơ sở.
Việc xây dựng Thiết chế văn hóa cơ sở (xã, phường, thị trấn) cần
đảm bảo hội tụ các yếu tố sau:
- Có tổ chức bộ máy, cán bộ nghiệp vụ có phương pháp hoạt động.

19
- Có địa điểm, cơ sở vật chất, phương tiện trang thiết bị.
- Có thể chế, luật lệ (quy chế, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách).
- Có đối tượng, nội dung, chương trình thường xuyên.
Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2164 ngày
22/11/2013 phê duyệt quy hoạch hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được
thực hiện trên phạm vi cả nước1.

1
Quyết định số 2164 ngày 22/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2020 đề ra mục tiêu:
Mục tiêu chung:
- Đến năm 2020, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở được phát triển đồng bộ, từng bước khắc phục tình
trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí của nhân dân ở các vùng, miền, khu vực
trong cả nước;
- Đến năm 2030, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phát triển đạt các tiêu chí quy định của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:
- Ở thôn:
70% số thôn (riêng ở khu vực miền núi là 50%) có Nhà Văn hóa - Khu Thể thao, trong đó được đầu tư trang
thiết bị và dành tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí cho trẻ em.
- Cấp xã:
80% số đơn vị hành chính xã (riêng ở khu vực miền núi là 60%) có Trung tâm Văn hóa - Thể thao, trong đó
được đầu tư trang thiết bị và dành tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui chơi
giải trí cho trẻ em.
Những địa phương chưa có đủ điều kiện để xây dựng tại mỗi đơn vị hành chính cấp xã một Trung tâm Văn hóa -
Thể thao, có thể xây dựng tại cụm xã (3 đến 5 xã) một Trung tâm Văn hóa - Thể thao.
- Cấp huyện:
90% số đơn vị hành chính cấp huyện có Trung tâm Văn hóa - Thể thao;
30% số đơn vị hành chính cấp huyện có Nhà Thiếu nhi;
10% số đơn vị hành chính cấp huyện có Nhà Văn hóa Lao động.
- Cấp tỉnh:
100% số đơn vị hành chính cấp tỉnh có Trung tâm Văn hóa;
100% số đơn vị cấp tỉnh có Cung Thiếu nhi, Nhà Thiếu nhi hoặc Trung tâm hoạt động Thanh Thiếu nhi;
50% số đơn vị cấp tỉnh có Cung Văn hóa Lao động, Nhà Văn hóa Lao động;
Xây dựng Trung tâm Văn hóa; Cung Thiếu nhi, Nhà Thiếu nhi; Cung Văn hóa Lao động, Nhà Văn hóa Lao động
cấp Quốc gia; Khu vui chơi giải trí hiện đại tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các địa phương là trung
tâm các vùng kinh tế trọng điểm và các đô thị loại I khác trong cả nước.
- Khu chế xuất, Khu công nghiệp:
100% Khu công nghiệp, Khu chế xuất có quy hoạch quỹ đất để xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ
công nhân, người lao động;
Trong đó tối thiểu 30% Khu công nghiệp, Khu chế xuất đã hoạt động xây dựng được Trung tâm Văn hóa - Thể
thao phục vụ công nhân, người lao động.
c) Định hướng đến năm 2030:
- Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ cộng đồng thuộc ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý: Đạt tỷ lệ
100% ở các cấp hành chính;
- Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ thanh niên, thiếu niên và nhi đồng: Đạt tỷ lệ 50% số đơn vị hành chính cấp
huyện có Nhà Thiếu nhi;
- Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ công nhân viên chức, người lao động: Đạt tỷ lệ 30% đơn vị hành chính cấp
huyện, 100% đơn vị hành chính cấp tỉnh, 50% Khu công nghiệp, Khu chế xuất có Trung tâm Văn hóa - Thể thao.
4. Nội dung của Quy hoạch
a) Quy hoạch đất sử dụng:
- Thiết chế văn hóa, thể thao ở thôn quy hoạch đất sử dụng cho khu vực Nhà Văn hóa (không kể diện tích các
công trình thể thao quần chúng):
Ở khu vực đồng bằng tối thiểu 300m2;
Ở khu vực miền núi và khu vực thành phố, thị xã tối thiểu 200 m2.

20
Quyết định số 2164 ngày 22/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ
sở giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2020 đề ra mục tiêu:
Mục tiêu chung:
- Đến năm 2020, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở được phát
triển đồng bộ, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ
văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí của nhân dân ở các vùng, miền, khu vực
trong cả nước;
- Đến năm 2030, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phát
triển đạt các tiêu chí quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:
- Ở thôn:
70% số thôn (riêng ở khu vực miền núi là 50%) có Nhà Văn hóa - Khu
Thể thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và dành tối thiểu 30% thời gian
sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí cho trẻ em.
- Cấp xã:
80% số đơn vị hành chính xã (riêng ở khu vực miền núi là 60%) có
Trung tâm Văn hóa - Thể thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và dành tối
thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui chơi giải
trí cho trẻ em.
Những địa phương chưa có đủ điều kiện để xây dựng tại mỗi đơn vị
hành chính cấp xã một Trung tâm Văn hóa - Thể thao, có thể xây dựng tại
cụm xã (3 đến 5 xã) một Trung tâm Văn hóa - Thể thao.
- Thiết chế văn hóa, thể thao cấp xã (Trung tâm Văn hóa - Thể thao), quy hoạch đất sử dụng (không kể diện tích
của các công trình thể thao quần chúng):
Ở khu vực đồng bằng tối thiểu 500m2;
Ở khu vực miền núi và khu vực thành phố, thị xã tối thiểu 300 m2.
- Thiết chế văn hóa, thể thao cấp huyện (Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Nhà Thiếu nhi, Nhà Văn hóa lao
động), quy hoạch đất sử dụng tối thiểu 2. 500m2, không kể diện tích của các công trình thể thao quần chúng;
- Thiết chế văn hóa cấp tỉnh (Trung tâm Văn hóa; Cung Thiếu nhi, Nhà Thiếu nhi, Trung tâm hoạt động Thanh
Thiếu nhi; Cung Văn hóa Lao động, Nhà Văn hóa Lao động), quy hoạch đất sử dụng tối thiểu 5. 000m2. Diện tích
đất các công trình thể dục, thể thao thực hiện theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia;
- Quy hoạch đất sử dụng xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao trong các Khu công nghiệp, Khu chế xuất tối
thiểu là 1. 000 m2;

21
2.2. Nội dung hoạt động văn hóa ở cơ sở
Nhu cầu về văn hóa của nhân dân rất phong phú và đa dạng, vì vậy
các hoạt động văn hóa ở cơ sở cũng rất phong phú, da dạng, bao gồm các
nội dung hoạt động chủ yếu như sau:
2.2.1. Hoạt động thông tin - tuyên truyền, cổ động
Nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động là
phổ biến rộng rãi trong công chúng các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của Trung
ương và địa phương, nêu gương người tốt, việc tốt; phê phán thói hư, tật
xấu; góp phần tạo dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh ở cơ sở.
Trong công tác thông tin tuyên truyền cổ động, có nhiều biện pháp,
hình thức. Triển lãm là hình thức giáo dục trực quan sinh động mà sâu sắc
thu hút đông đảo quần chúng. Các tổ, đội thông tin lưu động là lực lượng
xung kích, luôn đem tiếng nói của Đảng, Nhà nước đến tận những bản, làng
xa xôi, hẻo lánh. Luôn dùng hình thức văn nghệ nhỏ, nhẹ để chuyển tải
thông tin; kết hợp cổ động trực quan với tuyên truyền miệng. Hoạt động
thông tin cổ động đòi hỏi rất nhanh nhạy, kịp thời, tác động trực tiếp với
đối tượng nên có hiệu quả cao.
Ngày nay, thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ, phương
tiện truyền thông đại chúng được hiện đại hóa, internet đã giúp cho công
tác thông tin tuyên truyền cổ động phát triển mạnh. Con người vì thế càng
được tiếp cận và chịu tác động của cả thế giới năng động. Do đó, con người
cũng dễ lúng túng trước sự bùng nổ thông tin. Như vậy, công tác thông tin
cổ động được tiếp thêm khả năng mới, vì thế cũng cần định hướng đúng để
giúp cho con người lựa chọn và tiếp nhận thông tin thuận lợi, để có nhận
thức và hành động đúng, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân tốt.
2.2.2. Hoạt động câu lạc bộ, nhà văn hóa
Câu lạc bộ là một tổ chức xã hội tập hợp theo nguyên tắc tự nguyện của
những người cùng sở thích hoặc giới thuộc các lĩnh vực chính trị - xã hội -

22
kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn học - nghệ thuật và các hoạt động vui chơi,
giải trí, nghỉ ngơi, thể dục thể thao khác. Loại câu lạc bộ này cũng thường
được tổ chức tại các cơ quan văn hóa - giáo dục như: Nhà Văn hóa (Cung),
Trung tâm Văn hóa Thông tin thuộc hệ thống Nhà nước (Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch) hoặc thuộc các ngành, giới như Quân đội, Công an, Công
đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận…
Các Câu lạc bộ tổ chức các lớp học tập để nâng cao trình độ nghiệp
vụ chuyên môn phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, khuyến học, khuyến
tài, sinh hoạt chuyên đề, bổ sung kiến thức cho mọi đối tượng, kích thích
mọi người tham gia các quá trình sáng tạo trong hoạt động văn hóa văn
nghệ hoặc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào đời sống.
Tổ chức Câu lạc bộ để thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào
hoạt động văn hóa tại các cơ sở văn hóa một cách tích cực theo nguyên lý
mà học mà chơi, chơi mà học học, góp phần tự hoàn thiện mình. Nó còn
hướng dẫn để công chúng tự đáp ứng các nhu cầu văn hóa của họ theo
hướng lành mạnh và tiến bộ.
Câu lạc bộ hoạt động theo tinh thần tự nguyện, tự quản. Tự quản về
tổ chức, tự quản về nội dung, tự quản về tài chính theo đúng luật pháp của
Nhà nước hiện hành.
Ví dụ: Câu lạc bộ Phòng chống bạo lực gia đình; Câu lạc bộ phụ nữ
không sinh con thứ ba; Câu lạc bộ thanh niên …
2.2.3. Hoạt động thư viện, đọc sách báo
Sách báo là nguồn tri thức, là bạn tốt của mỗi người, góp phần trực
tiếp vào việc nâng cao hiểu biết cho mọi đối tượng. Vì vậy, thư viện, phòng
đọc thường xuyên chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động khai trí của
các cơ quan văn hóa.
Ở xã phường đã có điểm bưu điện văn hóa, một số xã/phường đã xây
dựng tủ sách. Muốn cho việc đọc sách báo được phổ biến rộng rãi trong
công chúng thì người hướng dẫn phải biết lựa chọn, giới thiệu các loại sách

23
báo có tác dụng thiết thực đến đời sống của cộng đồng ở cơ sở. Phải chú ý
tới nhu cầu về sách, báo của bạn đọc, nhất là của thanh niên, thiếu nhi, của
người cao tuổi, người khuyết tật…. Hướng dẫn và thu hút lớp trẻ đọc sách
báo lành mạnh để nâng cao nhận thức, để tự hoàn thiện về nhân cách là
nhiệm vụ quan trọng của công tác thư viện, tủ sách…thực hiện tốt chủ
trương phát triển văn hóa đọc và tổ chức tốt ngày Hội đọc sách và bản
quyền thế giới 2/4 hàng năm. Có rất nhiều cách đưa sách hay, sách tốt đến
quần chúng theo tinh thần “sách đi tìm người”, “túi sách trên lưng”. Hoạt
động luân chuyên sách của thư viện vừa làm cho bạn đọc được tiếp cận
nhiều với sách và vốn sách cũng như được tăng lên.
2.2.4. Hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, giáo dục truyền thống
Trên địa bàn cơ sở còn tồn tại nhiều di sản văn hóa gồm di sản văn hóa
vật thể (đình, chùa, đền, miếu, am, phủ); di sản văn hóa phi vật thể (phong tục,
tập quán, tín ngưỡng, lễ hội…). Cơ sở phải có kế hoạch bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa: Chống xuống cấp, tu bổ, tôn tạo di tích theo Luật Di
sản, tổ chức khai thác các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp từ các di sản
văn hóa phi vật thể.
Để tiến hành công tác giáo dục truyền thống văn hóa - lịch sử và
cách mạng, ở cơ sở cần xây dựng các Nhà bảo tàng, phòng truyền thống,
các địa chỉ đỏ ở những nơi cần thiết để góp phần giáo dục truyền thống. Ở
các đơn vị cơ sở có thể xây dựng Phòng truyền thống hoặc Góc truyền
thống, nhà lưu niệm để trưng bày, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống
của cơ sở…
Các hoạt động có tính phong trào như “uống nước nhớ nguồn”, “đi
tìm địa chỉ đỏ”, “đền ơn đáp nghĩa”, tổ chức các ngày hội truyền thống
cũng có ý nghĩa giáo dục tốt.
2.2.5. Hoạt động văn nghệ quần chúng
Hoạt động văn nghệ quần chúng là dạng hoạt động rất hấp dẫn,
phong phú, đa dạng, không thể thiếu ở cơ sở, thu hút đông đảo quần chúng

24
tham gia, kể cả mọi lứa tuổi. Có thể nói hoạt động văn nghệ quần chúng là
nhân tố quan trọng làm nên sức sống của một đơn vị văn hóa ở cơ sở. Hoạt
động văn nghệ quần chúng bao gồm cả việc sáng tạo ra các sản phẩm văn
hóa nghệ thuật, biểu diễn lưu giữ và truyền bá những giá trị đó kể cả văn
hóa - văn nghệ dân gian truyền thống.
Có rất nhiều thể loại văn nghệ quần chúng như ca, kịch, múa, thơ,
nhạc, họa, múa rối, xiếc… và biểu diễn trên sân khấu hoặc ngoài trời để tự
biểu hiện tài năng nghệ thuật của họ.
- Phản ánh kịp thời và sinh động cuộc sống đa dạng của nhân dân
địa phương với các loại hình văn nghệ xúc tích, sâu sắc.
- Đáp ứng những đòi hỏi về thưởng thức nghệ thuật của quần chúng,
qua đó phát hiện và bồi dưỡng các tài năng trẻ. Có thể xem văn nghệ quần
chúng là một vườn ươm nghệ thuật. Nhiều tài năng nghệ thuật trưởng thành
từ phong trào văn nghệ quần chúng ở cơ sở.
- Để phát triển văn nghệ quần chúng, các thiết chế văn hóa một mặt
có nhiệm vụ nâng cao chất lượng cho phong trào văn nghệ ở cơ sở, một
mặt đưa các giá trị văn hóa nói chung và giá trị nghệ thuật cao đến với quần
chúng. Ở cơ sở cần xây dựng các đội văn nghệ xã/phường, thôn, bản để tổ
chức các hoạt động văn nghệ quần chúng nhân dịp các ngày kỷ niệm của
đất nước, hoặc phục vụ các sự kiện chính trị của địa phương …
2.2.6. Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa
Nếp sống là toàn bộ những ứng xử của con người, biểu hiện trong
mối quan hệ đối với thiên nhiên, với xã hội và bản thân được lặp đi lặp lại
nhiều lần trong cuộc sống, trở thành thói quen, thành phong tục. Đó cũng là
một hệ thống chuẩn mực xã hội được cộng đồng chấp nhận và tự nguyện
thực hiện, Phong tục tập quán có những giá trị tốt đẹp cần bảo lưu và phát
triển, có những hạn chế lạc hậu cần khắc phục.
Xây dựng nếp sống là xây dựng nếp sống cá nhân, nếp sống gia đình
và nếp sống xã hội. Vì vậy công tác xây dựng nếp sống văn hóa và hoạt

25
động của nó có tác dụng hình thành nếp sống văn hóa mới, khắc phục
những tiêu cực hạn chế của nếp sống cũ.
Hiện nay, gia đình cũng được coi là một dạng cơ sở đặc biệt để xây
dựng nếp sống văn hóa. Từ lâu Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề xây
dựng nếp sống văn hóa. Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 27/CT-TW ngày
28/3/1998 về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
cũng là để xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây dựng con người mới, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã
hội và mê tín - dị đoan.
2.2.7. Hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi giải trí
Hoạt động thể dục, thể thao không chỉ nhằm mục đích tăng cường
thể chất, mà còn rèn luyện nên những phẩm chất tinh thần như: ý chí bền
bỉ, lòng dũng cảm, hoạt bát, thông minh và tinh thần tập thể, đồng đội,
cũng như các hoạt động vui chơi khác, hoạt động thể dục, thể thao có tác
dụng giải trí lớn.
Ở những nơi có điều kiện như có Nhà văn hóa xã, Nhà văn hóa thôn
(bản), sân bãi… thì có thể kết hợp tổ chức thành các điểm vui chơi giải trí
thường xuyên. Nơi chưa có điều kiện thì nên tổ chức hoạt động thể thao,
thể dục, vui chơi, giải trí theo định kỳ thì nên tại đơn vị cơ sở, hoặc ở khu
dân cư, các gia đình có điều kiện.
Thể dục - Thể thao là một dạng hoạt động văn hóa thể chất rất cần ở
cơ sở, đáp ứng các nhu cầu khác nhau của mọi lứa tuổi.
2.2.8. Xây dựng gia đình văn hóa
Gia đình là môi trường hình thành nhân cách con người. Môi trường
văn hóa trong gia đình là yếu tố quan trọng cho việc giáo dục tư tưởng, đạo
đức, lối sống của mọi thành viên. Tiêu chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa
hiện nay được Thực hiện theo quy định tại Điều 29 Luật Thi đua, khen
thưởng với những nội dung cụ thể (áp dụng theo Điều 4 Thông tư số
12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 quy định chi tiết về tiêu chuẩn,

26
trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận Danh hiệu “Gia đình văn hóa”, Thôn văn
hóa, Làng văn hóa, Ấp văn hóa, Bản văn hóa, Tổ dân phố văn hóa và tương
đương), gồm các tiêu chuẩn như sau:
“1. Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương.
2. Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi
người trong cộng đồng.
3. Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả”.
Tất cả các nội dung trên có liên quan mật thiết với nhau, tác động hỗ
trợ, bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Vận dụng các nội
dung và tiêu chí cần linh hoạt đối với từng khu vực, vùng miền, dân tộc để
xây dựng đời sống văn hóa có hiệu quả.
Xây dựng gia đình văn hóa có tác động trực tiếp đến xây dựng con
người, đến từng thành viên trong gia đình. Việc xây dựng con người Việt
nam theo 5 tiêu chuẩn xác định hiện nay trước hết phải bắt đầu từ gia đình
và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên. Từ gia đình và tiếp tục sau
này đồng thời gia đình phải chủ động phối hợp với cộng đồng và hội để
tham gia giáo dục, rèn luyện con người. Chúng ta vận động học tập là việc
làm suốt đời. Học làm người cũng vậy, phải là việc làm được kiểm nghiệm
liên tục từ trong gia đình mới kết quả, cho dù gia đình đó là gia đình hạt
nhân hay gia đình truyền thống nhiều thế hệ.
2.2.9. Xây dựng làng, bản, ấp, tổ dân phố văn hóa
Làng và văn hóa làng là nét đặc thù riêng có của Việt Nam. Từ thực
tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nảy sinh phong trào xây dựng làng
văn hóa từ những năm 1990, đến năm 1992 được Bộ Văn hóa - Thông tin
phát động, nhân rộng ra toàn quốc. Tiêu chuẩn danh hiệu Làng văn hóa
hiện nay được Thực hiện theo quy định tại Điều 29 Luật Thi đua, khen
thưởng với những nội dung cụ thể (áp dụng theo Điều 4 Thông tư số

27
12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 quy định chi tiết về tiêu chuẩn,
trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận Danh hiệu “Gia đình văn hóa”, Thôn văn
hóa, Làng văn hóa, Ấp văn hóa, Bản văn hóa, Tổ dân phố văn hóa và tương
đương), gồm các tiêu chuẩn như sau:
“Tiêu chuẩn chung gồm 5 điểm sau:
1. Đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển
2. Đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú
3. Môi trường cảnh quan sạch đẹp
4. Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
5. Có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng. Thực
hiện tốt pháp luật, chủ trương của Đảng, các chính sách xã hội của Nhà nước,
Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xây
dựng và thực hiện Hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư”.
Xây dựng Tổ dân phố văn hóa có tiêu chuẩn phù hợp với điều kiện
đô thị song co bản theo tinh thần nội dung trên.
2.2.10. Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
Đây là cuộc vận động do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam phát động từ năm 1995 với 6 nội dung định hướng:
- Đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, làm giàu hợp pháp và
xóa đói giảm nghèo.
- Đoàn kết phát huy truyền thống tương thân tương ái, hoạt động
nhân đạo và đền ơn đáp nghĩa.
- Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương mọi nguồn sống và
làm việc theo pháp luật và quy ước cộng đồng.
- Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và thuần phong mỹ tục trong nhân dân.
- Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, thực hiện
tốt chương trình chăm lo sức khỏe ban đầu cho mọi người.

28
- Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó
với nhân dân.
2.2.11. Xây dựng công sở, doanh nghiệp, đơn vị, lực lượng vũ trang
có nếp sống văn hóa
Tất cả các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, công an,
trường học, bệnh viện… (gọi chung là công sở), các doanh nghiệp (nơi làm
việc, nơi sản xuất, dịch vụ) đều tham gia phong trào với tên gọi cụ thể phù
hợp với từng ngành từng lĩnh vực. Tiêu chuẩn đơn vị có nếp sống văn hóa
gốm các điểm sau:
- Công sở xanh, sạch, đẹp, an toàn.
- Sinh hoạt chính trị nền nếp.
- Có ý thức lao động, kỷ luật, sáng tạo, hợp tác giúp đỡ nhau làm
việc với năng suất cao, có hiệu quả rõ rệt. Có chế độ học tập nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Quan hệ chặt chẽ với cơ sở, với nhân dân khắc phục thủ tục phiền
hà, thực hiện cải cách hành chính có hiệu quả, có nếp sống văn minh, lịch
sự trong sinh hoạt và giao tiếp.
- Thực hiện dân chủ ở cơ sở; đoàn kết nội bộ, nghiêm túc tự phê
bình và phê bình; đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng lãng phí của
công và các hiện tượng tiêu cực khác.
- Giữ gìn bí mật quốc gia.
- Thường xuyên có các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao góp phần nâng cao đời sống văn hóa và rèn luyện thể chất cho người
lao động.
2.2.12. Quản lý và tổ chức lễ hội
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Hiện cả
nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%),
332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ
hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội văn hóa, thể

29
thao và du lịch và lễ hội khác (chiếm 0,5%). Tỉnh có nhiều lễ hội nhất:
Thành phố Hà Nội (1.095 lễ hội), tỉnh ít lễ hội nhất: Lai Châu (17 lễ hội).
Như vậy lễ hội diễn ra ở hầu hết các làng xã Việt Nam, đặc biệt là loại hình
lễ hội dân gian.
Trong xu thế hiện nay, lễ hội được khôi phục và tổ chức.
Cơ sở cần quản lý các hoạt động lễ hội hoạt động theo quy định của
nhà nước.
Trong công tác tổ chức lễ hội, phải đặc biệt chú trọng bảo tồn giá trị
văn hóa truyền thống của lễ hội, tránh tình trạng thương mại hóa lễ hội (tổ
chức lễ hội vì mục đích kinh tế, xem nhẹ các giá trị văn hóa) đặc biệt chú
trọng bảo tồn nội dung cả phần lễ và phần hội.
3. Vai trò, ý nghĩa của tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
3. 1. Ý nghĩa của tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
(năm 1982). Đây là một chủ trương rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối
với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới và con người mới
phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của lịch sử và bối cảnh, điều kiện của đất nước
trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về chủ trương này, Văn kiện
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V (năm 1982) đã nêu rất cụ thể:
Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập
vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi
đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học,
bệnh viện, cửa hàng, phường, ấp hợp tác xã, đều có đời sống văn hóa.
Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
nay là (Chính phủ) đã ra quyết định số 159/HĐBT ngày 19/12/1983 nêu rõ:
Từ nay đến 1985 phải đảm bảo cho phần lớn đơn vị cơ sở đều có hoạt động
văn hóa; nhân dân lao động được đọc báo, nghe đài, xem phim, xem nghệ

30
thuật. Đặc biệt chú ý các vùng cao và biên giới. Theo phương châm nhà
nước và nhân dân cùng làm, cần củng cố và xây dựng các cơ sở văn hóa ở
cấp tỉnh và huyện: nhà văn hóa, thư viện, rạp chiếu bóng, bảo tàng, triển
lãm…ở phường, xã hay cụm kinh tế - kỹ thuật, từng bước xây dựng cơ sở
văn hóa tuỳ theo thực tế cơ sở.
Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng:
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng cần có kế hoạch thật tốt
để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân”. Thực hiện di chúc của Bác Hồ, Đảng và Nhà nước luôn coi
trọng vai trò của văn hóa, văn nghệ, thường xuyên chăm lo đời sống văn
hóa, đáp ứng các nhu cầu văn hóa của nhân dân lao động, đồng thời thu hút
đông đảo quần chúng tham gia vào quá trình sáng tạo và hưởng thụ những
giá trị văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được coi như bước đi
ban đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ
này chính là xây dựng kết cấu hạ tầng để tiến hành hoạt động giáo dục văn
hóa đối với nhân dân, đồng thời tổ chức hoạt động giao lưu giữa các thành
phần, các tầng lớp nhân dân nhằm mục đích để hình thành nhân cách công
dân, giúp họ có ý thức đầy đủ về nghĩa vụ và quyền hạn của người công
dân, tôn trọng Hiến pháp và Pháp luật, sống theo đạo lý nhân văn: “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”. Hơn nữa, cũng giúp họ có ý thức lao động
tự nguyện, tự giác, có phẩm chất đạo đức trong sáng và tình cảm lành mạnh
trong mọi mối quan hệ ứng xử từ trong gia đình và ngoài xã hội. Bên cạnh
đó xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở còn là điều kiện cần thiết để tổ chức
các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh đáp ứng mọi nhu cầu về hoạt
động văn hóa của nhân dân.
Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ

31
thuật, tạo dựng lên một lối sống văn minh, lịch sự, những phong tục tập
quán tốt đẹp, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững của đất nước, đồng thời phù hợp với xu hướng tiến bộ của văn
hóa nhân loại trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển.
Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trên một góc độ nào đó
còn là một cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng văn hóa. Đó là
cuộc đấu tranh để một mặt nhằm khẳng định các giá trị nhân văn, tiến bộ
của văn hóa, giáo dục đạo đức, lối sống, nếp sống và phong cách ứng xử có
văn hóa cho mọi người. Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với việc mở rộng
giao lưu với các nền văn hóa tiên tiến, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Mặt khác xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở cũng là nhằm chống lại những hiện tượng phản văn
hóa, đi ngược lại với truyền thống văn hóa dân tộc. Kế thừa, phát huy truyền
thống nhân ái, nghĩa tình, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, đồng thời
kiên quyết bài trừ các tập tục, hủ tục vốn đã lạc hậu không còn phù hợp với
sự phát triển của xã hội hiện tại. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần
cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch, gây “diễn biến” dẫn đến
tự “chuyển hóa, suy thoái trong đạo đức và lối sống, nếp sống”.
Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng một mạng
lưới thiết chế văn hóa bao gồm: Trung tâm văn hóa, Câu lạc bộ, Thư viện,
Bảo tàng, Phòng Truyền thống, sân Thể thao… nhằm tạo nên một cảnh
quan văn hóa mang dấu ấn kiến trúc của thời đại vừa dân tộc, vừa hiện đại
nhằm tổ chức có hiệu quả các nội dung hoạt động văn hóa cơ sở.
3. 2. Vai trò xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Văn hóa là yếu tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
của mỗi quốc gia. Nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa, Đảng ta
từ ngày thành lập đến nay, đã không ngừng tư duy, tìm tòi, sáng tạo và
ngày càng hoàn thiện lý luận về văn hóa. Đến nay Đảng ta khẳng định

32
“Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [2]. Trong cương lĩnh bổ sung, phát triển
năm 2011, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Văn hóa trở thành sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển. Như vậy, có thể nói văn hóa biểu hiện sức
sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc dân tộc.
Trong 4 giải pháp lớn nhằm đưa nghị quyết Trung ương 5 (Khóa
VIII) về văn hóa vào cuộc sống thì cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” là giải pháp được xếp ở vị trí hàng đầu có ý nghĩa
quyết định. Phong trào được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành,
đoàn thể từ Trung ương đến các địa phương, cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện. Đặc biệt, được cán bộ và các tầng lớp
nhân dân trong cả nước tham gia hưởng ứng đông đảo, nên đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Phong trào đã làm thay đổi diện mạo và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở cơ sở, góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội của các địa
phương và cả nước trong giai đoạn 2000 đến nay.
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các lĩnh vực đời sống xã
hội đã có nhiều chuyển biến sâu sắc. Đời sống kinh tế của nhân dân được
nâng cao một bước đáng kể. Đời sống văn hóa tinh thần cũng có điều kiện mở
rộng và được đáp ứng ngày một tốt hơn. Đặc biệt sự xuất hiện các phương
tiện thông tin hiện đại, thì văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú làm cho
người dân được tiếp xúc với nhiều loại hình, nhiều sản phẩm văn hóa.
Như vậy, có thể khẳng định xây dựng đời sống văn hóa đã tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các địa phương ở
nước ta. Vai trò đó được thể hiện cụ thể:
3.2.1. Giáo dục và hoàn thiện nhân cách con người
Nhân cách con người là nhân cách của chủ thể hoạt động trong đời
sống văn hóa con người. Nhân cách không có sẵn (không được đề ra), mà
được hình thành trong quá trình gắn với các hoạt động sống và môi trường
nhất định.

33
Tiếp cận từ góc độ tâm lý học, sự phát triển nhân cách được thể hiện
ở ba mặt: sự phát triển về thể chất, biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao,
cân nặng, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp vận động; sự phát triển
về mặt tâm lý (biểu hiện ở sự biến đổi cơ bản trong các quá trình nhận thức,
xúc cảm, ý chí, sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới); sự phát triển về
mặt xã hội (biểu hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ xã
hội, tích cực, tự giác tham gia các hoạt động xã hội). Tâm lý học hành động
quan niệm nhân cách là sự thống nhất giữa đức và tài, hay còn gọi là phẩm
chất và năng lực.
Phát triển nhân cách con người theo quan điểm này chính là phát
triển toàn diện con người cả đức và tài. Về đức (phẩm chất): con người cần
có thế giới quan khoa học, biện chứng theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; có lý tưởng cao đẹp xây dựng đất nước “vì dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; con người cần phải có
phẩm chất trung thực, dám nghĩ, dám làm; phải là người tự tin nhưng
khiêm tốn, ham học hỏi; là những người có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tự
giác chấp hành luật pháp; con người phải thể hiện tác phong thanh lịch,
nhẹn trong ứng xử…Về tài, con người cần phải rèn luyện cho mình khả
năng thích ứng, hòa nhập với mọi hoàn cảnh; có năng lực sáng tạo trong
công việc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công việc; có khả năng giao tiếp tạo
lập các mối quan hệ xã hội; có ngoại ngữ để mở rộng khả năng giao tiếp,
học hỏi, hội nhập…
Sự phát triển nhân cách con người được thể hiện ở cả ba phương diện:
- Sự phát triển hoàn thiện về thể chất của con người, liên quan đến
môi trường văn hóa rèn luyện thể chất;
- Sự phát triển hoàn thiện về tâm lý, tinh thần liên quan đến môi
trường văn hóa tinh thần lành mạnh.
- Sự phát triển về phương diện xã hội, thể hiện ở ứng xử xã hội và
vai trò mới xã hội của con người.

34
Để phát triển hoàn thiện nhân cách con người, điều này phụ thuộc
vào xây dựng và phát triển đời sống văn hóa cơ sở.
3.2.2. Đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ các giá trị văn hóa
Trong đời sống của con người, ngoài những nhu cầu về ăn, mặc, ở,
những nhu cầu về vật chất, ai cũng có những nhu cầu về tinh thần, những
nhu cầu về văn hóa. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống
kinh tế - xã hội đã được cải thiện và nâng cao, nhu cầu văn hóa tinh thần
của nhân dân càng được mở rộng với những đòi hỏi ở mức cao hơn. Những
nhu cầu đó chỉ có thể được đáp ứng khi có một hệ thống thiết chế văn hóa
hoàn thiện với những sản phẩm văn hóa đa dạng, phong phú, các hình thức
tổ chức hoạt động văn hóa lành mạnh, hấp dẫn, có hiệu quả. Việc xây dựng
và phát triển đời sống văn hóa của nhân dân cũng hướng vào những nội
dung này và nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu văn hóa tinh thần
chính đáng của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Hiện nay, đời sống văn hóa tinh thần của xã hội đã có sự đa dạng,
phong phú hơn trước. Vấn đề khó khăn đặt ra là làm sao luôn có được
những hình thức hoạt động văn hóa mới, lành mạnh, lôi cuốn được đông
đảo người dân tham gia. Một số hình thức hoạt động văn hóa mới như: thi
vẻ đẹp, thi ứng xử, các trò chơi trí tuệ,… thu hút nhiều người tham gia, đặc
biệt là giới trẻ. Có lẽ về cơ bản các hình thức này đã đáp ứng được nhu cầu
văn hóa của con người, thể hiện sự khát khao hướng tới cái đẹp và sáng tạo.
Nước ta có một hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương
là điều kiện thuận lợi để xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân. Song hệ
thống thiết chế này có phát huy được tác dụng hay không còn phụ thuộc
vào nội dung và các hình thức hoạt động có lôi cuốn, hấp dẫn công chúng
không. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của lãnh đạo,
của ngành Văn hóa thì địa phương đó các thiết chế văn hóa hoạt động hiệu
quả. Bên cạnh đó, hoạt động của các thiết chế văn hóa phụ thuộc vào năng
lực tổ chức và sáng tạo của mỗi đơn vị hoạt động văn hóa cơ sở trong quá

35
trình đáp ứng nhu cầu văn hóa của quần chúng. Những nhu cầu đó cần
được khai thác triệt để, nhưng đồng thời cũng cần định hướng, điều chỉnh.
Điều đó đòi hỏi tài năng và tư duy đổi mới của các nhà tổ chức, quản lý
hoạt động văn hóa.
Trong quá trình tiếp cận với các giá trị văn hóa, ngoài việc thỏa mãn
nhu cầu giải trí, thưởng thức nghệ thuật, con người còn có nhu cầu được
học tập, tự giáo dục, tìm cho mình những chuẩn mực giá trị, từ đó định
hướng cho mình về lối sống, cách sống và cách cảm thụ. Song trên thực tế
vẫn còn diễn ra sự lộn xộn về chuẩn mực giá trị. Thông tin của một số báo,
tạp chí và trên mạng internet còn hiện tượng nhiễu loạn thông tin về giá trị
thẩm mỹ khiến cho con người nhiều khi lúng túng khó tìm được căn cứ để
đối chiếu, đánh giá. Do vậy, bên cạnh việc đòi hỏi nâng cao tính định
hướng, tính giáo dục về văn hóa trên các phương tiện truyền thông, cần tạo
điều kiện cho con người được tích cực tham gia vào các hoạt động sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa.
Việc nghiên cứu tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu văn hóa của các tầng
lớp nhân dân là vô cùng cần thiết, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần lành mạnh, phong phú.
3.2.3. Góp phần phát triển văn hóa dân tộc
Đời sống văn hóa con người chính là cầu nối giao lưu, là bộ phận
tiên phong của đời sống văn hóa dân tộc trong quá trình “tự làm mới
bản thân” của đời sống văn hóa đó. Thực tế những năm gần đây cho
thấy rằng, đời sống văn hóa của đất nước đã có những biến đổi rõ nét
theo hướng tươi mới, phong phú, đa dạng hơn. Điều đó thể hiện qua sự
phong phú, đa dạng của các hình thức hoạt động văn hóa, các dịch vụ
và sản phẩm văn hóa.
Xây dựng đời sống văn hóa - sức mạnh nội sinh quan trọng của sự
phát triển. Văn hóa được coi là một “nguồn lực mềm” làm động lực và đòn
bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển và làm “hài hòa hóa” các mối quan hệ xã hội

36
và “lành mạnh hóa” môi trường xã hội. Thực tế đã chứng minh, một quốc
gia muốn phát triển bền vững, ngoài dựa vào các “yếu tố cứng” như tài
nguyên thiên nhiên, tiền vốn, cơ sở vật chất… thì cần phải biết tận dụng,
khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn nhân lực con người với vai trò là
nhân cách văn hóa năng động, sáng tạo nhất, đóng góp quyết định nhất đến
sự hùng mạnh, phồn vinh của xã hội.
Trong những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng đời sống
văn hóa thực chất là tiếp tục coi trọng và đề cao “sức mạnh mềm” của
đất nước. Đó là sức mạnh bắt nguồn từ bên trong, được kết tinh từ trí
tuệ, ý chí, tâm hồn, cốt cách, truyền thống lịch sử vẻ vang, tinh thần
anh dũng, quật cường, mưu trí, sáng tạo của dân tộc Việt Nam từ hàng
ngàn đời nay. Đánh thức những “tiềm năng” còn tiềm ẩn trong mỗi con
người và kết nối những tiềm năng ấy thành sức mạnh vật chất trong
cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu; trong xây dựng xã hội văn minh;
đồng thời thể hiện sức mạnh nội sinh của văn hóa thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội. Vậy, cần phải làm như thế nào để văn hóa thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển theo tinh thần
Nghị quyết của Đảng?
Mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, các cấp, cách
ngành, hiểu biết đầy đủ và thấm nhuần sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của văn hóa trong quá trình phát triển đất nước. Quan tâm
coi trọng, phát huy đúng mức các giá trị, truyền thống, bản sắc văn hóa
tốt đẹp của dân tộc. Biết tiếp thu, tiếp biến các giá trị văn hóa nhân văn
tiến bộ của nhân loại, làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình…Thì
văn hóa sẽ là đòn bẩy chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
tiến bộ và công bằng xã hội.
Qua việc tiếp tục duy trì, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu
quả thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” và “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” sẽ

37
tạo điều kiện cho mọi người dân được sống trong môi trường văn hóa
lành mạnh, được thưởng thức đời sống văn hóa tinh thần phong phú,
sinh động và luôn hướng đến một nhân cách văn hóa tiêu biểu, mẫu
mực để từng bước xây dựng, hoàn thiện phẩm chất văn hóa của chính
mình. Đó cũng chính là môi trường rèn luyện tốt nhất để con người có
đủ Đức - Tài (nguồn nhân lực quan trọng nhất) để xây dựng đất nước
trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa không chỉ là sức mạnh
nội sinh của một dân tộc, mà còn là phương tiện, công cụ quảng bá hình
ảnh dân tộc, vị thế đất nước ra thế giới rất hữu hiệu nhất. Qua đó tạo niềm
tin, cơ hội để chúng ta mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, chính trị, xã hội
và kinh tế. Thu hút các nhà đầu tư lớn; giúp chúng ta tiếp cận khoa học
công nghệ hiện đại và giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động…Văn hóa trực tiếp tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Đời sống văn hóa càng được nâng cao thì việc bảo vệ, bảo tồn các giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc càng vững chắc; góp phần thúc
đẩy sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Câu hỏi thảo luận
1. Anh, chị hãy nêu khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa cơ sở?
2. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có bao nhiêu nội dung? Nội
dung nào là trọng tâm? Vì sao?
3. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có vai trò như thế nào đối với
sự nghiệp phát triển văn hóa của nước ta trong giai đoạn hiện nay?

38
Chuyên đề 2
XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thời lượng: 5 tiết (- )

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU


1. Mục đích: Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về xây
dựng và quản lý đời sống văn hóa cơ sở hiện nay ở nước ta
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về về xây dựng và
quản lý đời sống văn hóa cơ sở trong thời kỳ đổi mới, đồng thời ứng dụng có
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những chủ trương
lớn của Đảng, Nhà nước nhằm không ngừng nâng cao đời sống vất chất
và tinh thần cho nhân dân; tạo sự chuyển biến lớn trong nhận thức, hành
động của người dân, mang lại diện mạo, không gian sống giàu giá trị văn
hóa, văn minh tiến bộ trong các khu dân cư, trường học, nhà máy, xí
nghiệp từ thành thị cho tới những vùng sâu, vùng xa trên khắp mọi miền
của Tổ quốc.
Đánh giá về những thành tựu và cả những hạn chế trong công cuộc
xây dựng đời sống văn hóa trên nhiều phương diện; từ chủ thể quản lý và
định hướng (Đảng, Nhà nước) đến chủ thể thực hiện và hưởng thụ (nhân
dân) cùng những sản phẩm văn hóa vật chất, tinh thần do con người tạo ra
(thiết chế văn hóa, cảnh quan môi trường sống, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, công trình công cộng…), có thể
nhận thấy những tín hiệu tích cực từ đời sống vật chất của người dân

(*)
- Lý thuyết: 2 tiết; Thảo luận : 3 tiết.

39
không ngừng được nâng cao, hướng tới cuộc sống sung túc, đủ đầy, no ấm
với những sinh hoạt tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên
bên cạnh đó, quá trình xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cũng đang chịu
những tác động tiêu cực từ bối cảnh khách quan và những nhân tố chủ
quan từ bối cảnh chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế kinh tế thị trường, hạch toán lạnh lùng do đồng tiền chi phối;
những cản trở từ thói quen, tập quán cũ, lạc hậu, bảo thủ; cách làm văn
hóa máy móc, rập khuôn, thiếu sự sáng tạo, chạy theo thành tích, hư danh;
sự xâm lăng của sản phẩm kém giá trị, đồi bại; những luồng tư tưởng
xấu… đã tác động tiêu cực đến nhận thức, tâm lí và lối sống của một bộ
phận thanh thiếu niên, gây ra những cuộc xung đột thế hệ, những đứt gãy,
rạn nứt về hệ giá trị văn hóa…
Những vấn đề trên đòi hỏi việc nhận diện, đánh giá quá trình xây
dựng, quản lý đời sống văn hóa cơ sở trong những năm qua là việc làm
cần thiết để thấy được những thành công và cả những hạn chế để phát huy
những thành tựu, hạn chế những yếu kém, khuyết điểm; từ đó đề xuất
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để việc xây dựng đời sống văn hóa đi
vào thực chất, tạo động lực thúc đẩy phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của nước ta.
Việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở gắn liền với các phong trào,
các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước. Đặc biệt là Phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Vì thế, đánh giá về quá trình xây
dựng, quản lý đời sống văn hóa, chúng tôi chủ yếu dựa vào báo cáo tổng
kết của các địa phương và kinh nghiệm thực tiễn quản lý với cái nhìn bao
quát, khách quan.
Ý thức được vai trò, vị trí quan trọng của công tác xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở, Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những kế sách, chiến lược cụ thể nhằm phát huy mạnh mẽ tinh thần, ý thức

40
trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong việc xây dựng
đời sống văn hóa, tạo ra không gian, môi trường sống và làm việc văn minh,
khoa học.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền non trẻ đứng trước
muôn vàn khó khăn. Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng lúc đó
là phải cải thiện đời sống của nhân dân, cần phải thay đổi, xóa bỏ những lề
lối, nếp sống cổ hủ, lạc hậu. Đảng ta chủ trương phát động phong trào “Xây
dựng đời sống mới”. Ngày 03/4/1946, Ủy ban vận động đời sống mới
Trung ương được thành lập. Một năm sau, Bác về thăm và nói chuyện với
cán bộ, nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Bác bắt tay viết tác phẩm Đời sống mới
với bút danh Tân Sinh. Ngày 20/3/1947, Người đã công bố tác phẩm này
để chỉ đạo và động viên phong trào toàn dân xây dựng đời sống mới.
Trong lời tựa tác phẩm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ý
nghĩa của tác phẩm là giúp nhân dân ta thực hành đời sống mới để cứu
quốc và kiến quốc: “Trong lúc kháng chiến cứu quốc chúng ta phải đồng
thời kiến quốc. Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc
cứu quốc và kiến quốc”. Theo Người, thực hành đời sống mới là cần, kiệm,
liêm, chính. Người giải thích: “Chính trong lúc này càng phải thực hành
đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Quân đội phải siêng tập, siêng
đánh (giặc). Nhân dân tăng gia sản xuất, phải siêng làm, thì kháng chiến
chắc chắn thắng lợi, thế cho nên phải Cần. Binh sĩ phải tiết kiệm đạn dược,
mỗi viên đạn một tên thù. Cho nên phải Kiệm. Mọi người đều trong sạch,
không tham lam, không đem của công dùng vào việc tư, thì mọi việc mới
chạy. Cho nên ai cũng phải Liêm. Mỗi người quốc dân đều phải vì nước
quên nhà, hăng hái ủng hộ kháng chiến, ra sức tăng gia sản xuất, trừ diệt
bọn bán nước hại dân quyết làm cho Tổ quốc thống nhất độc lập. Thế là
Chính”. Cần, kiệm, liêm, chính như cách trình bày của Người trong tác
phẩm không phải xa lạ, không khó khăn. Nếu mỗi người đều cố gắng sẽ
thực hiện được một cách hiệu quả.

41
Nói về đạo đức mới, Người giải thích rằng không phải là gạt bỏ mọi
cái cũ mà phải phát huy những tinh hoa về truyền thống yêu nước, cần cù
lao động, đoàn kết chống giặc ngoại xâm, tương thân, tương ái, lá lành đùm
lá rách…“Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì
cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính
lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải
sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm
bớt đi. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân
tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà
hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp.
Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần
được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới”. Đời sống mới bao
gồm đời sống mới riêng cho từng người và đời sống mới chung cho cộng
đồng, tập thể như các gia đình, làng xã, nhà máy, trường học, công sở…
Thực hành đời sống mới là công việc của mọi người dân, bắt đầu từ cội
nguồn là mỗi người, gia đình, làng xã. Người viết: “Do nhiều người nhóm lại
mà thành làng, do nhiều làng nhóm lại mà thành Nước. Nếu người này cũng
xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn; nếu mỗi người cá
nhân tốt, thì làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng, nước, nếu mỗi
người cố gắng làm đúng đời sống mới thì Dân tộc nhất định phú cường”.
Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII (19980 về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đưa ra những
nhiệm vụ, giải pháp lớn mang tính đột phá để xây dựng, phát triển nền văn
hóa Việt Nam, trong đó Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh đến những giải pháp
về xây dựng đời sống văn hóa, môi trường văn hóa cơ sở với những nhiệm
vụ trọng tâm, cụ thể như:
Về xây dựng môi trường văn hóa. Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia
đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường,
lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội…), các vùng dân cư (đô thị, nông

42
thôn, miền núi…) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn
hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân. Gìn giữ
và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây
dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đẩy
mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự
quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và
nông thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa,
vùng núi, biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân. Phát triển và
không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ
sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia.
Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp,
phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Về củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa. Củng cố, hoàn
thiện thể chế văn hóa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực
lượng những người hoạt động văn hóa, tạo nhiều sản phẩm và sinh hoạt
văn hóa phong phú, đa dạng, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao
chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa hiện có, sắp xếp hợp lý các
cơ quan hành chính, các đơn vị sự nghiệp và kinh doanh, nâng cấp các đơn
vị văn hóa - nghệ thuật trọng điểm, tạo chất lượng mới cho toàn ngành.
Thực hiện khẩu hiệu "Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa", hình
thành các hình thức sáng tạo và tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể,
cá nhân trong khuôn khổ luật pháp và chính sách. Khuyến khích các hình
thức bảo trợ văn hóa. Xây dựng các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Hoàn chỉnh
các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của
cơ chế thị trường; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa
và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.

43
Đặc biệt Nghị quyết đã gợi mở, phát động cuộc vận động giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, gắn thi đua yêu nước và phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”. Trong đó nhấn mạnh: Bằng nhiều hình
thức phong phú, tuyên truyền giáo dục làm chuyển biến nhận thức trong
toàn xã hội, trước hết trong các cấp ủy đảng, đảng viên, cán bộ quản lý nhà
nước, cán bộ các đoàn thể quần chúng về tầm quan trọng, sự cần thiết cấp
bách của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, về trách nhiệm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ văn hóa trong thời kỳ mới. Giáo dục chủ nghĩa yêu
nước phải gắn chặt với phong trào thi đua yêu nước và giáo dục về chủ
nghĩa xã hội, về nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước
thóat nghèo nàn lạc hậu; làm cho mọi người thấm nhuần truyền thống lịch
sử và cách mạng của dân tộc, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Các hoạt động tuyên truyền giáo
dục phải gắn với quản lý xã hội bằng pháp luật, phát huy sức mạnh dư luận
xã hội, gắn với các phong trào hành động của quần chúng. Phát động phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", huy động mọi lực
lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong đảng, cơ
quan Nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào.
Phong trào đó bao gồm các phong trào hiện có như: Người tốt việc tốt,
Uống nước nhớ nguồn, Đền ơn đáp nghĩa, Xóa đói giảm nghèo, Xây dựng
gia đình văn hóa, làng, xã, phường văn hóa, Toàn dân đoàn kết xây dựng
cuộc sống mới ở các khu dân cư… và toàn bộ các phong trào ấy đều hướng
vào cuộc thi đua yêu nước "Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh". Thông qua các cuộc vận động nói trên, thiết thực
chuẩn bị tiến tới đại hội thi đua toàn quốc vào năm 2000.
Tại Hội nghị Trung ương chín khóa XI (2014), BCH Trung ương đã
ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TƯ về về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nhấn
mạnh vào phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, Nghị quyết khẳng

44
định: Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa,
đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày
càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng
có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được
những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia
đình, dòng họ, cộng đồng… Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh
vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh
vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng
con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Vì vậy, một trong những giải
pháp quan trọng trong xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong giai
đoạn này là phải quan tâm, chú trọng đến xây dựng môi trường văn hóa, đời
sống văn hóa cơ sở: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng
đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình.
Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi
trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt
Nam hoàn thiện nhân cách.
Như vậy, song hành với các nghị quyết chuyên đề của Đảng là các
phong trào xây dựng đời sống văn hóa, Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư đã được tổ chức, triển khai thực hiện trên khắp
vùng miền, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị với quy mô rộng khắp cả nước.
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã thu hút
sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, mọi vùng miền trong cả nước. Trong
những năm vừa qua, Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần nâng cao đời sống tinh
thần cho người dân. Tuy nhiên, Phong trào còn gặp không ít khó khăn và
nhiều điểm yếu kém. Việc đánh giá thực trạng Phong trào trong những năm

45
qua sẽ góp phần hình thành nên các giải pháp để thúc đẩy chất lượng hoạt
động của Phong trào trong những năm sắp tới.
Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc xây dựng vào bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến
đời sống văn hóa của người dân. Đây được xác định là một trong những
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Ngay từ khi chưa giành được
chính quyền, trong Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã đề
ra chủ trương lớn về xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc - khoa học -
đại chúng. Chủ trương lớn ấy tiếp tục được duy trì qua thời gian.
Đến năm 1998, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã
đề ra 5 quan điểm, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 nhóm giải pháp, trong đó
nhóm giải pháp số 1 có ý nghĩa then chốt là “Mở cuộc vận động giáo dục
chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và Phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Kết luận Hội nghị trung ương 10
(khóa IX) về Xây dựng và phát triển nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc đặt ra nhiệm vụ trọng tâm ”tiếp tục đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành
mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn
xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở… Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở,
nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt
đẹp, phong phú…”.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), ngày 23 - 12 - 1999
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 235/1999/QĐ-TTg về việc
thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa với 22 Bộ, ngành thành viên (Bộ Văn hóa - Thông
tin, Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc, Ban dân vận, Viện thi đua khen
thưởng (Nay là Ban Thi đua khen thưởng Trung ương), Hội nông dân, Hội

46
Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Uỷ ban toàn quốc về Văn học
nghệ thuật, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn, Bộ Quốc phòng, Bộ
Giáo dục và đào tạo, Bộ công an, Bộ Lao động thương binh và Xã hội, Uỷ
ban dân tộc, Uỷ ban thể dục thể thao, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng
nói Việt Nam).
Ngày 21/4/2000, tại tỉnh Quảng Nam - Ban chỉ đạo Trung ương
phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã ra mắt. Phó
Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã trực tiếp chỉ đạo và thay mặt Chính phủ
chính thức phát động phong "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa" trong toàn quốc. Phong trào này kế thừa những thành tựu, kinh
nghiệm, kết quả đạt được từ các phong trào “Đời sống mới” (Năm 1961),
xây dựng “gia đình văn hóa”, “làng văn hóa” (năm 1991) và phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư ” (năm 1995) -
phong trào là sợi dây đan kết các phong trào hiện có về xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở. Mục tiêu chung của phong trào là: Đoàn kết xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống tốt đẹp; Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
phong phú, lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Phong trào gồm 5 nội dung cơ bản đó là: Phát triển kinh tế, giúp
nhau làm giàu chính đáng, xoá đói giảm nghèo; Xây dựng tư tưởng chính
trị lành mạnh; Xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và
làm việc theo pháp luật; Xây dựng môi trường văn hóa sạch - đẹp - an
toàn; Xây dựng các thiết chế văn hóa - thể thao và nâng cao chất lượng
các hoạt động văn hóa thể thao cơ sở. Các phong trào cụ thể gồm 7
phong trào: Phong trào xây dựng người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến;
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa; Phong trào Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Phong trào Xây dựng làng,
bản, ấp, khu phố văn hóa; Phong trào Xây dựng công sở, doanh nghiệp,
đơn vị lực lượng vũ trang… có nếp sống văn hóa; Phong trào Toàn dân

47
rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại; Đẩy mạnh phong trào học
tập, lao động sáng tạo.
Trong những năm qua, Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” các cấp đã kịp thời xây dựng kế hoạch triển
khai phong trào với những nội dung thiết thực, mang tính khả thi được triển
khai đến các địa bàn trong toàn quốc. Công tác phối hợp hoạt động giữa
các thành viên Ban chỉ đạo tiến hành chặt chẽ, từng bước đã đem lại hiệu
quả thiết thực, khơi dậy ý thức đoàn kết và tinh thần tự quản trong từng khu
dân cư, phương pháp tiến hành đẩy mạnh nâng cao chất lượng phong trào đã
kết hợp giữa công tác tuyên truyền, thuyết phục làm cho nhân dân thấy lợi ích
của mình gắn với lợi ích chung của cộng đồng. Nhờ vậy, phong trào đã có tác
động tốt đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và tình hình chấp hành pháp
luật của người dân ngày càng tiến bộ.
Hệ thống các văn bản chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương đã tạo
ra sự thống nhất, đồng bộ trong chỉ đạo ở các cấp và thành viên Ban chỉ
đạo. Phong trào đã có tác dụng thiết thực đến nhiều mặt đời sống xã hội,
đáp ứng được nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân như: xây dựng gia
đình văn hóa; xây dựng khu dân cư văn hóa, khu dân cư tiên tiến; xây dựng
cơ quan đơn vị doanh nghiệp văn hóa; thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội; toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ
vĩ đại; phong trào lao động sáng tạo, tích cực tham gia các hoạt động văn
hóa và xây dựng điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt… Nâng cao hiệu
quả các phong trào cụ thể như xây dựng “Gia đình văn hóa”, tiếp tục đẩy
mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa đi vào chiều sâu, chất lượng;
các tiêu chí công nhận gia đình văn hóa được các gia đình tự giác thực hiện
tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh từ trong mỗi gia đình là nền tảng
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Phong trào nhanh chóng trở thành một
cuộc tổng động viên, lôi cuốn rộng rãi các lực lượng chính trị xã hội và các
tầng lớp nhân dân tham gia, huy động được các nguồn lực của toàn xã hội,

48
tập hợp, đoàn kết, khơi nguồn và phát huy sự chủ động, sáng tạo của các
lực lượng, các tầng lớp nhân dân; tạo nên sức mạnh tổng hợp tham gia xây
dựng đời sống văn hóa theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát
triển kinh tế, văn hóa, ổn định an ninh trật tự xã hội, tăng cường củng cố hệ
thống thiết chế văn hóa cơ sở, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân; bảo tồn và phát huy được các giá trị văn hóa truyền thống
đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa tiến bộ, góp phần làm
cho môi trường văn hóa xã hội ở cơ sở và địa bàn dân cư thêm lành
mạnh, tiến bộ văn minh. Thông qua phong trào, các cấp uỷ, chính quyền,
đoàn thể, các địa phương nhất là ở cơ sở nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa;Nội dung Phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã được cụ thể hóa vào
các phong trào xã hội rộng lớn mạnh mẽ như xây dựng gia đình văn hóa,
thôn, bản, tổ dân phố văn hóa, cơ quan đơn vị văn hóa; xây dựng nếp
sống văn minh, môi trường văn hóa lành mạnh. Sự tham gia tích cực, tự
giác của nhân dân vào các hoạt động văn hóa, đặc biệt phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã tạo được bước chuyển biến
và bước đầu tạo tiền đề rất quan trọng để văn hóa tiếp tục phát triển đúng
hướng và vững chắc. Xây dựng đời sống văn hóa đã trở thành nội dung
công tác quan trọng trong hoạt động của các cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, từng bước đưa văn hóa ngày
càng gắn bó chặt chẽ hơn và phát huy sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương.
Ở địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII), các cấp ủy Đảng, chính quyền ở các địa phương đã
quan tâm lãnh đạo triển khai thực hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa: Đưa mục tiêu, chỉ tiêu thực hiện Phong trào vào
nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kế hoạch nhà nước các cấp. Cụ thể hóa

49
ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện Phong trào trên địa bàn. Tham mưu
cho Ủy ban nhân dân các cấp quyết định việc đầu tư, hỗ trợ ngân sách Nhà
nước và khuyến khích các nguồn lực hỗ trợ kinh phí xây dựng đời sống văn
hóa. Ưu tiên dành kinh phí trong quỹ khen thưởng của tỉnh, huyện, xã để
động viên, khen thưởng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc thực
hiện Phong trào. Đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên của Ban chỉ
đạo trung ương, 100% Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, 70% Ban Chỉ đạo cấp huyện,
40% Ban Chỉ đạo cấp xã được đảm bảo kinh phí hoạt động theo tinh thần
Thông tư Liên tịch số 31/2006/TTLT/BTC-BVHTT. Ban chỉ đạo địa
phương được kiện toàn về tổ chức theo hướng gọn nhẹ; thực hiện chức
năng chỉ đạo, tổ chức Phong trào ở địa phương, cơ sở. Tổ chức tốt các hội
nghị sơ kết, tổng kết, triển khai Phong trào; phổ biến, quán triệt thực hiện
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và khen thưởng các cá nhân, tập thể xuất
sắc thực hiện Phong trào. Phát động đăng ký xây dựng, hướng dẫn bình xét
và kiểm tra, phúc tra công nhận, công nhận lại các danh hiệu văn hóa. Tập
trung chỉ đạo nâng cao chất lượng Phong trào, nhất là phong trào xây dựng
gia đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa. Tăng cường các hoạt
động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về mục đích, yêu cầu, nội
dung và tiêu chí của Phong trào. Tổ chức hàng vạn cuộc tuyên truyền cổ
động; biên soạn trên 500 tài liệu nghiệp vụ, mở trên một nghìn lớp tập huấn
nghiệp vụ cho trên 150 nghìn lượt cán bộ văn hóa cơ sở về Phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Thông qua tổ chức triển
khai hoạt động phong trào đã đẩy mạnh và phát huy hiệu quả của công tác
xã hội hóa văn hóa, nhận thức của các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm
xây dựng đời sống văn hóa đã chuyển biến tích cực. Nhân dân nhiều địa
phương đã tự nguyện đóng góp xây dựng các thiết chế văn hóa, mua sắm
các phương tiện phục vụ sinh hoạt văn hóa và tham gia các hoạt động sáng
tạo văn hóa. Song song với công tác trên, việc xây dựng nếp sống văn
minh, môi trường văn hóa lành mạnh đã gắn chặt với nhiệm vụ vận động,
hướng dẫn nhân dân thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc

50
tang, lễ hội theo tinh thần Chỉ thị 27-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII)
và Chỉ thị 14/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Xác định việc thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội là đợt sinh hoạt
chính trị rộng lớn thiết thực vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài,
thuộc trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân. Do đó các cấp ủy, chính quyền
đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn thể cán bộ Đảng viên, công chức, viên chức
nghiêm túc thực hiện, triển khai, tuyên truyền sâu rộng những nội dung của
Chỉ thị 27 đến các tầng lớp nhân dân, lồng ghép nội dung đó vào việc đẩy
mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Trọng tâm của công tác tuyên truyền là việc xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở lành mạnh, trật tự kỷ cương, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu rườm rà, mê
tín dị đoan, tốn kém gây lãng phí tiền bạc và thời gian, trong đó tập trung
vào việc: Xây dựng nếp sống văn hóa, khắc phục tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, lối sống và tệ nạn xã hội. Nâng cao tính văn hóa
trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị - xã hội và sinh hoạt của nhân dân",
làm thế nào để xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vừa giữ được bản sắc văn
hóa truyền thống, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa và các giá trị văn
minh của nhân loại.
2. Kết quản và những vấn đề đặt ra của phong trào
2.1. Kết quả đạt được
Thực tiễn những năm qua đã chứng minh: Phong trào "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ngày càng mở rộng và phát triển
nhanh chóng trên phạm vi cả nước, thực sự đi vào cuộc sống và trở thành
cuộc vận động về văn hóa của quần chúng rộng lớn chưa từng có. Thông
qua phong trào, văn hóa từng bước thấm sâu vào con người, từng gia đình,
từng cộng đồng dân cư, làng, thôn, ấp, bản…
1. Phong trào “Người tốt, việc tốt” góp phần tích cực vào hình
thành nhân cách con người trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở: Trên
cơ sở 5 đức tính của con người Việt Nam đề ra trong Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII), Ban chỉ đạo các cấp đã cụ thể hóa tiêu chuẩn bình bầu

51
“Người tốt, việc tốt” trong Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, có: Tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nếp sống lành
mạnh; có ý chí vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng; gương mẫu
tham gia thực hiện Phong trào; có đóng góp tích cực xây dựng cơ sở vật chất
hạ tầng văn hóa - xã hội ở khu dân cư; có tinh thần tương thân, tương ái giúp
đỡ mọi người. Khối cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, doanh nghiệp triển
khai Phong trào xây dựng “Người tốt, việc tốt” gắn với xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang, công an
nhân dân và công nhân lao động thi đua hoàn thành nhiệm vụ được giao,
nâng cao trình độ, ý thức tổ chức và kỷ luật, tác phong làm việc khoa học,
năng suất, chất lượng và hiệu quả. Các ngành, địa phương đã coi trọng công
tác biểu dương “Người tốt, việc tốt” góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ
xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, cổ vũ, tôn
vinh những tấm gương sáng, những điển hình tiên tiến tham gia thực hiện
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Kết quả đã có
trên 1.200.000 “Người tốt, việc tốt” được suy tôn ở các cấp. Trong đó, ở
cấp tỉnh trên 249.000 người, cấp huyện trên 239.000 người và cấp xã trên
712.000 người.
2. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa góp phần nâng cao vai trò,
vị trí của gia đình trong xây dựng đời sống văn hóa, đời sống kinh tế - xã
hội: Đến nay cả nước đã có 16.026.599/22.628.167 gia đình văn hóa được
công nhận, (đạt tỷ lệ 70,8%). Gần 1.120.000 gia đình văn hóa tiêu biểu
được khen thưởng ở các cấp (đạt tỷ lệ 15%). Trên 16.000 gia đình văn hóa
đã làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa, mở mang ngành, nghề, thu
hút và tạo việc làm cho hàng vạn lao động ở nông thôn.
3. Phong trào xây dựng làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa góp phần
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của người dân ở các cộng
đồng dân cư: Từ 17.651 làng (thôn, ấp, bản…) văn hóa; tổ dân phố (khu
phố, khu dân cư) văn hóa được công nhận năm 2000, đến năm 2010 cả
nước đã có 58.284/86.761 làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa được công

52
nhận (đạt tỷ lệ 67%). Trên 8.000 làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa tiêu biểu
được khen thưởng ở các cấp (đạt tỷ lệ 15%), có cơ sở vật chất hạ tầng kinh
tế, văn hóa - xã hội khang trang, sạch, đẹp. Trên 70% số làng văn hóa thực
hiện tốt quy chế dân chủ. Gần 80% số làng văn hóa đạt chuẩn về vệ sinh
môi trường.
4. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư” đã tạo chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng đời sống
văn hóa ở cộng đồng dân cư: Đến nay đã có 65.047 (61,4%) đạt danh hiệu
khu dân cư tiên tiến. Đến hết năm 2010, “Quỹ vì người nghèo” 04 cấp đã
vận động được 5.910,3 tỷ đồng. Cùng với việc tham gia ủng hộ “Quỹ vì
người nghèo”, Mặt trận Tổ quốc và Ban vận động “Ngày vì người nghèo”
các cấp còn vận động sự giúp đỡ bằng ngày công lao động, hiện vật và sự
đóng góp khác cho người nghèo với trị giá hàng ngàn tỷ đồng. Từ nguồn
Quỹ và sự hỗ trợ của Nhà nước, sự đóng góp, vươn lên của chính hộ nghèo,
cả nước đã xây dựng và sửa chữa 1.051.973 căn nhà cho hộ nghèo. Quỹ đền
ơn đáp nghĩa các cấp từ khi phát động đến nay (1997 - 2010) đã vận động
được gần 2.000 tỷ đồng, xây mới hơn 300 nghìn ngôi nhà, sửa chữa hơn
140 nghìn ngôi nhà, tặng gần 700 ngàn sổ tiết kiệm trị giá hơn 400 tỷ đồng
cho các đối tượng gia đình chính sách.
5. Nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa được đa dạng hóa trong các tổ
chức đoàn thể: Hội Nông dân các cấp tích cực hưởng ứng phong trào
xây dựng gia đình văn hóa: 6,6 triệu hộ gia đình trên tổng số hơn 7 triệu
hộ gia đình nông dân đăng ký đã được công nhận gia đình văn hóa. Các cấp
hội đã tổ chức trên 600 lớp tập huấn, trên 28 nghìn buổi tuyên truyền cho trên
83 nghìn lượt cán bộ, hội viên, nông dân về những nội dung có liên quan đến
xây dựng gia đình văn hóa và văn hóa gia đình. Phong trào nông dân thi đua
sản xuất, kinh doanh giỏi đã giúp 253 nghìn hộ thoát nghèo, tăng 1, 5 triệu hộ
khá giả. Hội viên Cựu Chiến binh tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội cụ
Hồ”, gương mẫu và tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội của gia đình
và địa phương; khai thác trên 1000 tỷ đồng từ các nguồn vốn, giúp 27 vạn hộ

53
gia đình hội viên chuyển đổi ngành nghề; thu hút trên 11.000 lao động; xóa
trên 9.000 nhà dột nát. Đã xây dựng 2. 600 doanh nghiệp, 860 hợp tác xã,
3500 tổ hợp, 27.000 trang trại, thu hút gần 100.000 lao động, đặc biệt là con
em các gia đình thương binh, liệt sỹ và cựu chiến binh. Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho 14.624.609
lượt thanh, thiếu nhi; xây dựng, củng cố duy trì hoạt động của 16.043 câu lạc
bộ pháp luật; xây dựng 10.095 mô hình “Công sở văn minh”, 559 mô hình
“Văn hóa doanh nghiệp”; tổ chức 95.859 hội thi, hội diễn, liên hoan văn nghệ;
xây dựng 2.519 điểm vui chơi cho trẻ em. Hội viên Phụ nữ các cấp hưởng ứng
mạnh mẽ phong trào phụ nữ giúp nhau xóa đói giảm nghèo và xây dựng gia
đình văn hóa, hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc; 9 triệu người đạt tiêu chuẩn
phong trào thi đua, chiếm tỷ lệ 71% tổng số hội viên. Các cấp hội đã tuyên
truyền phổ biến pháp luật cho 55 triệu hội viên, phổ cập giáo dục, xóa mù chữ
cho 43.000 hội viên… Trên 5 vạn lượt phụ nữ được giúp vốn phát triển kinh
tế, với tổng số 13 tỷ đồng; 50 vạn người được giới thiệu việc làm; giúp trên 1
triệu hộ phụ nữ nghèo, trong đó 148 nghìn hộ thoát nghèo. Các cấp hộ đã ủng
hộ xây dựng nhà tình nghĩa với số tiền trên 6 tỷ đồng, xây dựng nhà tình
thương, với tổng số tiền trên 14 tỷ đồng, giúp đỡ cai nghiện tại cộng đồng
6.500 người, tạo việc làm cho 2.400 người sau cai nghiện.
6. Phong trào xây dựng công nhận cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt
chuẩn văn hóa: Trên cơ sở những hướng dẫn của Chính phủ về tiếp tục triển
khai kế hoạch xây dựng Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 01/2012/TT-
BVHTTDL ngày 18/1/2012 của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch về Quy định
chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “Cơ quan đạt chuẩn văn
hóa”, “Đơn vị đạt chuẩn văn hóa”, “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”, trong
đó có những tiêu chí như:
“Tiêu chuẩn công nhận “Cơ quan đạt chuẩn văn hóa”, “Đơn vị
đạt chuẩn văn hóa”:
1. Hoàn thành tốt nhiệm vụ:

54
a) Có phong trào thi đua thường xuyên, thiết thực, hiệu quả; góp
phần hoàn thành xuất sắc kế hoạch công tác hàng năm;
b) 70% trở lên cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên tự học hoặc
theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Thực hiện tốt nghĩa vụ và đạo đức của cán bộ, công chức, viên
chức theo quy định của pháp luật;
d) Nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ công phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ được giao;
e) Có sáng kiến, cải tiến quản lý; kinh nghiệm được áp dụng vào thực tiễn.
2. Thực hiện nếp sống văn minh, môi trường văn hóa công sở:
a) 80% trở lên cán bộ, công chức, viên chức không vi phạm các quy định
về thực hiện nếp sống văn minh, thực hành tiết kiệm trong việc cưới, việc tang
và lễ hội;
b) Không mắc các tệ nạn xã hội; không sử dụng, tàng trữ, lưu hành
văn hóa phẩm độc hại; không tuyên truyền và thực hiện các hành vi mê tín
dị đoan;
c) Sinh hoạt cơ quan, đơn vị nề nếp; thực hiện tốt nội quy, quy chế làm
việc; quy chế dân chủ ở cơ sở; nội bộ đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ;
d) Không hút thuốc lá trong phòng làm việc; không uống rượu, bia
trong ngày làm việc; trang phục gọn gàng, lịch sự; cơ quan xanh, sạch, đẹp,
an toàn; bài trí khuôn viên công sở theo đúng quy định.
3. Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước:
a) 100% cán bộ, công chức nắm vững, chấp hành nghiêm đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy
định của địa phương;
b) Không có người vi phạm pháp luật phải xử lý từ hình thức cảnh cáo trở
lên; cơ quan an toàn, an ninh trật tự; không có khiếu kiện vượt cấp, trái pháp luật;
c) Thực hiện tốt cải cách hành chính; quản lý và sử dụng có hiệu quả
ngân sách Nhà nước và các nguồn kinh phí được giao; không để xảy ra lãng
phí, tham nhũng; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

55
Điều 5. Tiêu chuẩn công nhận “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”
1. Sản xuất, kinh doanh ổn định và từng bước phát triển:
a) Hoàn thành chỉ tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh đề ra hàng năm;
b) Thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp có uy tín trên thị trường;
c) Cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, giảm chi phí gián tiếp; phân công lao động hợp lý;
d) 70% trở lên công nhân thường xuyên được tập huấn, nâng cao tay
nghề; lao động có kỷ luật, năng suất, chất lượng và hiệu quả.
2. Thực hiện nếp sống văn minh, môi trường văn hóa doanh nghiệp:
a) Có quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ giữa người lao động và
người sử dụng lao động;
b) Xây dựng và thực hiện tốt nội quy lao động; đảm bảo an toàn lao
động, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ;
c) 70% trở lên người sử dụng lao động và người lao động thực hiện
tốt các quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội;
d) Không mắc các tệ nạn xã hội; không sử dụng, tàng trữ, luân chuyển
các sản phẩm văn hóa độc hại; đảm bảo trật tự, an ninh, an toàn xã hội;
e) Thực hiện tốt quy định về bảo vệ môi trường; hệ thống thu gom,
xử lý nước thải, rác thải đạt chuẩn theo quy định pháp luật; khuôn viên
doanh nghiệp xanh, sạch, đẹp;
g) Không hút thuốc lá trong phòng làm việc; không uống rượu, bia
trong ngày làm việc.
3. Nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người lao động:
a) 70% trở lên công nhân có việc làm thường xuyên, thu nhập ổn định;
b) Tạo thuận lợi cho công nhân về nơi làm việc, nhà ở, nhà trẻ, mẫu
giáo, sinh hoạt đoàn thể; hỗ trợ công nhân lúc khó khăn, hoạn nạn;
c) Có cơ sở vật chất hoạt động văn hóa, thể thao cho công nhân;
thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, tham
quan du lịch và vui chơi giải trí cho công nhân lao động.

56
4. Nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước:
a) 100% người sử dụng lao động và công nhân lao động được phổ
biến chính sách, pháp luật về các lĩnh vực có liên quan;
b) Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước; tích cực tham gia Cuộc vận
động “Ngày vì người nghèo”, “Nhân đạo, từ thiện” và các cuộc vận động xã
hội khác;
c) Thực hiện nghiêm mọi chế độ, chính sách, quyền lợi hợp pháp của
công nhân theo các quy định của pháp luật;
d) Sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh theo quy định của
pháp luật.
Sau khi triển khai, phong trào được duy trì thường xuyên từ 8.707
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hóa
năm 2000; đến năm 2010, đã có 37. 971 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
được công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hóa. Đại bộ phận các cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa có môi trường làm việc xanh - sạch -
đẹp và an toàn.
Qua hơn 10 năm thực hiện, Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa đã thực sự đi vào đời sống, trở thành một phong trào thi
đua yêu nước rộng lớn của quần chúng, ngày càng phát triển mạnh mẽ,
mang lại những thành tựu to lớn, toàn diện và sâu sắc; khẳng định sự đúng
đắn về chủ trương phát động Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa. Phong trào đã góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển. Thông qua các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục văn hóa, các hoạt động chỉ đạo triển khai và thực hiện
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, nhận thức của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể các tầng lớp nhân dân và
toàn xã hội về văn hóa, về trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa
trong giai đoạn mới được nâng lên. Nhiều giá trị văn hóa; các quy định pháp

57
luật và quy chế, quy tắc ứng xử văn hóa ngày càng thâm nhập vào đời sống
đã góp phần quan trọng tạo dựng môi trường sống lành mạnh cho cộng đồng
dân cư, cho mỗi gia đình và cá nhân. Nhân dân trong cả nước tham gia thực
hiện Phong trào ngày càng đông đảo; đóng góp to lớn vào xây dựng cơ
sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội, các thiết chế và hoạt động văn hóa,
thể thao ở cơ sở; mô hình, điển hình tiên tiến về xã hội hóa văn hóa
xuất hiện ngày càng nhiều, tạo nên sự đa dạng về nội dung và phương
thức tổ chức xây dựng đời sống văn hóa và phát huy sức sáng tạo văn
hóa của nhân dân trên các địa bàn. Nội dung văn hóa cụ thể đã có tác
động tích cực đến phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội một cách bền
vững. Truyền thống đoàn kết và đạo lý dân tộc được phát huy trở thành
nội lực giúp nhau “Xóa đói giảm nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”. Xây
dựng con người về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nếp sống được
chú trọng. Vai trò, vị trí của gia đình và cộng đồng được nâng lên trong
xây dựng đời sống văn hóa; tình làng, nghĩa xóm được củng cố, thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có tiến bộ ở
nhiều nơi. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn, phát huy làm
phong phú đời sống văn hóa của nhân dân ở cơ sở; hệ thống thiết chế
văn hóa cơ sở tiếp tục duy trì, phát triển, góp phần nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa của người dân.
Phong trào được triển khai trên diện rộng và từng bước đi vào chiều
sâu, nâng cao chất lượng; các chỉ tiêu đề ra đạt và vượt kế hoạch như: khu
dân cư văn hóa, khu dân cư tiên tiến; gia đình văn hóa; xã, phường đạt
chuẩn văn hóa; cơ quan đơn vị có đời sống văn hóa tốt; phong trào xây
dựng gương người tốt, việc tốt và các điển hình tiên tiến…chính kết
quả đạt được từ phong trào đã góp phần giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống, những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc,
loại bỏ dần những hủ tục lạc hậu hình thành những giá trị chuẩn mực
mới về nếp sống văn hóa trong cộng đồng dân cư, những phong tục tập

58
quán mới tiến bộ, lành mạnh phù hợp với xu hướng tiến bộ, phát triển.
Sự phát triển khá sâu rộng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” đã góp phần tích cực trong việc xây dựng đời sống văn
hóa, phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra không khí thi đua sôi nổi, góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp. Đồng
thời, qua đó đã khẳng định tổ dân phố văn hóa, gia đình văn hóa thực
sự là pháo đài vững chắc trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
và các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh là để ngăn ngừa, đẩy lùi các tai tệ nạn xã hội, nâng cao
đời sống cho nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Thông qua phong
trào, công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa - thông tin đã được
tăng cường và huy động được nguồn lực to lớn trong nhân dân để xây
dựng các thiết chế văn hóa cơ sở, cùng với đó góp phần giữ gìn, tôn tạo
và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể có giá trị; xây dựng
và củng cố được hệ thống cán bộ làm công tác văn hóa có trình độ và
chuyên nghiệp.
2.2. Những hạn chế, khó khăn trong quá trình thực hiện phong trào
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở nhiều nơi còn bộc lộ những những hạn chế, khó
khăn đó là:
- Phong trào phát triển chưa đồng đều giữa các khu vực, vùng miền:
Số lượng khu dân cư ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và các đơn vị
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chưa tham gia thực hiện phong trào còn chiếm tỷ lệ cao. Một số
nội dung cơ bản của phong trào chưa được triển khai thực hiện đầy đủ,
hoặc mới chỉ dừng lại ở việc phát động và ban hành văn bản.
- Chất lượng của các phong trào cụ thể trong Phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa còn nhiều yếu kém: Việc bình xét công
nhận gia đình văn hóa nhiều nơi chưa chặt chẽ; thiếu công khai, dân chủ;

59
chưa bám sát tiêu chuẩn. Tổ chức biểu dương, tôn vinh gia đình văn hóa
chưa chu đáo, khen thưởng chưa kịp thời. Việc gắn biển gia đình văn hóa
tràn lan, hình thức, gây phản cảm trong dư luận, công nhận gia đình văn
hóa vượt cấp, không theo quy định của Luật Thi đua - Khen thưởng.
- Kết quả công nhận các danh hiệu văn hóa chưa thật đảm bảo về
chất lượng, vẫn còn nhiều nơi xem nhẹ chất lượng, chưa theo qui định,
hướng dẫn. Phong trào chưa thực sự tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối
sống của người dân. Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hóa cao nhưng nếp sống
văn hóa - văn minh đô thị chậm chuyển biến. Các thói hư, tật xấu, tệ nạn xã
hội vẫn còn tồn tại khá cao.
- Nhiều làng (thôn, ấp, bản…) văn hóa; tổ dân phố văn hóa sau khi
được công nhận, có biểu hiện buông lỏng công tác chỉ đạo, quản lý, chưa
chú trọng tuyên truyền vận động nhân dân tiếp tục phấn đấu giữ vững danh
hiệu, dẫn đến giảm sút về chất lượng. Việc xây dựng cổng làng văn hóa
kiên cố và công nhận “Làng văn hóa” cấp tỉnh, chưa phù hợp với quy
định công nhận lại “Làng văn hóa” theo Quy chế của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch.
- Việc triển khai xây dựng và công nhận cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp… đạt chuẩn văn hóa còn vướng mắc do chưa được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật. Kết quả đạt được trong công tác xây dựng
đời sống văn hóa ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chưa vững chắc; còn
thiên về bề nổi, thiếu chiều sâu, tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và công nhân lao động còn hạn chế.
Bên cạnh đó, phạm vi triển khai thực hiện Phong trào chỉ mới triển khai ở các
địa bàn dân cư và một số các cơ quan, đơn vị, trường học, doanh nghiệp, còn ở
những nơi công cộng như các trung tâm thương mại, chợ, bến xe, công viên…
cơ quan chủ quản chưa tích cực hưởng ứng hoặc lúng túng trong triển khai thực
hiện Phong trào.

60
- Một số danh hiệu văn hóa trong Phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa đã được một số địa phương triển khai thực hiện (xã,
phường văn hóa, huyện điểm văn hóa, làng văn hóa sức khỏe, làng văn hóa
thể thao, dòng họ văn hóa,…) chưa được nghiên cứu, đánh giá, kết luận đầy
đủ và chỉ đạo thống nhất trước khi triển khai ra diện rộng.
- Nhiều nội dung văn hóa trong Phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa chưa được thực hiện đầy đủ, kết quả đạt được còn
thấp: Thực hiện các quy định pháp luật và của địa phương về nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội chưa nghiêm nhất là trong một bộ
phận công chức, viên chức và đảng viên khiến dư luận xã hội băn khoăn.
Tình trạng ăn uống tràn lan trong các đám cưới, đám tang; xây cất mồ mả
khoa trương, tốn kém có xu hướng gia tăng. Tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan,
lưu hành các sản phẩm văn hóa đồi trụy còn diễn ra dai dẳng. Tình trạng ô
nhiễm môi trường sinh thái ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân ở các
cộng đồng dân cư, ngày càng nặng nề. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao
ở cơ sở chưa được tổ chức, khai thác, phát huy sử dụng hết công năng,
phương thức hoạt động còn nghèo nàn. Tác động ảnh hưởng tích cực của
phong trào để hạn chế tình trạng suy giảm về đạo đức, lối sống, nếp sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa đủ mạnh.
- Một số Ban chỉ đạo ở cơ sở còn lúng túng và chưa chú trọng tới các
nội dung mang tính cốt lõi như xây dựng con người mới, điển hình tiên tiến
và nhân rộng các phong trào thi đua tại cơ sở… Việc triển khai xây dựng
đơn vị văn hóa ở một số địa phương còn chậm, hiệu quả chưa cao; đáng
chú ý một số địa phương chưa triển khai thực hiện được quy hoạch đất để
xây dựng thiết chế văn hóa, không có quỹ đất để xây dựng nhà văn hóa khu
dân cư và sân luyện tập thể dục thể thao… trong xây dựng gia đình văn hóa
tỷ lệ công nhận ngày càng cao nhưng một số nơi thiếu tuân thủ đúng quy
trình từ khâu phát động đăng ký đến bình xét công nhận; thiếu đầu tư vào
việc xây dựng mô hình, điển hình mới; một số nơi phong trào còn mang

61
tính hình thức, có tư tưởng thỏa mãn, buông lỏng, chạy theo thành tích,
quan tâm số lượng mà chưa chú trọng đến chất lượng các danh hiệu văn
hóa…Một số địa phương đã nỗ lực tập trung mọi nguồn lực phấn đấu xây
dựng đạt danh hiệu văn hóa, nhưng sau khi đạt danh hiệu lại buông lỏng
dần, dẫn đến tình trạng các thiết chế văn hóa bị xuống cấp, các hoạt động
yếu đi nhưng chậm được khắc phục.
- Việc qui hoạch đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, khu vui chơi giải
trí chưa được thực hiện tốt vì nhiều lý do, đặc biệt là liên quan đến quĩ đất.
2.3. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn hoạt động của Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền trên các phương
tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các kênh truyền hình của Trung ương;
Tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm tạo ra sự chuyển biến sâu sắc trong
nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Đa dạng hóa nội dung, phương thức
chỉ đạo, triển khai và tuyên truyền vận động quần chúng thực hiện phong
trào phù hợp với đặc điểm, tình hình, đối tượng và địa bàn từng nơi, góp
phần đưa nhanh Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
vào đời sống.
2. Cần gắn nội dung Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa với Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, Nghị quyết Hội đồng
nhân dân và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của từng địa
phương, các ngành và đoàn thể.
3. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy Đảng; sự đầu
tư, hỗ trợ của Nhà nước và phát huy vai trò của hệ thống Ban chỉ đạo các
cấp là nhân tố cơ bản, đảm bảo cho Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa phát triển thường xuyên, ổn định.
4. Xây dựng và phát huy ý thức tự nguyện, tự giác; tinh thần chủ
động, tích cực, sáng tạo; năng lực tự quản và nguồn lực cộng đồng là yếu tố

62
nội sinh để Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa phát
triển thực chất và bền vững.
5. Đảm bảo chất lượng, không chạy theo thành tích, số lượng trong
việc công nhận các danh hiệu văn hóa và khen thưởng, động viên kịp thời
cá nhân, gia đình, tập thể tiêu biểu xuất sắc, tạo động lực thi đua, làm đòn
bẩy thúc đẩy thực hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa.
6. Thống nhất nội dung, tiêu chí và danh hiệu thi đua là cơ sở để
triển khai thực hiện và phối hợp thực hiện các phong trào cụ thể, tạo sức
mạnh tổng hợp chung của Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa.
7. Gắn Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa với
đời sống xã hội phải được thể hiện thông qua các yếu tố văn hóa và nhân tố
con người; hướng tới xây dựng con người với các phẩm chất theo tiêu chí
Nghị quyết Trung ương khóa VIII; khắc phục tình trạng đề ra nhiều nội
dung, tiêu chí chồng chéo, dàn trải thiếu tính khả thi trong triển khai thực
hiện ở cơ sở.
3. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trong thời gian tới
Tiếp tục mở rộng và phát triển Phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở các khu vực, địa bàn trong cả nước; nâng cao chất
lượng thực hiện các phong trào cụ thể và các nội dung văn hóa. Gắn thực
hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa với thực hiện
cuộc vận động xây dựng nông thôn mới; xây dựng văn minh đô thị, giải
quyết những bức xúc trong đời sống văn hóa - xã hội và xây dựng mối
quan hệ giữa con người với con người; kế thừa và phát huy tính cộng đồng
trong truyền thống văn hóa Việt Nam; đồng thời bám sát Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, phát huy các nhân tố văn hóa góp phần thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của các địa phương
và cả nước trong giai đoạn 2011 - 2015. Phấn đấu đạt các chỉ tiêu: 70% gia

63
đình được công nhận và giữ vững danh hiệu “Gia đình văn hóa”;60% làng,
thôn, ấp, bản…; tổ dân phố, khu phố, cụm dân cư… được công nhận và giữ
vững danh hiệu “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”;70% Đơn vị (cơ
quan, công sở, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân,
gọi chung là Đơn vị), đạt chuẩn văn hóa;10% xã đạt chuẩn văn hóa nông
thôn mới; 30% trở lên người dân tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ
và luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.
Để đạt được mục tiêu này, cần tiến hành các nhiệm vụ chủ yếu:
- Phát triển Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
rộng khắp, đồng đều ở các khu vực, vùng miền, tập trung chỉ đạo triển khai
thực hiện phong trào ở những địa bàn còn khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào
dân tộc, các khu công công nghiệp, khu chế xuất, góp phần khắc phục sự
chênh lệch về đời sống văn hóa của nhân dân giữa các khu vực, vùng miền.
Triển khai thực hiện đồng đều các nội dung chủ yếu và các phong trào cụ thể
trong Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa phù hợp với
đặc điểm, tình hình của từng khu vực, vùng miền. Trọng tâm là thực hiện
phong trào xây dựng gia đình văn hóa; thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và lễ hội; xây dựng môi trường văn hóa; xây dựng thiết
chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao quần chúng.
- Xây dựng “Người tốt, việc tốt”, phát triển phong trào xây dựng
gương “Người tốt, việc tốt” sát hợp với tính chất, đặc điểm và yêu cầu xây
dựng con người của từng lĩnh vực hoạt động. Gắn thực hiện phong trào xây
dựng “Người tốt, việc tốt” với thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, tập
trung củng cố và nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa, coi đây là
yếu tố nền tảng để tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh, xã hội ổn định,
tiến bộ, vững mạnh. Tổ chức tốt việc bình bầu gia đình văn hóa công khai,
dân chủ từ khu dân cư. Công nhận và biểu dương gia đình văn hóa thiết

64
thực, hiệu quả; không thực hiện đại trà việc gắn biển gia đình văn hóa. Củng
cố bền vững kết quả thực hiện các tiêu chuẩn công nhận gia đình văn hóa,
tạo chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục nhân cách các thành viên trong gia
đình; phòng chống các tệ nạn xã hội; phòng chống bạo lực gia đình và xây
dựng gia đình văn hóa nông thôn mới, gia đình văn hóa văn minh đô thị.
- Nâng cao chất lượng phong trào xây dựng làng văn hóa, tổ dân
phố văn hóa, nâng cao tính tự quản và ý thức trách nhiệm cộng đồng trong
việc giữ vững danh hiệu “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”. Huy động
mạnh mẽ nội lực của người dân xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng văn hóa - xã
hội nông thôn mới. Phát huy tác động hiệu quả thực hiện các tiêu chuẩn công
nhận làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa vào xây dựng các cộng đồng dân cư ổn
định và phát triển kinh tế; trở thành địa bàn vững chắc và trọng yếu thực hiện
kỷ cương, pháp luật; bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc và nâng cao đời sống
văn hóa, tinh thần cho nhân dân.
- Phát huy vai trò cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư” trong giai đoạn mới, nâng cao chất lượng hiệu
quả thực hiện cuộc vận động, tạo cơ sở vật chất, tinh thần và cơ chế huy
động, tập hợp lực lượng thực hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa trên địa bàn khu dân cư. Gắn cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” với thực hiện cuộc vận
động xây dựng nông thôn mới; hưởng ứng cuộc vận động “Ngày vì người
nghèo”; nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn
hóa, tổ dân phố văn hóa theo tinh thần của Chỉ thị 1869/CT-TTg, ngày
10/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ.
- Xây dựng công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hóa, cụ thể các nội
dung, tiêu chí phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động xây dựng và công nhận
đơn vị đạt chuẩn văn hóa theo 4 tiêu chuẩn: Hoàn thành tốt nhiệm
vụ;Gương mẫu chấp hành pháp luật;Xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh; Phát triển phong trào văn hóa, thể thao.

65
- Xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, đẩy mạnh các hoạt
động tuyên truyền vận động nhân dân phát huy ý chí, nội lực cộng đồng,
xây dựng và công nhận “xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới” với các
tiêu chuẩn: Phát triển hoạt động văn hóa góp phần xây dựng nông thôn
mới; Phát triển phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa;
Hoàn thiện trung tâm văn hóa, thể thao xã, thôn; Xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh.
- Xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa, tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, sĩ quan và chiến sĩ
lực lượng vũ trang trong các gia đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố văn
hóa, đơn vị đạt chuẩn văn hóa thực hiện tốt pháp luật và các quy định của
địa phương về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, tạo
cơ sở để đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh
trong toàn xã hội. Xây dựng môi trường văn hóa ở các địa bàn khu dân cư,
các đơn vị hài hòa, tương thân tương ái; dân chủ, đồng thuận; kỷ cương;
trật tự an ninh, an toàn xã hội; tiến bộ, văn minh; bảo tồn các giá trị văn hóa
dân tộc; đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội, lưu hành văn hóa phẩm
có nội dung đồi trụy và bài trừ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan; môi trường
xanh - sạch - đẹp; bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, cảnh quan thiên nhiên; giữ
gìn vệ sinh nơi ở, nơi công cộng.
- Xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở; phát triển phong trào văn hóa,
thể thao quần chúng, hoàn thiện Trung tâm văn hóa, thể thao xã đạt chuẩn
theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Đẩy mạnh xã hội hóa,
xây dựng và phát triển đồng bộ nhà văn hóa, khu thể thao ở thôn, làng, ấp,
bản, buôn, tổ dân phố… tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân ở cơ sở tham
gia các hoạt động văn hóa, thể thao. Quy hoạch và từng bước xây dựng nhà
văn hóa, sân thể thao ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt của công nhân hoạt động. Phát triển sâu rộng phong trào văn hóa,
văn nghệ quần chúng; các loại hình câu lạc bộ và Phong trào “Toàn dân rèn
luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” ở cơ sở.

66
Có thể nói, trong chặng đường hơn 10 năm qua, công tác xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở mà trọng tâm là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” đã phát huy được nguồn lực sáng tạo trong nhân
dân, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần, làm lành mạnh môi
trường xã hội, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về thực hiện các
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, tạo điều kiện thuận lợi khắc phục những vướng mắc,
bất cập cần tháo gỡ và rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn sinh
động, tạo tiền đề về lý luận và thực tiễn quan trọng để tiếp tục thực hiện tốt
hơn nội dung, yêu cầu Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong công tác xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần được đánh giá để điều
chỉnh, phát triển đúng hướng và có hiệu quả cao hơn trong công tác tổ chức
và quản lý. Để hạn chế và khắc phục những tồn tại đối với công tác xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nhằm tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cần chú
trọng thực hiện một số giải pháp sau đây:
Một là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, hiệu lực
quản lý của chính quyền các cấp. Tiếp tục làm chuyển biến về nhận thức
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể về vị trí đặc biệt
quan trọng của Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
trong việc tuyên truyền, giáo dục về văn hóa và tổ chức lãnh đạo, thực hiện
nhiệm vụ phát triển văn hóa; tạo mọi điều kiện thuận lợi để phong trào ngày
càng phát triển và phát huy hiệu quả. Đưa phương hướng, nhiệm vụ, chỉ
tiêu và các giải pháp thực hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa vào nghị quyết của các cấp ủy Đảng để tập trung lãnh đạo
thực hiện. Đẩy mạnh tuyên truyền và vận động quần chúng phù hợp với đối
tượng, địa bàn, làm cho mọi người dân, từng gia đình, từng cộng đồng dân
cư và cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ về ý nghĩa, nội dung
của phong trào, từ đó tự nguyện, tự giác thực hiện.

67
Hai là, phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo các cấp theo hướng đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động, chuyển mạnh các hoạt động của Ban chỉ
đạo các cấp về cơ sở, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn tháo gỡ những vướng mắc,
khó khăn; tập trung chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm; tổng kết đúc rút kinh
nghiệm; phổ biến nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến. Phát huy dân chủ,
tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch triển
khai phong trào; bàn bạc và quyết định các biện pháp cụ thể để thực hiện
phong trào; khắc phục tình trạng chỉ đạo triển khai phong trào mang tính
chất hành chính, áp đặt.
Ba là, chú trọng công tác bảo tồn giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể của từng dân tộc, địa phương. Sưu tầm và lưu
giữ, phục hồi có chọn lọc và tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian truyền
thống thông qua hoạt động lễ hội, hội thi, hội diễn văn hóa thể thao quần
chúng. Sáng tạo thêm nhiều sân chơi và các hình thức sinh hoạt văn hóa
mới phù hợp với nhu cầu của nhân dân, khơi dậy ý thức trách nhiệm và
niềm tự hào của người dân đối với truyền thống văn hóa dân tộc.
Bốn là, củng cố và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở và
các cơ sở vật chất phục vụ cho đời sống nhân dân. Đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của các thiết chế văn hóa phù hợp với yêu cầu phát
triển của đời sống xã hội. Ưu tiên hỗ trợ xây dựng thiết chế văn hóa, các
sản phẩm văn hóa cho miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa, khuyến
khích các tổ chức xã hội, cá nhân tham gia vào các hoạt động của đời sống
văn hóa ở cơ sở, tạo thêm các nguồn kinh phí cho việc tổ chức củng cố xây
dựng các thiết chế văn hóa, giữ gìn tôn tạo; cần bám sát tình hình thực tiễn,
đặc biệt là những vấn đề mới phát sinh trong đời sống ở cơ sở, kịp thời điều
chỉnh nội dung quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động văn hóa cơ sở
theo đúng định hướng về phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước, đồng
thời đáp ứng sự phát triển và nhu cầu hưởng thụ văn hóa, sáng tạo văn hóa
ngày càng cao của nhân dân

68
Năm là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về tổ chức xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở thông qua hoàn thiện hệ thống văn bản, xây dựng
mới các nghị định, thông tư, quy chế, qui định có liên quan đến các lĩnh
vực của đời sống xã hội như cưới, tang, lễ hội… để tạo hành lang pháp lý,
đưa các hoạt động này vào nề nếp. Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật về: Công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”,
“Tổ dân phố văn hóa”. Phối hợp thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trong tình hình mới; về quản
lý và sử dụng kinh phí hoạt động của Ban chỉ đạo các cấp. Đào tạo, bồi
dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở có đủ trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động văn hóa thông tin ở
cơ sở và phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa theo
hướng chuyên sâu chuyên môn và ổn định phát triển.
Sáu là, củng cố mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các
ngành, đoàn thể trong việc chỉ đạo hướng dẫn, tổ chức thực hiện phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Phát huy sức mạnh tổng
hợp của các lực lượng xã hội, coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội ở địa phương; tranh thủ nguồn lực của khối đại
đoàn kết toàn dân vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là phong
trào quần chúng rộng lớn và mang tính xã hội hóa sâu sắc, đem lại hiệu quả
kinh tế xã hội thiết thực và to lớn. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng
phong trào là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân do đó cần tăng cường công
tác giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sĩ
quan và chiến sĩ lực lượng vũ trang gương mẫu tham gia thực hiện phong
trào; coi đây là nội dung trọng yếu, giải pháp đột phá để lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Kiên trì
công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục quần chúng. Phát huy sức

69
mạnh của dư luận xã hội lành mạnh điều chỉnh các hành vi ứng xử văn hóa.
Phát triển rộng rãi và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tự quản
cộng đồng. Có chính sách ưu tiên và linh hoạt phù hợp đối với các lĩnh vực,
địa bàn đặc thù để Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” tiếp tục phát triển bền vững, đúng định hướng, góp phần tạo dựng môi
trường sinh hoạt văn hóa lành mạnh cho các thế hệ, nâng cao đời sống sinh
hoạt văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Bảy là, Xây dựng chính sách tài chính hỗ trợ đầu tư ngân sách nhà
nước về thu hút các nguồn lực xã hội hóa đầu tư cho Phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa thông qua việc xem xét ban hành, sửa đổi
các cơ chế chính sách phù hợp với phát triển xã hội hóa về văn hóa, nhất là
chính sách về thủ tục hành chính, thuế, đất đai, vốn tín dụng… nhằm khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư, đồng thời có cơ chế hỗ trợ đối với tư
nhân đã tham gia xây dựng các thiết chế văn hóa ở cơ sở, tổ chức các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể thao, lễ hội và các hoạt động vui chơi giải trí.
Tám là, lồng ghép các nội dung của Phong trào Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa vào các nội dung của phong trào xây dựng nông
thôn mới đang được triển khai ở các địa phương.
Có thể nói, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, hướng đến xây dựng thành công nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; đem đến những giá
trị mới, những điều kiện thuận lợi, phù hợp nhất cho người dân để không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tiến kịp với các nước phát
triển trong khu vực và quốc tế, sớm đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII đã đề ra.
Câu hỏi thảo luận
1. Anh, chị hãy cho biết những nội dung cơ bản về quan điểm của
Đảng về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở?

70
2. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có vai trò và ý nghĩa như thế
nào đối với sự nghiệp phát triển văn hóa trong thời kỳ hiện nay?
3. Những nhiệm vụ cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là gì?
4. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong
tình hình mới?

71
PHẦN 2: KỸ NĂNG TỔ CHỨC
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ

Chuyên đề 3
KỸ NĂNG TỔ CHỨC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ

Thời lượng: 5 tiết (- )


A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích: Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về quy
trình, kỹ năng tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về về quy trình, kỹ
năng tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay đồng thời ứng dụng
có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1.Xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã (Cơ sở vật chất để
phục vụ nội dung hoạt động văn hóa cơ sở)
Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày 22/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ
sở giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2020 đề ra mục tiêu chung:
- Đến năm 2020, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở được phát
triển đồng bộ, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ
văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí của nhân dân ở các vùng, miền, khu vực
trong cả nước;
- Đến năm 2030, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phát
triển đạt các tiêu chí quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- 80% số đơn vị hành chính xã (riêng ở khu vực miền núi là 60%) có
Trung tâm Văn hóa - Thể thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và dành
tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui
chơi giải trí cho trẻ em.

(*)
- Lý thuyết: 1 tiết; Thảo luận : 4 tiết.

72
- Những địa phương chưa có đủ điều kiện để xây dựng tại mỗi đơn
vị hành chính cấp xã một Trung tâm Văn hóa - Thể thao, có thể xây dựng
tại cụm xã (3 đến 5 xã) một Trung tâm Văn hóa - Thể thao.
1.1. Xây dựng cơ sở vật chất:
Bước 1. Hình thành chủ trương xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã:
- Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
- Thực hiện sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền cấp trên về xây
dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
- Xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã phải xuất phát từ nhu
cầu phát triển sự nghiệp văn hóa, khả năng ngân sách của xã và các nguồn
xã hội hóa - Đảng ủy xã ban hành Nghị quyết về xây dựng Trung tâm Văn
hóa - Thể thao xã.
Bước 2. Ban hành quyết định và tổ chức thực hiện:
- Ủy ban nhân dân xã ban hành Quyết định về việc xây dựng Trung
tâm Văn hóa - Thể thao xã.
- Các bước tiến hành thực hiện Quyết định của Ủy ban nhân dân xã
về việc xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã thực hiện như sau:
+ Bố trí quỹ đất sử dụng để xây dựng.
+ Thực hiện các công việc để giải phóng mặt bằng (nếu có).
+ Thiết kế công trình, phê duyệt thiết kế.
+ Lập dự toán, đề nghị phê duyệt dự toán.
+ Tổ chức thi công xây dựng và quản lý công trình xây dựng.
+ Tổ chức nghiệm thu, khánh thành, đưa vào sử dụng công trình.
1. 2. Xây dựng tiêu chí mẫu về cơ sở vật chất và cán bộ của Trung tâm:
Tiêu chí mẫu: Thực hiện theo Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày
22/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013 - 2020, định hướng
đến năm 20202 và Thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch

2
Quyết định số 2164 ngày 22/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2020 đề ra mục
tiêu: - Đến năm 2020, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở được phát triển đồng bộ, từng bước

73
Xây dựng Trung tâm Văn hóa; Cung Thiếu nhi, Nhà Thiếu nhi; Cung
Văn hóa Lao động, Nhà Văn hóa Lao động cấp Quốc gia; Khu vui chơi
giải trí hiện đại tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các địa
phương là trung tâm các vùng kinh tế trọng điểm và các đô thị loại I
khác trong cả nước.
- Khu chế xuất, Khu công nghiệp:
100% Khu công nghiệp, Khu chế xuất có quy hoạch quỹ đất để xây
dựng các thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ công nhân, người lao động;
Trong đó tối thiểu 30% Khu công nghiệp, Khu chế xuất đã hoạt động
xây dựng được Trung tâm Văn hóa - Thể thao phục vụ công nhân, người
lao động.
c) Định hướng đến năm 2030:
- Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ cộng đồng thuộc ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quản lý: Đạt tỷ lệ 100% ở các cấp hành chính;
- Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng: Đạt tỷ lệ 50% số đơn vị hành chính cấp huyện có Nhà Thiếu nhi;

khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí của nhân dân ở các
vùng, miền, khu vực trong cả nước;
- Đến năm 2030, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phát triển đạt các tiêu chí quy định của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:
- Ở thôn: 70% số thôn (riêng ở khu vực miền núi là 50%) có Nhà Văn hóa - Khu Thể thao, trong đó
được đầu tư trang thiết bị và dành tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động
vui chơi giải trí cho trẻ em.
- Cấp xã: 80% số đơn vị hành chính xã (riêng ở khu vực miền núi là 60%) có Trung tâm Văn hóa - Thể
thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và dành tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức
các hoạt động vui chơi giải trí cho trẻ em.
Những địa phương chưa có đủ điều kiện để xây dựng tại mỗi đơn vị hành chính cấp xã một Trung tâm
Văn hóa - Thể thao, có thể xây dựng tại cụm xã (3 đến 5 xã) một Trung tâm Văn hóa - Thể thao.
Mục tiêu chung:
- Cấp huyện:
90% số đơn vị hành chính cấp huyện có Trung tâm Văn hóa - Thể thao;
30% số đơn vị hành chính cấp huyện có Nhà Thiếu nhi;
10% số đơn vị hành chính cấp huyện có Nhà Văn hóa Lao động.
- Cấp tỉnh:
100% số đơn vị hành chính cấp tỉnh có Trung tâm Văn hóa;
100% số đơn vị cấp tỉnh có Cung Thiếu nhi, Nhà Thiếu nhi hoặc Trung tâm hoạt động Thanh
Thiếu nhi;
50% số đơn vị cấp tỉnh có Cung Văn hóa Lao động, Nhà Văn hóa Lao động;

74
- Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ công nhân viên chức, người lao
động: Đạt tỷ lệ 30% đơn vị hành chính cấp huyện, 100% đơn vị hành chính
cấp tỉnh, 50% Khu công nghiệp, Khu chế xuất có Trung tâm Văn hóa -
Thể thao.
4. Nội dung của Quy hoạch
a) Quy hoạch đất sử dụng:
- Thiết chế văn hóa, thể thao ở thôn quy hoạch đất sử dụng cho khu
vực Nhà Văn hóa (không kể diện tích các công trình thể thao quần chúng):
Ở khu vực đồng bằng tối thiểu 300m2;
Ở khu vực miền núi và khu vực thành phố, thị xã tối thiểu 200m2.
- Thiết chế văn hóa, thể thao cấp xã (Trung tâm Văn hóa - Thể
thao), quy hoạch đất sử dụng (không kể diện tích của các công trình thể
thao quần chúng):
Ở khu vực đồng bằng tối thiểu 500m2;
Ở khu vực miền núi và khu vực thành phố, thị xã tối thiểu 300m2.
- Thiết chế văn hóa, thể thao cấp huyện (Trung tâm Văn hóa - Thể
thao, Nhà Thiếu nhi, Nhà Văn hóa lao động), quy hoạch đất sử dụng tối
thiểu 2.500m2, không kể diện tích của các công trình thể thao quần chúng;
- Thiết chế văn hóa cấp tỉnh (Trung tâm Văn hóa; Cung Thiếu nhi,
Nhà Thiếu nhi, Trung tâm hoạt động Thanh Thiếu nhi; Cung Văn hóa Lao
động, Nhà Văn hóa Lao động), quy hoạch đất sử dụng tối thiểu 5.000m2.
Diện tích đất các công trình thể dục, thể thao thực hiện theo quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia;
- Quy hoạch đất sử dụng xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao
trong các Khu công nghiệp, Khu chế xuất tối thiểu là 1.000 m2;
Mục tiêu: 80% số đơn vị hành chính xã (riêng ở khu vực miền núi là
60%) có Trung tâm Văn hóa - Thể thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và
dành tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui
chơi giải trí cho trẻ em. Những địa phương chưa có đủ điều kiện để xây dựng

75
tại mỗi đơn vị hành chính cấp xã một Trung tâm Văn hóa - Thể thao, có thể
xây dựng tại cụm xã (3 đến 5 xã) một Trung tâm Văn hóa - Thể thao.
- Diện tích đất được sử dụng
+ Đô thị, đồng bằng: Tối thiểu 2.500m2.
+ Miền núi, hải đảo: Tối thiểu 1.500m2.
-Quy mô xây dựng hội trường đa năng
+ Đô thị, đồng bằng: Tối thiểu 250 chỗ ngồi; 5 phòng chức năng.
+ Miền núi, hải đảo: Tối thiểu 200 chỗ ngồi; 4 phòng chức năng.
- Quy mô xây dựng sân bóng đá.
+ Tối thiểu 90m x 120m
- Trang thiết bị
+ Hội trường văn hóa đa năng: bàn, ghế, giá, tủ, tăng âm, ánh sáng,
thông gió, đài truyền thanh.
+ Dụng cụ thể thao: Theo các môn thể thao phù hợp ở địa phương.
+ Cán bộ
- Cán bộ quản lý có trình độ trung cấp về văn hóa, thể thao trở lên,
được hưởng phụ cấp bán chuyên trách.
- Cán bộ nghiệp vụ chuyên môn được hưởng chế độ theo hợp đồng
(dài hạn hoặc công việc).
1.3. Quản lý Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã:
- Cơ quan quản lý:
+ Ủy ban nhân dân xã thực hiện quyền quản lý toàn diện về tổ chức
hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
+ Phòng Văn hóa - Thông tin và Thể thao cấp huyện thực hiện quyền
quản lý nhà nước đối với Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
+ Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp huyện thực hiện quyền quản lý
về chuyên môn nghiệp vụ đối với Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
- Mục đích của việc quản lý:

76
+ Đưa việc xây dựng, quản lý và hoạt động của Trung tâm Văn hóa -
Thể thao xã phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và các quy định của địa phương.
+ Tạo điều kiện để Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã phát huy tính
tích cực, nâng cao trách nhiệm và vai trò tự chủ trong việc tổ chức các hoạt
động thu chức năng, nhiệm vụ được giao.
+ Ngày càng mở rộng nội dung, quy mô và chất lượng, hiệu quả các
hoạt động, thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã tham
gia vào các hoạt động văn hóa thể thao.
- Nội dung quản lý:
+ Quản lý theo chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở kế hoạch được giao:
Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; các quy định của địa phương; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính
quyền xã.
Phổ biến các kiến thức khoa học và kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống.
Tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao và vui
chơi giải trí trên địa bàn xã, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ về văn hóa và nâng
cao thể chất của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã.
Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Nhà Văn hóa - Khu thể thao
thôn và các thiết chế văn hóa, thể thao khác trên địa bàn toàn xã.
+ Quản lý bằng pháp luật:
Đối với các hoạt động về xây dựng, bảo quản cơ sở vật chất; sử dụng
kinh phí hoạt động thường xuyên do ngân sách nhà nước cấp và các hoạt
động kinh doanh, dịch vụ văn hóa trên địa bàn theo các quy định pháp luật
hiện hành.
1.4. Xây dựng và phê duyệt kế hoạch hoạt động hàng năm:
- Căn cứ xây dựng kế hoạch: Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện
kế hoạch công tác năm trước;yêu cầu phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa xã hội của xã; các nguồn lực thực hiện phong trào và sự phát

77
triển nhu cầu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và vui chơi giải
trí của các tầng lớp nhân dân ở xã.
- Nội dung của kế hoạch: Đề ra các hoạt động cụ thể cần thực hiện
trong năm, bao gồm:
+ Cuộc tuyên truyền phục vụ chính trị.
+ Cuộc liên hoan, hội thi, hội diễn văn nghệ.
+ Cuộc thi đấu các môn thể thao.
+ Duy trì hoạt động của các câu lạc bộ sở thích.
+ Các hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho các thiết chế văn
hóa, thể thao trên địa bàn.
+ Các hoạt động: Thư viện, tủ sách, phong trào đọc sách báo; hoạt
động giáo dục truyền thống ; xây dựng gia đình văn hóa, thôn, làng, ấp, bản
văn hóa, thực hiện nếp sống văn hóa; bảo tồn văn hóa dân tộc…
+ Hoạt động của Đài truyền thanh xã; Trung tâm giáo dục cộng
đồng xã.
1.5. Phương thức xây dựng và phê duyệt kế hoạch:
- Ban chủ nhiệm Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã xây dựng dự thảo
kế hoạch.
- Thảo luận trong các bộ, cộng tác viên của Trung tâm Văn hóa - thể
thao xã.
- Lấy ý kiến các ngành, đoàn thể, tổ chức có liên quan ở xã.
- Hoàn thiện dự thảo kế hoạch; trình Ủy ban nhân dân xã phê duyệt
kèm theo dự toán kinh phí thực hiện.
1.6. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động:
-Xây dựng chương trình, kế hoạch chi tiết tổ chức thực hiện từng nội
dung trong kế hoạch công tác được phê duyệt.
- Biên soạn các tài liệu nghiệp vụ, thực hiện các nội dung kế hoạch
hoạt động như:
- Tài liệu thông tin, tuyên truyền trên đài truyền hình xã.

78
- Kịch bản tổ chức các sự kiện, các hoạt động cụ thể.
- Chương trình biểu diễn văn nghệ quần chúng và thi đấu các môn
thể thao.
- Chương trình học tập cộng đồng.
- Chương trình tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ văn hóa, thể thao.
- Chương trình sinh hoạt các câu lạc bộ theo chủ đề.
1.7. Thực hiện chế độ báo cáo và kiểm tra:
- Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã định kỳ 6 tháng, một năm báo cáo
kết quả hoạt động cho UBND xã; Phòng Văn hóa - Thông tin và Thể thao
cấp huyện.
- Báo cáo thể hiện đầy đủ nội dung, cụ thể, có số liệu thống kê chi
tiết về kết quả hoạt động.
- UBND xã; Phòng Văn hóa Thông tin và Thể thao, Trung tâm Văn
hóa Thể thao cấp huyện hàng năm có các cuộc kiểm tra, làm việc, nghe báo
cáo và kiến nghị của Nhà Văn hóa - khu thể thao thôn.
1.8. Đánh giá tác động, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Văn
hóa - Thể thao xã:
Ý nghĩa của việc đánh giá tác động:
- Đánh giá tác động, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Văn hóa -
Thể thao xã chính là đánh giá theo chiều sâu thực trạng về tổ chức và hoạt
động của trung tâm; khẳng định những kết quả đạt được, chỉ ra những yếu
kém tồn tại và xác định rõ những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
- Trên cơ sở đánh giá tác động, hiệu quả hoạt động của trung tâm rà
soát lại, sửa đổi, bổ sung và nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
nâng cao chất lượng các hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
Nội dung đánh giá tác động:
- Kết quả hoàn thành kế hoạch hoạt động của Trung tâm Văn hóa -
Thể thao xã theo kế hoạch được duyệt.
- Hiệu quả tuyên truyền, giáo dục về văn hóa, nâng cao nhận thức về
văn hóa, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa.

79
- Quản lý, khai thác và phát huy cơ sở vật chất, kinh phí, cán bộ của
Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
- Tác động hiệu quả phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội
của xã. - Mức độ thu hút và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể thao
của các tầng lớp nhân dân trong xã.
Các kênh thông tin đánh giá:
- Tự đánh giá của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã và các thiết chế
văn hóa, thể thao trên địa bàn xã.
- Đánh giá của các ban, ngành, đoàn thể trong xã có liên quan.
- Kết quả điều tra xã hội học phản ánh của nhân dân.
- Ý kiến đánh giá của các cơ quan quản lý cấp trên.
2. Hoạt động thông tin, tuyên truyền cổ động
2.1. Nguyên tắc hoạt động:
- Đúng định hướng công tác tuyên truyền của Đảng.
- Nhanh nhạy, hệ thống và thường xuyên.
- Khách quan, sát hợp và thiết thực.
- Rõ ràng, dễ hiểu, sinh động và phù hợp với đối tượng quần chúng.
2.2. Phương pháp hoạt động:
- Tuyên truyền miệng: Mời diễn giả, báo cáo viên nói chuyện
chuyên đề, nói chuyện thời sự; giới thiệu đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; diễn giảng khoa học, kỹ thuật; diễn
thuyết sự kiện, tình huống, vấn đề.
- Tuyên truyền trực quan: Tổ chức các cuộc trưng bày, triển lãm;
xây dựng bản tin; cụm tuyên truyền, in tranh cổ động; băng zôn khẩu hiệu.
- Tuyên truyền văn nghệ: Xây dựng các chương trình biểu diễn văn
nghệ quần chúng chào mừng kỷ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của dân
tộc; tổ chức các hoạt động văn nghệ, chương trình văn nghệ theo chủ đề,
tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương.

80
- Xây dựng chương trình truyền thanh trên đài truyền thanh của xã
theo các chuyên mục.
2.3. Tổ chức thực hiện:
- Xác định đối tượng, địa bàn triển khai thực hiện
+ Đối tượng khác nhau, mức độ thông tin và phương pháp truyền tải
thông tin khác nhau.
+ Danh nghĩa cá nhân, đơn vị tổ chức thực hiện.
+ Xác định quy mô tổ chức, địa bàn thực hiện.
- Xây dựng kế hoạch (kịch bản) để thực hiện:
+ Dự thảo kế hoạch, góp ý xây dựng dự thảo.
+ Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chuẩn bị tiến hành:
+ Dàn dựng (kịch bản) chương trình.
+ Chuẩn bị tập luyện.
+ Sơ duyệt, tổng duyệt chương trình.
- Tổ chức hoạt động:
+ Lễ khai mạc, cắt băng.
+ Duy trì hoạt động.
+ Tổng kết hoạt động; khen thưởng, biểu dương các cá nhân, tổ chức
tham gia.
+ Lấy ý kiến phản hồi dư luận về chất lượng hoạt động; tác động
hiệu quả của hoạt động.
3. Tổ chức các hoạt động văn nghệ quần chúng
3.1. Hoạt động văn nghệ, tuyên truyền cổ động:
Văn nghệ tuyên truyền cổ động là sử dụng các loại hình văn học,
nghệ thuật để truyền tải nội dung chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ chính trị, các biện pháp chỉ
đạo của chính quyền… tạo sự hấp dẫn, thu hút mọi người tập trung theo
dõi, tiếp thu nhẹ nhàng, thoải mái.

81
Yêu cầu, để đạt được hiệu quả tuyên truyền cổ động bằng văn nghệ,
cán bộ văn hóa cơ sở cần phải đạt được một số yêu cầu cơ bản:
- Hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật truyền thống, dân gian, ca, múa, nhạc.
- Biết vận dụng thành thạo các hình thức văn nghệ vào công tác
tuyên truyền cổ động thích hợp về nội dung cần truyền tải.
- Tập hợp, huy động được các lực lượng yêu thích, có năng khiếu
tham gia biểu diễn.
- Vận dụng sáng tạo kỹ thuật ước lệ trong nghệ thuật truyền thống
để tạo nên hiệu quả truyền đạt cao.
- Không lệ thuộc và hình thức nghệ thuật mà xa rời nội dung cần
tuyên truyền cổ động.
- Tổ chức thực hiện:
+ Nghiên cứu, nắm vững nội dung cần tuyên truyền cổ động.
+ Lựa chọn loại hình văn nghệ quần chúng phù hợp.
+ Biên tập, sáng tác, dàn dựng.
+ Tập luyện chương trình nhuần nhuyễn.
+ Sơ duyệt, tổng duyệt chương trình.
3.2. Hoạt động ca, múa, nhạc, mỹ thuật:
- Loại hình sử dụng:
+ Hát: Hát dân ca, hát ru, vè, hát giao duyên, hát nói.
+ Nhạc: Sử dụng nhạc cụ độc lập, chơi dàn nhạc, dàn cồng chiêng, trống.
+ Múa: Múa tập thể, múa đơn, múa đôi, tốp múa, múa minh họa.
+ Sân khấu: Tấu, hài, múa rối, trích đoạn, kịch ngắn, kịch thông tin.
+ Văn thơ: Làm thơ, ngâm thơ, bình thơ; thi kể chuyện.
+ Mỹ thuật: Vẽ tranh, chụp ảnh, video clip.
- Tổ chức thực hiện:
+ Thu hút các cộng tác viên tham gia.
+ Tự tập luyện (tiết mục cá nhân), tổ chức tập luyện (tiết mục tập thể).
+ Xây dựng chương trình biểu diễn.

82
+ Tổ chức biểu diễn: Sinh hoạt trong trung tâm văn hóa - thể thao xã;
phục vụ các hội nghị; tổ chúc công diễn phục vụ nhân dân trên địa bàn; tổ
chức giao lưu, tham gia liên hoan, hội diễn.
3.3. Hoạt động khai thác, bảo tồn văn nghệ cổ truyền:
- Sưu tầm, học hỏi, ghi chép lại các làn điệu dân ca, ca dao, hò, vè,
các làn điệu dân ca, ca dao, hò, vè và các vũ điệu dân gian.
- Tổ chức các hoạt đông văn nghệ cổ truyền.
- Sưu tầm, lưu giữ, sao chép các hoa văn, họa tiết, màu sắc, hình
khối trang trí nội thất ở các công trình kiến trúc cổ; các trang phục dân tộc.
- Dàn dựng các chương trình biểu diễn nghệ thuật dân tộc độc đáo,
đặc trưng của địa phương.
3.4. Xây dựng và duy trì các loại hình hoạt động văn nghệ:
Các loại hình hoạt động văn nghệ quần chúng cần duy trì, củng cố và
phát triển ở cơ sở, bao gồm:
- Hoạt động thường xuyên:
+ Các hoạt động thường nhật theo nhu cầu của quần chúng.
+ Hoạt động đơn lẻ, độc lập của cá nhan, gia đình, tổ, nhóm.
+ Hoạt động thường xuyên ở các tụ điểm văn hóa văn nghệ quần
chúng (karaoke, câu lạc bộ, lớp tập huấn, nhóm diễn giả, điều chỉnh video,
phòng tranh, phòng truyền thống).
- Hoạt động định kỳ:
+ Là các hoạt động theo kế hoạch hàng năm.
+ Hoạt động định kỳ thường không nhiều, nhưng có quy mô tổ chức
lớn hơn, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và đầu tư.
- Hoạt động đột xuất:
+ Hoạt động không có trong kế hoạch, nảy sinh để đáp ứng nhu cầu,
nhiệm vụ khách quan.
+ Kết quả hoạt động phần lớn phụ thuộc vào vốn văn nghệ quần chúng
hiện có.

83
- Hoạt động tự thân:
+ Là những sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của mỗi cá nhân, theo nhu
cầu riêng thường xuyên hoặc tự phát ngẫu hứng.
+ Hoạt động tự thân là cơ sở, là gốc và tiềm năng của phong trào văn
nghệ quần chúng; nếu được thu hút, tập hợp sẽ có đóng góp hiệu quả trong
phong trào văn nghệ quần chúng ở địa phương.
- Hoạt động có tổ chức:
+ Hoạt động của các tổ, nhóm, các đội văn nghệ quần chúng, được tổ
chức thành lập hoặc tự nguyện thành lập.
+ Hoạt động có tổ chức thường phong phú về nội dung, phương thức
hoạt động; có chuyên môn nghệ thuật cao; có khả năng xây dựng các
chương trình văn nghệ quy mô lớn, chất lượng cao.
+ Tuy nhiên, hoạt động văn nghệ có tổ chức dễ biến động thăng trầm
do sự thay đổi về nhu cầu, sở thích của các thành viên trong nhóm tổ chức.
4. Hoạt động của các câu lạc bộ
4.1. Vai trò của hoạt động câu lạc bộ:
Hoạt động câu lạc bộ nói chung là loại hình hoạt động văn hóa cơ sở
có tính chất phổ biến, có hiệu quả trong việc thu hút các tầng lớp nhân dân
ở cơ sở tham gia vào các hoạt động văn hóa - thể thao. Hoạt động câu lạc
bộ là nội dung, phương thức cơ bản để tập hợp nhóm những người có cùng
sở thích về lĩnh vực văn hóa, thể thao trên địa bàn xã; vừa đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt văn hóa, tinh thần của họ; vừa phục vụ các nhu cầu văn hóa, thể
thao của các tầng lớp nhân dân trong xã.
4.2. Mục đích, yêu cầu của hoạt động câu lạc bộ:
Góp phần vào công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động phục vụ các
nhiệm vu chính trị, kinh tế - xã hội của xã. Thực hành giáo dục ngoài nhà
trường, giáo dục góp phần nâng cao dân trí. Đáp ứng nhu cầu về tinh thần,
nhu cầu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao của các tầng lớp nhân dân
trên địa bàn xã. Góp phần gìn giữ, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa

84
dân tộc. Bồi dưỡng, phát triển năng khiếu, tài năng nghệ thuật, thể thao
quần chúng. Hình thành các nhóm chuyên môn, ổn định về tổ chức và định
hình về hoạt động.
4. 3. Nội dung sinh hoạt câu lạc bộ:
- Về lĩnh vực gia đình: Nâng cao hiểu biết về: Truyền thống, đạo lý gia
đình Việt Nam; pháp luật về gia đình; tâm lý lứa tuổi, giới tính; nuôi dưỡng và
giáo dục con cái, kỹ năng sống trong gia đình; ứng xử và giao tiếp trong gia
đình; kiến thức khoa học và đời sống trong sinh hoạt gia đình; sinh đẻ có kế
hoạch; phát triển kinh tế hộ gia đình; xây dựng và giữ vững danh hiệu gia
đình văn hóa…
- Về lĩnh vực nghệ thuật quần chúng: Thưởng thức và sáng tác âm
nhạc, sân khấu, điện ảnh, hội họa, nhiếp ảnh; biểu diễn ca - múa - nhạc, dân
ca dân vũ, hò vè, tấu hài…
- Về lĩnh vực thể thao, luyện tập nâng cao thể chất và tập luyện các
môn thể thao quần chúng: Thể dục dưỡng sinh, thể dục nhịp điệu, vũ quốc
tế, võ, vật, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông và các trò chơi dân
gian truyền thống.
- Về lĩnh vực nghề nghiệp: Khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm,
cây cảnh, nghề truyền thống, khoa học - kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất.
- Về thời sự, chính sách: Thông tin thời sự, chính sách; trao đổi, tọa
đàm về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội.
4.4. Tổ chức công tác câu lạc bộ:
- Trên cơ sở điều tra thực trạng tình hình hoạt động câu lạc bộ trên
địa bàn xã, khả năng và điều kiện cụ thể, xây dựng kế hoạch tổ chức công
tác câu lạc bộ ở xã hàng năm.
- Ra quyết định thành lập các câu lạc bộ sở thích, kèm theo quy chế
tổ chức và hoạt động.
- Có chế độ hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho các câu lạc bộ hoạt động. Xây dựng lịch hoạt động của các câu
lạc bộ trong tháng, trong tuần.

85
- Định kỳ hay giao ban với ban chủ nhiệm của các câu lạc bộ, đánh
giá tình hình, kịp thời có biện pháp cụ thể để giải quyết những kiến nghị,
khó khăn vướng mắc của các câu lạc bộ; sơ kết, tổng kết và khen thưởng,
đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng các câu lạc bộ.
- Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể và các tổ
chức kinh tế trên địa bàn, tăng cường chỉ đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các
câu lạc bộ.
5. Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng
5.1. Nội dung hoạt động thể dục, thể thao quần chúng:
- Xây dựng các Câu lạc bộ Thể dục thể thao; tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, sân bãi, trang thiết bị, dụng cụ thể thao cho các câu lạc bộ hoạt động.
- Có cán bộ nghiệp vụ, cộng tác viên tham gia Ban chủ nhiệm của
các Câu lạc bộ thể dục thể thao.
- Định kỳ tổ chức các giải thi đấu các môn thể thao quần chúng hoặc
tổ chức giải vào dịp các ngày lễ kỷ niệm của dân tộc.
- Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể
theo gương Bác Hồ vĩ đại”, gắn với thực hiện phong trào xây dựng gia đình
văn hóa, làng văn hóa và phong trào của các ngành, đoàn thể ở xã.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân và các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp trên địa bàn xã đóng góp kinh phí xây dựng và phát triển cơ sở vật
chất hoạt động thể dục thể thao.
5.2. Quy trình quản lý, hướng dẫn, tổ chức phong trào thể dục thể
thao quần chúng:
- Thực hiện công tác kiểm tra, báo cáo:
+ Thường xuyên kiểm tra tỷ lệ người và gia đình tập thể dục thể thao
thường xuyên theo quý.
+ Báo cáo thống kê hàng năm tỷ lệ người, gia đình luyện tập thể dục
thể thao thường xuyên, làm căn cứ thực tiễn đánh giá và xây dựng kế hoạch
phát triển sự nghiệp thể dục thể thao.

86
- Quản lý Câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở:
+ Điều kiện thành lập: Có cán bộ, nhân viên thể thao, có cơ sở vật
chất, trang thiết bị phù hợp; có phương án hoạt động được phê duyệt.
+ Phương thức hoạt động: Tự quản, tự nguyện, tự trang trải, chịu sự
quản lý của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
- Quản lý cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã:
+ Là những người có chuyên môn, nghiệp vụ về thể dục thể thao, có
bằng cấp về chuyên ngành hoặc đã qua các lớp tập huấn về thể dục thể thao.
+ Cộng tác viên thể dục thể thao có nhiệm vụ vận động, tổ chức,
hướng dẫn quần chúng nhân dân tập luyện thể dục thể thao, tham gia các
hoạt động phát triển phong trào thể dục, thể thao ở xã.
- Tổ chức thi đấu các giải thể thao quần chúng:
+ Xây dựng Điều lệ giải và tổ chức thi đấu theo Điều lệ.
+ Phương án tổ chức giải: Đấu vòng tròn, đấu loại trực tiếp, thi đấu
hỗn hợp.
- Xây dựng công trình thể dục, thể thao xã:
Căn cứ vào các quy định hiện hành, phê duyệt quy hoạch xây dựng,
xây dựng tổng hạng mục, hướng tới đạt chuẩn quy định của ngành.
6. Xây dựng gia đình văn hóa
Thực tế cho thấy gia đình là một vấn đề lớn, luôn được Đảng, Nhà
nước quan tâm. Gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Xây dựng gia đình văn hóa - một mục
tiêu quan trọng thường xuyên của công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở trong thời kỳ đổi mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6.1. Yêu cầu của công tác xây dựng gia đình văn hóa:
- Được triển khai thường xuyên, liên tục trở thành nhiệm vụ quan trọng
được các cấp các ngành quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện để thực
hiện tốt.

87
- Phải có nội dung, tiêu chí phù hợp với đặc điểm bản sắc, phong tục,
tập quán của mỗi dân tộc, của từng thời kỳ, giai đoạn phát triển xã hội của
mỗi địa phương.
- Việc xây dựng gia đình văn hóa thuộc ý thức tự nguyện của mỗi
gia đình, từng người dân do đó phải có phương pháp tuyên truyền vận động
để nhân dân tự nguyện tham gia, tránh gò ép, cứng nhắc.
- Việc xây dựng gia đình văn hóa cần được phát triển rộng nhưng
phải chú ý đến chiều sâu, chú trọng chất lượng thực chất của phong trào,
chất lượng của mỗi gia đình văn hóa, không chạy theo hình thức, bệnh
thành tích chủ nghĩa, làm giảm giá trị danh hiệu gia đình văn hóa, giảm ý
nghĩa giáo dục và hiệu quả tích cực của phong trào.
6.2. Nội dung, phương pháp tổ chức, triển khai việc xây dựng gia
đình văn hóa:
Công tác chỉ đạo hướng dẫn:
- Đây là nhiệm vụ của các cấp lãnh đạo đảng, Nhà nước, chính
quyền, các cấp, các ngành, đoàn thể và cán bộ nhân dân. Các cấp lãnh đạo
Đảng phải có Nghị quyết về việc xây dựng gia đình văn hóa (trong các kỳ
Đại hội Đảng), phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị của
Đảng, phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị của Đảng trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương.
- Các cấp lãnh đạo chính quyền phải xây dựng được kế hoạch cụ thể
để tổ chức triển khai. Kế hoạch phải xác định rõ bước đi, cách làm, chỉ tiêu,
tiến độ thực hiện cụ thể. Tạo điều kiện về kinh phí, lực lượng, cơ sở vật
chất để tiến hành, huy động được lực lượng phối hợp của toàn hệ thống
chính trị, toàn dân tham gia thực hiện việc xây dựng gia đình văn hóa
- Thường xuyên có biện pháp kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm,
động viên khen thưởng, uốn nắn những lệch lạc để phong trào ngày càng
phát triển vững chắc. Đánh giá, phân loại chất lượng danh hiệu gia đình văn
hóa, xây dựng kế hoạch, nâng cao chất lượng danh hiệu gia đình văn hóa.

88
- Tổ chức bình xét, công nhận chặt chẽ, đảm bảo nguyên tắc, đúng
tiêu chuẩn, thủ tục, kỳ hạn.
- Tổ chức kiểm tra việc công nhận và không công nhận lại danh hiệu
gia đình văn hóa ở địa phương.
Tổ chức triển khai thực hiện:
- Căn cứ vào tiêu chuẩn tại Tiêu chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa
thực hiện theo quy định tại Điều 29 Luật Thi đua, khen thưởng với những
nội dung cụ thể(áp dụng theo Điều 4 Thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL
ngày 10/10/2011 quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ
công nhận Danh hiệu “Gia đình văn hóa”, Thôn văn hóa, Làng văn hóa, Ấp
văn hóa, Bản văn hóa, Tổ dân phố văn hóa và tương đương). Trên cơ sở
Trung ương đã đặt ra, các địa phương cần vận dụng, xây dựng tiêu chuẩn
cho phù hợp với từng địa phương, nhấn mạnh, tập trung vào những tiêu
chuẩn, địa phương cần quan tâm (Thí dụ: Tiêu chuẩn phát triển kinh tế,
Gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước…)
6.3. Nguyên tắc của quá trình vận dụng:
- Bám thật sát chỉ tiêu chung, không tùy tiện đặt ra những tiêu chí,
tiêu chuẩn không phù hợp với tinh thần, nội dung của tiêu chí theo kiểu
“Phép vua thua lệ làng”.
- Đảm bảo chất lượng thực sự của danh hiệu gia đình văn hóa xong
cần tạo điều kiện thuận lợi để các gia đình phấn đấu thực hiện. Từng bước
có điều chỉnh theo hướng nâng cao tiêu chuẩn để đảm bảo chất lượng gia
đình văn hóa ngày càng cao.
Xây dựng gia đình văn hóa là việc tổ chức tạo điều kiện để mọi
người, mọi gia đình cùng cộng đồng phấn đấu thực hiện các nội dung mục
tiêu gia đình văn hóa nói trên. Đó là một phong trào quần chúng rộng rãi,
có sự lãnh đạo và quản lý của các cấp Uỷ Đảng và chính quyền và sự phối
hợp tham gia rộng rãi của các tổ chức, đoàn thể xã hội, đặc biệt là công tác
mặt trận ở khu dân cư.

89
Xây dựng gia đình văn hóa là một nhiệm vụ trong công tác xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở và là một nội dung không thể thiếu được trong
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhất là xây
dựng (thôn, làng, bản…) văn hóa, khu phố văn hóa, đơn vị văn hóa.
6.4. Nhiệm vụ cơ quan, chức năng thuộc thành viên Ban chỉ đạo
các cấp:
- Tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền đưa các chỉ tiêu về xây
dựng: gia đình văn hóa, khu dân cư tiên tiến, làng (thôn, ấp, bản. . ) văn hóa,
tổ dân phố, khu phố, khối phố…văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt
chuẩn văn hóa và nhà văn hóa cộng đồng vào Nghị quyết, kế hoạch để tập
trung chỉ đạo thực hiện.
- Xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động các gia đình, đơn vị
đăng ký xây dựng các danh hiệu văn hóa.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá, phân loại chất lượng danh hiệu gia
đình văn hóa, xây dựng kế hoạch, nâng cao chất lượng danh hiệu gia đình
văn hóa.
- Xây dựng dự toán kinh phí hoạt động hàng năm, trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
- Chỉ đạo, thí điểm, tiến tới phổ biến nhân rộng mô hình “Quỹ xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, khai thác các nguồn lực, hỗ trợ phong trào.
- Thực hiện chương trình của Ban chỉ đạo Trung ương ban hành
theo Quyết định số 1610/QĐ-TTg ngày 16/9/2011 về chương trình thực
hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa giai đoạn
2011 - 2015, định hướng đến năm 2020. Phấn đấu đến năm 2015 có 70%
gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu gia đình văn hóa. Đưa
phong trào xây dựng gia đình văn hóa vào chiều sâu, chất lượng làm cho
các tiêu chí công nhận gia đình văn hóa được các gia đình tự giác thực
hiện, trở thành nếp sống hàng ngày của mỗi thành viên, tạo nên môi
trường văn hóa lành mạnh từ trong mỗi gia đình, nền tảng của đời sống
văn hóa ở cơ sở.

90
7. Hoạt động giáo dục truyền thống: bảo vệ di sản văn hóa và
giáo dục truyền thống
- Di sản văn hóa chỉ có giá trị thực, có vai trò ý nghĩa khi di sản văn
hóa phát huy tác dụng giáo dục truyền thống, tư tưởng, thẩm mỹ, đạo lý và
nhân cách của các thế hệ đương đại.
- Thực hiện việc quản lý và khai thác các di sản văn hóa trên địa bàn
cơ sở phải được sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở.
- Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ, cán bộ chuyên trách văn hóa xây
dựng kế hoạch quản lý toàn bộ những di sản văn hóa vật thể bao gồm toàn
bộ các công trình kiến trúc văn hóa, đình chùa, đền am, miếu, các địa chỉ
văn hóa, thống kê kiểm kê các hiện vật, cổ vật… trên địa bàn theo sự phân
cấp quản lý.
- Đối với di sản văn hóa phi vật thể cần có kế hoạch tổ chức sưu
tầm, chỉnh lý, tuyên truyền, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của địa phương, tập trung vào một số loại hình như sau:
+ Các di sản văn hóa trên địa bàn gắn liền với lịch sử hình thành, đấu
tranh tồn tại và phát triển của mỗi địa phương. Do đó, việc ôn lại những sự
kiện lịch sử, công lao, sự nghiệp của các bậc tiền nhân ngay tại các di tích
có ý nghĩa to lớn. Một mặt là để tỏ lòng thành kính, biết ơn của thế hệ hiện
tại đối với các thế hệ cha ông…mặt khác là để thực hành đạo lý “uống
nước, nhớ nguồn” ngay trên mảnh đất sinh ra của các thế hệ trẻ.
+ Thông qua các hoạt động cụ thế tại các di tích, mỗi người có dịp
nhìn lại một thời đã qua để sống tốt hơn, có ích hơn trong cả hiện tại và
tương lai. Vì vậy, việc tổ chức các lễ hội truyền thống, các hoạt động văn
hóa phải nhằm mục đích giáo dục tinh thần yêu nước, yêu quê hương, yêu
cuộc sống con người, thân thiện với môi trường thiên nhiên, lòng tự hòa
dân tộc và hơn cả là sự hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng tới các giá trị
chân, thiện, mỹ trong cuộc sống.
+ Di sản văn hóa phi vật thể là kết tinh những giá trị tinh thần, gắn
liền với đời sống của mỗi con người và của cả cộng đồng, nó in đậm bản
sắc của mỗi vùng văn hóa với truyền thống hết sức quý báu. Vì vậy, việc

91
bảo lưu và khai thác hợp lý, gạn đục khơi trong, chọn lọc những cái hay,
cái đẹp, bài trừ những hủ tục lạc hậu phải là việc làm thường xuyên.
+ Trong giáo dục truyền thống cần phải xây dựng được kế hoạch cụ
thể và triển khai các biện pháp tuyên truyền bằng tất cả những phương tiện
hiện có của cơ sở như hệ thống loa truyền thanh, bản tin, các cuộc hội, họp
của các thôn, bản và trong các lễ hội truyền thống và hiện đại của địa
phương. Trong đó phải gắn được nội dung giá trị di sản văn hóa vào nội
dung tuyên truyền, vào các hoạt động cụ thể của các đoàn thể trên địa bàn.
+ Phối hợp với các trường học trên địa bàn đưa vào chương trình học
phần ngoại khóa môn lịch sử địa phương. Thực hiện việc giáo dục thông
qua học đường bằng các di tích với các hình thức sinh động. đồng thời có
thể tổ chức các hoạt động giao lưu, giới thiệu những phong tục, tập quán,
những loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống, các ngành nghề thủ công
cổ truyền, của quê hương giữa các nghệ nhân, các già làng với thế hệ trẻ,
với khách du lịch như một sinh hoạt văn hóa mang lại những thông tin bổ
ích cho thế hệ trẻ và tôn vinh các nghệ nhân, nghệ sĩ tiêu biểu của quê
hương, đất nước.
+ Tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, lễ hội và văn hóa dân
gian truyền thống, với hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng, văn nghệ dân
gian dưới nhiều hình thức linh hoạt, sinh động, tạo điều kiện thuận lợi trong
việc phát huy những giá trị văn hóa.
+ Trên địa bàn phải tổ chức được một lực lượng nòng cốt với những
người có tâm huyết, nhiệt tình và say mê, có trách nhiệm thực hiện việc
kiểm kế, sưu tầm vốn văn hóa truyền thống (kể cả dân gian và bác học), các
tri thức về y dược cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền
thống…lập thành các hồ sơ di tích, lịch sử và truyền thống của địa phương
để lưu giữ và tuyên truyền khách quan, sinh động tại địa phương.
+ Để phát huy tốt tác dụng giáo dục của di tích phải đưa nội dung
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vào trong hương ước, quy ước của
làng, thôn, ấp, bản. Có hình thức tôn vinh và ghi nhận những người có công
trong việc bảo vệ và phát huy những giá trị di sản văn hóa với những hình
thức động viên khuyến khích phù hợp.

92
+ Thực hiện xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa,
tạo điều kiện cho mỗi người dân trên địa bàn dễ dàng tiếp cận và hưởng thụ
các giá trị di sản văn hóa. đồng thời thu hút được sự tham gia rộng rãi của
mỗi cá nhân, mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn vào các hoạt dộng phát
hiện, bảo lưu, sáng tạo các giá trị văn hóa.
+ Hàng quý, hàng năm phải có đánh giá, tổng kết nhằm đưa công tác
này trở thành nề nếp, thói quen sinh hoạt văn hóa thường ngày trong mỗi cá
nhân, mỗi gia đình và cộng đồng. Có như vậy công tác quản lý di sản văn
hóa và giáo dục truyền thống ở cơ sở mới có chiều sâu, có giá trị thiết thực
và bổ ích.
8. Hoạt động xã hội hóa văn hóa và dịch vụ văn hóa, thể thao và
du lịch
8.1. Ý nghĩa của hoạt động:
- Xã hội hóa văn hóa là một chủ trương, chính sách, giải pháp lớn
của Đảng, Nhà nước để phát triển văn hóa, làm cho sự nghiệp văn hóa
thực sự là của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của
Nhà nước.
- Cụ thể hóa và thực hiện tốt xã hội hóa văn hóa trong hoạt động của
Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã, chính là thu hút ngày càng đông đảo các
tầng lớp nhân dân trong xã tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao
trên địa bàn xã. Đồng thời, huy động được các nguồn lực để đẩy mạnh các
hoạt động văn hóa, thể thao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ
và sáng tạo về văn hóa của chính các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã.
- Xã hội hóa văn hóa gắn liền với việc tổ chức các hoạt động, dịch vụ
văn hóa theo quy định của pháp luật; cung ứng cho người dân trên địa bàn xã
những sản phẩm văn hóa, vật tư, văn hóa phẩm được hình thành từ nguồn xã
hội văn hóa do các tổ chức, cá nhân tổ chức doanh nghiệp thực hiện.
8.2. Nội dung hoạt động:
- Đăng cai tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật chuyên
nghiệp, có bán vé.
- Hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cho các chương
trình biểu diễn nghệ thuật hoặc các giải thi đấu thể thao.

93
- Hỗ trợ ngân sách nhà nước cho các hoạt động tuyên truyền, cổ động
phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội (theo chế độ đặt hàng).
- Sự đóng góp tự nguyện của thành viên các câu lạc bộ nhằm duy trì
hoạt động của các câu lạc bộ.
- Quản lý và sử dụng các cơ sở vật chất, cơ sở sản xuất do địa
phương giao nhằm tạo nguồn thu cho các hoạt động văn hóa, thể thao.
- Hợp đồng tổ chức các sự kiện, các hoạt động văn hóa, thể thao với
các ngành, đoàn thể trên địa bàn xã.
- Mở các cửa hàng, cơ sở kinh doanh, dịch vụ về văn hóa, thể thao
tại khuôn viên Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã; tổ chức các hoạt động
dịch vụ đám cưới, đám tang và tổ chức lễ hội.
- Tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng năng khiếu, dàn
dựng chương trình biểu diễn nghệ thuật quần chúng, tập luyện và hướng
dẫn thể dục thể thao.
- Tổ chức Tour du lịch (nếu có điều kiện).
8.3. Tổ chức hoạt động:
- Các hoạt động xã hội hóa văn hóa, dịch vụ văn hóa phải phù hợp
với chủ trương, chính sách pháp luật; sự chỉ đạo quản lý của chính quyền
địa phương; kế hoạch hoạt động hàng năm được giao.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện hoạt động cụ thể, báo cáo Ủy ban
nhân dân xã trước và sau khi thực hiện.
- Tổ chức thực hiện các hoạt động chặt chẽ, thường xuyên, đảm bảo
hiệu quả kinh tế và xã hội, tránh chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần.
- Sau mỗi hoạt động cần đánh giá, rút kinh nghiệm, sử dụng kinh phí
đúng mục đích, công khai, dân chủ.
9. Xây dựng Nhà Văn hóa - Khu thể thao thôn
Thực hiện theo Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày 22/11/2013 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết
chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm
2020, cụ thể như sau:
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:

94
- Ở thôn: 70% số thôn (riêng ở khu vực miền núi là 50%) có Nhà Văn
hóa - Khu Thể thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và dành tối thiểu
30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí
cho trẻ em.
Quy hoạch đất sử dụng:
- Thiết chế văn hóa, thể thao ở thôn quy hoạch đất sử dụng cho khu
vực Nhà Văn hóa (không kể diện tích các công trình thể thao quần chúng):
- Ở khu vực đồng bằng tối thiểu 300m2;
- Ở khu vực miền núi và khu vực thành phố, thị xã tối thiểu 200m2.
9. 1. Tiêu chí của Nhà Văn hóa - Khu thể thao thôn:
Theo quy định tại Điều 6, Thông tư số 06/2011/TT-BVHTTDL ngày
08 tháng 3 năm 2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch3:

3
Thông tư số 06/2011/TT - BVHTTDL ngày 08 tháng 3 năm 2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu về tổ chức hoạt động và tiêu
chí của Nhà văn hóa, thể thao thôn
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
1. Thông tư này quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn.
2. Thông tư này không áp dụng đối với Nhà văn hóa - Khu thể thao của tổ dân phố (khu phố, khối phố, khu dân cư ở đô thị); Nhà văn hóa - Khu thể
thao của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và các cơ sở xã hội hóa khác trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch đóng trên địa bàn thôn.
Điều 2. Tên gọi, vị trí, chức năng
1. Tên gọi: Nhà văn hóa - Khu thể thao + tên thôn.
2. Vị trí: Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn thuộc hệ thống thiết chế văn hóa - thể thao cơ sở của cả nước; do Chủ tịch UBND xã quyết định thành lập,
lãnh đạo toàn diện; Trưởng thôn trực tiếp quản lý; chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ của Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp trên.
3. Chức năng:
a) Góp phần tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức khoa học, kỹ thuật; giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa lành mạnh trên địa bàn thôn.
b) Nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần xây dựng nông thôn
mới.
c) Nơi tổ chức hội họp, học tập cộng đồng và các sinh hoạt khác ở thôn.
Điều 3. Nhiệm vụ
1. Xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động ngắn hạn, dài hạn trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
2. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, cổ động phục vụ các nhiệm vụ chính trị, sản xuất và đời sống của nhân dân ở thôn.
3. Tổ chức các hoạt động văn nghệ; thể dục, thể thao quần chúng; các cuộc giao lưu, liên hoan, hội diễn văn nghệ; giao hữu, thi đấu các môn thể
thao; duy trì hoạt động các loại hình Câu lạc bộ, nhóm sở thích; phát hiện bồi dưỡng năng khiếu văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao và các hoạt động
vui chơi, giải trí cho trẻ em.
4. Tổ chức các chương trình, lớp học nâng cao dân trí, tiếp nhận thông tin và hoạt động dịch vụ phục vụ nhân dân trên địa bàn thôn.
5. Tham gia các hoạt động xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới.
6. Xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị, quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả công trình.
7. Tổ chức các cuộc hội họp của thôn.
8. Thực hiện các nhiệm vụ khác do lãnh đạo địa phương giao.
Điều 4. Cơ cấu tổ chức
1. Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, Trưởng thôn tổ chức bầu chọn Chủ nhiệm hoặc Ban Chủ nhiệm Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn.
Chủ nhiệm hoặc Ban chủ nhiệm Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn hoạt động theo nguyên tắc kiêm nhiệm, tự quản, tự trang trải từ nguồn kinh phí xã
hội hóa và hỗ trợ của ngân sách xã.
2. Có đội ngũ cộng tác viên và người hoạt động nghiệp vụ không chuyên trách.
Điều 5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí
1. Cơ quan có thẩm quyền ở địa phương có trách nhiệm cấp đất xây dựng Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn theo quy hoạch đã được duyệt và sử dụng
đúng mục đích.
2. Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn được xây dựng ở vị trí trung tâm tạo thuận lợi cho nhân dân tham gia sinh hoạt.
3. Kiến trúc Nhà văn hóa - Khu thể thao phải phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội và bản sắc văn hóa của địa phương.
4. Quy hoạch và từng bước triển khai xây dựng sân khấu ngoài trời, sân chơi, bố trí vườn hoa, cây cảnh, non bộ, hồ nước, ghế đá. . .
5. Trang thiết bị tối thiểu cho các hoạt động của Nhà văn hóa - Khu thể thao gồm: hệ thống âm thanh, ánh sáng, phông màn, bàn ghế, sách báo, các
dụng cụ thể thao và các loại nhạc cụ phù hợp.
6. Kinh phí:
a) Kinh phí xây dựng cơ sở vật chất:
Do ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần (căn cứ điểm b, khoản 3, mục 6 của Quyết định số 800/QĐ - TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020);
Ngân sách địa phương (tỉnh, huyện, xã) hỗ trợ;
Nhân dân tự nguyện đóng góp;

95
Diện tích đất quy hoạch:
- Diện tích đất Nhà Văn hóa: đồng bằng 500m² trở lên, miền núi
300m² trở lên.
- Diện tích Khu thể thao: đồng bằng 2.000m² trở lên, miền núi
1500m² trở lên.
- Quy mô xây dựng: Hội trường Nhà Văn hóa: đồng bằng 100 chỗ
ngồi trở lên, miền núi 80 chỗ ngồi trở lên.
9.2. Định hướng tổ chức, quản lý:
- Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn là cơ sở hoạt động văn hóa, thể thao
xã hội hóa tự trang trải, được nhà nước hỗ trợ một phần; hoạt động theo cơ chế
tự quản, có sự hướng dẫn về nghiệp vụ của Trung tâm Văn hóa - Thể thao
xã, huyện.
- Diện tích đất sử dụng cho Nhà Văn hóa - Khu thể thao thôn thuộc
quỹ đất công, dành xây dựng các công trình phúc lợi về văn hóa - xã hội ở
thôn; nằm trong quy hoạch xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở của

Huy động từ các tổ chức, doanh nghiệp.


b) Kinh phí chi hoạt động thường xuyên: Do ngân sách địa phương hỗ trợ và nhân dân tự nguyện đóng góp.
Điều 6. Tiêu chí của Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn
Tiêu chí theo vùng
STT Tiêu chí Nội dung tiêu chí
Đồng bằng Miền núi
1 Diện tích đất quy hoạch 1. 1. Diện tích đất khu Nhà văn hóa Từ500m2trởlên Từ300m2trởlên
1. 2. Diện tích Khu thể thao Từ2.000m2trởlên Từ1.500m2trởlên
2 Quy mô xây dựng 2. 1. Hội trường Nhà văn hóa Từ 100 chỗ ngồi trở lên Từ 80 chỗ ngồi trở lên
2. 2. Sân khấu trong hội trường Từ 30m2 trở lên Từ 25m2 trở lên
2. 3. Sân tập thể thao đơn giản Từ 250m2 trở lên Từ 200m2 trở lên
2. 4. Công trình phụ trợ Nhà văn hóa - Khu thể thao (nhà để xe, khu Có đủ Đạt 80%
vệ sinh, vườn hoa, cổng, tường rào bảo vệ)
2. 5. Có thể xây dựng những công trình thể thao khác được quy
định tại Nghị địnhsố 112/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thể dục, thể thao.
3 Trang thiết bị 3. 1. Trang bị của hội trường Nhà văn hóa: Có đủ m Đạt 80% m
- Bộ trang âm (tivi, ămpli, micro, loa)
- Bộ trang trí, khánh tiết: cờ Tổ quốc, cờ Đảng, ảnh hoặc
tượng Bác Hồ, phông màn sân khấu nhỏ, băng khẩu hiệu, cờ
trang trí. . .
- Bàn, ghế phục vụ sinh hoạt
- Tủ sách, tranh ảnh tuyên truyền phục vụ thiếu nhi
- Bảng tin, nội quy hoạt động
- Một số nhạc cụ phổ thông, truyền thống phù hợp với địa
phương.
3. 2. Dụng cụ thể thao: Một số dụng cụ thể thao phổ thông và
dụng cụ thể thao truyền thống phù hợp với phong trào thể thao
quần chúng ở địa phương Có đủ các dụng cụ TDTT Có các dụng cụ thể thao
theo nhu cầu sử dụng tối thiểu
4 Kinh phí hoạt động 4. 1. Ngân sách địa phương hỗ trợ Tỷ lệ cụ thể do địa phương Tỷ lệ cụ thể do địa phương quy
thường xuyên 4. 2. Kinh phí do nhân dân đóng góp và xã hội hóa quy định định
5 Cán bộ nghiệp vụ 5. 1. Trình độ chuyên môn Sơ cấp trở lên Qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
5. 2. Chế độ thù lao Hưởng thù lao theo công việc Hưởng thù lao theo công việc
6 Kết quả thu hút nhân 6. 1. Hoạt động văn hóa văn nghệ thường xuyên m 50% trở lên/tổng số dân 30% trở lên/tổngsố dân
dân tham gia hoạt động 6. 2. Hoạt động thể dục thể thao thường xuyên m 25% trở lên/tổng số dân 15% trở lên/tổng số dân
6. 3. Hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí phục vụ cho trẻ em 30% thời gian hoạt động 20% thời gian hoạt động

96
cả nước, theo Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày 22/11/2013 của Thủ tướng
Chính phủ.
- Hoạt động của Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn là hoạt động của
các câu lạc bộ văn hóa, câu lạc bộ thể thao được thành lập trên cơ sở các
nhóm sở thích.
- Khai thác hội trường nhà văn hóa thôn đa năng, vừa là nơi hoạt
động văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, trụ sở làm việc của thôn.
Các hoạt động khác:
Thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, cổ vũ, góp phần nâng cao
nhận thức của các ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong xã về
phong trào.
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng
gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, làng văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp đạt chuẩn văn hóa.
- Tổ chức và tham gia tổ chức các hội thảo, hội nghị, lớp tập huấn
nghiệp vụ về phong trào.
- Tổ chức các cuộc liên hoan văn nghệ, thể thao các làng văn hóa,
tham gia các cuộc liên hoan hội diễn văn nghệ và thi đấu thể thao các làng
văn hóa do huyện, tỉnh tổ chức.
Hoạt động của đài truyền thanh xã:
- Ngoài các nội dung phản ánh về tình hình thời sự chung của địa
phương, đài truyền thanh xã xây dựng chương trình, chuyên mục phản ánh
về xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn xã, bao gồm các nội dung:
- Phổ biến chủ trương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
các quy định của địa phương về lĩnh vực xây dựng văn hóa cơ sở.
- Tuyên truyền, giới thiệu gương người tốt việc tốt, các điều hình
tiên tiến, các cách làm hay, có hiệu quả trong công tác xây dựng đời

97
sống văn hóa trên địa bàn xã Phổ biến văn học - nghệ thuật, giới thiệu
các chương trình văn nghệ quần chúng, giới thiệu các sáng tác mới về
văn học - nghệ thuật quần chúng.
- Thông tin trao đổi về những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đời sống
văn hóa của xã, định hướng phát triển văn hóa, văn nghệ và thể thao quần
chúng của xã.
Hoạt động giáo dục cộng đồng
- Tổ chức các chương trình giáo dục cộng đồng được phê duyệt.
- Tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước, quy định của địa phương,
các kiến thức khoa học, kỹ thuật về sản xuất và đời sống, góp phần nâng
cao dân trí cho nhân dân trên địa bàn xã.
Hoạt động thư viện
- Tổ chức phòng đọc sách, báo tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
Nếu có điều kiện tổ chức phòng mượn sách về nhà hoặc phòng phục vụ sách
lưu động.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, đọc và làm theo sách báo, các cuộc giới
thiệu sách, thi kể chuyện… góp phần phát triển phong trào đọc sách, báo…
- Hướng dẫn, giúp đỡ xây dựng và duy trì hoạt động của các tủ sách,
phòng đọc sách báo ở thôn, làng, ấp bản…
Để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, mỗi nội
dung hoạt động văn hóa cơ sở cần phải được thực hiện bằng những kỹ năng
chuyên biệt, vừa đảm bảo khoa học, vừa giàu tính thực tiễn. Chuyên đề giới
thiệu chi tiết kỹ năng tổ chức từng loại hình hoạt động văn hóa cơ sở để cán
bộ văn hóa cơ sở tham chiếu, vận dụng và thực hiện. Nếu như mỗi chương
trình hoạt động được tiến hành thực hiện bài bản theo kỹ năng và tâm huyết
trách nhiệm nhiệt tình của cán bộ văn hóa cơ sở, nhiệm vụ xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở sẽ đạt hiệu quả, góp phần xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh từ cơ sở. /.

98
Câu hỏi thảo luận
1. Anh (chị) hãy cho biết thực trạng quy trình, kỹ năng tổ chức xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở ở địa phương?
2. Trình bày kỹ năng cơ bản xây dựng và tổ chức hoạt động trung
tâm văn hóa, các câu lạc bộ, nhà văn hóa?
3. Tổ chức hoạt động văn nghệ quần chúng bao gồm những kỹ năng nào?
Bài tập thực hành
- Lớp chia thành 2 đến 3 nhóm
- Mỗi nhóm chia sẻ thực trạng thuận lợi, khó khăn trong quá trình
xây dựng đới sống văn hóa cơ sở ở địa phương
- Nếu mong muốn để có thể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ ở địa
phương.
- Các nhóm chia sẻ, trao đổi ý kiến để có thu hoạch về bài học.

99
Chuyên đề 4
KỸ NĂNG XÂY DỰNG
NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CƠ SỞ

Thời lượng: 5 tiết (- )


A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích: Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về kỹ
năng xây dựng nội dung hoạt động văn hóa cơ sở.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng xây dựng
nội dung hoạt động văn hóa cơ sở đồng thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt
động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Nắm vững tình hình, thực trạng cơ sở và củng cố, kiện toàn tổ
chức chỉ đạo và nâng cao chất lượng năng lực quản lý
a. Nội dung các chương trình hoạt động văn hóa ở cơ sở cần có sự
tổ chức hợp lý và quản lý chặt chẽ, khoa học.
Hoạt động văn hóa cơ sở có tính chuyên ngành, chuyên môn sâu, do
đó rất cần phải có sự chỉ đạo hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn các
cấp từ trên xuống. Xây dựng nội dung hoạt động văn hóa ở cơ sở thuộc cấp
xã/phường, do cấp xã/phường chịu trách nhiệm nhưng đều có sự chỉ đạo,
hướng dẫn của các Bộ, ngành, cơ quan chủ quản các cấp, thông qua các tổ
chức tương ứng ở địa phương và tập trung vào sự lãnh đạo chặt chẽ, sáng
tạo của cấp ủy Đảng, sự điều hành thuần thục của chính quyền cơ sở và
càng cần có sự tham gia hưởng ứng tự giác tích cực của nhân dân mới đảm
bảo thắng lợi.
Ví dụ: Cấp xã muốn tổ chức Hội nghị tuyên dương gia đình văn hóa
tiêu biểu, xuất sắc phải căn cứ vào Hướng dẫn tổ chức thực hiện của cấp
Huyện để triển khai thực hiện. Cấp xã sẽ xây dựng Kế hoạch chi tiết đảm
bảo về mục đích, yêu cầu; Nội dung tổ chức Hội nghị; Thành phần tham
(*)
- Lý thuyết: 1 tiết; Thảo luận : 4 tiết.

100
dự; Đối tượng được Tuyên dương; Lộ trình thực hiện và các biện pháp tổ
chức thực hiện.
Ở cơ sở, vai trò lãnh đạo của Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân xã đang được tăng cường thông qua việc kiêm nhiệm của các chức
danh trên. Nhà nước cũng đang thí điểm việc giảm bớt cơ quan Hội đồng
nhân dân xã mà tăng cường vai trò giám sát, kiểm tra vào các tổ chức khác.
Vai trò, vị trí của đơn vị dưới cấp xã phường của Trưởng thôn, Tổ trưởng
dân phố từng bước được nâng cao, giúp cho việc quản lý ở cấp xã và địa
bàn được tăng cường. Vị trí, vai trò của già làng đối với các khu vực đồng
bào dân tộc thiểu số rất quan trọng, được xã hội quan tâm. Nhà nước cũng
luôn đề cao vai trò làm chủ của nhân dân thông qua sự hoạt động của các
đoàn thể chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
trong đó vai trò của Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Phụ nữ được củng
cố và phát huy, đặc biệt là sự tăng trưởng của lực lượng Cựu chiến binh và
hội viên Hội nông dân ngày càng khẳng định. Chính sách tôn giáo của nhà
nước ta cũng rất rõ ràng, đảm bảo tự do tín ngưỡng (và không tín ngưỡng)
của dân, tạo điều kiện cho giáo dân hành đạo theo tinh thần đạo pháp và tổ
quốc dân tộc, “tốt đời đẹp đạo" là rất phù hợp, trong đó vai trò của các chức
sắc tôn giáo rất quan trọng.
Đây là những vấn đề mới đòi hỏi sự lãnh đạo, quản lý ở cơ sở cần
nắm bắt để vận dụng vào việc xây dựng nội dung hoạt động văn hóa ở cơ
sở trong đó từng nội dung hoạt động như xây dựng làng văn hóa, tổ dân
phố văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa ở địa bàn,… cần xem xét hết sức
cụ thể, thận trọng trong phối kết hợp và xử lý.
Một vấn đề cần quan tâm là ở địa bàn xã, phường, thị trấn ngoài một
số các đơn vị lực lượng vũ trang, biên phòng, các cơ quan hành chính sự
nghiệp (văn phòng), bệnh viện, trường học hiện có tương đối ổn định, hiện
nay đang phát triển nhiều các đơn vị kinh tế (khu công nghiệp, khu chế
xuất…), các nhà máy, cơ sở sản xuất mới mọc lên… các khu nhà nghỉ, bãi

101
tắm, resort, sân golf, không thuộc quản lý của cấp xã nhưng ở đó không thể
không có hoạt động văn hóa.
Các hoạt động ở đó đều có ảnh hưởng, tác động tích cực hoặc cả
mặt tiêu cực tới việc xây dựng đời sống văn hóa ở xã phường sở tại. Việc
liên kết, phối hợp với các tổ chức, đơn vị này trong quản lý và xây dựng
đời sống văn hóa cũng rất quan trọng.
Nội dung các hoạt động văn hóa ở cơ sở được tổ chức thường xuyên
thành cao trào vào các dịp lễ hội ở địa phương. Bên cạnh các lễ hội truyền
thống là những ngày lễ kỷ niệm của đất nước như: ngày Thành lập đảng
mồng 3/2; Ngày Chiến tháng 30/4; Ngày Quốc khánh 2/9, 30/4… và các
ngày hội, kỷ niệm của các ngành, các giới như 8/3, 26/3, 27/7, 22/12,… và
các ngày truyền thống như ngày gia đình Việt Nam 28/6, ngày Hội đoàn
kết dân tộc là 18/11 hàng năm… đang được đông đảo nhân dân ở cơ sở
hưởng ứng và thực hiện rất kết quả, ý nghĩa, thúc đẩy phong trào xây dựng
đời sống văn hóa phát triển.
b. Quản lý là trông coi, giữ gìn theo yêu cầu nhất định, là tổ chức,
điều khiển theo những mục tiêu đề ra.
Quản lý các hoạt động văn hóa ở cơ sở hay xây dựng nội dung hoạt
động văn hóa ở cơ sở là quản lý một mặt công tác nghiệp vụ ở cơ sở đa
dạng và phức tạp, bao gồm cả quản lý con người, công việc hoạt động
chuyên môn thường xuyên, quản lý phương tiện chuyên dùng ngày càng
phát triển…. Cũng như quản lý các vấn đề khác, quản lý các hoạt động văn
hóa ở cơ sở trước hết phải quản lý bằng kế hoạch, thông qua các kế hoạch
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và có tính khả thi.
Cơ sở là địa bàn quan trọng để tiếp nhận và giải quyết, chuyển hóa
các Văn bản (Chỉ thị, Nghị quyết) và sự chỉ đạo hướng dẫn về nghiệp vụ
chuyên môn từ trên xuống vì thế cần có kế hoạch để tiến hành một cách
khoa học. Cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở phải là người có tư duy
quản lý, biết quản lý theo kế hoạch, công việc được sắp xếp một cách khoa

102
học, hợp lý theo tình hình thời gian, theo sự thống nhất trong phân công và
phối hợp, điều hoà các mối quan hệ ở địa phương và cơ sở.
Người quản lý là người vạch ra các chương trình kế hoạch và chịu
trách nhiệm về nội dung kế hoạch ấy, do đó cần thận trọng, tỉ mỉ trước các
quyết định đưa ra. Muốn vậy người quản lý tốt công tác văn hóa ở cơ sở
phải có nhãn quan chính trị, có trình độ pháp lý, nghiệp vụ, năng lực tổ
chức, tâm lý xã hội và nghệ thuật chỉ huy. Người làm công tác Văn hóa cơ
sở là người đứng mũi chịu sào về lĩnh vực đời sống tinh thần của cộng
đồng, nên coi đó là lĩnh vực thiêng liêng, rất vinh dự, cần được trân trọng.
Họ là nhà quản lý giỏi, và trong công tác thực tiễn họ có nhiều khả năng
điều kiện để thăng tiến, để trưởng thành hơn trong công tác và cuộc sống.
Do đó bất kể ai được phụ trách việc này cần phải tự mình vươn lên đỉnh
cao, tự rèn luyện và học tập để hoàn thành nhiệm vụ trước hết là chức năng
quản lý. Họ cần phải học rất nhiều, học ở nhà trường rất cần thiết nhưng
học ở trong quần chúng cực kỳ quan trọng nhưng không theo đuôi quần
chúng và lại để cùng quần chúng nhân dân từng cơ sở xây dựng nền văn
hóa mới, con người mới.
Cán bộ văn hóa ở cơ sở phải biết quản lý, phân phối các sản phẩm
văn hóa nghệ thuật, tổ chức quản lý quá trình cảm thụ các giá trị văn hóa
nghệ thuật, bảo đảm gìn giữ các sáng tạo văn hóa văn nghệ quần chúng để
tích lũy vào kho tàng văn hóa đại chúng. Có kiến thức khoa học quản lý
giúp cán bộ văn hóa ở cơ sở tiếp cận phương pháp quản lý văn hóa, tổ
chức các hoạt động văn hóa ở cơ sở tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của
mỗi địa phương để tạo nên sự nghiệp văn hóa mang sắc thái riêng của
từng địa phương.
Xây dựng nội dung hoạt động văn hóa ở cơ sở là công việc nhiều
khó khăn, thử thách vất vả bên cạnh niềm vui được cống hiến, được gần gũi
nhân dân. Phong trào xây dựng hoạt động văn hóa ở cơ sở cần có những
cán bộ thật tâm huyết theo mô hình, tiêu chí sau:

103
- Là người tuyên truyền viên, cổ động viên nhiệt thành của Đảng và
là người trực tiếp vận động quần chúng tham gia xây dựng nền tảng văn
hóa dân tộc theo hướng tiên tiến đậm đà bản sắc.
- Là người biết kế thừa tinh hoa văn hóa của làng quê, của dân tộc
bản địa và phát triển các giá trị tốt đẹp ở từng cơ sở trong hoàn cảnh điều
kiện cụ thể.
- Là nhà sư phạm - người làm công tác văn hóa giáo dục ngoài nhà
trường vừa là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa đồng thời là
một nghệ sỹ không chuyên ở cơ sở.
- Là người biết làm kinh tế trong hoạt động văn hóa và biết làm văn
hóa trong phát triển kinh tế đồng thời là người chỉ huy trên mặt trận văn
hóa dưới sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền.
c. Những yêu cầu trong thực hiện xây dựng nội dung hoạt động văn
hóa ở cơ sở:
- Bám sát tình hình nhiệm vụ chính trị của Trung ương và địa
phương. Nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, tranh thủ sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và chính quyền,
của các ngành, các cấp với hoạt động văn hóa cơ sở. Chủ động thực hiện 3
bám: Bám trên (bám vào ngành chủ quản), bám chức năng nhiệm vụ (vị trí,
chức năng, nhiệm vụ công chức văn hóa xã), bám cơ sở và phong trào (nội
dung hoạt động thực tiễn các phong trào tại cơ sở).
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở,
nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn; phát huy vai trò quản lý điều
hành; đổi mới nội dung phương pháp tổ chức thực hiện; phục vụ tận tụy
nhu cầu của nhân dân và cơ sở.
- Thực hiện chủ trương xã hội hóa trong xây dựng sử dụng các thiết
chế văn hóa, trong phối hợp tổ chức hoạt động, trong đầu tư phát triển
nguồn lực theo tinh thần đa dạng hóa nội dung và sản phẩm, phổ cập các
chương trình và đối tượng, liên kết với mọi tổ chức và thành phần và mục
tiêu lợi ích chung.

104
2. Tăng cường nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn
Một số kinh nghiệm chung
- Ở những địa phương có điều kiện, cần đầu tư nâng cấp đồng bộ cả
về cơ sở vật chất, trang trí thiết bị, tăng cường đội ngũ cán bộ có chuyên
môn cao và phát triển nhiều hoạt động thiết thực bổ ích đáp ứng nhu cầu và
chất lượng ngày càng nâng lên của nhân dân.
- Ở những nơi cơ sở vật chất khá đầy đủ nhưng việc khai thác sử
dụng còn hạn chế, hiệu suất chưa cao thậm chí đang xuống cấp, cần tìm
nguyên nhân khắc phục. Đặc biệt thiếu sự phối hợp liên kết trong tổ chức
điều hành, trong khai thác tiềm năng các ngành, và trong nhân dân.
- Ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đời
sống nói chung còn khó khăn không thể huy động sức dân nhiều mà cần tăng
cường khai thác tận dụng phát huy các cơ sở vật chất hiện có, từng bước có
kế hoạch bổ xung, tận dụng tối đa sự bao cấp của Nhà nước, sự chi viện của
trên, mặt khác cũng cần động viên tinh thần tự lực tự cường của đồng bào,
không trông chờ ỷ lại, luôn chủ động sáng tạo trong xây dựng nội dung hoạt
động văn hóa ở cơ sở.
- Cần tận dụng các thiết chế văn hóa ở sở để nâng cao các hoạt động
văn hóa cần có cho nhân dân.
3. Vai trò và phẩm chất của cán bộ văn hóa cơ sở
- Để xây dựng nội dung hoạt động văn hóa cơ sở đạt hiệu quả, cần
có những cán bộ văn hóa cơ sở có năng lực. Vai trò của cán bộ văn hóa
cơ sở là:
+ Cán bộ văn hóa cơ sở phải kế thừa phẩm chất, năng lực của những
cán bộ ưu tú của các làng quê nơi mình sống và làm việc.
+ Cán bộ văn hóa cơ sở phải biết vận động quần chúng trực tiếp,
thiết thực xây dựng và tham gia các nội dung hoạt động văn hóa ở cơ sở
Cán bộ văn hóa cơ sở là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động văn
hóa. Vì vậy, cán bộ văn hóa cơ sở phải hiểu biết sâu sắc nhiệm vụ chính trị

105
- văn hóa - xã hội của địa phương, dùng các phương tiện văn hóa văn nghệ
để tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Hướng dẫn
nhân dân sáng tạo hoạt động văn hóa văn nghệ và tự chủ xây dựng đời sống
văn hóa của chính mình. Bằng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ văn
hóa ở cơ sở trực tiếp tạo cảm hứng, kích thích và tổ chức sáng tạo các sản
phẩm văn hóa, văn nghệ, thỏa mãn nhu cầu văn hóa, tiếp nhận thông tin
của nhân dân ở cơ sở.
- Vai trò của cán bộ văn hóa cơ sở là người trực tiếp tổ chức, hướng
dẫn làm lên nền móng văn hóa dân tộc, do đó cán bộ văn hóa cơ sở cần có
những phẩm chất - năng lực:
+ Cán bộ văn hóa cơ sở là cán bộ tuyên truyền của Đảng: Phẩm chất
đầu tiên là phải kiên định trung thành với Đảng, phải rèn luyện kỹ năng
nói, viết, diễn đạt, trình bày chủ trương đường lối của đảng và Nhà nước,
trình bày những vấn đề thời sự, chính sách, một số tri thức cơ bản về đời
sống xã hội, lịch sử, văn hóa trước công chúng. Hiểu biết sâu sắc và nhạy
cảm những nhiệm vụ chính trị của Đảng, của đất nước, giúp cán bộ văn hóa
cơ sở tìm tòi cách thức thể hiện, sử dụng các phương tiện văn hóa văn
nghệ, thông tin cổ động để chuyển tải những nội dung nhiệm vụ chính trị
hấp dẫn, sâu sắc, truyền cảm tới quần chúng nhân dân ở cơ sở.
+ Cán bộ văn hóa cơ sở là nhà sư phạm - người làm công tác giáo
dục ngoài nhà trường
+ Cán bộ văn hóa cơ sở là người làm công tác tổ chức và quản lý
hoạt động văn hóa văn nghệ quần chúng: Kiến thức về khoa học quản lý
giúp cán bộ văn hóa cơ sở tiếp cận phương pháp quản lý và và tổ chức hoạt
động văn hóa ở cơ sở tùy thuộc vào điều kiện của mỗi địa phương. Công
tác tổ chức, quản lý là yếu tố mạnh để tạo dựng xây dựng nên sự nghiệp
văn hóa ở cơ sở mang sắc thái của mỗi địa phương khác nhau. Cán bộ văn
hóa cơ sở là người bày trò, làm trưởng trò, tổ chức các nội dung hoạt động
văn hóa ở cơ sở phục vụ mục đích và yêu cầu thiết thực của đời sống,

106
miệng nói, tay làm (tay dao, tay thớt; vừa đẵn, vừa vác), trực tiếp lập
chương trình, tổ chức con người, tổ chức công việc, điều hành con người
thực hành công việc, đánh giá, tổng kết. Cán bộ văn hóa cơ sở quản lý
những con người sáng tạo sản phẩm văn hóa văn nghệ. Do đó rất cần vai
trò của người tổ chức - quản lý để hướng dẫn những sáng tạo ấy gắn với
nhiệm vụ, mục đích chính trị, đáp ứng yêu cầu văn hóa xã hội.
+ Cán bộ văn hóa cơ sở là người biết làm kinh tế bằng cách sử dụng
các phương tiện văn hóa nghệ thuật: Có tri thức về kinh tế sẽ giúp cán bộ
văn hóa cơ sở nắm bắt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa
+ Cán bộ văn hóa cơ sở là một người nghệ sĩ: Cán bộ văn hóa cơ sở
phải tự rèn luyện mình thành một nghệ sĩ và đích thực là một nghệ sĩ trong
thực tiễn hoạt động văn hóa cơ sở thuận lợi và đạt hiệu quả thiết thực.
Tóm lại phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tuỳ thuộc vào
các vấn đề sau:
Thứ nhất, một trong các điều kiện cực kỳ quan trọng để xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng quy ước văn hóa và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Cán bộ văn hóa xã giúp cho ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các
công việc sau:
- Chỉ đạo, hỗ trợ các làng, thôn, bản, ấp, cụm dân cư xây dựng
hương ước phù hợp với nội dung đã hướng dẫn.
- Chuẩn bị hồ sơ để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Phối hợp với Mặt trận tổ quốc cấp xã kiểm tra tạo điều kiện cho
việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực hiện hương ước.
- Phát hiện và chấn chỉnh mọi biểu hiện sai trái, lệch lạc tiêu cực trong
việc xây dựng và thực hiện hương ước, định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp
trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc xây dựng và thực hiện hương ước
ở địa phương.

107
Thứ hai, chất lượng của phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
phụ thuộc rất nhiều vào việc thi đua thực hiện các nội dung chỉ tiêu của gia
đình văn hóa, làng (bản, ấp) văn hóa, tổ dân phố văn hóa, cần khắc phục tình
trạng giải đơn tuỳ tiện, và chống bệnh phô trương hình thức, chạy theo thành
tích nhất thời. Việc thi đua và bình xét phải đi vào thực chất thì phong trào
mới kết quả và mới vững.
Thứ ba, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phải đặt dưới sự lãnh đạo
và quan tâm của cấp uỷ cấp xã và chi bộ thôn, bản thường xuyên liên tục.
Kết quả của xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là kết quả chung nhất, hài
hoà nhất của sự lãnh đạo của đảng, quản lý của chính quyền các cấp và vai
trò làm chủ của nhân dân trên địa bàn xã. /.
Câu hỏi thảo luận
1. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có bao nhiêu nội dung hoạt động?
2. Anh (chị) hãy cho biết kỹ năng cơ bản của xây dựng hoạt động
văn hóa cơ sở?
3. Để xây dựng, tổ chức tốt hoạt động văn hóa cơ sở, theo anh/chị
người cán bộ văn hóa cơ sở cần phải có những năng lực, phẩm chất gì?
Bài tập thực hành
- Chọn một nội dung chia làm 2 nhóm đề tiến hành xây dựng nội
dung hoạt động văn hóa cơ sở trên địa bàn xã
- Các nhóm lên trình bày và góp ý lẫn nhau
- Rút bài học về kiến thức của bài và việc áp dụng vào thực tiễn địa
phương.

108
Chuyên đề 5
KỸ NĂNG THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA
CÁC NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CƠ SỞ

Thời lượng: 5 tiết (- )


A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích: Cung cấp cho học viên những kỹ năng cơ bản về thực
hiện xã hội hóa trong hoạt động văn hóa cơ sở hiện nay.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng cơ bản
về thực hiện xã hội hóa trong hoạt động văn hóa cơ sở đồng thời ứng dụng
có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1.Những vấn đề cơ bản về xã hội hóa và xã hội hóa hoạt động
văn hóa
1.1. Bối cảnh ra đời hoạt động xã hội hóa
Xã hội hóa hoạt động văn hóa là một chủ trương lớn của nhà nước
nhằm hướng vào thu hút toàn xã hội, các thành phần kinh tế tham gia các
hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến văn hóa, tạo điều kiện cho các
hoạt động văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân, trên cơ sở đó khuyến khích công tác tự
quản văn hóa của người dân, tăng cường sự Lãnh đạo của Đảng và công tác
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa. Phát huy tiềm năng, trí tuệ,
sự sáng tạo, cơ sở vật chất, công sức của nhân dân và các lực lượng xã hội
cùng nhà nước góp phần chăm lo cho sự nghiệp phát triển văn hóa của đất
nước. Thực hiện một phần việc đổi mới cơ chế quản lý hoạt động của xã
hội, mở rộng quyền và trách nhiệm của nhân dân, các thành phần kinh tế
trong việc tham gia hoạt động và quản lý văn hóa.
Trước đây, trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, toàn bộ
hoạt động văn hóa do các cơ quan nhà nước thực hiện, được nhà nước đầu
(*)
- Lý thuyết: 1 tiết; Thảo luận : 4 tiết.

109
tư toàn bộ về kinh phí, nguồn lực con người để hoạt động. Các hoạt động
văn hóa cơ sở diễn ra dưới sự bảo trợ toàn phần của nhà nước. Nói một
cách cụ thể hơn: Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước
đứng ra làm văn hóa cho nhân dân, còn nhân dân được hưởng thụ văn hóa
từ chế độ bao cấp toàn phần của nhà nước.
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là từ sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), tình trạng bao cấp nói chung và
bao cấp trong lĩnh vực văn hóa nói riêng là không còn phù hợp, đòi hỏi cần
phải có đổi mới. Các hoạt động văn hóa phải gắn chặt với cộng đồng, với
nhân dân, tức là chúng ta cần thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa, trong
đó hoạt động văn hóa cơ sở sát dân, gần dân nhất, cần được thực hiện
phương thức xã hội hóa một cách cơ bản và toàn diện.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa mang tính tất yếu bởi vì xã hội hóa
văn hóa góp phần giải quyết ngay những khó khăn mà hoạt động văn hóa
trong cơ chế thị trường đã vấp phải, đó là: Cơ chế quản lý bao cấp, có
khuynh hướng ỷ lại trông chờ vào nhà nước, đòi hỏi ngân sách nhà nước bao
cấp toàn phần cho mọi hoạt động từ Trung ương đến cơ sở. Ngày nay, trong
nền kinh tế thị trường, nguồn kinh phí do nhà nước tài trợ chỉ có hạn, trong
khi đó sự nghiệp văn hóa phát triển, yêu cầu về chất lượng các hoạt động văn
hóa ngày càng cao, nội dung hoạt động càng đa dạng. Khi nhà nước tiến
hành mở cửa, hội nhập, nhân dân có cơ hội được giao lưu, tiếp xúc với nhiều
hình thức hoạt động văn hóa tiến bộ của thế giới, đặc biệt khi các phương
tiện truyền thông nghe, nhìn phát triển mạnh (Tivi, Internet, các sản phẩm
báo hình, báo viết…), thị hiếu thẩm mỹ và nhu cầu văn hóa của nhân dân
ngày càng cao. Chính vì vậy các tổ chức, đơn vị hoạt động văn hóa phải tự
lo liệu một phần để có kinh phí hoạt động. Xã hội hóa hoạt động văn hóa
được coi là một nhiệm vụ quan trọng, là mục tiêu, là phương thức nhằm
khắc phục những bất cập về văn hóa trong thời kỳ thực hiện cơ chế bao

110
cấp. Do đó cần phải “Xúc tiến xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động
các nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công
trình và thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa, khuyến khích các
tổ chức cá nhân, hộ gia đình, đoàn thể tham gia hoạt động văn hóa”4.
1.2. Khái niệm
Khái niệm xã hội hóa: Xã hội hóa theo Từ điển tiếng Việt “Hóa” là
làm cho, trở thành hoặc trở nên có tính chất nào đó. “Xã hội hóa” là làm
cho nó mang tính xã hội, làm cho nó trở thành vấn đề của xã hội.
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là vận dụng và tổ chức sự tham
gia của nhân dân, của toàn xã hội vào công cuộc phát triển sự nghiệp văn
hóa, nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và sự phát triển
đời sống tinh thần, đồng thời nêu cao trách nhiệm của toàn xã hội, từng
cộng đồng dân cư đối với sự nghiệp phát triển văn hóa để đạt được mục
tiêu “Văn hóa là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân, của cộng đồng”. ,
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa có nghĩa là biến các hoạt động văn
hóa trở thành hoạt động của toàn xã hội, được toàn xã hội quan tâm và nuôi
dưỡng. Các hoạt động văn hóa không còn là của riêng ngành Văn hóa mà
thu hút được sư tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức đoàn
thể quần chúng, các doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
Về vấn đề thực hiện xã hội hóa, chúng ta cần hiểu và nhận thức sâu
sắc rằng: Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là một quá trình vận động liên
tục, thu hút toàn xã hội, toàn cộng đồng dân tộc cùng tham gia vào sự
nghiệp phát triển văn hóa. Xã hội hóa là quá trình từ đơn giản đến phức tạp,
từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng. Xã hội hóa không phải là giải pháp tình
thế vì do thiếu người, thiếu kinh phí, thiếu cơ sở vật chất, thiếu trang thiết
bị và thiếu kiến thức cơ bản nên phải tiến hành thực hiện xã hội hóa. Xã hội

4
(2006), Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 214.

111
hóa là chiến lược lâu dài, xuất phát từ bản chất của văn hóa, chính vì vậy,
chúng ta cần phải vượt thoát khỏi những tư duy và tầm nhìn hạn hẹp “Nhà
nước không kham nổi nên phải thực hiện xã hội hóa văn hóa”. Xã hội hóa
các hoạt động văn hóa chính là bước chuyển tiếp và đỉnh cao của phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Lấy sức dân xây dựng đời sống
văn hóa cho dân” đã được thực hiện trong lĩnh vực văn hóa. Chỉ có thông
qua xã hội hóa, các hoạt động văn hóa mới có thể thực hiện được quan
điểm cơ bản của Đảng và nhà nước về văn hóa, bởi “Văn hóa là sự nghiệp
của toàn Đảng, toàn dân, của cộng đồng”.
1.3. Yêu cầu cơ bản của hoạt động xã hội hóa
Trong quá trình thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt, đồng thời huy động tiềm năng, nguồn lực của mọi lực
lượng, mọi thành phần kinh tế xã hội, cùng tham gia sáng tạo, cung cấp và
phổ biến giá trị văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát triển
mạnh mẽ, rộng khắp, đa dạng về chủ thể hoạt động, dân chủ hóa nhưng
không thương mại hóa hoạt động văn hóa. Đảm bảo phát huy quyền sáng tạo
của nhân dân, nâng cao trách nhiệm công dân của từng cá nhân đối với xã
hội. Xã hội hóa là đề cao trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,
các ngành, đoàn thể, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia
của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội vào quản lý và phát triển văn
hóa, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân để phát
triển sự nghiệp văn hóa. Xã hội hóa là giải pháp quan trọng để thực hiện
chính sách công bằng xã hội không chỉ về quản lý, thúc đẩy hoạt động văn
hóa mà cả sản phẩm và cách thức làm văn hóa; không chỉ có hưởng thụ mà
còn có đóng góp, cống hiến của nhân dân cho sự nghiệp văn hóa, đây là một
chính sách lâu dài, mang tính khoa học và phù hợp với quy luật phát triển.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện xã hội hóa, cần chú ý tránh sự
lệch chuẩn đó là:

112
Thứ nhất, thả nổi hoạt động văn hóa cho xã hội mà thiếu sự quan
tâm, quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước, cũng như thiếu sự
chăm lo đầu tư thích đáng của nhà nước cho hoạt động văn hóa, từ đó có
thể dẫn tới tình trạng thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách
tràn lan.
Thứ hai, Chúng ta dựa vào xã hội hóa, dựa vào nguồn nhân lực
chung của toàn xã hội chăm lo cho văn hóa để thu hẹp vốn đầu tư của nhà
nước cho văn hóa từ ngân sách Trung ương đến ngân sách địa phương, làm
trở ngại các hoạt động văn hóa.
2.Thực trạng thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở
2.1. Tính chất, đặc điểm của hoạt động xã hội hóa
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa cơ sở là quá trình vận động và tổ
chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào các nội dung
hoạt động văn hóa cơ sở. Xã hội hóa là xây dựng cộng đồng trách nhiệm
của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo ra và phát triển môi trường văn
hóa lành mạnh từ cơ sở. Ở mỗi địa phương, thực hiện xã hội hóa là thể hiện
cộng đồng trách nhiệm của Cấp ủy Đảng, Chính quyền, các cơ quan nhà
nước và các tổ chức đoàn thể quần chúng, của từng người dân. Đây cũng là
trách nhiệm, là nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, hỗ trợ cho
sự phát triển hoạt động văn hóa cơ sở, nhưng vẫn bảo đảm hoạt động kinh
doanh, sản xuất của đơn vị mình đạt hiệu quả, không vì thực hiện xã hội
hóa mà ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hóa xã hội của địa phương và
trong cả nước.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở là đa dạng các hình thức hoạt
động trong hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Bên cạnh việc
củng cố các hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhà nước, phải phát triển
rộng rãi các hình thức hoạt động do các tập thể và cá nhân tiến hành trong
khuôn khổ chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. đa dạng hóa là

113
mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân được tham gia một cách chủ
động và bình đẳng trong các hoạt động văn hóa cơ sở.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở là đa dạng các nguồn lực đầu tư
cho sự phát triển, khai thác các nguồn nhân lực và tiềm lực đang tiềm ẩn
trong xã hội. Cùng với tăng dần ngân sách Nhà nước, huy động và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, của cộng đồng tạo thêm điều kiện
cho các nội dung hoạt động văn hóa cơ sở phát triển, đạt hiệu quả xã hội cao.
Thực hiện xã hội hóa huy động các nguồn lực trong dân để xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở, nhưng không nên hiểu đây là biện pháp tạm thời,
là giải pháp tình thế trước mắt do Nhà nước thiếu kinh phí hoạt động nên
cần phải thực hiện phương châm xã hội hóa để huy động các nguồn lực.
Ngược lại, xã hội hóa là chính sách lâu dài, là một phương thức trong việc
thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Phát triển sự nghiệp
văn hóa là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân trong đó nội dung hoạt động
văn hóa ở cơ sở giữ vị trí quan trọng nên một khi đất nước đã phát triển,
mức sống và chất lượng cuộc sống của nhân dân được cải thiện và nâng
cao, ngân sách nhà nước đã ổn định thì chúng ta vẫn phải thực hiện xã hội
hóa bởi các hoạt động văn hóa cơ sở sẽ phát triển không ngừng với nguồn
lực to lớn được huy động từ trong nhân dân.
Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước,
giảm hết phần ngân sách nhà nước đầu tư cho các hoạt động văn hóa, trái
lại Nhà nước thường xuyên huy động tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ
ngân sách chi cho hoạt động văn hóa cơ sở, đồng thời quản lý tốt để nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí này. Thực hiện xã hội hóa, vận
động, huy động sự đóng góp rộng rãi của các tầng lớp nhân dân vào các
hoạt động văn hóa cơ sở là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước, thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.

114
2.2. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động xã hội hóa
Việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa cơ sở có ý nghĩa hết
sức quan trọng là tạo ra sự phát triển bền vững, lâu dài lực lượng văn hóa
rộng lớn ở cơ sở, nhằm phát huy tinh thần làm chủ, sáng tạo và nâng cao
mức hưởng thụ văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân ở cơ sở, đồng
thời là cốt lõi cốt lõi để xây dựng, gìn giữ bản sắc dân tộc. Xã hội hóa hoạt
động văn hóa cơ sở là việc vận động và tổ chức rộng rãi cho quần chúng
nhân dân và toàn xã hội tham gia đóng góp xây dựng và phát triển văn hóa
cơ sở. Vận động, động viên, tổ chức và tạo điều kiện tốt cho nhân dân,
cộng đồng, các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức
kinh tế, doanh nghiệp có thể tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
đời sống văn hóa nói chung và hoạt động văn hóa cơ sở nói riêng.
Thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở cần chú ý đến hai mặt:
một mặt vừa tiến hành vận động, thuyết phục, vừa biết cách hưởng dẫn cho
các tổ chức, cá nhân đóng góp ngày càng tích cực hơn cho sự nghiệp chung.
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa cơ sở không đồng nghĩa với việc tự do
hóa và tư nhân hóa các nội dung hoạt động. Trong quá trình thực hiện xã hội
hóa, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước (Chính quyền), cơ quan chủ
quản (Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phải giữ vai trò quan trọng, đó
là vai trò quản lý nhà nước theo đúng chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước và nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn tổ chức
thực hiện. Cá nhân được chủ động tham gia vào mọi hoạt động xã hội hóa
nhưng phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật có liên quan.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở nhằm mục đích tăng cường mở
rộng các nguồn lực đầu tư, để khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm
năng về các nguồn lực đầu tư (kinh phí, phương tiện trang thiết bị phục vụ
hoạt động, trí lực…). Vì vậy thực hiện xã hội hóa phải gắn liền với việc
xây dựng và ban hành cơ chế thực hiện, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
luật và các văn bản dưới luật, cải tiến bộ máy quản lý, đồng thời phải tiến

115
hành đổi mới các hoạt động đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao để
phục vụ công chúng tốt hơn.
Xã hội hóa là một phương thức hoạt động mới rất cần được đẩy
mạnh trong đời sống cộng đồng. Đây là một chủ trương lớn nhằm tăng
cường chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa, vừa gia tăng các chủ thể khác
(nhân dân, cộng đồng) trong quản lý đời sống văn hóa ở cơ sở, vừa thể hiện
sự đổi mới về phương thức quản lý nhà nước, vừa khai thác vai trò tự quản
của người dân và tổ chức xã hội trong hoạt động văn hóa và xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở theo mô hình Nhà nước, cá nhân, cộng đồng cùng
làm văn hóa. Xã hội hóa là chuyển một phần công việc của Nhà nước cho
nhân dân, tổ chức, tập thể, tư nhân nhưng Nhà nước không giảm nhẹ trách
nhiệm quản lý, không giảm ngân sách cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xã
hội hóa được thực hiện với phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm,
các tổ chức cá nhân, các thành phần kinh tế liên doanh, liên kết với các đơn
vị Nhà nước, hoặc tự bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ trong
lĩnh vực văn hóa theo đúng pháp luật. (Ví dụ trong lĩnh vực điện ảnh, năm
2015 đã có 450 cơ sở điện ảnh được cấp phép để sản xuất phim, các cơ sở
sản xuất phim tư nhân đã thành công trong việc sản xuất một số phim đã
được công chiếu như Hương Ga (2015), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
(2015), Trúng số (2015), Tấm Cám: Chuyện chưa kể (2016)… đặc biệt
phim “Trúng số” và phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã đoạt giải
tại Liên hoan phim Quốc tế Hà Nội 2016).
2.3. Kết quả hoạt động xã hội hóa
Trong lĩnh vực hoạt động văn hóa cơ sở, nhờ thực hiện phương thức xã
hội hóa, nhiều nội dung hoạt động đã đạt được những kết quả to lớn, cụ thể:
- Thực hiện xã hội hóa xây dựng và tổ chức hoạt động của các
thiết chế văn hóa cơ sở
Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm đa dạng hóa, sinh
động hóa đời sống văn hóa của người dân không chỉ là một hướng đi, một

116
mục tiêu mà thực sự mang tính chất một hệ biện pháp quản lý có hiệu quả,
giúp cho đời sống văn hóa cơ sở của người dân được gia tăng cả số lượng
và chất lượng. Thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa văn hóa: Nhân
dân trong cả nước tham gia thực hiện đã đóng góp to lớn vào xây dựng cơ
sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, các thiết chế và hoạt động
văn hóa, thể thao ở cơ sở. Mô hình, điển hình tiên tiến về xã hội hóa văn
hóa xuất hiện ngày càng nhiều. Đã và đang hoàn thiện Trung tâm văn hóa,
thể thao xã đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Xây dựng và phát triển đồng bộ nhà văn hóa, khu thể thao ở thôn, làng, ấp,
bản, buôn, tổ dân phố… tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân ở cơ sở tham
gia các hoạt động văn hóa, thể thao. Hệ thống thiết chế Nhà văn hóa xã,
phường, thôn, bản với các loại hình hoạt động phong phú tại chỗ đã góp
phần tạo nên một môi trường văn hóa lành mạnh, hướng nhân dân về một
nếp sống đẹp, đầy tình nhân ái. Cả nước có 4.703/11.198 xã/phường, thị
trấn có Trung tâm Văn hóa - Thể thao chiếm tỷ lệ 42%, tiêu chí quy hoạch
đề ra đến năm 2010 là 80%; 37.124 thôn (ấp) có nhà văn hóa; 7.558 xã có
sân thể thao; 34.303 thôn có sân thể thao. Nhiều địa phương, đặc biệt là
các địa phương thu ngân sách thấp, nhưng đã thực hiện chính sách hỗ trợ
xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở theo công thức: 5 (cấp tỉnh) + 3 (cấp
huyện) + 2 (nhân dân đóng góp), tạo cơ chế thúc đẩy xây dựng, phát triển
nhanh chóng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Điển hình trong xây dựng
thiết chế văn hóa theo phương thức xã hội hóa nhà nước và nhân dân cùng
làm là các tỉnh Lào Cai, Sơn La … 5. Nhiều địa phương đã ban hành các
quy định rất tích cực cho việc xây dựng và duy trì các thiết chế văn hóa
5
Tỉnh Lào Cai năm 1999, toàn tỉnh mới chỉ có 12 thôn, bản có nhà văn hóa nhưng đến năm 2015, toàn tỉnh có 1.386 nhà văn hóa,
trong đó 1.322 nhà văn hóa thôn, tổ dân phố. Tổng kinh phí đầu tư xây dựng nhà văn hóa thôn bản trong giai đoạn từ năm 2000
đến nay khoảng 106 tỷ đồng, trong đó kinh phí nhà nước đầu tư 51 tỷ đồng, kinh phí xã hội hóa (nhân dân đóng góp) 49 tỷ đồng,
nguồn hỗ trợ khác 6,6 tỷ đồng. Ngoài ra, riêng kinh phí đầu tư xây dựng nhà văn hóa xã giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 142,3 tỷ
đồng. Toàn tỉnh có 829/1322 nhà văn hóa đựoc cấp trang thiết bị hoạt động (đạt 62,7%), có 1014 đội văn nghệ và 977 đội thể thao
thôn bản góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Tại tỉnh Sơn La, đến năm 2017, toàn tỉnh hiện có
194/206 nhà văn hóa cấp xã; 1.924/3.296 nhà văn hóa thôn/bản, tiểu khu, tổ dân phố đã được đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt
động, trong đó: mỗi nhà văn hóa xã được tỉnh cấp hỗ trợ 50 triệu/xã, giao cho huyện làm chủ đầu tư xây dựng với phương châm
nhà nước và nhân dân cùng làm với tổng vốn toàn tỉnh gần 20 tỷ đồng, vốn ngân sách nhà nước cấp 9.650 tỷ đồng, số còn lại do
nhân dân đóng góp bằng nhiều nguồn như đóng góp công lao động, nguyên vật liệu, kinh phí…; Nhà văn hóa thôn bản được tỉnh
cấp hỗ trợ với các mức 30 triệu/thôn, bản có từ 49 hộ trở xuống, 50 triệu/bản có 50 hộ trở lên, tổng vốn đầu tư gần 40 tỷ đồng,
trong đó nguồn ngân sách nhà nước cấp gần 15 tỷ, số còn lại do nhân dân đóng góp. Mô hình nhân dân tự đầu tư xây dựng toàn bộ
đã xây dựng 671 Nhà văn hóa, có những nhà văn hóa được đầu tư hàng tỷ đồng hoàn toàn do nhân dân tự đóng góp. Đến nay 100%
các xã có trạm y tế. (Nguồn: (2016), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới Khu vực vùng núi phía Bắc, tr. 118, 257 - 258)

117
mới như công viên, khu vui chơi giải trí, điểm vui chơi cho trẻ em, nhà văn
hóa xã, thôn, nhà Rông văn hóa; thuyền văn hóa; trạm văn hóa thông tin,
ấp, khóm văn hóa. Trong việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa, đặc biệt là
quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có nhiều công trình văn
hóa mới ra đời đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bên cạnh việc khôi
phục tôn tạo khai thác sử dụng các thiết chế cũ, hoặc có từ trước, hiện nay
các thiết chế văn hóa cơ sở mới cơ bản đã phát huy hiệu quả và tác dụng.
Tuy nhiên, vẫn còn có một số cơ sở, một số nơi việc khai thác và sử dụng
các thiết chế này còn hạn chế. Không hoạt động theo đúng chức năng,
nhiệm vụ, còn lãng phí và bị thương mại hóa.
- Xã hội hóa trong hoạt động nghệ thuật và biểu diễn nghệ thuật
quần chúng
Nếu như trước đây, hoạt động biểu diễn nghệ thuật là sự độc quyền
của các đoàn nghệ thuật nhà nước, thì nay đã được mở rộng, tạo điều kiện
cho nhiều tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, nhiều cơ quan, ban ngành, các
hội nghề nghiệp, các ban nhóm, câu lạc bộ, đội văn nghệ từ các thôn, bản,
xã/phường, quận/huyện cũng được hình thành, phát triển hoạt động sôi
động trên địa bàn cả nước. Chính sách xã hội hóa tác động mạnh mẽ, tích
cực, thúc đẩy tính năng động, sáng tạo trong mỗi cá nhân, đơn vị, những
nghệ sĩ sáng tác, biểu diễn, những nhà tổ chức, quản lý nghệ thuật… từ đó
nhiều lĩnh vực mới trong lĩnh vực nghệ thuật được ra đời, tạo nên một môi
trường sinh hoạt nghệ thuật sôi động trên phạm vi cả nước. Tính đến nay,
cả nước có 131 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, 72 Trung tâm văn hóa cấp
tỉnh, 541/697 huyện có Trung tâm Văn hóa hoặc Nhà văn hóa huyện, 55
đội thông tin lưu động cấp tỉnh, 498 đội thông tin cấp huyện, 713.392 tổ,
đội văn nghệ quần chúng, 3.899.820 lượt người tham gia thường xuyên các
hoạt động văn hóa - văn nghệ quần chúng. Phong trào văn hóa, thể thao
tiếp tục được duy trì, cả nước hiện có 2.991.989 câu lạc bộ các loại hình;
713.392 tổ, đội văn nghệ quần chúng; 13.586.622 người luyện tập thể dục

118
thể thao thường xuyên, đạt tỷ lệ 26,25%; 3.899.820 lượt người tham gia
thường xuyên các hoạt động văn hóa - văn nghệ quần chúng 6.
- Xã hội hóa trong hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình
văn hóa
Công tác xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng con người về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nếp sống được chú trọng thông qua hoạt
động chỉ đạo triển khai và thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, phong trào đã thực sự đi vào đời sống, trở thành một
phong trào thi đua yêu nước rộng lớn của quần chúng, ngày càng phát triển
mạnh mẽ, mang lại những thành tựu to lớn, toàn diện và sâu sắc; Phong
trào đã góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển. Thông qua các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục văn hóa, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành,
đoàn thể các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội về văn hóa, về trách nhiệm
thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa trong giai đoạn mới được nâng lên.
Nhiều giá trị văn hóa; các quy định pháp luật và quy chế, quy tắc ứng xử văn
hóa ngày càng thâm nhập vào đời sống đã góp phần quan trọng tạo dựng môi
trường sống lành mạnh cho cộng đồng dân cư, cho mỗi gia đình và cá nhân.
Nhân dân trong cả nước tham gia thực hiện Phong trào ngày càng đông
đảo, đóng góp to lớn vào xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội,
các thiết chế và hoạt động văn hóa, thể thao ở cơ sở; mô hình, điển hình
tiên tiến về xã hội hóa văn hóa xuất hiện ngày càng nhiều, tạo nên sự đa
dạng về nội dung và phương thức tổ chức xây dựng đời sống văn hóa và phát
huy sức sáng tạo văn hóa của nhân dân trên các địa bàn. Nội dung văn hóa cụ
thể đã có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội một
cách bền vững. Truyền thống đoàn kết và đạo lý dân tộc được phát huy trở
thành nội lực giúp nhau “Xóa đói giảm nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”. Xây

6
Nguồn: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở) (2016), Thống kê số liệu Thiết chế
văn hóa cơ sở, Đội thông tin lưu động; Kỷ yếu Hội thảo nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở.

119
dựng con người về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nếp sống được chú
trọng. Vai trò, vị trí của gia đình và cộng đồng được nâng lên trong xây
dựng đời sống văn hóa; tình làng, nghĩa xóm được củng cố, thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có tiến bộ ở nhiều nơi.
Nhiều giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn, phát huy làm phong phú đời sống
văn hóa của nhân dân ở cơ sở; hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở tiếp tục duy
trì, phát triển, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân.
Thể hiện sinh động nhất là ngày càng xuất hiện nhiều nhân tố mới về
điển hình tiên tiến trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Nhiều tập thể,
đơn vị, cá nhân đã đóng góp những thành tích xuất sắc trong công tác xây
dựng gia đình, làng, thôn, ấp, bản khu phố văn hóa, khu dân cư tiên tiến,
đóng góp nhiều công của, trí sáng tạo cho việc xây dựng cơ sở vật chất,
thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thông tin ở cơ
sở, tích cực tham gia xã hội hóa hoạt động văn hóa không vì mục đích sinh
lợi thông qua việc xây dựng các mô hình văn hóa gia đình, văn hóa cộng
động, văn hóa tập thể. Các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa đã dần
dần đi vào ổn định và lành mạnh. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa,
làng thôn ấp bản, tổ dân phố văn hóa, cơ quan công sở văn hóa được đẩy
mạnh rộng khắp các vùng, miền.
Đại bộ phận các cộng đồng dân cư đã gắn xây dựng khu dân cư tiên
tiến với xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa, phát
huy vai trò của Ban Công tác mặt trận trong việc tuyên truyền, vận động,
đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân và tổ chức tốt việc bình xét, công
nhận, công nhận lại các danh hiệu gia đình văn hóa, khu dân cư tiên tiến,
làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong việc nâng
cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở khu dân cư. Trong 15 năm triển khai
thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa (giai
đoạn 2000 - 2015), theo tổng hợp báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, đến
tháng 12 năm 2015, cả nước đã có 18.651.317/21.771.790 gia đình đạt
chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa (đạt tỷ lệ 85, 67%); có 73.984/104.609
làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa được công nhận (đạt tỷ lệ 70,72%); có

120
84.785/114. 972 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa đều
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (đạt tỷ lệ 73.74%)7.
- Xã hội hóa trong công tác bảo tồn di sản văn hóa, giáo dục
truyền thống
Thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa gắn liền với phương
châm xã hội hóa trong công tác bảo tồn di sản văn hóa, giáo dục truyền
thống đã góp phần nâng cao nhận thức của xã hội là coi di sản văn hóa
không chỉ là tài sản có giá trị nhằm giáo dục truyền thống mà còn là một
nguồn lực to lớn góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Công tác
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa được quan tâm đặc biệt và đạt
được những kết quả quan trọng. Nhiều văn bản thiết yếu nhằm bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa được xây dựng và ban hành như Luật Di sản Văn
hóa ban hành năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009 và các Văn bản
Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện cùng với thực hiện xã hội hóa
bảo tồn di sản văn hóa và giáo dục truyền thống đã đạt được những kết quả
to lớn. Tính đến tháng 12/2017 cả nước đã có 3424 di tích Quốc gia được
xếp hạng (trong đó gồm có Di tích lịch sử: 1594; Di tích kiến trúc nghệ
thuật: 1589; Di tích khảo cổ: 95; Di tích danh lam thắng cảnh: 146; Di
tích Quốc gia đặc biệt được xếp hạng: 95; Tổng số bảo vật Quốc gia được
công nhận: 25; Tổng số bảo vật Quốc gia hiện có: 143; Di sản văn hóa phi
vật thể được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: 228)
và 9.857 di tích cấp tỉnh8. Các di tích được xếp hạng đã tạo điều kiện cho
các cơ quan quản lý và chuyên ngành phát huy tốt công tác quản lý và bảo
tồn, giữ gìn di tích. Nhiều bảo tàng Quốc gia, bảo tàng tỉnh đã được nâng
cấp, chỉnh lý, trưng bày, thu hút khách tham quan và nghiên cứu. Nhiều
Bảo tàng mới được xây dựng đã tạo ra diện mạo mới cho các thiết chế văn
hóa của địa phương và ngành. Cả nước hiện có 154 Nhà Bảo tàng (123 Bảo
tàng Công lập, 31 Bảo tàng tư nhân) Đặc biệt là chương trình mục tiêu

7
Nguồn: Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương Phong trào TDĐKXDĐSVH (2016), Báo cáo Tổng kết
15 năm thực hiện Phong trào TDĐKXDĐSVH (giai đoạn 2000 - 2015), Hà Nội.
8
Nguồn: Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2017), Báo cáo Công tác bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa, Hà Nội.

121
Quốc gia về văn hóa trong đó có mục tiêu chống xuống cấp các di tích đã
được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nhằm phục hồi nhiều di tích trọng
điểm đã bị xuống cấp. Tính đến nay, hệ thống di sản văn hóa đặc biệt là 27
di sản văn hóa được UNESCO ghi danh công nhận là Di sản văn hóa thế
giới9 đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn và phát huy giá
trị di sản, đồng thời là động lực thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển,
góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong hội
nhập và phát triển.
Nhờ thực hiện chính sách xã hội hóa trong bảo tồn di sản văn hóa,
công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể,
các di tích văn hóa, lịch sử, cách mạng và các danh lam thắng cảnh, cảnh
quan môi trường… được đầu tư tu bổ, tôn tạo. Các loại hình nghệ thuật dân
gian truyền thống được đầu tư, nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi và phát huy
như: Hát ca trù, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh,
Đàn ca tài tử Nam Bộ. Hệ thống di tích lịch sử văn hóa từ Trung ương đến
cơ sở được đầu tư tôn tạo, bảo tồn, chống xuống cấp. Hoạt động văn hóa, lễ

9
Di sản Văn hóa xếp hạng thế giới (tính đến thời điểm tháng 12 năm 2017) gồm 27 Di sản (trong
đó Di sản văn hóa Thế giới: Quần thể di tích Huế (1993); Khu phố cổ Hội An (1999); Khu di tích
Chăm Mỹ Sơn (1999); Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội (3/7/2010); Thành Nhà Hồ
(27/6/2011). Di sản thiên nhiên Thế giới: Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (03/7/2003 - 03/7/2015.
Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại: Nhã nhạc - Âm nhạc Cung đình Việt Nam (2003);
Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (15/11/2005); Dân ca quan họ Bắc Ninh (30/9/2009); Hội
Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (16/11/2010); Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ
(06/12/2012); Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh (27/11/2014); Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ (05/12/2013);
Nghi lễ và trò chơi Kéo co (ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc, Philippinnes) (02/12/2015); Thực hành
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt (01/12/2016); Di sản văn hóa phi vật thể “Nghệ thuật Bài
Chòi Trung Bộ Việt Nam” (Ngày 7/12/2017 tại Jeju, Hàn Quốc); Di sản văn hóa phi vật thể “Hát Xoan Phú Thọ”
(Ngày 8/12/2017 tại Jeju, Hàn Quốc). Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp: Hát Ca trù
(01/10/2009); Hát Xoan Phú Thọ (24/22/2011). Di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới của UNESCO:
Mộc bản Triều Nguyễn (31/7/2009); Bia đá các khoa thi Tiến sỹ thời Lê - Mạc (1442 - 1779) tại Văn Miếu
(09/3/2010). Di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới của UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương: Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm (16/5/2012); Châu bản triều Nguyễn (14/5/2014); Thơ văn trên
kiến trúc Cung đình Huế và Mộc bản Trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) (01/12/2016). Di sản văn hóa và thiên
nhiên (hỗn hợp): Quần thể danh thắng Tràng An (23/6/2014). Di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới của
UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế; Mộc bản trường học
Phúc Giang (Hà Tĩnh) (19/5/2016)). (Năm 2017: Tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 12 của UNESCO diễn ra tại Jeju, Hàn Quốc: Ngày 7/12/2017, Di sản văn hóa
phi vật thể “Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ Việt Nam” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; Ngày 8/12/2017, di sản văn hóa phi vật thể “Hát Xoan Phú Thọ” đã
chính thức được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại).
(Nguồn: Số liệu do Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cung cấp tại thời điểm
tháng 12/2017).

122
hội được tổ chức sôi động, đa dạng, phong phú, đặc biệt việc tổ chức các lễ
hội lớn có quy mô quốc tế (festival Huế, festival cồng chiêng Tây Nguyên,
canarval Hạ Long…), góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Việt
Nam và hội nhập. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch: Hiện cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm
88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,
28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội văn
hóa, thể thao và du lịch và lễ hội khác đang được bảo tồn và phát huy trong
đời sống sinh hoạt của cộng đồng10. Nhiều lễ hội có quy mô lớn được tổ chức
thường xuyên như Lễ Hội Đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội Chùa Hương (Hà Nội),
lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh), lễ hội Núi Bà Đen (Tây Ninh), lễ hội Bà Chúa
Xứ (Núi Sam - An Giang) đã góp phần bảo tồn và tôn vinh giá trị di sản di
tích văn hóa nơi tồn tại và phát huy loại hình lễ hội dân gian tiêu biểu này.
Thực hiện cơ chế xã hội hóa trong công tác quản lý và tổ chức lễ hội,
đặc biệt là hệ thống lễ hội dân gian chiếm số lượng lớn đang được cộng
đồng ở cơ sở nắm giữ và thực hành đã được sử dụng phần lớn bằng nguồn
lực xã hội hóa. Ví dụ: Hiện cả nước có 7.996 lễ hội, trong đó có 7.039 Lễ
hội dân gian (chiếm 88,36 %), nhưng kinh phí tổ chức toàn bộ hệ thống lễ
hội dân gian đều do nguồn lực xã hội hóa (do nhân dân đóng góp), chỉ có
duy nhất Lễ hội Đền Hùng - Lễ hội Quốc gia khi được tổ chức theo quy mô
Quốc lễ vào năm chính/10 năm/lần, nhà nước hỗ trợ một nguồn kinh phí
còn lại tỉnh Phú Thọ đều sử dụng nguồn lực xã hội hóa để tổ chức lễ hội.
Lễ hội Bà Chúa Xứ (Núi Sam - An Giang) tổ chức hoàn toàn bằng nguồn
lực xã hội hóa, bình quân mỗi năm thu được 80 - 100 tỷ đồng, nguồn kinh
phí này đã được sử dụng để bảo tồn di tích, nâng cấp cơ sở hạ tầng và thực
hiện các chính sách an sinh xã hội tại địa phương của huyện Châu Đốc và
tỉnh An Giang.

10
(2008), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), Thống kê Lễ hội Việt
Nam, Hà Nội, Tập 1, tr. 11-14, Tâp 2, tr. 7-10.

123
2.4. Một số hạn chế
Trong quá trình thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở, công
tác quản lý nhà nước về văn hóa còn hạn chế, yếu kém: Hiện nay chúng ta
đang tiến hành quản lý văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường, nhưng dấu
ấn của cơ chế bao cấp vẫn còn khá sâu đậm chưa thóat ly hẳn khiến cho
nhiều cơ quan quản lý văn hóa, doanh nghiệp, tổ chức văn hóa vẫn trông
chờ ỷ lại vào cơ chế bao cấp của Nhà nước, chưa phát huy được tính tích
cực chủ động, sáng tạo. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa chưa
phát huy hiệu quả cao. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa còn
nhiều hạn chế, chưa đồng bộ.
3. Định hướng, nhiệm vụ và một số giải pháp thực hiện xã hội
hóa hoạt động văn hóa cơ sở
3.1. Yêu cầu thực hiện xã hội hóa
Để thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở, cần thực hiện một
số yêu cầu cơ bản có tính nguyên tắc:
- Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, phát huy hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước biến các văn
bản pháp quy trở thành một nhu cầu thiết thực để điều chỉnh mọi hoạt động
văn hóa diễn ra trên địa bàn cơ sở.
- Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở thực chất là nâng cao quyền tổ
chức và điều hành các hoạt động sáng tạo văn hóa theo hướng đa dạng chủ
thể hoạt động, quản lý. Đó là quá trình hai chiều đưa những giá trị văn hóa
tinh thần dưới dạng những loại hình văn hóa nghệ thuật vào đời sống xã
hội, trở thành tài sản chung của xã hội, mặt khác phát động và tạo điều kiện
để nhân dân sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới.
- Về mặt nhận thức thì xác định xã hội hóa là cả một quá trình vận
động, tổ chức sự tham gia đóng góp của nhiều ngành, nhiều giới, nhiều tổ
chức kinh tế văn hóa, xã hội và cả rộng rãi trong nhân dân để tận dụng,
phát huy tất cả mọi nguồn lực chăm lo cho sự phát triển văn hóa, phục vụ

124
mục tiêu xây dựng “Nền Văn hóa tiên tiến … dân tộc”. Phải xem các tổ
chức, doanh nhân, cá nhân tham gia vận hành hoạt động văn hóa cơ sở là
những người bạn đồng hành của ngành Văn hóa rất cần có sự đồng cảm, hỗ
trợ trong gánh vác nhiệm vụ và sẻ chia quyền lợi chung.
- Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở không có nghĩa là giảm bớt
phần ngân sách Nhà nước chi cho văn hóa. Nhà nước thường xuyên tìm
thêm các nguồn thu để tăng thêm kinh phí chi cho các hoạt động văn hóa.
Nhà nước khuyến khích mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác mọi tiềm
năng trong nước và nước ngoài để phát triển văn hóa.
- Thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở không đồng nghĩa
với việc tư nhân hóa, thương mại hóa các hoạt động văn hóa. Không trông
chờ, ỷ lại vào nhà nước đồng thời cũng không xem nhẹ vai trò chủ thể sáng
tạo văn hóa của nhân dân. Hoặc đẩy gánh nặng của ngân sách về phía người
dân bằng hình thức quyên góp mang tính chất bắt buộc. Thực hiện xã hội hóa
các hoạt động văn hóa là trở lại đúng quy luật vận động phát triển của văn
hóa, để tạo nhiều nguồn thu từ hưởng thụ văn hóa và lấy một phần từ nguồn
thu đó chi trở lại cho văn hóa.
- Phải coi trọng và tăng cường định hướng giáo dục giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ, đạo đức lối sống và phát huy hiệu lực quản lý nhà nước.
Không cho phép lợi dụng chủ trương xã hội hóa để thúc đẩy quá trình tự
phát, thương mại hóa hoạt động văn hóa. Dẫn đến triệt tiêu dần các điều
kiện làm cho các loại các loại sản phẩm văn hóa không lành mạnh xâm
nhập vào đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
- Triển khai tốt khâu tuyên truyền vận động cả trong ngành và ngoài
xã hội để từ đó nâng cao tính tự giác, tự nguyện hưởng ứng chủ trương
đúng đắn của Đảng và nhà nước về xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở.
Đồng thời phải nhạy bén, chủ động tháo gỡ những vướng mắc, xây dựng
những cơ chế khuyến khích xã hội hóa vừa thoáng mở lại vừa rất chặt chẽ,
bảo đảm tuân thủ theo quy định của pháp luật. Thiết lập môi trường hoạt

125
động công bằng, bình đẳng. Kịp thời điều chỉnh cân đối, tổ chức quy hoạch
các loại hình hoạt động. Biết tạo ra các khâu đột phá, khuyến khích sự tham
gia của các thành phần kinh tế đối với những công trình văn hóa có quy mô
lớn và vừa, góp phần nhanh chóng hiện đại hóa các thiết chế văn hóa.
- Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở là làm đa dạng, phong phú và
nâng cao chất lượng của các sản phẩm văn hóa. Do đó thực hiện xã hội hóa
hoạt động văn hóa phải được thể chế hóa bằng các văn bản pháp quy, quy
định cụ thể về quyền lợi, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động văn hóa.
3.2. Nội dung cơ bản xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở
Hoạt động văn hóa cơ sở và thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa
cơ sở thực hiện tập trung vào các nội dung hoạt động như sau:
- Hoạt động của thiết chế văn hóa cơ sở: Các thiết chế thực hiện xã
hội hóa bao gồm: Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp xã, Nhà văn hóa làng
(thôn, ấp, bản), cụm cổ động, điểm vui chơi giải trí cho trẻ em.
- Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Các đội thông tin lưu động,
các cụm cổ động.
- Hoạt động Nhà văn hóa, Câu lạc bộ.
- Hoạt động văn nghệ quần chúng: Liên hoan, Hội diễn văn nghệ
quần chúng, lớp tập huấn, lớp năng khiếu, bồi dưỡng nghiệp vụ, nhóm câu
lạc bộ sở thích, câu lạc bộ truyền thống, đội văn nghệ quần chúng và các
loại hình văn nghệ dân gian khác…
- Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng
(thôn, ấp, bản) tổ dân phố văn hóa, khu dân cư văn hóa, xã/phường, cơ
quan, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, xây dựng hương ước, quy ước
văn hóa.
- Hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, giáo dục truyền thống: Bảo tồn
di sản văn hóa vật thể (di tích văn hóa), các di sản văn hóa phi vật thể
(phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội).

126
3.3. Kỹ năng thực hiện xã hội hóa một số nội dung hoạt động văn
hóa cơ sở
Xã hội hóa văn hóa là một chủ trương, chính sách, giải pháp lớn của
Đảng, Nhà nước để phát triển văn hóa, làm cho sự nghiệp văn hóa thực sự
là của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.
Việc thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở có ý nghĩa hết sức quan
trọng là tạo ra sự phát triển bền vững, lâu dài lực lượng văn hóa rộng lớn ở
cơ sở, nhằm phát huy tinh thần làm chủ, sáng tạo và nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân ở cơ sở, đồng thời là cốt lõi
để xây dựng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở không tiến hành một cách tuỳ
tiện, hình thức, dàn đều giữa tất cả các loại hình, thể loại hoạt động văn hóa
ở cơ sở, mà thực hiện một cách thận trọng, có tính toán kỹ lưỡng, loại hình,
thể loại hoạt động văn hóa, nghệ thuật nào đã được xã hội hóa từ trước, nay
cần xem xét bổ sung hành lang pháp lý, cơ chế chính sách để đẩy mạnh tốc
độ xã hội hóa; loại hình loại thể nào có thể thực hiện xã hội hóa từng bộ
phận thì thực hiện.
Thực hiện xã hội hóa, các tổ chức, đơn vị, cá nhân trong và ngoài
công lập được đầu tư, tham gia vào các hoạt động, mô hình hoạt động văn
hóa cơ sở theo một số phương thức hoạt động cụ thể như sau:
3.3.1.Hoạt động xã hội hóa xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở
- Cho phép, khuyến khích các cá nhân, đơn vị, tổ chức ngoài công
lập được thành lập một số mô hình thiết chế văn hóa gồm: Trung tâm Văn
hóa - Thể thao cấp xã, Nhà văn hóa làng (thôn, ấp, bản), cụm cổ động, cổ
động trực quan, cụm văn hóa thể thao, điểm vui chơi giải trí cho trẻ em ở
xã/phường. làng (thôn, ấp, bản)… trên nguyên tắc tự tổ chức và quản lý
nhưng phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.

127
- Khuyến khích các tổ chức tập thể, cá nhân đóng góp tài trợ kinh
phí, hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động văn hóa ở cơ sở, đầu tư xây dựng
khu vui chơi giải trí, phòng đọc sách báo.
3.3.2.Hoạt động xã hội hóa công tác văn nghệ quần chúng
- Các đơn vị, tổ chức ngoài công lập được đầu tư, tham gia hoạt động
trong lĩnh vực văn nghệ quần chúng ở xã/phường, cơ quan, đơn vị gồm các
hình thức hoạt động: Liên hoan, Hội diễn văn nghệ quần chúng, lớp tập
huấn, lớp năng khiếu, bồi dưỡng nghiệp vụ, nhóm câu lạc bộ sở thích, câu
lạc bộ truyền thống, đội văn nghệ quần chúng và các loại hình văn nghệ
dân gian khác…
- Các hoạt động này dựa trên nguyên tắc tự tổ chức và quản lý nhưng
phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.
Nội dung xã hội hóa hoạt động văn nghệ quần chúng:
- Cho phép thành lập đơn vị nghệ thuật tập thể, tư nhân, gia đình
tham gia hoạt động văn nghệ phục vụ nhân dân trong khuôn khổ pháp luật,
có sự quản lý của Nhà nước về nội dung và chất lượng nghệ thuật.
- Cho phép các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội kể cả tư nhân liên
doanh, liên kết xây dựng các rạp hát, sân khấu, điểm biểu diễn, trung tâm
nghệ thuật để hoạt động nghệ thuật phục vụ nhu cầu tham gia sinh hoạt và
thưởng thức nghệ thuật biểu diễn của nhân dân.
- Khuyến khích tổ chức hoạt động các sân khấu nhỏ, câu lạc bộ các
loại hình nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật truyền thống, các nhóm nghệ thuật
gia đình hoạt động bán chuyên nghiệp. Khuyến khích hình thành và phát
triển các loại hình biểu diễn nghệ thuật dân gian truyền thống ở các vùng,
miền; các trung tâm văn hóa truyền thống, các vùng dân tộc.
- Cho phép các đơn vị nghệ thuật bán công, dân lập, tư nhân mở rộng
giao lưu dịch vụ biểu diễn nghệ thuật giữa các vùng, miền, khu vực nhằm
giới thiệu tinh hoa nghệ thuật ở mỗi vùng, miền, mỗi dân tộc.
- Cho phép các diễn viên, nhạc công, nghệ sĩ biểu diễn nghệ thuật

128
được nhận kèm cặp truyền nghề, dạy nghề hoặc mở lớp đào tạo nghề biểu
diễn nghệ thuật cho những người có nhu cầu.
Các chế độ khuyến khích thực hiện xã hội hóa:
- Các đơn vị thực hiện xã hội hóa (bao gồm cả công lập, bán công,
dân lập và tư nhân) được hưởng mức ưu đãi về thuế, lệ phí như thuế đất, sử
dụng đất, lệ phí trước bạ, thuế doanh thu, thuế lợi tức…; được hưởng chính
sách tài trợ xây dựng chương trình nghệ thuật và đi phục vụ miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng kháng chiến, cách mạng.
- Cán bộ, diễn viên ở đơn vị nghệ thuật biểu diễn ngoài công lập
được hưởng các chế độ chính sách về bồi dưỡng, đào tạo lại, khen thưởng,
phong các danh hiệu Nhà nước (nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân) và được
Nhà nước cấp tiền thưởng theo chế độ quy định như đối với cán bộ, diễn
viên trong đơn vị nghệ thuật Nhà nước.
- Các cán bộ, diễn viên của các đơn vị nghệ thuật Nhà nước chuyển
sang thực hiện xã hội hóa (ngoài công lập) được bảo đảm chế độ về hưu,
bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, chế độ chuyên ngành. Được tính thời
gian công tác liên tục khi thực hiện chính sách lao động.
3.3.4.Hoạt động xã hội hóa tổ chức hoạt động của các Câu lạc bộ
- Câu lạc bộ là trung tâm sinh hoạt giao lưu văn hóa trong thời gian
rỗi, nhằm bồi dưỡng tinh thần, đáp ứng các nhu cầu về học hỏi, nghỉ ngơi,
vui chơi giải trí của nhân dân lao động.
- Câu lạc bộ là một cụm từ muốn nói về một tổ chức được thành lập
theo sự tự nguyện của mỗi người có cùng chung một mục đích, một sở
thích. Từ mục đích chung này mà đề ra chương trình hoạt động của mình
sao cho phù hợp với khả năng và thời gian rỗi của các thành viên và sau khi
Câu lạc bộ lớn mạnh, số hội viên đông hơn thì có thể chia thành nhiều
nhóm nhỏ để đáp ứng nhu cầu và sở thích riêng biệt hơn.
- Các loại hình Câu lạc bộ:

129
Muốn tổ chức một Câu lạc bộ trước hết phải xuất phát từ nhu cầu thực
tế ở cơ sở vì những nhu cầu của con người trong thời gian rỗi được thể hiện
rất khác nhau: Có người luôn quan tâm và mong muốn được tham gia thảo
luận, trao đổi, tranh cãi về vấn đề thời sự, có người lại thích thú say mê phát
minh sáng tạo về kỹ thuật, các bạn trẻ lại thích hoạt động lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật…
Câu lạc bộ sở thích không chỉ là nơi “dạy nghề”cho quần chúng
mà là nơi giúp cho những người tham gia vào Câu lạc bộ có một kiến
thức, một trình độ am hiểu về bộ môn mà họ yêu thích. Giúp họ thấy
được và hiểu được tất cả những vẻ đẹp tầm quan trọng của bộ môn mà
họ say mê, thu hút họ trong những buổi nâng cao trình độ, có một kiến
thức nhất định và lượng thông tin mới nhất và chính xác nhất về bộ
môn đó thì họ sẽ trở thành những tuyên truyền viên đắc lực. Họ chính
là những người tạo ra dư luận và hướng dẫn dư luận một cách hiểu biết
về bộ môn đó trong xã hội. Vì vậy mục đích và nhiệm vụ người làm
công tác quản lý Nhà văn hóa cộng đồng phải tổ chức nhiều loại hình
sinh hoạt Câu lạc bộ sở thích để thu hút quần chúng nhân dân vào hoạt
động và hướng dẫn cho họ say mê đúng đắn. Đồng thời Câu lạc bộ làm
thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của nhân dân và tạo điều kiện cho
những hứng thú khai thác và phát triển.
Câu lạc bộ là nơi sinh hoạt văn hóa của nhiều đối tượng có nhiều nhu
cầu khác nhau nên hoạt động của v phải đảm bảo những nội dung: Nâng
cao trình độ nhận thức được tình hình chính trị xã hội, tri thức khoa học kỹ
thuật, văn hóa văn nghệ, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, nếp sống
văn hóa, vui chơi giải trí lành mạnh cho mọi người lao động. Do đó những
hứng thú và những sở thích riêng biệt được hoạt động trong thời gian rỗi
của quần chúng rất đa dạng và vô cùng phong phú nên chúng ta cần phân
loại và xây dựng nhiều hình thức hoạt động của đội nhóm Câu lạc bộ và sở
thích như nhau.

130
- Câu lạc bộ chuyên ngành: Kinh doanh, nông nghiệp, công nghiệp,
xây dựng…
- Câu lạc bộ chính trị xã hội: Câu lạc bộ Cựu chiến binh, Câu
lạc bộ hưu trí, Câu lạc bộ phụ nữ, Câu lạc bộ những người nuôi con
khỏe dạy con ngoan, Câu lạc bộ sinh đẻ có kế hoạch, Câu lạc bộ gia
đình văn hóa…
- Câu lạc bộ văn học nghệ thuật: Câu lạc bộ thơ, Câu lạc bộ hát với
nhau, Câu lạc bộ văn nghệ dân gian, Câu lạc bộ đàn và hát dân ca, Câu lạc
bộ nhiếp ảnh, mỹ thuật, thời trang trẻ, khiêu vũ…
- Câu lạc bộ khoa học kỹ thuật: Câu lạc bộ nữ công gia chánh, Câu
lạc bộ sinh vật cảnh, Câu lạc bộ khuyến nông, Câu lạc bộ trang trại, Câu lạc
bộ làm kinh tế giỏi…
- Câu lạc bộ thể dục thể thao: Câu lạc bộ dưỡng sinh, Câu lạc bộ bơi
lội, điền kinh, bóng chuyền, võ thuật
- Cách tổ chức Câu lạc bộ:
Muốn tổ chức một CLB trước hết nắm được những nguyên tắc cơ
bản của Câu lạc bộ:
+ Nguyên tắc tự nguyện:
Hiệu quả của Câu lạc bộ được xác định hiệu quả tham gia của quần
chúng vào các hoạt động do Câu lạc bộ tổ chức, đó là sự tham gia tự
nguyện, tự giác. Do vậy chỉ có nội dung chất lượng hoạt động đáp ứng nhu
cầu của nhiều đối tượng cùng với sự hoạt động của thành viên Câu lạc bộ
mới tạo ra sự tự nguyện của quần chúng.
+ Nguyên tắc gắn với đời sống thực tiễn:
Hoạt động Câu lạc bộ biết bám sát đời sống thực tiễn phong phú đáp
ứng nhu cầu của quần chúng sẽ tạo nên sự hứng thú của quần chúng
tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ. Qua đó hoạt động của các Câu lạc bộ
cũng tác động trở lại với đời sống xã hội, thúc đẩy tính tích cực sáng
tạo của quần chúng.

131
+ Nguyên tắc phân biệt và xử lý cho phù hợp với các đối tượng khác nhau:
Tùy theo địa bàn khu vực cụ thể, khi tổ chức Câu lạc bộ cần chú
trọng đến hình thức nội dung và đối tượng cho phù hợp.
Ví dụ: Ở nông thôn phải chú trọng đến cán bộ cơ sở như cựu chiến
binh, phụ nữ, thanh niên… Đặc biệt phải lấy lực lượng thanh niên làm nòng
cốt hoạt động để phong trào được phát triển mạnh mẽ, sôi nổi.
+ Thành lập nhóm cộng tác viên:
Vận động và tuyên truyền cho mọi người tham gia Câu lạc bộ.
Muốn thành lập một Câu lạc bộ trước hết phải thành lập một nhóm
cộng tác viên vận động và tuyên truyền mọi người tham gia Câu lạc bộ.
Cần dựa vào một số tổ chức xã hội hoặc cơ quan nào đó để lấy uy tín
và đỡ đầu, bước đầu về một số cơ sở vật chất và kinh phí.
Dựa vào đóng góp của hội viên.
Ví dụ: Câu lạc bộ “Bốn mùa thơ”, hầu hết hội viên đều chung sở
thích tự nguyện tham gia và đóng góp hội phí để sinh hoạt, khi cần in tập
thơ thì vận động và xin tài trợ của các cơ quan ban nghành…
+ Bầu ban chủ nhiệm:
Trước khi thành lập Câu lạc bộ Ban chủ nhiệm nhà văn hóa cộng
đồng phải chuẩn bị xây dựng nội quy hoạt động Câu lạc bộ, chương trình
hoạt động định ky, một tháng một lần hay mỗi tuần một lần…tùy theo điều
kiện loại hình hoạt động Câu lạc bộ, vận động và dự kiến mời thành viên
tham gia vào ban chủ nhiệm lâm thời có từ 3 đến 5 người, có nhiệt tình
hiểu biết về chuyên môn nghiệp vụ, về hoạt động Câu lạc bộ đó, biết tổ
chức vận động quần chúng, ban chủ nhiệm lâm thời điều hành sinh hoạt
thời gian từ 6 tháng đến 1 năm.
Ngoài ra có thể tổ chức nhóm nhỏ phụ trách từng mặt hoạt động như:
tuyên truyền văn nghệ, sách báo, vui chơi giải trí…
Có chương trình nội dung sinh hoạt định kỳ từng tháng, quý, sát hợp
với tình hình của nhu cầu và quần chúng.

132
+ Xây dựng cơ sở vật chất:
Câu lạc bộ thực chất là một thiết chế văn hóa rất sinh động, nó có thể
tổ chức sinh hoạt giữa các hội viên với nhau ở bất kỳ chỗ nào vào thời gian
cần thiết. Vì thế một thiết chế như thế không cần thiết phải xây dựng một nhà
hay một phòng lớn, ta có dựa vào một phòng họp, nhà rông, một lớp học, một
hội trường thậm chí là một sân cỏ, một góc ở công viên để tổ chức sinh hoạt.
Nói như vậy không có nghĩa là Câu lạc bộ phải “du cư”. Nơi nào có điều kiện
để xây dựng nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ta có thể tổ chức tại nhà văn
hóa để thuận tiện giao lưu sinh hoạt như: Tổ chức nghe nói chuyện thời sự,
đọc sách báo, xem truyền hình, một số sinh hoạt khác và phải có sân sinh hoạt
thể dục thể thao, vui chơi giải trí có một số nhạc cụ, âm thanh, ánh sáng để
tuyên truyền biểu diễn văn nghệ…
+ Nguồn kinh phí hoạt động:
Kinh phí hoạt dộng của Câu lạc bộ là do sự đóng góp tự nguyện của
hội viên, có thể đóng góp kinh phí bằng các phương tiện hoạt động như:
giấy, bút, bảng, phấn, nhạc cụ và các dụng cụ đồ chơi khác…
Song để có những cuộc vui chơi rộng lớn hơn, mang tính biểu diễn,
cuộc thi, liên hoan hoặc thu hút sự tham gia của các buôn - thôn thì cần có
kế hoạch vận động đóng góp kinh phí của nhiều thành phần xã hội khác
nhau và các cơ quan đoàn thể của xã, phường và của mỗi gia đình trong
thôn, buôn. Chúng ta phải nhờ lực lượng mặt trận, hoặc đoàn thanh niên,
hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh…đứng ra tổ chức vận động…
Về kinh phí thu hội phí và đóng góp chi phí các khoản: giấy bút làm
việc, nước uống, bồi dưỡng diễn giảng về nói chuyện chuyên đề tuy nội
dung khác nhau, chi phí nhạc cụ, đạo cụ, trang phục…xây dựng thành
chương hoạt động.
Nếu tổ chức quy mô lớn như: liên hoan văn nghệ, hộ thao các thôn,
buôn trong xã với nhau thì phải chi phí khen thưởng tổ chức hoạt động.
+ Quản lý Câu lạc bộ:

133
Quản lý Câu lạc bộ ở đây có nghĩa là vai trò của người chủ nhiệm
Câu lạc bộ hoặc cả Ban chủ nhiệm biết cách duy trì cho các Câu lạc bộ của
mình hoạt động và sự dụng các hình thức hoặc các cơ sở vật chất Câu lạc
bộ sao cho phù hợp với từng loại hình sinh hoạt.
Các thành viên biết phân công nhau làm nhiệm vụ được giao, mỗi
thành viên tự quản lý lấy các dụng cụ hoạt động của mình đồng thời giữ gìn
của cải chung; biết phân phối kinh phí (có hạn) cho từng thời gian và hoạt
động của Câu lạc bộ.
Mỗi lần tổ chức sinh hoạt, các hội viên cần vận động và tìm các cộng
tác viên tích cực để phát triển và giúp đỡ Câu lạc bộ lớn mạnh, mở rộng
thành phân các hội viên đồng thời chia dần các nhóm nhỏ trong Câu lạc bộ
để sinh hoạt tự quản. Vì thế, Câu lạc bộ sẽ có nhiều nhóm hoạt động phong
phú và mỗi nhóm lại có thể có tổ chức kinh phí riêng theo kiểu “góp gió
thành bão”.
3.3.5.Hoạt động xã hội hóa xây dựng nếp sống văn hóa
- Các đơn vị, tổ chức ngoài công lập được đầu tư tham gia hoạt động
xây dựng nếp sống văn hóa, được phối hợp với các đơn vị công lập của nhà
nước thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) tổ
dân phố văn hóa, khu dân cư văn hóa, xã/phường, cơ quan, doanh nghiệp đạt
chuẩn văn hóa theo tiêu chí của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và định
hướng của Nhà nước.
- Các đơn vị, tổ chức ngoài công lập được đầu tư tham gia, xây dựng
quy ước, hương ước không trái với quy định của Pháp luật; được đăng ký
tổ chức các một số loại hình lễ hội mới, lễ hội truyền thống (trừ lễ hội quốc
gia), thực hiện tổ chức việc cưới, việc tang theo hướng dẫn của cơ quan chủ
quản trên nguyên tắc tự tổ chức và quản lý, đảm bảo nghĩa vụ đóng góp với
nhà nước và phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.
- Hoạt động xã hội hóa xây dựng quy ước nếp sống văn hóa
Phân biệt một số khái niệm có liên quan:

134
+ Quy định: là sự định ra, buộc phải tuân theo như quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, quy định hát quốc ca, quy định treo cờ Tổ quốc vào ngày
lễ, tết…
+ Quy chế: bao gồm những điều quy định thành chế độ như Quy chế
tuyển sinh, quy chế quản lý và tổ chức lễ hội…
+ Nội quy: là những điều quy định trong một đơn vị, một khu vực
như nội quy cơ quan, nội quy trường học, nội quy bến xe…
Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (thôn, ấp, bản) văn hóa bao
gồm những điều khoản do nhân dân ở một số địa phương, một số cơ sở -
căn cứ vào nhu cầu của cuộc sống chung mà đặt ra để cùng nhau thực hiện.
Nội dung bản quy ước có thể đề ra một cách toàn diện mọi vấn đề xã
hội, hoặc chỉ nên đi vào một số vấn đề cấp bách cần ngăn chặn kịp thời và
dứt điểm, sau đó có kế hoạch đi dần từng bước thanh toán các vấn đề còn tồn
tại của từng địa phương. Xây dựng quy ước văn hóa là biện pháp để đưa
công tác xây dựng nếp sống văn hóa đi vào chiều sâu, nội dung thiết thực.
Cần phân biệt rõ giữa: Quy ước, quy đinh, quy chế và nội quy để
tránh trùng lặp.
Quy ước văn hóa: Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (thôn,
ấp, bản) văn hóa thực chất là những thỏa thuận của cộng đồng có nguồn
gốc từ việc kế thừa truyền thống lập hương ước của cha ông. Do đó nhân
dân sẽ tự giác tuân thủ những thỏa thuận nhằm xây dựng cho làng (thôn,
ấp, bản)… một cuộc sống ổn định và phát triển cả về vật chất và tinh thần.
Do vậy nếu Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (thôn, ấp, bản) văn
hóa được biên soạn và có nội dung tiến bộ và được triển khai thực hiện tốt
sẽ có tác dụng rất lớn đến việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, nâng cao nhận
thức của mỗi người dân, xây dựng nếp sống văn hóa, hình thành những
phong tục tập quán mới tốt đẹp tác động đến phong trào xây dựng làng văn
hóa; ngược lại quy ước sẽ phản tác dụng nếu việc biên soạn nội dung
không phù hợp với đời sống thực tiễn và tổ chức thực hiện thiếu khoa học,
không tiến bộ.

135
Mục đích, yêu cầu của Quy ước:
Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (thôn, ấp, bản) văn hóa
phải đạt các mục đích, yêu cầu sau đây:
Quy ước nhằm tạo môi trường văn hóa lành mạnh, xã hội có trật tự, kỷ
cương góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ quê
hương, đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh.
Quy ước không được mâu thuẫn, đối lập với hiến pháp, pháp luật và
phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước.
Quy ước phải phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể và thực tiễn của
mỗi địa phương, được nhân dân chủ động đóng góp xây dựng và tự nguyện
thực hiện.
Nội dung của Quy ước dựa trên cơ sở bảo đảm, giữ gìn và kế thừa,
phát huy những thuần phong mỹ tục của dân tộc, truyền thống lịch sử văn
hóa, truyền thống cách mạng của địa phương đồng thời bổ sung những nội
dung mới, tiến bộ phù hợp với tình hình hiện nay của địa phương. Quy ước
đảm bảo các nguyên tắc chung như sau:
- Nêu khái quát tình hình lịch sử, quá trình hình thành và phát triển,
những truyền thống tốt đẹp của làng, thôn, ấp, bản;
- Nêu những đặc điểm cụ thể hiện nay, những thuận lợi khó khăn
trong xây dựng nông thôn mới và xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa;
- Nêu khái quát một số nguyên tắc chung khi biên soạn và thực hiện,
giá trị pháp lý, phạm vi hiệu lực của văn bản.
Những Quy định cụ thể của Quy ước:
- Quy định về xây dựng gia đình văn hóa: dựa trên các tiêu chí công
nhận gia đình đạt chuẩn văn hóa, cần chi tiết hóa, cụ thể hóa hoặc phát triển
thêm những nội dung phù hợp với thực tiễn của địa phương đảm bảo nguyên
tắc lành mạnh, tiến bộ, không trái với những quy định của Nhà nước.

136
- Quy định về Nếp sống văn hóa trong sinh hoạt hàng ngày, sinh
hoạt cộng đồng, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
- Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn, ở,
đi lại. , xóa bỏ hủ tục, phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng
và phát huy tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết tương thân tương ái, hỗ trợ giúp đỡ
nhau trong cộng đồng dân cư, thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và
Nhà nước.
- Quy định những nội dung vận động giáo dục mọi người bảo vệ
thuần phong mỹ tục, loại bỏ những hủ tục mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội.
- Quy định về cưới, tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương, khuyến
khích tổ chức cưới, tang, lễ hội văn minh, tiến bộ, tiết kiệm phù hợp với
hoàn cảnh của từng địa phương và từng gia đình.
- Quy định về dự sinh nhật, mừng thọ, mừng tân gia… theo nguyên tắc
văn minh tiết kiệm trọng về tinh thần, ý nghĩa văn hóa, không nặng về lợi ích
vật chất.
- Quy định về bảo vệ tài sản của cộng đồng và tài sản của công dân,
bảo vệ môi trường sống, bảo vệ di tích, danh lam thắng cảnh, đền chùa,
miếu mạo, cơ sở thờ tự, công trình phúc lợi an sinh như đê, kè cống, kênh
mương, đường làng, ngõ xóm, bảo vệ và trồng cây xanh…
- Quy định về khuyến nông, khuyến học, động viên lao động sáng
tạo, trật tự an ninh và thực hiện pháp luật.
- Các quy định khác: Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của
mỗi địa phương có thể có những quy định chi tiết và nội dung cụ thể để
thực hiện.
Điều khoản thi hành của Quy ước:
Quy ước nên giao cho Trưởng làng (thôn, ấp, bản) chịu trách nhiệm
theo dõi thi hành, phối hợp với các đoàn thể khác như: Mặt trận Tổ quốc,
Phụ nữ, Thanh niên. Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh… đặt dưới sự

137
Lãnh đạo của các Cấp ủy Đảng địa phương và sự theo dõi, quản lý của Ủy
ban nhân dân, sự giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Việc thi hành Quy ước lấy phương châm vận động, giáo dục nhân
dân tự giác tham gia thực hiện là chính. Tạo dư luận quần chúng trong làng
(thôn, ấp, bản) ủng hộ cái mới, tiến bộ, phê phán những tiêu cực, lạc hậu…
Do cấp làng (thôn, ấp, bản) không phải là cấp hành chính nên các hành
vi vi phạm pháp luật phải được lập biên bản đề nghị Ủy ban nhân dân xã hoặc
cấp trên tùy thuộc vào mức độ vi phạm ra quyết đinh xử phạt theo quy định
của Pháp luật. Những cá nhân có thành tích cần được biểu dương khen
thưởng kịp thời.
Việc soạn thảo, sửa đổi, bổ sung quy ước nên giao cho những
người am hiểu lịch sử, thực tế tình hình ở địa phương và được nhân dân
tín nhiệm.
Khi soạn thảo Quy ước cần được tổ chức thảo luận, bàn bạc góp ý và
biểu quyết dân chủ của nhân dân trong cả làng (thôn, ấp, bản) hoặc đại biểu
nhân dân các dòng họ.
Quy ước được thông qua nhất trí của Ủy ban nhân dân, Hội đồng
nhân dân cấp xã. Không một tổ chức hoặc một cá nhân nào được phép tự
tùy tiện sửa đổi hương ước, quy ước.
Các bước tiến hành xây dựng Quy ước:
Quy ước phải được xây dựng một cách thật sự dân chủ công khai,
phù hợp với các quy định của pháp luật, đượcthực hiện theo các bước cụ
thể như sau:
Thứ nhất: Mỗi làng (thôn, ấp, bản) lập một ban dự thảo quy ước Nếp
sống văn hóa, làng văn hóa do đại diện Lãnh đạo làng (thôn, ấp, bản) làm
trưởng ban, thành phần tham gia cần có đại biểu của một số ngành, tổ chức
đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Phụ nữ, Thanh niên. Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh…(có thể có đại diện các chức sắc tôn giáo ở địa phương).
Những người tham gia Ban soạn thảo phải bảo đảm các yêu cầu sau:

138
Được nhân dân tín nhiệm, tôn trọng.
Có trình độ văn hóa, hiểu biết xã hội, hiểu biết về phong tục tập quán
địa phương, có khả năng biên soạn văn bản.
Thứ hai: Ban biên soạn Quy ước tổ chức sưu tầm, nghiên cứu hương
ước cũ của làng (thôn, ấp, bản) để chọn lọc kế thừa và phát triển những nội
dung tích cực; đưa thêm những nội dung mới phù hợp thực tế địa phương,
đất nước (có thể nghiên cứu, sưu tầm những hương ước, quy ước của các
làng quê khác có những đặc điểm, điều kiện tương đồng).
Thứ ba: Trong quá trình xây dựng quy ước nhất thiết phải có sự tham
gia đóng góp dân chủ, bàn bạc công khai của đông đảo quần chúng nhân dân.
Tổ chức phát thanh tuyên truyền thường xuyên, liên tục những nội dung của
quy ước trên hệ thống truyền thanh địa phương trước và sau khi quy ước đã
được phê duyệt.
Thứ tư: Quy ước làng (thôn, ấp, bản) văn hóa trước khi được Ủy ban
nhân dân huyện công nhận chính thức cần có sự thông qua, kiểm định của
các ngành, đoàn thể hữu quan cấp huyện như Tư pháp, Văn hóa Thông tin,
Hội Nông dân, Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh…
Thứ năm: Tổ chức thực hiện
Quy ước làng (thôn, ấp, bản) văn hóa sau khi được phê duyệt cần được
tuyên truyền, phổ biến tới từng gia đình, từng người dân, nên nhân bản và trưng
bày công khai ở nơi công cộng của làng. Cuối năm việc thực hiện quy ước
được đưa vào nội dung bình xét công nhận gia đình đạt chuẩn văn hóa.
Ban chỉ đạo xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa thường xuyên tiến
hành kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện với phương châm lấy dân làm gốc
(dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra). Trong trường hợp cần sửa đổi
bổ sung thì do Hội nghị đại biểu hộ gia đình thảo luận. Việc sử đổi, bổ sung
quy ước phải tuân theo trình tự, thủ tục như khi soạn thảo hương ước mới.
Ban chỉ đạo cấp xã, huyện/thành phố cũng thường xuyên giám sát,
kiểm tra các cơ sở để kịp thời uốn nắn điều chỉnh những lệch lạc.

139
3.3.6. Hoạt động xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa, giáo dục truyền
thống
- Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia dưới
mọi hình thức để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Tạo ra các
sản phẩm văn hóa truyền thống; đóng góp kinh phí tu bổ, tôn tạo di tích,
khôi phục lễ hội, phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống. Khuyến
khích thành lập các đơn vị nghệ thuật, tập thể, tư nhân, gia đình.
- Lập quỹ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và khuyến khích
các Ban quản lý di tích ở từng địa phương vận động nhân dân, các thành
phần kinh tế, các ngành các giới, các tổ chức kinh tế xã hội đóng góp vốn,
sức người, sức của để giữ gìn, tôn tạo và tu bổ các di tích lịch sử văn hóa,
danh lam thắng cảnh, gìn giữ, truyền dạy và phát huy giá trị các di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể của địa phương.
- Đối với những nơi có di tích và danh thắng nổi tiếng cần khuyến
khích, động viên các tổ chức, tư nhân đầu tư, khai thác giá trị của di tích
theo quy hoạch đã được duyệt để tạo nguồn kinh phí phục vụ bảo vệ, tu bổ,
tôn tạo các di tích, danh thắng.
- Để bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa, khuyến khích, vận
động nhân dân thành lập Ban quản lý bảo vệ di tích ở địa phương có di tích,
danh thắng; thành lập các Hội, Câu lạc bộ nghề thủ công, truyền thống, văn
hóa văn nghệ dân gian ở những địa phương có di sản văn hóa phi vật thể.
Chức năng và hoạt động của các tổ chức này thực hiện theo quy định của
cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và chính quyền Ủy ban nhân dân
các cấp theo thẩm quyền. Người tham gia được hưởng thù lao từ nguồn thu
của các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
3.3.7.Hoạt động xã hội hóa văn hóa và dịch vụ văn hóa, thể thao và
du lịch
Ý nghĩa của hoạt động:
- Cụ thể hóa và thực hiện tốt xã hội hóa văn hóa trong hoạt động của
Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã, chính là thu hút ngày càng đông đảo các

140
tầng lớp nhân dân trong xã tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao
trên địa bàn xã. Đồng thời, huy động được các nguồn lực để đẩy mạnh các
hoạt động văn hóa, thể thao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ
và sáng tạo về văn hóa của chính các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã.
- Xã hội hóa văn hóa gắn liền với việc tổ chức các hoạt động, dịch vụ
văn hóa theo quy định của pháp luật; cung ứng cho người dân trên địa bàn xã
những sản phẩm văn hóa, vật tư, văn hóa phẩm được hình thành từ nguồn xã
hội văn hóa do các tổ chức, cá nhân tổ chức doanh nghiệp thực hiện.
Nội dung hoạt động:
- Đăng cai tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật chuyên
nghiệp, có bán vé.
- Hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cho các chương trình
biểu diễn nghệ thuật hoặc các giải thi đấu thể thao.
- Hỗ trợ ngân sách nhà nước cho các hoạt động tuyên truyền, cổ động
phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội (theo chế độ đặt hàng).
- Sự đóng góp tự nguyện của thành viên các câu lạc bộ nhằm duy trì
hoạt động của các câu lạc bộ.
- Quản lý và sử dụng các cơ sở vật chất, cơ sở sản xuất do địa
phương giao nhằm tạo nguồn thu cho các hoạt động văn hóa, thể thao.
+ Hợp đồng tổ chức các sự kiện, các hoạt động văn hóa, thể thao với
các ngành, đoàn thể trên địa bàn xã.
- Mở các cửa hàng, cơ sở kinh doanh, dịch vụ về văn hóa, thể thao
tại khuôn viên Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã; tổ chức các hoạt động
dịch vụ đám cưới, đám tang và tổ chức lễ hội.
- Tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng năng khiếu, dàn dựng
chương trình biểu diễn nghệ thuật quần chúng, tập luyện và hướng dẫn thể dục
thể thao.
- Tổ chức Tour du lịch (nếu có điều kiện).
Tổ chức hoạt động:

141
- Các hoạt động xã hội hóa văn hóa, dịch vụ văn hóa phải phù hợp
với chủ trương, chính sách pháp luật; sự chỉ đạo quản lý của chính quyền
địa phương; kế hoạch hoạt động hàng năm được giao.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện hoạt động cụ thể, báo cáo Ủy ban
nhân dân xã trước và sau khi thực hiện.
- Tổ chức thực hiện các hoạt động chặt chẽ, thường xuyên, đảm bảo
hiệu quả kinh tế và xã hội, tránh chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần.
- Sau mỗi hoạt động cần đánh giá, rút kinh nghiệm, sử dụng kinh phí
đúng mục đích, công khai, dân chủ.
4. Định hướng, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện xã hội hóa hoạt
động văn hóa cơ sở
4.1.Định hướng
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước: “Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ
quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần
giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Xây dựng đời sống
văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân
chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; xây dựng nếp sống văn hóa
tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”. Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông
thôn mới. Tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn
hóa cộng đồng”.
4.2.Nhiệm vụ
- Nhận thức: Thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW, phải thực sự coi đầu
tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Tăng nhanh mức đầu tư của Nhà

142
nước và xã hội cho phát triển văn hóa, tương xứng với nhịp độ tăng trưởng
kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực này.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phi tập trung hóa trong quản lý
văn hóa. Nhà nước cần tăng cường phân cấp cho địa phương để gia tăng
trách nhiệm quản lý ở cấp cơ sở. Nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, đẩy
mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự
chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Đồng thời thúc đẩy
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, tiến hành
rà soát, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
- Trong bối cảnh hiện nay, rất cần thiết tăng cường và khuyến khích
khả năng làm kinh tế trong các hoạt động văn hóa, trong các tổ chức văn
hóa. Khả năng làm kinh tế trong văn hóa, chính sách kinh tế trong văn hóa
mở ra cho hoạt động văn hóa ở cơ sở những phương thức hoạt động và
quản lý phù hợp với quy luật điều kiện và bối cảnh mới.
4.3.Giải pháp thực hiện
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức về
đường lối, cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa của Đảng và Nhà
nước, trong đó đặc biệt chủ trọng về mặt nhận thức của các cơ quan quản lý
nhà nước. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Kết
luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX về Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 33-NQ/TW
ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước; Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/04/2005 của Chính phủ về
đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể
thao nhằm động viên sức người, sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ
chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa.

143
Hai là, đẩy nhanh việc củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa, kịp thời
triển khai cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về Xây dựng và
phát triển văn hóa, nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII,
làm cơ sở để xây dựng và ban hành những chính sách mới về phát triển văn
hóa, tích cực hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp,
chú trọng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia vào hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đồng thời cần
chỉ rõ cho cộng đồng cơ sở thấy được những lợi ích do họ mang lại.
Ba là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền
các cấp, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn xã hội
trong phát triển kinh tế và xây dựng và phát triển văn hóa. Cấp ủy đảng,
chính quyền và tổ chức đoàn thể các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và
phát triển văn hóa vào nghị quyết, kế hoạch, các chương trình hành động để
tổ chức thực hiện, tạo ra tính xã hội hóa cao các hoạt động văn hóa ngày
càng phát triển ở mọi nơi từ cơ sở đến cấp Trung ương. Trong quá trình xây
dựng và phát triển văn hóa, cần phải có sự kế thừa, chọn lọc và phát huy có
hiệu quả bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển những giá trị văn
hóa truyền thống cao đẹp, đấu tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa, loại hình
văn hóa độc hại, văn hóa lai căng ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
Bốn là, cần tạo được nguồn lực kinh phí lớn từ nhiều lĩnh vực khác
nhau: nguồn ngân sách nhà nước, nguồn xã hội hóa trong nhân dân, trong
các tổ chức trong và ngoài nước và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Bổ
sung hoàn chỉnh cơ chế chính sách về xã hội hóa văn hóa để tạo nguồn lực
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Vì xã hội hóa các hoạt động văn hóa
thu hút các tổ chức xã hội, các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động
sáng tạo, cung cấp và phổ biến các giá trị văn hóa tạo điều kiện cho các
hoạt động văn hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nâng cao dần mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân và các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc

144
dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới vào đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân.
Năm là, tăng cường củng cố, kiện toàn tổ chức đội ngũ cán bộ văn
hóa cơ sở. Nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị của đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở nhằm đáp ứng và phục vụ yêu
cầu xã hội hóa. Thường xuyên tập huấn, bổ sung kiến thức về chuyên môn
nghiệp vụ, về kỹ năng quản lý và tổ chức các nội dung hoạt động xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước và tổ chức các hoạt động văn hóa, trang bị kiến thức quản lý và tổ
chức hoạt động phong trào: quản lý, sử dụng và tổ chức hoạt động của hệ
thống thiết chế văn hoá cơ sở; hướng dẫn hoạt động phong trào xây dựng
làng (thôn, ấp, bản) văn hoá, gia đình văn hoá, thực hiện phong trào Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; kỹ năng tổ chức các loại hình lễ
hội, thực hiện nếp sống văn minh trong cưới, tang, lễ hội; phương pháp tổ
chức các hoạt động văn nghệ quần chúng tại địa bàn cơ sở. Hàng năm cán
bộ văn hóa cơ sở tập trung ngắn ngày để bồi dưỡng tập huấn cập nhật kiến
thức thường xuyên phù hợp với tình hình mới, tạo điều kiện để kịp thời giải
quyết những phát sinh trong đời sống thực tiễn.
Sau là, đề xuất và khuyến nghị:
- Cần xây dựng chiến lược quốc gia để thực hiện xã hội hóa hoạt
động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, có lộ trình và bước đi cụ thể phù
hợp với điều kiện phát triển sự nghiệp văn hóa.
- Rà soát, bổ sung các văn bản về cơ chế chính sách đầu tư tài
chính phù hợp với yêu cầu mới và nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày
càng cao của nhân dân. Tăng cường đầu tư kinh phí ưu tiên từ nguồn
ngân sách nhà nước kết hợp với phương thức xã hội hóa tạo điều kiện
thuận lợi nhằm khai thác năng lực và tiềm năng sáng tạo của nhân
dân để xây dựng đời sống văn hóa. Coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư
cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn kết giữa nhiệm vụ
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Ban hành chính sách đầu tư

145
tài chính thực hiện song song với chính sách hậu kiểm, thanh tra
giám sát thực hiện để cơ sở sử dụng nguồn lực đầu tư đúng mục đích
và đạt hiệu quả. Sớm hoàn thành việc thể chế hóa bằng Luật, Pháp
lệnh, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện, định hướng xây
dựng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các lĩnh vực hoạt
động phát triển văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Cần đặt ra tiêu chí Nhà nước cụ thể để kêu gọi các thành phần
kinh tế tham gia vào các hoạt động văn hóa xây dựng đời sống văn hóa
ở cơ sở.
- Cần xác lập cơ chế nhằm phát huy hơn việc vận dụng thực hiện
xã hội hóa hoạt động văn hóa, đảm bảo định lượng được các hiệu quả
hoạt động.
- Các hoạt động dịch vụ văn hóa của tư nhân tham gia xây dựng trở
thành các điểm sáng văn hóa ở cơ sở góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội cần
được ưu tiên chính sách về thuế, về địa điểm hoạt động. /.
Câu hỏi thảo luận
1. Anh/chị hãy nêu và phân tích quan điểm của Đảng và Nhà nước
về xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở?
2. Chính quyền địa phương nơi anh, chị công tác đã làm gì để triển
khai chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở?
3. Thực trạng công tác xã hội hóa hoạt động hoạt động văn hóa cơ sở
trên địa bàn anh chị công tác? Theo anh chị cần làm gì để triển khai có hiệu
quả xã hội hóa hoạt động văn hóa cơ sở trên địa bàn?
Bài tập thực hành
- Chọn nội dung hoạt động xã hội hóa hoạt động Văn nghệ quần
chúng (hoặc xã hội hóa hoạt động Câu lạc bộ) chia làm 2 (hoặc 3 ) nhóm đề
tiến hành xây dựng nội dung hoạt động xã hội hóa trên địa bàn xã
- Các nhóm lên trình bày và góp ý lẫn nhau
- Rút bài học về kiến thức của bài và việc áp dụng vào thực tiễn
địa phương.

146
Tài liệu tham khảo

A - Văn bản của Đảng và Nhà nước:


1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Nghị quyết Đại hội lần thứ V, Tập
1, Nxb Sự thật, Hà Nội, trang 49.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 55.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần
thứ XI, H. , Nxb. CTQG, 2011, tr. 126
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội V, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, trang 257.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1992), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam(2004), Kết luận Hội nghị Lần thứ mười Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ
về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
12. Nghị quyết số 05/2005/NQ - CP ngày 8 tháng 4 năm 2005 về việc đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể
thao (Bản poto 14 trang A4).

147
13. Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
14. Quyết định số 491/QĐ - TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
15. Quyết định số 581/QĐ-TTg, ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020.
16. Quyết định số 22/QĐ - TTg ngày 05 tháng 1 năm 2010 của phê duyệt Đề án
“Phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
17. Quyết định số 800/QĐ - TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
18. Quyết định 1610/QĐ-TTg, ngày 16/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ Phê
duyệt chương trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020.
19. Quyết định số 159/QĐ-TTg ngày 15/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”;
20. Quyết định số 2164/QĐ - TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể
thao cơ sở giai đoạn 2013 - 2020 định hướng 2030.
21. Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT, ngày 23 tháng 6 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
ban hành Quy chế công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Làng văn
hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”.
22. Thông tư Liên tịch số 31/2006/TTLT/BTC-BVHTT, ngày 07 tháng 4
năm 2006 của Bộ Tài chính và Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) Hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hoạt
động của Ban Chỉ đạo Phong trào TDĐKXDĐSVH các cấp.

148
23. Thông tư Liên tịch số 01/2006/TTLT/MTTW-BVHTT, ngày 23 tháng 6
năm 2006 của Ban Thường trực, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và Bộ Văn hóa -Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch) về Hướng dẫn phối hợp chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư”.
24. Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL, ngày 21/01/2011của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
25. Thông tư số 02/2013/TT- BVHTTDL ngày 24/1/2013 của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch về quy định chi tiết tiêu chuẩn, trình tự thủ tục xét và
công nhận “Phường đạt chuẩn văn minh đô thị”, “Thị trấn đạt chuẩn văn
minh đô thị”.
B - Tài liệu nghiệp vụ
26. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, (2004), Tài liệu nghiên cứu Kết
luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Ban Chỉ đạo Trung ương, (2006), Hướng dẫn số 2062/HD-BCĐ ngày
19 tháng 5 năm 2006 của Ban Chỉ đạo Trung ương Hướng dẫn hình
thức, đối tượng và tiêu chuẩn khen thưởng Phong trào Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa.
28. Ban Chỉ đạo Trung ương phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, Các Văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
29. Ban Chỉ đạo Trung ương xuất bản sách xã, phường, thị trấn, (2013), Hỏi -
Đáp về Xây dựng Nếp sống văn minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2013.
30. Ban Vận động nếp sống mới Thanh Hóa, (1987), Tập Bài giảng về xây
dựng Nếp sống mới, Thanh Hóa, 1987;

149
31. Báo Cứu quốc, số ra ngày 8/10/1945
32. Bộ Văn hóa (1984), Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Nxb Văn hóa, HN, trang 28.
33. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2014), Văn bản
của Đảng và Nhà nước về Nếp sống văn hóa, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
34. Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Văn hóa cơ sở) (1999), Hỏi và đáp về xây
dựng Làng văn hóa, Gia đình văn hóa, Nếp sống văn hóa, Tổ chức và
quản lý lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
35. Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Văn hóa cơ sở) (2005), 60 năm công tác
Văn hóa - Thông tin cơ sở, Hà Nội, 2005.
36. Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Văn hóa Thông tin cơ sở), (2005), Sổ tay
Công tác Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005.
37. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2007), Tài liệu
tập huấn nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin cơ sở năm 2007, Thanh Hóa,
tháng 10 năm 2007.
38. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2011), Tài liệu
tập huấn nghiệp vụ Văn hóa cơ sở cho cán bộ văn hóa xã vùng biên
giới, biển đảo, Hà Nội, tháng 9 năm 2011.
39. Ban Chỉ đạo Trung ương xuất bản sách xã, phường, thị trấn, (2013), Hỏi - Đáp
về Xây dựng Nếp sống văn minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.
40. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2013), Tài liệu
nghiệp vụ văn hóa cơ sở, Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2013.
41. Bộ Văn hóa - Thông tin: Chương trình thực hiện Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2006 - 2010, số
670/CTr-BVHTT ngày 6 tháng 3 năm 2006.
42. Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Văn hóa cơ sở) (1999), Hỏi và đáp về xây
dựng Làng văn hóa, Gia đình văn hóa, Nếp sống văn hóa, Tổ chức và
quản lý lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
43. Bộ Văn hóa - Thông tin, (2005), Các Văn bản triển khai Nghị quyết 05/2005/NQ
- CP của Chính phủ trong ngành Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005.
44. Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Văn hóa cơ sở) (2005), 60 năm công tác
Văn hóa - Thông tin cơ sở, Hà Nội, 2005.

150
45. Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Văn hóa Thông tin cơ sở), (2005), Sổ tay
Công tác Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005.
46. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2007), Tài liệu tập
huấn nghiệp vụ Văn hóa cơ sở cho cán bộ văn hóa xã, Thanh Hóa, tháng 9
năm 2011.
47. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2011), Tài liệu
tập huấn nghiệp vụ Văn hóa cơ sở cho cán bộ văn hóa xã vùng biên
giới, biển đảo, Hà Nội, tháng 9 năm 2011.
48. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2013), Tài liệu
nghiệp vụ văn hóa cơ sở, Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2013.
49. Đỗ Đình Hãng (2007), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 27.
50. Học viện Nguyễn Ái Quốc, Giáo trình Văn hóa xã hội chủ nghĩa, H. ,
Nxb. TTVHTT, 1999, tr. 26
51. Đỗ Huy. Cơ sở lý luận về đời sống văn hóa và môi trường văn hóa
(Dẫn theo Sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn…tlđd…, H. Nxb
Văn hóa dân tộc, 2015, tr. 14).
52. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa (2003), Nxb Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 10, H. , Nxb. CTQG, 2000, tr. 59
54. Hồ Chí Minh (1969), Di chúc Hồ Chí Minh, trang 259.
55. Hà Văn Tăng chủ biên, (2004) Tài liệu Nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin
cơ sở, Bộ Văn hóa Thông tin (Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở), Hà Nội,
2004.
56. Nguyễn Hữu Thức (2007), Một số kinh nghiệm quản lý và hoạt động tư
tưởng - văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 35.
57. Sở Văn hóa Thông tin Cần Thơ, (1997), Hướng dẫn công tác xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở, Cần Thơ, 1997.
58. UNESCO (1982), Tuyên bố về những chính sách văn hóa, tại Mêhicô.
59. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa
ở nước ta, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 262.

151
152

You might also like