You are on page 1of 65

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


----------

TRỊNH HOÀNG MINH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN


CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TRỊNH HOÀNG MINH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN


CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế


Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

Hà Nội, năm 2021


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, NTD là một trong các chủ thể trung tâm,
có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà cung
cấp. Dưới sự đổi mới không ngừng và sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ,
NTD ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò trung tâm của mình trong sự
phát triển của kinh tế - xã hội. Vì vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp NTD
có thể được xem là nghĩa vụ, trách nhiệm chung của toàn xã hội. NTD cần
được bảo đảm an ninh, an toàn khi tham gia các giao dịch, trong đó có các
giao dịch trên không gian mạng mà ở đó, việc bảo đảm an ninh, an toàn thông
tin cá nhân (TTCN) là vấn đề rất quan trọng.
Trong thời gian qua, TTCN nói chung và TTCN của NTD nói riêng dễ
dàng được thu thập bằng các phương tiện hiện đại, các trang mạng xã hội
cùng với vấn nạn “trộm thông tin người dùng”, “rao bán thông tin”,… làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD. Thực tế cho thấy, khi thông
tin cá nhân bị bóp méo và làm sai lệch mà được công bố rộng rãi tới cộng
đồng sẽ gây ra những tác động không nhỏ đến đời sống riêng tư của mỗi cá
nhân, khiến họ cảm thấy e ngại khi tham gia vào các giao dịch tiêu dùng, làm
ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế và trật tự xã hội. Chính vì vậy, pháp
luật về bảo vệ TTCN của NTD ra đời nhằm tạo một cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc khắc phục những vấn nạn xâm phạm thông tin, xử lý thỏa đáng các
hành vi vi phạm, tạo tiền đề cho sự củng cố niềm tin, gắn kết giữa NTD và
các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, góp phần bảo
đảm ổn định xã hội.
Ở Việt Nam thời gian qua, các quy định về bảo vệ TTCN của NTD đã
bước đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản có liên quan. Tuy

1
nhiên, thực tiễn triển khai và áp dụng các quy định này cho thấy bên cạnh
được một số thành tựu nhất định, quy định hiện hành về bảo vệ TTCN của
NTD chưa đủ mức răn đe, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng xâm phạm quyền
của NTD đối với việc bảo đảm an ninh, an toàn TTCN của mình. Thực tiễn
cũng cho thấy, tình trạng xâm phạm thông tin ngày càng phức tạp diễn ra
dưới nhiều hình thức tinh vi hơn trước.
Trong bối cảnh đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật bảo vệ thông tin cá
nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” để làm Luận văn Thạc sĩ
Luật kinh tế với mục đích tìm hiểu pháp luật và mong muốn đóng góp một
phần công sức vào quá trình hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam, góp phần bảo đảm niềm
tin của NTD đối với các giao dịch trong nền kinh tế số đang dần được hình
thành ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, bảo vệ TTCN của NTD là vấn đề đã bước đầu được các
nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở các quy mô
khác nhau trong những năm gần đây. Trong đó, phải kể đến một số công trình
tiêu biểu như sau:
- TS Nguyễn Văn Cương (2020) “Thực trạng pháp luật về bảo vệ thông
tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 15 (415), tr.36-tr43;
- Ngô Vĩnh Bạch Dương (2019) “Bảo vệ thông tin người tiêu dùng”,
website: lapphap.vn;
- Nguyễn Việt Hà (2016) “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ thông tin cá
nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội;
- Hồ Xuân Hải (2019) “Bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
trong hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật Đại học Huế;

2
- Trần Thị Hồng Hạnh (2018) “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin
cá nhân ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Học viện chính trị Quốc gia;
- Cao Xuân Quảng (2014) “Bảo vệ thông tin cá nhân trong các giao dịch
tiêu dùng”, Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng, số 47-2014, tr.15-tr18.
Tuy nhiên, ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về bảo vệ TTCN của
NTD còn khá khiêm tốn, chỉ chủ yếu là các bài viết trên tạp chí, kỷ yếu khoa
học và nghiên cứu về nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Hiện nay chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và trực tiếp về hệ thống
pháp luật bảo vệ TTCN của NTD từ góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Tuy
vậy, các công trình đã nêu ở trên là các tài liệu quý giá cho người viết tham
khảo để hoàn thành đề tài “Pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu
dùng ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận pháp luật bảo vệ TTCN của
người tiêu dùng, đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật bảo vệ
TTCN của NTD ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về
bảo vệ thông tin NTD tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trước vấn
nạn lấy cắp thông tin và sử dụng thông tin của người tiêu dùng ngày càng trở
nên nghiêm trọng, gây ra nhiều rủi ro cho NTD.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đảm bảo mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ thông tin
của NTD;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD tại Việt Nam
hiện nay, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn
chế, bất cập này;

3
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật trong thực tiễn bảo vệ TTCN của NTD tại Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành về
bảo vệ TTCN của NTD và thực tiễn áp dụng những quy định này để bảo vệ
thông tin cá nhân của NTD Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu, phân tích
các quy định pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD thể hiện trong những đạo
luật quan trọng như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh
mạng năm 2018,… cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Dựa
trên những nội dung phân tích, Luận văn đưa ra các nhận định về tính phù
hợp của pháp luật về bảo vệ thông tin của NTD với thực tiễn từ đó đề xuất các
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam hiện nay.
Về thời gian, Luận văn chủ yếu nghiên cứu các vấn đề trong khoảng
thời gian từ 01/7/2011 (thời điểm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 có hiệu lực) đến nay.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (phép biện chứng duy vật).
Trong quá trình triển khai đề tài, tác giả đã sử dụng đồng bộ các
phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.

4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thứ nhất, Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh lý
luận pháp luật cơ bản về bảo vệ TTCN của NTD như: khái niệm, các phương
thức bảo vệ và vai trò của pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD.
Thứ hai, Luận văn góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật bảo vệ
TTCN của NTD tại Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những thành tựu đã đạt được
cùng hạn chế, bất cập và chỉ rõ nguyên nhân của hạn chế, bất cập.
Thứ ba, Luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ TTCN của NTD và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này trong
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội bền vững, an toàn.
Thứ tư, đề tài có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các sinh
viên chuyên ngành luật cũng như chuyên ngành khác có liên quan và có thể
mang tính tham khảo trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ TTCN
của NTD ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được thiết kế làm 03 phần lớn: phần mở đầu, phần nội dung
và phần kết luận. Ngoài ra còn có một số nội dung khác như: Danh mục từ
viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,…
Trong đó, phần nội dung được thiết kế làm 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân
của người tiêu dùng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người
tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.

5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái niệm bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Kinh tế thị trường ra đời gắn liền với sự phát triển của quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hóa, là nơi người mua và người bán có thể tiếp xúc
trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để thực hiện các hoạt động mua bán, chuyển
nhượng, trao đổi các loại hàng hóa, dịch vụ,… tạo nên mối quan hệ hợp tác,
gắn bó mật thiết giữa các chủ thể tham gia. Các doanh nghiệp là nhà cung cấp
luôn quan tâm đến các đối tượng khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu
mua, nhu cầu sử dụng nhưng chưa được thỏa mãn và khả năng thanh toán của
họ để tạo nên vị trí cho các sản phẩm của mình trên thị trường. Trong mối
quan hệ giữa NTD, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức
xã hội, NTD được xem là chủ thể giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng để
cấu tạo và thực hiện các hoạt động cơ bản của thị trường, tuy nhiên họ lại là
người có mức độ hiểu biết không chuyên sâu về thị trường và hàng hóa, dịch
vụ mình đang sử dụng bằng các chủ thể cung cấp, đồng thời không lúc nào
cũng có điều kiện tiếp cận các thông tin về sản phẩm và biết được các thông
tin của mình được nhà cung cấp thu thập được sử dụng để làm gì, bởi vậy đây
luôn là các đối tượng yếu thế cần được pháp luật chú trọng bảo vệ.
Hiện nay, vấn đề về bảo vệ NTD đang là mối quan tâm ở nhiều nước trên
thế giới. Dưới góc độ lý luận pháp luật, các nhà nghiên cứu, nhà làm luật đã có
nhiều cách tiếp cận, ý kiến khác nhau về khái niệm NTD, có thể kể đến như:
Theo quy định tại Điều 3 Phần 1 Chương II Bộ luật Người Tiêu dùng
(Consumer Code) năm 2014 của nước Pháp thì định nghĩa về NTD được hiểu
là “người thực hiện các giao dịch không vì mục đích thương mại, công
nghiệp, thủ công, các hoạt động nông nghiệp hoặc tự sản xuất”.

6
Trong hệ thống pháp luật ở Thái Lan, căn cứ Điều 3 Luật Bảo vệ người
tiêu dùng năm 1979 của nước này, “Người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ của một nhà kinh doanh, kể cả những người được chào hàng
hoặc được đề nghị mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ của nhà kinh doanh”.
Tại Nga, trong phần khái niệm cơ bản của Luật Bảo vệ người tiêu dùng
năm 1999, sửa đổi gần nhất vào năm 2007 thì người tiêu dùng được định nghĩa
là “cá nhân người có mong muốn đặt hoặc yêu cầu hàng hóa (công việc, dịch
vụ) hoặc người đặt, yêu cầu hàng hóa cho mục đích tiêu dùng của cá nhân, gia
đình, hộ gia đình và các nhu cầu khác không vì mục đích kinh doanh”.
Có thể thấy, cho dù nhìn nhận ở khía cạnh nào đi nữa, các khái niệm
trên đều thống nhất xác định NTD vẫn là các đối tượng có thể là cá nhân hoặc
tổ chức không chỉ thực hiện hành vi mua mà phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ
để phục vụ sinh hoạt. Nói cách khác, pháp luật các nước khi giải thích khái
niệm về NTD luôn loại trừ các mục đích kinh doanh, sinh lời trong hoạt động
thương mại đối với giao dịch trên thị trường, qua đó nhà làm luật gián tiếp
thừa nhận đây là các hoạt động mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà
cung cấp phát sinh trong lĩnh vực dân sự.
Ở Việt Nam, pháp luật về bảo vệ NTD được hình thành từ năm 1999
thông qua Pháp lệnh số 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27/04/1999 về Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, sau đó được điều chỉnh, thay thế bằng Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, đánh dấu sự ra đời của khung pháp lý
hoàn chỉnh để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia sử dụng hàng hóa,
dịch vụ, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tôn trọng Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở đó, Khoản 1 Điều 3 Luật
BVQLNTD quy định NTD là “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Pháp luật hiện
hành thừa nhận NTD ở Việt Nam có thể là các cá nhân, tổ chức và có mối liên

7
hệ với nhà cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thông qua việc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ phục vụ tiêu dùng, sự mở rộng đối tượng được xem là NTD
ở nước ta đã góp phần giúp nhiều chủ thể yếu thế trên thị trường được pháp
luật bảo vệ một cách kịp thời. Thêm vào đó, dưới góc độ ngôn ngữ học, tiêu
dùng là hoạt động sử dụng của cải vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của đời
sống sinh hoạt hằng ngày.
Từ những phân tích trên, như vậy, ở Việt Nam, khái niệm NTD có thể
khái quát: là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức tham gia các giao dịch dân sự
bằng việc thực hiện hoạt động mua, sử dụng các loại hàng hóa, dịch vụ không
nhằm mục đích thương mại mà chỉ phục vụ mục đích sử dụng, sinh hoạt cho
cá nhân, gia đình, tổ chức.
1.1.2. Khái niệm thông tin cá nhân của người tiêu dùng và bảo vệ thông
tin cá nhân của người tiêu dùng
“Thông tin cá nhân” (TTCN) không phải là thuật ngữ mới ở Việt Nam
mà thuật ngữ này đã được đề cập, sử dụng trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau. TTCN đã được giải thích lần đầu tiên tại Khoản 5 Điều 3 Nghị định số
64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nhà nước,
theo đó, TTCN là: “thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân,
bao gồm ít nhất nội dung trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh,
nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số
chứng minh nhân dân, số hộ chiếu. Những thông tin thuộc bí mật cá nhân
gồm có hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và
những bí mật cá nhân khác.”
Sau đó, trong phạm vi áp dụng các giao dịch thương mại điện tử,
TTCN được định nghĩa tại Khoản 13 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về
thương mại điện tử, theo đó, TTCN là các thông tin góp phần định danh một
cá nhân cụ thể, gồm tên, tuổi, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại, thông tin y tế,

8
số tài khoản, thông tin về các giao dịch thanh toán cá nhân và những thông tin
khác mà cá nhân mong muốn giữ bí mật. Theo Nghị định này, các thông tin
liên hệ công việc và thông tin mà cá nhân đã tự công bố trên các phương tiện
truyền thông không được xem là TTCN.
Tuy nhiên, trong Luật BVQLNTD lại không đề cập đến khái niệm
“thông tin cá nhân của NTD” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “thông tin của người
tiêu dùng” để áp dụng chung. Hiện nay, trong các văn bản luật, định nghĩa
TTCN được đề cập một cách chính thức tại Khoản 15 Điều 3 Luật ATTTM
năm 2015, theo đó, “thông tin cá nhân là thông tin gắn liền với việc xác định
danh tính của một người cụ thể”. Thuật ngữ “danh tính” có thể được hiểu là
các dữ liệu về tên, tuổi, lai lịch của một người, các thông tin này có thể đã
được công khai hoặc họ không muốn tiết lộ và giữ làm bí mật riêng. Suy rộng
ra, các TTCN phải biểu thị các thông tin gắn liền với một người, phản ánh về
các quyền dân sự hay chứa đựng các thông tin liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác như hành chính, hình sự, giáo dục, kinh tế, y tế,… Thông thường, TTCN
là thông tin về họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa
chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân/căn cước công dân, số
hộ chiếu, thông tin về hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số
thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác.
Từ những bình luận trên, có thể hiểu TTCN của NTD là: tất cả các
thông tin đã được công khai hoặc bí mật mà qua đó có thể xác định được cụ
thể danh tính của NTD, phân biệt giữa họ với một người khác.
Cũng phải khẳng định rẳng, mặc dù thuật ngữ “người tiêu dùng” trong
quy định của Luật BVQLNTD năm 2010 không chỉ bao gồm cá nhân mà có
thể bao gồm cả hộ gia đình và tổ chức, tuy nhiên, như định nghĩa về “thông
tin cá nhân” đã hàm ý kể trên, trong cụm từ “thông tin cá nhân của NTD” thì
cụm từ “người tiêu dùng” chỉ có thể được hiểu là “cá nhân người tiêu dùng”

9
chứ không bao gồm “tổ chức”. Do vậy, trong nghiên cứu này, thuật ngữ
“người tiêu dùng” trong tên đề tài nghiên cứu chỉ được hiểu và giới hạn là cá
nhân người tiêu dùng.
Khi tham gia giao dịch trên thị trường, trừ các giao dịch trực tiếp sử
dụng tiền mặt mà các bên tham gia giao dịch không cần hỏi người mua hàng
hóa, dịch vụ là ai, đa phần NTD buộc phải cung cấp một số thông tin cá nhân
của mình (như các thông tin về họ tên, địa chỉ liên lạc v.v..) cho tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thực hiện giao dịch (nhất là trong các
giao dịch mà giữa các bên hình thành một hợp đồng dưới hình thức văn bản,
trong đó có các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ qua mạng Internet).
Những thông tin về khách hàng thường được các cá nhân, tổ chức kinh doanh
thu thập, lưu trữ, quản lý cẩn thận và cần được giữ kín, bảo mật một cách chặt
chẽ bởi lẽ nó không chỉ đáp ứng cho một giao dịch được xác lập trước mắt mà
tạo điều kiện để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với khách hàng cũ của mình
thông qua việc khai thác dữ liệu khách hàng đang có sẵn, đảm bảo giữ vững
thị phần. Thông qua lưu trữ thông tin khách hàng, thay vì phải nghiên cứu tìm
kiếm cách quảng bá, tiếp thị sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp chỉ cần sử
dụng dữ liệu có sẵn tiến hành liên lạc với khách hàng cũ, duy trì mối quan hệ
bạn hàng ổn định. Tuy nhiên, mục tiêu tất cả các chủ thể kinh doanh hướng
đến là lợi nhuận, họ không thể nào đầu tư một khoản chi lớn để bảo mật thông
tin khách hàng, cũng như không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng cạnh
tranh với nhau, các tổ chức kinh tế này thường có xu hướng liên kết, thỏa
hiệp, hợp tác với nhau, chia sẻ thông tin về khách hàng – tài nguyên quý báu
trong quá trình kinh doanh – để tìm được lợi nhuận cao hơn, để mở rộng thị
phần, doanh nghiệp cũng cần điều tra, thu thập thông tin để đánh giá được thị
hiếu, khuynh hướng mua sắm của khách hàng để từ đó có điều chỉnh thích
hợp hoạt động kinh doanh của mình tới khách hàng tiềm năng. Do đó, dưới

10
khía cạnh kinh tế, các TTCN của NTD là nguồn dữ liệu vô cùng quý giá, củng
cố năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
Thực tế, không một ai mong muốn những thông tin của mình bị lộ, bị
lọt vào tay của người khác khi không biết họ sử dụng để làm gì và không thể
dự đoán các hậu quả tác động đến mình ra sao. Do đó, việc dễ dàng thu thập
được các TTCN của NTD đã đặt ra vấn nạn “trộm thông tin người dùng”,
“rao bán thông tin”,… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD,
gây ra những tác động không nhỏ đến đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, tác
động xấu đến hoạt động của nền kinh tế và trật tự xã hội, đặt ra yêu cầu cấp
thiết về hoạt động ngăn chặn, khắc phục bảo vệ TTCN của NTD.
Như vậy, bảo vệ TTCN của NTD là việc áp dụng các biện pháp nhằm
đảm bảo tính bảo mật thông tin riêng tư về NTD, tránh việc lộ, lọt thông tin
dẫn đến tình trạng lạm dụng, sử dụng bất hợp pháp TTCN của NTD trong bất
kì hoạt động, trên bất kì phương diện nào, đồng thời góp phần ngăn chặn, xử
lý các hành vi xâm phạm đến quyền được bảo hộ về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân của con người, bảo vệ TTCN của NTD được an toàn.
1.1.3. Các phương thức bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
Theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền lợi NTD (bao gồm bảo vệ
TTCN của NTD) là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn thể xã hội, nên
cần được triển khai một cách đồng bộ, kịp thời trên nhiều phương diện và có
sự phối hợp thực hiện của các chủ thể tham gia. Trong đó, hoạt động bảo vệ
TTCN của NTD trước hết được thực hiện bằng việc xây dựng và áp dụng các
quy định pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD.
Nhà nước là tổ chức đặc biệt thực hiện các chức năng quản lý và duy trì
trật tự xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật nên trách nhiệm bảo vệ TTCN nói
chung và bảo vệ TTCN của NTD nói riêng trước hết thuộc về Nhà nước.
Cùng với những biến đổi của nền kinh tế thị trường, nhất là trước tác động

11
ngày một mạnh mẽ của các công nghệ số và không gian mạng, hệ thống pháp
luật về bảo vệ TTCN của NTD từng bước hình thành và phát triển, được ghi
nhận trong các đạo luật như: Hiến pháp, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An
ninh mạng năm 2018, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016,…
Thông qua các văn bản pháp luật, một số cách thức bảo vệ TTCN của
NTD được áp dụng cụ thể đó là:
Một là, quy định nghĩa vụ/trách nhiệm pháp lý của chủ thể thu thập, xử
lý lưu trữ TTCN của NTD. Đây là cách thức áp dụng với hầu hết các ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh, qua đó việc thu thập, xử lý các TTCN của NTD
bởi các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tuân thủ yêu cầu, quy trình pháp luật
quy định. Có thể thấy TTCN là những gì thuộc về quyền về đời sống riêng tư
của một người nào đó, vì vậy, các phương pháp thu thập, xử lý lưu trữ TTCN
của NTD phải được sự đồng ý của chính người này, trừ trường hợp người đứng
đầu cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình được phép
yêu cầu cung cấp thông tin trong trường hợp cần thiết vì lợi ích, sức khỏe của
cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý của cá
nhân đó và một số trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Quyền về đời sống riêng tư của mỗi cá nhân là bất khả xâm phạm, được
Nhà nước công nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật, nên việc thực hiện
phương thức thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin phải đáp ứng quy định pháp
luật. Đây là giới hạn xác định về điều kiện thực hiện các hành vi thu thập
TTCN để tránh các trường hợp lộ, lọt thông tin không mong muốn, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống riêng tư của NTD.
Hai là, buộc các chủ thể thu thập thông tin phải dụng các biện pháp kỹ
thuật về an toàn thông tin. Áp dụng các biện pháp an toàn thông tin là một

12
trong các điều kiện bắt buộc để bảo vệ TTCN của NTD, nhất là đối với những
thông tin trên môi trường mạng. Để bảo đảm an toàn thông tin mạng thì tổ
chức, căn cứ quy định tại Điều 19 Luật ATTTM 2015, cá nhân xử lý TTCN
có trách nhiệm áp dụng biện pháp quản lý, kỹ thuật phù hợp và cần áp dụng
biện pháp khắc phục, ngăn chặn trong thời gian sớm nhất khi xảy ra hoặc có
nguy cơ xảy ra sự cố an toàn thông tin mạng. Các dữ liệu cá nhân của NTD
cần được bảo đảm an toàn để chống lại các rủi ro có thể xảy ra như bị trộm, bị
tiết lộ, bị sử dụng trái phép, bị tiêu hủy, bị sửa đổi bổ sung...
Các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin để đảm bảo an toàn thông tin
mạng được quy định áp dụng bao gồm:
- Ban hành quy định về bảo đảm an toàn thông tin mạng trong thiết kế,
xây dựng, quản lý, vận hành, sử dụng, nâng cấp, hủy bỏ hệ thống thông tin.
- Áp dụng biện pháp quản lý, kỹ thuật theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật an toàn thông tin mạng để đề phòng, chống nguy cơ, khắc phục sự cố an
toàn thông tin mạng.
- Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định và đánh giá hiệu quả của các
biện pháp quản lý và kỹ thuật được áp dụng.
- Giám sát an toàn hệ thống thông tin.
Ba là, bảo vệ TTCN của NTD thông phương thức hợp đồng dân sự.
Thông qua hoạt động mua, sử dụng các loại hàng hóa, dịch vụ nhằm phục vụ
sinh hoạt, NTD tham gia xác lập các giao dịch dân sự với cá nhân, tổ chức
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thường phải cung cấp một số TTCN liên
quan để thực hiện giao dịch.
Trong lĩnh vực dân sự, các hợp đồng cần được thiết lập theo quy định
của BLDS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trên cơ sở đó, căn cứ
Điều 38 BLDS 2015 thì đời sống riêng tư, bí mật cá nhân là bất khả xâm
phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, công khai

13
thông tin này phải được người đó đồng ý. Bởi vậy, bên cung ứng hàng hoá,
dịch vụ có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó
cho mục đích của riêng mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Đồng
thời, dựa trên những quy định tại Điều 387 BLDS thì khi một bên nhận được
thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng, có trách nhiệm
bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của
mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác, bên vi phạm mà gây ra thiệt hại
có trách nhiệm phải bồi thường, cho nên NTD có thể yêu cầu các điều khoản
về bảo mật thông tin, bồi thường thiệt hại khi giao kết hợp đồng dân sự trên
cơ sở tự nguyện và thống nhất thỏa thuận của các chủ thể tham gia, tuân thủ
pháp luật và bảo đảm kịp thời, bảo vệ tối ưu quyền lợi của bản thân.
Bốn là, bảo vệ TTCN của NTD bằng các phương thức giải quyết tranh
chấp. Khi phát sinh mâu thuẫn về quyền và lợi ích của các bên dẫn đến tranh
chấp, NTD có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội
khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật BVQLNTD
và các quy định pháp luật khác có liên quan. NTD có thể tự mình bảo vệ hoặc
yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm
tùy theo mức độ và tính chất của sự việc. Đồng thời, Tòa án, Trọng tài thương
mại là cơ quan tài phán có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền của các chủ
thể, thực hiện hoạt động tố tụng để giải quyết các trường hợp tranh chấp, vi
phạm phát sinh.
1.1.4. Vai trò của hoạt động bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
Quan hệ pháp luật giữa NTD và cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ, sản
phẩm thường phát sinh trong lĩnh vực dân sự, kinh tế. Trong mối quan hệ này,
NTD thường ở vị trí yếu thế cần được pháp luật bảo vệ để tạo nên sự công
bằng trong quan hệ giữa các thành viên trong xã hội. Do đó, bảo vệ thông tin
cá nhân của NTD cũng góp phần duy trì sự công bằng ấy trong các quan hệ
trên thị trường. Cụ thể:

14
Thứ nhất, bảo vệ TTCN của NTD góp phần đảm bảo tốt hơn quyền con
người.
Với tư cách là một trong các chủ thể của pháp luật, NTD luôn được pháp
luật bảo vệ, tạo cơ hội để thực hiện các quyền con người, quyền công dân và
hưởng lợi ích chính đáng của mình, góp phần đảm bảo bình đẳng, công bằng
trong xã hội.
Quyền con người vốn là các quyền tự nhiên, sẵn có của tất cả mọi người
trong xã hội và được pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế ghi nhận, bảo vệ,
tạo điều kiện để người đó phát huy các quyền vốn có của mình. Ở Việt Nam,
mọi hành vi xâm phạm lợi ích của công dân, vi phạm quyền con người đều là
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng và cần được kịp thời xử lý nghiêm
minh, đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình, được bảo vệ về danh dự, nhân phẩm, uy tín của mỗi
người. Do đó, hoạt động bảo vệ TTCN của NTD là một trong những cách
thức góp phần đảm bảo một trong những quyền cơ bản nhất mà mỗi người
được hưởng, được pháp luật thừa nhận, bảo hộ bởi các quy định pháp luật, tạo
hành lang pháp lý để đảm bảo cơ chế bảo vệ quyền về đời sống riêng tư của
con người nói chung, quyền được bảo vệ của NTD nói riêng, thể hiện tính
công bằng, nghiêm minh của pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, bảo vệ TTCN của NTD góp phần bảo đảm
thực hiện quyền con người, đặc biệt là quyền được bảo đảm an toàn về TTCN
của NTD, góp phần tạo ra sự bình đẳng, độc lập giữa các cá nhân, tổ chức
trong xã hội.
Thứ hai, bảo vệ TTCN của NTD góp phần xây dựng nền kinh tế phát
triển bền vững và duy trì ổn định, trật tự xã hội.
NTD là giữ vai trò trung tâm trong mối quan hệ giữa các chủ thể tham
gia vào thị trường, góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa,

15
dịch vụ, phát triển nền kinh tế. Bảo vệ NTD là trách nhiệm chung của Nhà
nước và toàn xã hội. Thông qua hoạt động bảo vệ TTCN của NTD, các cá
nhân, tổ chức cung cấp sản phẩm, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện tốt quá
trình thu thập, xử lý thông tin khách hàng, tránh tình trạng doanh nghiệp liên
kết chia sẻ TTCN của người khác mà không có sự đồng ý của họ, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng với các chủ thể kinh doanh khác, góp
phần ổn định thị trường, tạo động lực để phát triển hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức được nhà nước giao trách nhiệm
bảo vệ NTD, quản lý thị trường thông qua hệ thống pháp luật về bảo vệ
TTCN của NTD có điều kiện phát huy vai trò, nhiệm vụ đảm nhận. Qua đó,
căn cứ vào hành vi, mức độ vi phạm mà áp dụng các biện pháp bảo vệ NTD
một cách chính đáng, thực hiện tốt công tác bảo vệ các lợi ích cộng đồng, an
ninh quốc gia, đảm bảo trật tự xã hội, thúc đẩy hoạt động của thị trường và sự
phát triển an toàn, bền vững của nền kinh tế.
Thứ ba, bảo vệ TTCN của NTD giúp nâng cao trách nhiệm của cơ
quan nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD.
Hoạt động bảo vệ TTCN của NTD đáp ứng các yêu cầu khách quan của
xã hội, nhu cầu được bảo vệ đời sống riêng tư, quyền cơ bản mà mỗi người đều
được tôn trọng và bảo vệ, đây là các yêu cầu hợp pháp và phù hợp với thực tiễn.
Do đó, pháp luật bảo vệ TTCN của NTD được chú trọng, xây dựng trên cơ sở
nguyên tắc đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, phù hợp với yêu cầu khách
quan, bảo đảm quyền dân chủ và hài hòa lợi ích giữa các lực lượng xã hội. Bằng
sự thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước qua các thời
kỳ về quyền con người, hoạt động bảo vệ TTCN của NTD được thực hiện trên cơ
sở quy định pháp luật, đảm bảo sự công bằng xã hội, tránh được những xung đột
về mặt lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, góp phần ổn định xã hội và quá
trình phát triển của nền kinh tế thị trường.

16
Để đảm bảo cho việc thực hiện các quy định pháp luật cũng như phát
huy vai trò quản lý xã hội, Nhà nước trao quyền thực hiện, quản lý công tác
bảo vệ quyền lợi của NTD cho các cơ quan các cấp, qua đó hoạt động bảo vệ
NTD nói chung và TTCN của NTD nói riêng đều được tiến hành được thực
hiện dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ Điều 34
Nghị định số 99/2011/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật BVQLNTD thì Bộ
Công thương, Cục quản lý cạnh tranh (nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ
người tiêu dùng), UBND cấp tỉnh, Sở Công thương, UBND cấp huyện là cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD, tiến hành một số hoạt động
như: thẩm định, giám sát các hoạt động của tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi
NTD, hoạt động hòa giải tranh chấp giữa NTD và cá nhân, tổ chức kinh
doanh. Qua đó, tạo điều kiện để bảo đảm an toàn về TTCN của NTD, triển
khai các công tác tư vấn, hỗ trợ nhằm tuyên truyền, phổ biến pháp luật nâng
cao ý thức về bảo vệ quyền lợi NTD, đặc biệt là những thông tin thuộc về cá
nhân, mang tính riêng tư của NTD, đồng thời củng cố nghiệp vụ của cơ quan
nhà nước để bảo vệ NTD một cách nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện để
thực thi quyền con người, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong công tác bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam. Tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động tiến hành
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ quyền lợi NTD.
Muốn những thông tin này được bảo mật, an toàn, các tổ chức, cơ quan
có thẩm quyền cũng cần có những biện pháp tích cực để bảo vệ TTCN của
NTD. Thông qua kết quả hoạt động bảo vệ TTCN của NTD, có thể đánh giá
được cách thức hoạt động và hiệu quả làm việc của các cơ quan này khi được
Nhà nước giao phó nhiệm vụ, thống kê thành tựu đạt được và nhận xét về hạn
chế còn tồn đọng, nguyên nhân cần khắc phục, nhất là sự hợp tác của các cơ

17
quan này đôi lúc còn chậm thực hiện vì sự thiếu trách nhiệm cũng như động
cơ hợp tác. Từ đó tạo cơ chế bảo vệ TTCN góp phần phù hợp với tiêu chuẩn
pháp lý trong nước và quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói
chung và quyền TTCN của NTD nói riêng, tạo hành lang pháp lý đối với các
cơ chế thực thi pháp luật, chống lại các hành vi vi phạm quyền riêng tư của
con người.
Thứ tư, bảo vệ TTCN của NTD giúp điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức
tiến hành thu thập thông tin một cách có trách nhiệm.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh tiến hành thu thập TTCN của NTD rất
nhiều. Hầu như khi tham gia vào bất kể giao dịch nào, NTD cũng cần cung
cấp TTCN. Do đó, việc xây dựng các quy định pháp luật và thực hiện hoạt
động bảo vệ quyền của NTD đối với các TTCN là vô cùng cần thiết, buộc các
chủ thể tham gia vào quan hệ phải tôn trọng các quyền, lợi ích của các chủ thể
khác, nhất là không thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền lợi của NTD.
Thông thường, quy định pháp luật thường mang tính bắt buộc chung đối với
các đối tượng tham gia, thu hút sự tham gia tích cực của toàn thể xã hội,
cưỡng chế thi hành để đảm bảo thực hiện đối với các hành vi vi phạm, đồng
thời hoạt động của các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong công tác bảo vệ
NTD đặt dưới sự giám sát, kiểm tra của Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền. Từ đó, công tác bảo vệ TTCN của NTD được thực hiện
tốt hơn thông qua việc áp dụng pháp luật, tạo cơ sở cho sự bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền công dân đối với TTCN, đảm bảo lợi ích của cá nhân
khi họ chia sẻ thông tin của mình. Việc thu thập thông tin một cách dễ dàng
bằng nhiều cách thức khác nhau sẽ mang lại một giá trị lợi nhuận cao hơn cho
các doanh nghiệp, tuy nhiên lợi nhuận này phải hình thành từ cơ sở hợp pháp
và hợp lý, không thể đem thông tin cá nhân của một người ra để rao bán, trục
lợi mà không hề có sự đồng ý của họ, hành vi này là xâm phạm nghiêm trọng

18
quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân của mỗi công dân. Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý và triển khai
hoạt động hoạt động bảo vệ TTCN của NTD là hết sức quan trọng.
1.2. Khung pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu
dùng ở Việt Nam
Ở Việt Nam thời gian qua, các quy định về bảo vệ TTCN của NTD đã
bước đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật
điều chỉnh quan hệ bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam nói chung và bảo vệ
TTCN của NTD nói riêng đều thể hiện các nguyên tắc, định hướng xây dựng
pháp luật từ việc thể chế hóa, tổng thể các quy định của Nhà nước, chứa đựng
các quy phạm pháp luật có tính chuyên ngành dành cho việc điều điều chỉnh
quan hệ pháp luật phát sinh, bảo đảm thống nhất cho sự vận hành của các
quan hệ xã hội. Dựa vào các văn bản này, Tòa án hoặc người có thẩm quyền
xem xét căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, chẳng hạn: văn
bản quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp lý, tập quán và thông lệ, án lệ và
những học thuyết pháp lý.
Mỗi loại quan hệ xã hội đều có hành lang pháp lý riêng, khung pháp lý
điều chỉnh hoạt động bảo vệ TTCN của người tiêu dùng tại Việt Nam bao
gồm các văn bản:
Thứ nhất, các văn bản do Quốc hội ban hành:
- Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật gốc, nguồn luật quan trọng điều chỉnh
hoạt động bảo vệ TTCN của NTD và có hiệu lực pháp lý cao nhất, là đạo luật
cơ bản của Nhà nước ta thể hiện sự thể chế hóa quan điểm, đường lối cách
mạng của Đảng về xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Quyền con người
được pháp luật chú trọng bảo vệ, ghi nhận trong Hiến pháp qua các thời kỳ,
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận ở nước CHXHCN Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng,

19
thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật.
Theo Hiến pháp năm 2013, Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người
quyền công dân để mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện. Điều 21 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật
gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.”
Do đó, mọi người đều có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu
giữ trái luật thư tín, điện thoại và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của
người khác. Đây là các cơ sở quan trọng cho việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam.
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010: Đây là luật chuyên
ngành quy định trực tiếp những nội dung về hoạt động bảo vệ NTD nói chung
và bảo vệ TTCN của NTD nói riêng từ những nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động bảo vệ quyền lợi NTD, quyền và nghĩa vụ của các bên, giải quyết tranh
chấp liên quan đến hoạt động bảo vệ TTCN của NTD. Luật BVQLNTD với
tư cách là luật chuyên ngành điều chỉnh toàn bộ các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các chủ thể thực hiện hoạt động bảo vệ TTCN của NTD, đặc
biệt là về thông tin thuộc về riêng tư của họ, công cụ để thực hiện quyền quản
lý nhà nước về bảo vệ TTCN của NTD.
- Bộ luật Dân sự năm 2015: BLDS năm 2015 có các quy định tại Điều
32, Điều 34 và Điều 38 ghi nhận cá nhân có quyền được bảo vệ về hình ảnh,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình. Bên cạnh đó, các quan hệ phát sinh trong hoạt động bảo vệ NTD
phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định chung của Bộ luật Dân sự về thiết

20
lập các quan hệ pháp luật dân sự theo nguyên tắc bình đẳng, thiện chí, trung
thực và tôn trọng bảo vệ quyền dân sự, phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp,
tôn trọng lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng và quyền lợi hợp pháp của
người khác, nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc hòa giải.
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: quy định về trình tự thủ tục đối với
các vụ kiện nhằm bảo vệ quyền lợi của NTD, trong đó chủ thể có quyền khởi
kiện không chỉ là các cá nhân, tổ chức mà còn có sự tham gia của tổ chức xã
hội bảo vệ quyền lợi NTD. Cụ thể, Khoản 3 Điều 187 Bộ luật này quy định
“tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện
cho người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng
theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Thông qua đó, lợi
ích hợp pháp của NTD được pháp luật chú trọng bảo vệ kịp thời, tránh khỏi
các tác động tiêu cực của xã hội.
- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012: luật này quy định về xử phạt
hành chính cũng như một số biện pháp xử lý hành chính đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): thông qua việc
hình sự hóa các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi của NTD về
các thông tin cá nhân được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự hiện hành, cụ thể
Điều 159 quy định về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại,
điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác; Điều
288 về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông. Ngoài ra, tại Mục 2 Chương XXI của Bộ luật này quy định về các tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, quyền lợi của
NTD được pháp luật chú trọng bảo vệ thông qua các quy định chế tài xử lý
các hành vi có thể làm xâm hại quyền lợi chính đáng của các chủ thể này và
cản trở hoạt động bảo vệ thông tin cá nhân, tạo điều kiện phát huy tối đa

21
quyền con người, cụ thể: sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho các công
cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng trái pháp luật; phát tán chương trình tin học
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử; xâm phạm trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương
tiện điện tử của người khác; sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; thu thập, tàng trữ,
trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng.
- Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật An
toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Viễn
thông năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin
năm 2006… Đây là các văn bản pháp luật quy định về hoạt động bảo vệ
TTCN của NTD trong một số trường hợp cụ thể, có tính chất kỹ thuật và bổ
trợ trong việc góp phần xác định trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ
bảo vệ NTD, các biện pháp bảo đảm an toàn và bảo vệ quyền của NTD về
thông tin cá nhân của họ, xác định cơ sở để giải quyết các tranh chấp và giải
quyết các vấn đề khác phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình áp dụng pháp
luật, bảo vệ kịp thời quyền lợi chính đáng của NTD, đặc biệt là về đời sống
riêng tư, TTCN của họ, tạo điều kiện phát huy quyền con người một cách tối
đa, phù hợp với các tiêu chuẩn của pháp luật quốc gia và quy chuẩn quốc tế.
Thứ hai, các văn bản dưới luật do Chính phủ và các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và các luật khác có liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD.
Trong đó, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 về quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD. Nghị định
này quy định chi tiết về bảo vệ NTD trong giao dịch cá nhân với hoạt động
thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, hợp đồng
giao kết với NTD và điều kiện giao dịch chung, giải quyết yêu cầu bảo vệ

22
quyền lợi NTD, tổ chức xã hội tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, tổ
chức hòa giải các tranh chấp giữa NTD và cá nhân, tổ chức kinh doanh và
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
Ngoài ra, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 về thương mại
điện tử; Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến
điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử; Nghị định số 98/2020/NĐ-CP
ngày 26/08/2020 quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại,
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
Nghị định số 71/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một
số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp thông tin,… là những
văn bản pháp luật điều chỉnh về công tác triển khai, hướng dẫn áp dụng các
văn bản luật đã ban hành một cách hiệu quả và các nội dung khác nhằm triển
khai hoạt động bảo vệ TTCN của NTD.
Như vậy, trong quan hệ phát sinh trên thị trường, NTD thường ở vị trí
yếu thế, bởi sự hạn chế về thông tin, kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm
phán hợp đồng cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Để tạo lập, gìn giữ và bảo
vệ bình đẳng giữa NTD và doanh nghiệp cần có sự can thiệp mạnh mẽ của
pháp luật với áp dụng nhiều công cụ và phương pháp khác nhau để bảo vệ
người tiêu dùng. Khung pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam ngày
càng được hoàn thiện và phát triển, các chủ thể với các chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn khác nhau cùng phối hợp tham gia công tác bảo vệ NTD nói
chung và bảo vệ TTCN của NTD nói riêng.

23
Tiểu kết chương 1
Qua việc nghiên cứu một cách tổng quan những vấn đề lý luận pháp luật
về bảo vệ TTCN của NTD, có thể thấy rằng đây là khái niệm gắn liền với các
vấn đề liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trước
các nguy cơ tiềm ẩn khi thực hiện các giao dịch nhằm phục vụ đời sống sinh
hoạt hàng ngày. Trách nhiệm bảo vệ TTCN của NTD không chỉ là nghĩa vụ
của riêng cá nhân, tổ chức kinh doanh đã thu thập và xử lý TTCN của NTD
mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội, được thực hiện dưới nhiều
phương thức khác nhau thông qua việc áp dụng các quy định pháp luật hiện
hành, qua ý thức chấp hành pháp luật của NTD hoặc bảo vệ thông qua các tổ
chức xã hội. Qua đó, điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức kinh doanh tiến
hành thu thập thông tin cá nhân của NTD, góp phần xây dựng nền kinh tế
phát triển bền vững, duy trì trật tự xã hội, nâng cao trách nhiệm của cơ quan
nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Có thể thấy rằng, pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
là một lĩnh vực đa dạng, phức tạp với số lượng văn bản nhiều, được cụ thể
hóa bằng các hoạt động khác nhau.

24
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của
người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
Quyền được bảo vệ về đời sống riêng tư là một trong các quyền cơ bản
của con người được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế. Tuyên ngôn quốc tế
về quyền con người năm 1948 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã khẳng
định con người có quyền bất khả xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư,
gia đình, nhà ở hay bị xúc phạm đến danh dự, thanh danh. Bất kỳ ai cũng có
quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự xâm phạm ấy. Đây là một
nội dung thể hiện sự tiến bộ trong pháp luật quốc tế, tạo tiền đề mang tính
chuẩn mực trong xây dựng hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia. Trên cơ sở
đó, bản Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban hành từ
năm 1985, điều chỉnh vào năm 1999 đã xác định quyền được quyền được an
toàn, quyền được thông tin là một trong các quyền cơ bản của NTD, tạo ra
động lực cho quá trình phát triển của hệ thống pháp luật bảo vệ TTCN của
NTD trên thế giới.
Những cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc đã làm chậm công cuộc
mở cửa, hội nhập của nước ta với thế giới bên ngoài. Phải tới ngày
20/09/1997, Việt Nam mới gia nhập Liên Hợp quốc. Từ đó, khi xây dựng
chính sách, pháp luật, các nhà lập pháp Việt Nam luôn cố gắng không chỉ đáp
ứng yêu cầu của bối cảnh, tình hình đất nước mà còn chú trọng bảo đảm sự
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Ở nước ta, sự ra đời của Pháp lệnh số
13/1999/PL-UBTVQH ngày 27/04/1999 về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và sau đó được cụ thể, hoàn thiện hóa bởi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010 đã đánh dấu sự ra đời về hệ thống pháp luật bảo vệ NTD quốc

25
gia, bao quát các phương diện quyền lợi của các cá nhân, tổ chức tham gia thị
trường, đặc biệt là quyền được bảo vệ đối với TTCN. Sự ra đời của Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước đối với việc bảo vệ lợi ích NTD và các doanh nghiệp chân chính
trên thị trường, tạo môi trường kinh doanh văn minh, công bằng. Pháp luật
bảo vệ TTCN của NTD ở nước ta là một lĩnh vực rộng lớn, trong phạm vi đề
tài này, tác giả xin phép đề cập đến thực trạng quy định pháp luật với một số
nội dung chính như sau:
Thứ nhất, quy định về quyền thu thập, lưu trữ, xử lý TTCN của NTD.
Quan hệ của người tiêu dùng và chủ thể kinh doanh xuất phát từ hoạt
động mua bán hàng hóa trong giao dịch dân sự nên nghĩa vụ cung cấp thông
tin là một trong các công việc mà các bên tham gia phải tuân thủ thực hiện.
Do đó, trong không ít trường hợp, NTD phải cung cấp một số thông tin cá
nhân của mình như tên, tuổi, số chứng minh nhân dân, địa chỉ,… để xác lập
được các giao dịch mà mình mong muốn thực hiện nhằm phục vụ sinh hoạt
trong đời sống hằng ngày, thông qua đó các cá nhân, tổ chức kinh doanh có
quyền thu thập các thông tin cá nhân của NTD liên quan đến thực hiện hoạt
động mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn, anh A muốn mua 01
cái tủ lạnh ở Siêu thị điện máy B để sử dụng cho gia đình, anh phải cung cấp
các thông tin về họ tên, số điện thoại, địa chỉ nhà thì các bên mới ký kết hợp
đồng mua bán và bảo hành hàng hóa thì giao dịch mua bán này mới có thể
được thực hiện. Như vậy, Siêu thị điện máy B là tổ chức kinh doanh có quyền
thu thập TTCN của anh B một cách hợp pháp.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ trong
những năm gần đây, các hình thức giao dịch bằng thương mại điện tử diễn ra
thường xuyên và phổ biến. Các số liệu thống kê gần đây cho thấy, trong năm
2020, doanh thu từ hoạt động thương mại điện tử đã đạt mức 11,8 tỷ USD với

26
tốc độ tăng trưởng so với năm 2019 ở mức cao nhất trong khu vực ASEAN là
18%. Trên môi trường mạng, việc thu thập và sử dụng TTCN của NTD được
điều chỉnh bởi quy định của Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật An toàn
thông tin mạng năm 2015, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 về
thương mại điện tử và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, căn cứ
quy định tại Điều 17 Luật ATTTM, Điều 21 Luật CNTT thì việc tiến hành thu
thập, xử lý và sử dụng TTCN được thực hiện khi:
- Có sự đồng ý của chủ thể TTCN. Tuy nhiên đối với tổ chức, cá nhân
thu thập, xử lý và sử dụng TTCN của người khác cho các mục đích ký kết,
sửa đổi hoặc thực hiện hợp đồng sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên
môi trường mạng; tính giá, cước sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên
môi trường mạng, thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật thì vẫn
được sử dụng mà không cần sự đồng ý của người đó;
- Phải thông báo cho chủ thể TTCN biết về phạm vi, mục đích của việc
thu nhập và sử dụng thông tin đó;
- Chỉ sử dụng TTCN đã thu thập vào mục đích khác mục đích ban đầu
sau khi có sự đồng ý của chủ thể TTCN;
- Không được cung cấp, chia sẻ, phát tán TTCN mà mình đã thu thập,
tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ thể
TTCN đó hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, mục đích của NTD khi mua hàng hóa, dịch vụ là phục vụ
nhu cầu sinh hoạt, đây là hoạt động diễn ra hàng ngày, mang tính thường
xuyên và liên tục và ở bất kì đâu, cho nên ngoài không gian mạng, việc tổng
hợp TTCN còn được tiến hành bằng nhiều cách thức khác nhau trong môi
trường vật lý, có thể xem đây là nơi thực hiện thu thập TTCN trong các hoạt
động kinh doanh phổ biến hiện nay. Điểm khác biệt to lớn để phân biệt các
môi trường này đó chính là phương tiện thu thập, nếu như các giao dịch trên

27
không gian mạng được thực hiện gián tiếp qua một ứng dụng công nghệ thì
các hoạt động mua bán, sử dụng hàng hóa trong môi trường vật lý lại được
thực hiện trực tiếp giữa người với người. Mặc dù thế, pháp luật về bảo vệ
TTCN của NTD lại chưa có quy định cụ thể đối với các hoạt động này. Với
thực tế là TTCN dù thu thập trên môi trường mạng hay trong môi trường vật
lý (offline) cũng đều là các thông tin có sự ảnh hưởng đến cuộc sống của một
người, việc sở hữu, tiếp cận các thông tin này có thể giúp xác định được danh
tính của một người nhất định, cho nên dù là thu thập trên không gian nào đi
nữa thì các chủ thể kinh doanh đều phải đảm bảo các nguyên tắc về quyền
được đảm bảo đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, cho dù ở phương diện nào đi chăng nữa, nhìn chung để thu
thập TTCN của NTD một cách hợp pháp, phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến
TTCN của NTD phải được chính người đó đồng ý trên cơ sở tự nguyện cung
cấp. Quyền nhân thân đối với các thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ, do đó
việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến TTCN của
NTD phải được chính cá nhân, tổ chức đó đồng ý. Đồng thời, việc chuyển
giao thông tin của NTD cho bên thứ ba chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý
của NTD trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Đảm bảo sử dụng TTCN đã thu thập phù hợp với mục đích ban đầu.
Việc thu thập TTCN cho dù có hợp pháp hay không đều bắt đầu từ một giao
dịch dân sự, xuất phát từ yêu cầu cung cấp thông tin của người tiến hành thu
thập và sự đồng ý cung cấp của chủ thể thông tin, cho nên trước khi tiến hành
thu thập TTCN của NTD thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
phải có trách nhiệm thông báo rõ ràng, công khai với NTD về mục đích hoạt

28
động thu thập và cam kết sử dụng các thông tin này phù hợp với mục đích đã
thông báo, trường hợp có sự thay đổi so với mục đích ban đầu thì chủ thể thu
thập, quản lý chỉ được sử dụng nếu được NTD đó đồng ý.
- Áp dụng các biện pháp an toàn để bảo vệ TTCN của NTD. Quá trình
thu thập, lưu trữ, sử dụng TTCN phải bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ
thông tin của NTD, đồng thời chủ thể tiến hành thu thập phải tự mình hoặc có
biện pháp để NTD cập nhật, điều chỉnh khi phát hiện thấy thông tin đó không
chính xác. Cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin phải đảm
bảo an toàn, bí mật và chỉ được thực hiện trong trường hợp quy định của pháp
luật. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được thông qua
việc xác lập, thực hiện hợp đồng nếu như các bên không có thỏa thuận khác.
Đồng thời, tổ chức, cá nhân thu thập TTCN của NTD phải đảm bảo rằng
thông tin do mình thu thập, quản lý luôn được an toàn, sử dụng đúng mục
đích như đã thông báo với NTD.
Như vậy, các thông tin được cung cấp thuộc về đời sống sống riêng tư,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình của một người do đó trong giao kết hợp đồng,
chủ thể kinh doanh là người nhận được các thông tin này có trách nhiệm bảo
mật thông tin và không được sử dụng cho những mục đích riêng của mình
hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Quá trình thu thập, lưu trữ, xử lý
TTCN của NTD tiến hành bằng nhiều phương thức khác nhau nhưng không
được thực hiện một cách tùy ý mà phải tuân thủ theo đúng quy định. Tuy
nhiên, các pháp luật điều chỉnh quan hệ bảo vệ TTCN của NTD hiện nay chưa
đề cập một cách tổng thể đến quá trình tiếp cận thông tin và tổng hợp thông
tin thu thập ở môi trường vật lý dẫn đến những bất cập trong quá trình áp
dụng, dẫn đến tình trạng một số đối tượng xấu lợi dụng kẽ hở của quy định
pháp luật để thực hiện các hành vi xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người
tiêu dùng, làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật.

29
Thứ hai, về trách nhiệm thực hiện cung cấp TTCN của NTD.
Thông tin mà các chủ thể kinh doanh hướng đến, tìm kiếm, thu thập là
tất cả những gì liên quan đến NTD để họ rút ngắn thời gian xây dựng kế
hoạch mà vẫn có cơ hội tiếp cận được các đối tác tiềm năng trong tương lai.
Thực chất, hơn ai hết, chính NTD là người hiểu rõ được các thông tin về bản
thân mình và không phải ai cũng muốn chia sẻ cuộc sống riêng tư với mọi người
và cần một sự tự do cần thiết trong đời sống thường nhật. Bởi vậy, để bảo vệ
quyền riêng tư của chính mình và tránh những rủi ro rò rỉ, sai lệch các thông tin
được công bố đến mọi người, trước hết NTD phải tự mình thực hiện tốt các quy
định pháp luật về trách nhiệm cung cấp và bảo vệ thông tin của bản thân.
TTCN là những gì điều gắn liền với một người, đó có thể là số chứng
minh thư, địa chỉ nhà ở, số tài khoản ngân hàng, số điện thoại,… được cung
cấp khi họ tham gia mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ trên thị trường. Thông
qua đó, các thông tin chỉ được NTD tiết lộ cho một chủ thể khác biết chứ
không hề chuyển giao quyền liên quan đến thông tin đó cho họ nên NTD vẫn
là chủ thể TTCN và có đầy đủ các quyền được pháp luật bảo vệ.
Đối với các giao dịch được thực hiện qua không gian mạng, pháp luật
cho phép một cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân lưu trữ TTCN của
mình trên môi trường mạng thực hiện việc kiểm tra, đính chính hoặc hủy bỏ
thông tin đó. Ngoài ra, các chủ thể kinh doanh chỉ được chia sẻ thông tin
riêng tư của một người khi người đó đồng ý và phải cung cấp TTCN mà tổ
chức, cá nhân đó đã thu thập, lưu trữ khi có yêu cầu của chủ thể TTCN, do đó
NTD có quyền không đồng ý cung cấp hoặc yêu cầu các tổ chức, cá nhân này
ngừng tiết lộ các thông tin của mình cho bên thứ ba và được quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm trong quá trình thu thập, xử lý,
sử dụng TTCN trái pháp luật.

30
Tuy nhiên, để được hưởng những quyền lợi đối với các thông tin riêng tư
của mình, NTD có trách nhiệm thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật. Căn cứ Khoản 1 Điều 16 Luật ATTTM, một trong các nguyên tắc
bảo vệ TTCN trên mạng thì: “Cá nhân tự bảo vệ TTCN của mình và tuân thủ
quy định của pháp luật về cung cấp TTCN khi sử dụng dịch vụ trên mạng.”
Ngoài ra, NTD phải thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên
quan khi phát hiện hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ để áp dụng các biện pháp xử
lý, ngăn chặn kịp thời để tránh xảy ra các hậu quả không mong muốn.
Thứ ba, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong công tác bảo
vệ TTCN của NTD.
Căn cứ quy định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013, Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý nhà nước bằng Hiến pháp
và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, do đó mọi quan hệ phát
sinh trong đời sống xã hội đều do Nhà nước quản lý nhằm bảo đảm, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, công nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ công
bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện.
Ở nước ta hiện nay, theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 99/2011/NĐ-
CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
NTD ở các cấp được xác định như sau:
- Cấp Trung ương: Bộ Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước về bảo
vệ quyền lợi NTD ở Trung ương, bên cạnh đó hai đơn vị hỗ trợ cho Bộ trưởng
Bộ Công thương là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (căn cứ theo
Nghị định số 98/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương) và Tổng cục Quản lý thị trường.

31
Thêm vào đó, trong hoạt động bảo vệ TTCN của NTD mang những đặc
trưng riêng nên theo quy định tại Điều 7 Luật CNTT năm 2005 và Luật An
toàn thông tin mạng năm 2015 thì Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây là
Bộ Bưu chính, Viễn thông) chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc chủ
trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan theo phân công của
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công nghệ thông tin, bảo đảm an
toàn thông tin mạng. Ngoài ra theo quy định của Luật An ninh mạng năm
2018 thì Bộ Công an cũng có trách nhiệm nhất định trong việc thực thi pháp
luật bảo vệ TTCN nói chung (trong đó có bảo vệ TTCN của NTD).
- Cấp địa phương: UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm thực hiện quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD và công nghệ thông tin ở địa phương. Sở
Công thương, Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan giúp Chủ tịch UBND
và UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công nghệ thông tin, bảo vệ
quyền lợi NTD ở tại địa phương.
Có thể thấy, quy định về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
TTCN của NTD đã bước đầu đã có sự hoàn thiện. Hiện tại, Cục Cạnh tranh và
Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công thương) là cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong hoạt động bảo vệ quyền lợi của NTD nói chung (và về nguyên tắc, có
trách nhiệm cả trong việc bảo vệ TTCN của NTD). Cùng với đó, cả nước đã
có 63 Sở Công thương, 63 Sở Thông tin và Truyền thông tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương phối hợp cùng tham mưu cho UBND tỉnh thực
hiện quản lý nhà nước về hoạt động bảo vệ TTCN của NTD.
Ngoài ra, trong phạm vi hoạt động của mình, các cơ quan quản lý nhà
nước cũng là một trong các chủ thể có quyền thu thập TTCN của NTD khi thuộc
các trường hợp theo quy định của pháp luật nên cũng chịu trách nhiệm bảo mật,
lưu trữ TTCN do mình thu thập nên cần thường xuyên kiểm tra các hệ thống, điều
kiện thu thập thông tin của các tổ chức để phát hiện kịp thời các sai sót, vi phạm
trong quá trình thu thập, lưu trữ và sử dụng TTCN của NTD.

32
Thứ tư, chế tài xử lý hành vi xâm phạm bất hợp pháp đến TTCN của NTD.
Pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD điều chỉnh các quan hệ phát sinh
giữa các chủ thể tham gia hoạt động thu thập, lưu trữ, bảo vệ, xử lý các thông
tin được thu thập từ NTD, song song với các thiết chế yêu cầu các chủ thể
tham gia tuân thủ, pháp luật cũng đề ra những chế tài thích hợp để xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm nhằm nâng cao ý thức của cá nhân, tổ chức, tạo
ra một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một số chế tài xử lý đối với các
hành vi xâm phạm bất hợp pháp đến pháp luật TTCN của NTD được áp dụng
đó là:
- Chế tài hành chính: được áp dụng khi một đối tượng thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật nhưng hậu quả pháp lý chưa đến mức nghiêm trọng cấu
thành tội phạm và chưa đủ căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Pháp luật hành chính hiện hành đã quy định về xử phạt hành chính trong chế
tài hành chính được áp dụng đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động bảo
vệ TTCN của NTD theo quy định tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định
xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả,
hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ thể Khoản 4 Điều 65 của
Nghị định này đã áp dụng mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000
đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
“- Thu thập thông tin cá nhân của người tiêu dùng mà không được sự
đồng ý trước của chủ thể thông tin;
- Thiết lập cơ chế mặc định buộc người tiêu dùng phải đồng ý với việc
thông tin cá nhân của mình bị chia sẻ, tiết lộ hoặc sử dụng cho mục đích
quảng cáo và các mục đích thương mại khác;
- Sử dụng việc thông tin cá nhân của người tiêu dùng không đúng với
mục đích và phạm vi đã thông báo.”

33
Bên cạnh đó, người có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng các hình thức
xử phạt bổ sung đối với chủ thể vi phạm là đình chỉ hoạt động thương mại
điện tử từ 06 đến 12 tháng trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm
và yêu cầu thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện các hành vi vi phạm này.
Không chỉ được quy định trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn
bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đối với lĩnh vực
bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin, hoạt động
bảo vệ quyền lợi TTCN của NTD cũng được đề cập một cách rõ ràng bởi
Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và
giao dịch điện tử, cụ thể căn cứ Điều 84 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP thì
phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi: “a) Thu thập
TTCN khi chưa có sự đồng ý của chủ thể TTCN về phạm vi, mục đích của việc
thu thập và sử dụng thông tin đó; b) Cung cấp TTCN cho bên thứ ba khi chủ
thể TTCN đã yêu cầu ngừng cung cấp.” và phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng
khi có hành vi: “a) Sử dụng không đúng mục đích TTCN đã thỏa thuận khi
thu thập hoặc khi chưa có sự đồng ý của chủ thể TTCN; b) Cung cấp hoặc
chia sẻ hoặc phát tán TTCN đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba
khi chưa có sự đồng ý của chủ thể TTCN; c) Thu thập, sử dụng, phát tán, kinh
doanh trái pháp luật TTCN của người khác.” Đồng thời, người có thẩm quyền
xử phạt có thể yêu cầu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc hủy bỏ
TTCN do thực hiện hành vi cung cấp TTCN cho bên thứ ba khi chủ thể
TTCN đã yêu cầu ngừng cung cấp, cung cấp hoặc chia sẻ hoặc phát tán thông
tin đã thu thập, kiểm soát khi chưa có sự đồng ý của chủ thể TTCN hoặc sử
dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật TTCN của người khác.

34
Ngoài ra, pháp luật hành chính còn quy định mức xử phạt đối với các
hành vi vi phạm hoạt động bảo vệ TTCN của NTD khác, chẳng hạn: xây dựng
chính sách bảo vệ TTCN không đúng quy định; không hiển thị công khai cho
NTD chính sách bảo vệ TTCN tại vị trí dễ thấy trên website thương mại điện
tử; không hiển thị rõ ràng cho NTD chính sách bảo vệ TTCN trước hoặc tại
thời điểm thu thập thông tin; không tiến hành kiểm tra, cập nhật, điều chỉnh,
hủy bỏ TTCN khi có yêu cầu của chủ thể thông tin,… Mặc dù chế tài hành
chính được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, tuy
nhiên đây là chế tài được áp dụng phổ biến nhất trong thực tiễn xử lý hành vi
vi phạm pháp luật bảo vệ TTCN của NTD, tác động trực tiếp đến các chủ thể
vi phạm do đó mang lại hiệu quả cao trong hoạt động áp dụng pháp luật.
- Chế tài dân sự: quyền về TTCN của NTD là một trong các quyền
công dân bất khả xâm phạm của mỗi cá nhân, tổ chức, do đó bên cạnh các chế
tài hành chính, người bị xâm hại có quyền áp các phương thức bảo vệ quyền
dân sự để ngăn chặn, khắc phục các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
TTCN của NTD.
Theo quy định của BLDS năm 2015, chế tài dân sự được áp dụng đó là:
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình; buộc chấm
dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện
nghĩa vụ; buộc bồi thường thiệt hại; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền; yêu cầu khác theo quy định pháp luật.
Như Luận văn đã đề cập, chỉ có NTD mới là người biết rõ nhất về các thông
tin liên quan đến bản thân và mỗi người đều có một nhu cầu khác nhau về sự
quản lý các thông tin này. Do đó, khi phát hiện các hành vi vi phạm, NTD có
thể áp dụng các biện pháp để tự mình bảo vệ quyền lợi của bản thân và phù
hợp với tính chất, mức độ xâm phạm theo các nguyên tắc cơ bản của Hiến
pháp và pháp luật. Các biện pháp này có thể là khởi kiện trước Tòa án để

35
buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai hoặc buộc
bồi thường thiệt hại.
- Chế tài hình sự: đây là những chế tài được áp dụng đối với các
hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất nguy hiểm cao cho xã hội, có
dấu hiệu tội phạm.
Hiện nay, pháp luật hình sự hiện hành chưa quy định cụ thể các tội về vi
phạm hoạt động thu thập, lưu trữ, xử lý TTCN của NTD. Tuy nhiên, NTD vẫn
là các cá thể trong xã hội, được pháp luật bảo vệ các quyền lợi chính đáng và
nghiêm trị các đối tượng xấu làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Trên cơ sở là
nền tảng củng cố cho hoạt động bảo vệ TTCN của NTD nói riêng và quyền
riêng tư của mọi người, các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 gián tiếp thừa nhận các hình phạt xử lý hành vi vi phạm
TTCN của NTD. Cụ thể, Điều 159 Bộ luật này quy định về tội xâm phạm bí
mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác của người khác; Điều 288 về tội đưa hoặc sử dụng trái phép
thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông. Ngoài ra, tại Mục 2 Chương XXI
của Bộ luật này quy định về các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
mạng viễn thông nhằm góp phần bảo vệ quyền lợi của NTD.
Quy định của pháp luật hình sự về các chế tài xử lý hành vi vi phạm
quyền TTCN của NTD đã ngầm thừa nhận rằng đây là các hành vi xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng của người khác, tạo điều kiện phát
huy tối đa quyền con người. Trên cơ sở ban hành khung phạt được áp dụng,
những quy định của pháp luật đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của người dân, răn đe các đối tượng xấu có ý định xâm phạm quyền
TTCN của NTD, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
NTD ở nước ta.

36
Dựa trên những quy định hiện hành điều chỉnh quan hệ pháp luật bảo vệ
TTCN của NTD ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng Đảng và Nhà nước ta
đang ngày càng chú trọng xây dựng các chính sách nhằm tạo điều kiện cho
NTD được phát huy quyền được bảo vệ về đời sống riêng tư, tạo ra môi
trường cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật bảo
vệ TTCN của NTD ở Việt Nam được xây dựng bằng nhiều văn bản quy phạm
pháp luật, trong nhiều lĩnh vực, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc áp
dụng, thực thi pháp luật. Tuy nhiên, quy định về pháp luật bảo vệ TTCN của
NTD còn một số hạn chế, bất cập như sau:
Một là, chưa quy định thống nhất về khái niệm TTCN của NTD. Khái
niệm TTCN được đề cập đầu tiên trong Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nhà nước (quy định tại Khoản 5
Điều 3). Sau đó, khái niệm này đã được chính thức ghi nhận tại Khoản 15
Điều 3 Luật ATTTM năm 2015. Luật này cũng quy định rõ về chủ thể TTCN
là người được xác định từ TTCN đó. Tuy nhiên, cho đến nay luật chuyên
ngành chính để bảo vệ NTD đó là Luật Bảo quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 lại chưa đưa ra khái niệm về TTCN của NTD mà chỉ sử dụng thuật ngữ
“thông tin của người tiêu dùng” trong hoạt động “bảo vệ thông tin của người
tiêu dùng” (quy định tại Điều 6). Có thể thấy rằng, để áp dụng pháp luật đạt
được hiệu quả cao thì yếu tố quyết định đầu tiên đó là sự rõ ràng của các quy
định pháp luật, nói một cách khác, các quy định này phải cụ thể, dễ hiểu và dễ
áp dụng. Mặt khác, việc chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất đã dẫn
đến hậu quả mâu thuẫn trong quá trình áp dụng pháp luật, khi mà khái niệm
TTCN được quy định rõ ràng chỉ được sử dụng trong một phần nhỏ của hệ
thống pháp luật bảo vệ TTCN của NTD (trong phạm vi không gian mạng),
gây ra tình trạng khó có thể xác định như thế nào là thông tin NTD và những
điều gì thuộc TTCN của họ, thể hiện sự không đồng nhất trong việc sử dụng
thuật ngữ pháp lý giữa các văn bản cùng điều chỉnh một quan hệ pháp luật.

37
Hai là, quy định pháp luật chưa bao quát hết các hoạt động bảo vệ
TTCN của NTD, nằm rải rác ở nhiều văn bản. Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 chỉ quy định về bảo vệ thông tin của NTD tại Điều 6.
Thêm vào đó, các quy định bảo vệ TTCN của NTD chỉ mới tập trung qua hoạt
động thu thập, xử lý, lưu trữ và sử dụng TTCN trên môi trường không gian
mạng mà chưa có quy định cụ thể về bảo vệ TTCN của NTD trong môi
trường vật lý trong khi đây là môi trường truyền thống và là nơi diễn ra nhiều
hoạt động tổng hợp liên quan đến TTCN của NTD hàng ngày. Điều này tạo ra
những khoảng trống pháp luật cần được xử lý. Bên cạnh đó, quy định về bảo
vệ TTCN của NTD cũng nằm rải rác ở nhiều văn bản trong các lĩnh vực khác
nhau như Luật CNTT, Luật ATTTM, Luật Dược, Luật Hàng không dân
dụng,… đặt ra yêu cầu bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong quy định của
các văn bản này để việc áp dụng pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ phát
sinh, phương thức bảo vệ, biện pháp xử lý trong hoạt động bảo vệ TTCN của
NTD được thực sự hiệu quả.
Ba là, pháp luật bảo vệ TTCN của NTD chưa phản ánh được đầy đủ các
yêu cầu thực tế của đời sống và hoạt động bảo vệ TTCN của NTD. Trong
thực tế, không có quy định nào về độ tuổi của NTD nên việc thu thập TTCN
của một người không bị giới hạn về độ tuổi của người cung cấp thông tin. Do
đó, nếu như các đối tượng này là trẻ em thì chủ thể kinh doanh cần lấy ý kiến
đồng ý của những ai vì trong giao dịch dân sự cần đáp ứng yêu cầu về năng
lực hành vi mới có thể thực hiện được. Thêm vào đó, sự phát triển của công
nghệ thông tin đã đưa hoạt động cung cấp, trao đổi, tiếp xúc giữa người với
người càng dễ dàng hơn, xóa bỏ các khoảng cách địa lý thông qua các phương
tiện hiện đại, cho nên cần đặt ra các cơ chế kiểm soát tình trạng việc chuyển
TTCN xuyên biên giới. Bên cạnh đó, các yêu cầu về việc mã hóa TTCN để sử
dụng cũng đặt ra các yêu cầu ràng buộc pháp lý nhất định… Có thể thấy rằng,

38
các quy định của pháp luật bảo vệ TTCN của NTD chưa dự liệu đầy đủ những
tình huống trong thực tế thu thập TTCN và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Bốn là, mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
TTCN trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP chưa đáp ứng được các yêu cầu
đấu tranh, chống vi phạm pháp luật. Trước đây, các hành vi vi phạm về bảo
vệ TTCN của NTD trong hoạt động thương mại điện tử được xử lý theo quy
định Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (được sửa đổi bằng Nghị định số
142/2015/NĐ-CP) tuy nhiên mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm vừa
được đề cập không hề có sự thay đổi lớn so với trước, trong khi đó các hành
vi xâm phạm đến TTCN của NTD lại diễn ra ngày càng nhiều với nhiều cách
thức tinh vi, phức tạp hơn trước do đó các chế tài áp dụng chưa thực sự đủ
mức răn đe, nghiêm trị các đối tượng vi phạm trong lĩnh vực này, đây là
khoảng trống pháp lý cần được xử lý. Hiện nay, Nghị định số 98/2020/NĐ-CP
quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thay cho Nghị định
số 185/2013/NĐ-CP) đã có quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi xâm phạm TTCN của NTD trên môi trường thương mại điện tử
(Khoản 4 Điều 65) nhưng khi so sánh, đối chiếu sẽ thấy có sự chưa thống nhất
giữa quy định của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP và Nghị định số
15/2020/NĐ-CP.
Năm là, chế tài xử lý hình sự trong hoạt động bảo vệ TTCN của NTD
chưa được quy định rõ ràng. Theo quy định của BLHS hiện hành, chưa quy
định rõ về các hành vi vi phạm pháp luật liên quan tới TTCN đang diễn ra
hiện nay mà chỉ quy định về các tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín,
điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người
khác (Điều 159) và tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính,
mạng viễn thông (Điều 288). Bên cạnh đó, đối với các hành vi phạm tội này,

39
chỉ cá nhân phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự còn pháp luật chưa quy
định trách nhiệm của tổ chức là pháp nhân thương mại khi thực hiện các hành
vi phạm. Do đó, đây cũng là một trong các hạn chế của thực trạng pháp luật
bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người
tiêu dùng
2.2.1. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, việc giải quyết khiếu nại bảo vệ quyền lợi NTD (trong đó có
khiếu nại liên quan tới bảo vệ TTCN của NTD) đã phần nào được quan tâm
giải quyết.
Sự ra đời và dần hoàn thiện của hệ thống pháp luật về bảo vệ TTCN
của NTD nói riêng và pháp luật bảo vệ NTD nói chung trên cơ sở thể chế hóa
các đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã góp phần bảo vệ quyền lợi của
NTD trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, trong một số
năm qua, công tác giải quyết khiếu nại tại các cơ quan quản lý nhà nước đã có
sự cải thiện nhất định. Trong Báo cáo của Bộ Công thương về tổng kết thi
hành Luật BVQLNTD và các văn bản hướng dẫn thi hành trong giai đoạn
2011 - 2018, số lượng vụ việc khiếu nại của NTD tới Bộ giai đoạn 2014 -
2018 mỗi năm trung bình gần 1.500 vụ, tỷ lệ giải quyết thành công là 90%.
Tại các Sở Công thương, số lượng vụ việc khiếu nại được tiếp nhận gia tăng
rõ nét, từ năm 2015 đến năm 2018 số lượng khiếu nại trung bình mỗi năm 500
vụ việc, tỷ lệ giải quyết thành công là 85%.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết bảo vệ quyền lợi NTD, các tổ chức
xã hội về bảo vệ quyền lợi NTD cũng được thành lập và phát huy vai trò quan
trọng của mình. Trong giai đoạn 2011 - 2018, số lượng các tổ chức xã hội
tham gia công tác bảo vệ NTD (các hội bảo vệ NTD) đã có sự gia tăng đáng
kể, từ 44 Hội trên cả nước vào năm 2012 đã lên 57 Hội vào năm 2018. Tại

40
một số tỉnh, thành đã phát triển mạng lưới Hội xuống cấp huyện, xã. Một số
Hội tại các địa phương đã đăng ký thành viên của Hội Bảo vệ người tiêu dùng
ở Việt Nam, tạo thành một khối tổ chức thống nhất, cùng hoạt động vì mục
tiêu bảo vệ NTD.
Như vậy, qua thực tiễn thi hành quy định pháp luật, công tác bảo vệ
quyền lợi của NTD ngày càng đạt được nhiều kết quả, giải quyết kịp thời các
khiếu nại, tố giác về hành vi vi phạm của chủ thể kinh doanh, trong đó có các
sai phạm trong hoạt động thu thập, lưu trữ, xử lý TTCN của NTD thông qua
hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi của
NTD. Rất tiếc, hiện nay, chưa có số liệu thống kê riêng về các vụ xâm phạm
TTCN của NTD được cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD và
các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD thụ lý, giải quyết.
Thứ hai, đã thiết lập được hệ thống các thiết chế tài phán có thể giải
quyết tranh chấp liên quan đến quyền lợi của NTD nói chung và bảo vệ
TTCN của NTD nói riêng.
Trước đây, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng năm 1999
chỉ quy định về cơ quan giải quyết khiếu nại và quyền khởi kiện tại Tòa án
của NTD đối với các tranh chấp phát sinh từ việc mâu thuẫn lợi ích. Tuy
nhiên, ở Việt Nam hiện nay, theo quy định của Luật BVQLNTD năm 2010,
Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì hệ thống các cơ quan tài phán giải
quyết các tranh chấp liên quan đến NTD và cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ bao gồm Tòa án nhân dân các cấp (Tòa án nhân dân cấp huyện,
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân Tối cao)
và tổ chức trọng tài thương mại. Hệ thống các thiết chế tài phán này có thể
giải quyết được các tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, đặc thù của các tranh
chấp về bảo vệ TTCN của NTD là những điều liên quan đến đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân của một người, do đó Trọng tài thương mại có thể là lựa

41
chọn được tính tới, bởi lẽ, thông qua phương thức này, không chỉ các thông
tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà các TTCN của
NTD cũng được bảo mật tuyệt đối, tránh tình trạng xét xử công khai bằng các
phiên tòa dân sự làm cho cá nhân, tổ chức tham gia tranh chấp e ngại vấn đề
lộ, đánh cắp, công khai những thông tin không mong muốn.
Ngoài ra, Luật BVQLNTD đã chuyển một phần gánh nặng chứng minh
của NTD trong các vụ tranh chấp tại thiết chế tài phán so với một vụ án dân
sự thông thường. Cụ thể, các cá nhân, tổ chức kinh doanh nếu không muốn bị
truy cứu trách nhiệm bồi thường thì phải có nghĩa vụ chứng minh mình không
có lỗi. Do đó, khi phát hiện các thông tin liên quan đến đời sống cá nhân của
mình do chủ thể kinh doanh thu thập, quản lý bị rò rỉ ra ngoài thì NTD quyền
khởi kiện yêu cầu bồi thường các khoản thiệt hại phát sinh mà không cần phải
chứng minh lỗi của gây ra các thiệt hại.
Có thể nói, nếu đẩy mạnh công tác giải quyết tranh chấp bảo vệ TTCN của
NTD tại các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ, thì sẽ gây dựng được niềm tin
của người dân vào Nhà nước và pháp luật, thu hút được sự hưởng ứng đông đảo
của NTD, chủ thể kinh doanh thực thi pháp luật, tạo điều kiện để phát huy quyền
con người, quyền được bảo vệ về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình, nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo một môi trường kinh doanh lành
mạnh, công bằng giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Thứ ba, chỉ số an toàn thông tin ở Việt Nam tiếp tục được cải thiện.
Sau khi trở thành thành viên của Liên Hợp quốc, ngày 24/09/1982 Việt
Nam đã nhanh chóng gia nhập hai công ước quốc tế cơ bản về quyền con
người (trong đó có nội dung bảo vệ thông tin cá nhân), đó là: “Công ước về
các Quyền Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR) và “Công ước về các Quyền
Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966” (ICESR). Theo đó, Điều 17 ICCPR quy
định: “1. Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời

42
sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến
danh dự và uy tín. 2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống
lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.”
Bám sát các quy định của những Công ước này, quá trình xây dựng hệ
thống pháp luật quốc gia về quyền cá nhân luôn hướng tới việc không chỉ đáp
ứng yêu cầu của tình hình trong nước mà còn bảo đảm sự phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế. Song song với công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội,
Việt Nam đã cụ thể hóa các nội dung bảo vệ TTCN vào hệ thống pháp luật
quốc gia qua các quy định của Hiến pháp và văn bản pháp luật chuyên ngành
như BLHS, BLDS và nhiều văn bản pháp luật khác đồng thời tích cực đẩy
mạnh xây dựng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền về đời sống riêng tư
của mọi người, trong đó với vai trò là chủ thể trung tâm của thị trường, các
yêu cầu về bảo vệ TTCN của NTD cũng được quan tâm đáp ứng.
Năm 2018, Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) đã ban hành Báo cáo
chỉ số an toàn thông tin toàn cầu năm 2018. Trong bảng xếp hạng này, Việt
Nam đứng ở vị trí 50/175 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, đánh giá.
Tăng 50 hạng so với chỉ số năm 2017 (năm 2017, Việt Nam đứng ở thứ hạng
100). Đây là một tín hiệu đáng phấn khởi minh chứng cho hiệu quả công tác
thực thi pháp luật về bảo vệ thông tin ở Việt Nam. Đặc biệt, trong môi trường
mạng, công tác bảo đảm an toàn TTCN của NTD ở nước ta cũng được chú
trọng thực hiện trên cơ sở các cá nhân, tổ chức, cơ quan trách nhiệm bảo đảm
an toàn thông tin mạng do mình xử lý.
2.2.2. Hạn chế, bất cập trong thực thi pháp luật về bảo vệ thông tin cá
nhân của người tiêu dùng tại Việt Nam
2.2.2.1. Hạn chế, bất cập
Thứ nhất, quá trình thực thi pháp luật về thu thập, xử lý TTCN của
NTD chưa được triển khai một cách toàn diện. Theo quy định tại Điều 14

43
Hiến pháp năm 2013 thì quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Trên cơ sở đó, NTD, với tư cách là một thành viên của cộng đồng có đầy đủ
quyền con người và quyền công dân nên luôn được bảo vệ trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định một
giới hạn về bảo vệ TTCN của NTD. Bên cạnh đó, hoạt động bảo vệ TTCN
của NTD chỉ mới được đề cập cụ thể trong các giao dịch được thực hiện ở
không gian mạng mà chưa có một văn bản cụ thể nào điều chỉnh chung nhất
các quan hệ phát sinh trong hoạt động bảo vệ, xử lý TTCN đặt ra nhiều vướng
mắc trong việc xác định phương thức xử lý, trình tự thủ tục bảo vệ TTCN của
NTD cũng gặp nhiều quá trình áp dụng.
Thứ hai, tính tuân thủ pháp luật của một số doanh nghiệp còn chưa
cao. Theo Báo cáo của Bộ Công thương về tổng kết thi hành Luật BVQLNTD
và các văn bản hướng dẫn thi hành trong giai đoạn 2011 - 2018, trong năm
2018 Cục đã tiến hành 6 cuộc thanh tra, kiểm tra, phối hợp thực hiện 11 đoàn
thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực pháp luật
bảo vệ NTD với tổng số tiền là hơn 700 triệu đồng. Trong đó, các hành vi vi
phạm chủ yếu liên quan tới trách nhiệm thông tin, trách nhiệm thực hiện hợp
đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và giải quyết khiếu nại. Nhiều hành
vi có tính chất lặp lại nhiều lần, tác động tới số đông NTD.
Thứ ba, sự phân công các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ TTCN
của NTD chưa thực sự rõ ràng, có biểu hiện của sự chồng chéo, không đồng
bộ. Nghị định số 99/2011/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn một số
điều của Luật BVQLNTD chỉ quy định chung về trách nhiệm của đơn vị giúp
UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD. Do đó,
ở một số địa phương hiện tại chưa có sự thống nhất giao nhiệm vụ bảo vệ

44
quyền lợi của NTD cho các Phòng tại Sở Công thương, tính đến nay chỉ có
50/63 tỉnh thành có Sở giao chức năng bảo vệ quyền lợi NTD cho Phòng quản
lý thương mại. Một số khác (13/63) giao cho các phòng ban khác như Phòng
xuất nhập khẩu, Phòng kế hoạch tài chính, Thanh tra sở. Bên cạnh đó, tính
đến năm 2020 Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam chỉ mới có 54 hội thành
viên tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương trên toàn quốc, có thể thấy rằng
mức độ bao phủ và quy mô hoạt động của tổ chức xã hội này chưa được phổ
biến trên toàn quốc, ở một số địa phương vẫn chưa thành lập Hội bảo vệ
người tiêu dùng như Hậu Giang, Nghệ An, Thanh Hóa, Điện Biên… Thêm
vào đó, trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ TTCN của NTD còn có sự
chồng lấn nhất định giữa các chức trách của Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Công an và Bộ Công thương.
Thứ tư, hiện trạng sử dụng trái pháp luật TTCN của NTD diễn ra ngày
càng nhiều, tuy nhiên số lượng vụ việc được phát hiện và xử lý triệt để chưa
nhiều. Tại Việt Nam, pháp luật cấm việc rao bán TTCN của NTD, tuy nhiên
không ít TTCN của các chủ thể này vẫn bị rao bán tràn lan cho bên thứ ba,
điển hình nhất gần đây là vụ việc hàng loạt thông tin người dùng facebook bị
nhiều đối tượng rao bán công khai cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân nhằm
phục vụ mục đích tiếp thị sản phẩm. Theo đó, các doanh nghiệp sử dụng các
thông tin này để gọi điện nhắn tin, gửi email với những mục đích khác nhau,
trong đó nhiều hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, thậm chí mang tính
chất lừa đảo NTD,… đây đều là các hành vi mua bán TTCN của NTD trên mạng
internet mà không được phép của chủ sở hữu thông tin, vi phạm pháp luật về bảo
vệ quyền lợi NTD. Tại một số trang web như “datakhachhang.net”,
“fulldata.org”, “danhsachkhachhang.com”, “cungcapdata.com”,… sản phầm
được rao bán nhiều nhất là TTCN về tên, tuổi, chức vụ, số điện thoại của giám

45
đốc doanh nghiệp trên toàn quốc, khách hàng VIP mua chung cư cao cấp, mua
bảo hiểm, xe hơi, vàng bạc, chứng khoán…
Trong báo cáo kết quả tình hình tiếp nhận và giải quyết khiếu nại năm
2019 của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã công bố, chiếm tỷ lệ
cao nhất trong số các nhóm hành vi bị khiếu nại là “Bảo vệ thông tin của
người tiêu dùng”, chiếm tỷ lệ đến 34% trong 568 đơn thư khiếu nại gửi đến
Cục. Trong đó, nội dung khiếu nại chủ yếu tập trung vào việc doanh nghiệp
thu thập trái phép thông tin của NTD, không ghi nhận yêu cầu chỉnh sửa
thông tin của NTD, dẫn tới việc tiếp tục sử dụng thông tin này vào các mục
đích xâm phạm quyền lợi của NTD. Có thể thấy, hiện trạng thu thập, trộm
cắp, sử dụng trái pháp luật TTCN của NTD diễn ra ngày càng nhiều dưới
nhiều hình thức tinh vi và mức độ vi phạm ngày càng tăng, xâm phạm nghiêm
trọng quyền được bảo vệ TTCN của NTD ở nước ta hiện nay.
2.2.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, một số quy định về bảo vệ TTCN của NTD còn mang tính
tuyên ngôn, khó thực hiện. Luật BVQLNTD chỉ mới dừng lại ở việc ghi nhận
chung mà chưa có cơ chế thực thi cụ thể quyền bảo vệ TTCN của NTD. Quy
định pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân được quy định rải rác trong các văn
bản quy phạm pháp luật với mức độ khác nhau và chưa có quy định chi tiết,
cụ thể và thiếu tính khả thi trên thực tế gây khó khăn cho công tác bảo vệ
quyền lợi NTD. Trong khi đó, hiện tại mới chỉ có Luật ATTTM quy định về
nguyên tắc bảo vệ TTCN theo hướng nhấn mạnh tới trách nhiệm tự bảo vệ
của chủ thể thông tin. Điều này đặt ra vấn đề cần bổ sung thêm các nguyên tắc
và cơ chế để đề cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước và tổ
chức, cá nhân kinh doanh trong bảo vệ dữ liệu/thông tin cá nhân.
Thứ hai, chưa có một văn bản cụ thể nào điều chỉnh chung, thống nhất
các quan hệ phát sinh trong hoạt động bảo vệ, xử lý TTCN. Như đã đề cập,

46
quy định của pháp luật hiện hành chỉ quy định về thu thập, xử lý, sử dụng
TTCN của NTD trên không gian mạng mà chưa đề cập đến các giao dịch
trong môi trường truyền thống tạo ra sự chia cắt trong điều chỉnh của pháp
luật giữa không gian ảo và không gian thực. Các quy định hiện hành chưa
thực sự phù hợp với thực tiễn khi mà giữa không gian vật lý và không gian
mạng có một sự hòa trộn, kết nối khó phân tách. Bên cạnh đó, các thuật ngữ
trong các văn bản luật chuyên ngành bảo vệ quyền lợi của NTD chưa được sử
dụng thống nhất các thuật ngữ “thông tin” và “thông tin cá nhân”, dẫn đến
việc thiếu đồng nhất về các quy định và chưa được hướng dẫn cụ thể gây khó
khăn trong việc thi hành, thực thi chưa hiệu quả.
Thứ ba, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mức răn đe. Hiện nay, mặc dù
hành vi vi phạm được xử lý bằng nhiều quy định khác nhau, tuy nhiên chế tài
xử lý hành chính vẫn là biện pháp được áp dụng phổ biến nhất.
Tại Khoản 1 Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cho
phép chủ thể xử phạt có quyền “công bố công khai về việc xử phạt trên các
phương tiện thông tin đại chúng đối với một số hành vi mà gây hậu quả lớn
hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội”, tuy nhiên lại chưa có một quy
định, hướng dẫn cụ thể như thế nào là “gây hậu quả lớn hoặc ảnh hưởng xấu
về dư luận xã hội” để áp dụng hiệu quả các chế tài hành chính xử lý vi phạm.
Ngoài mức phạt tại Điều 84 của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày
03/02/2020 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính,
viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử mà
Luận văn đã đề cập, trong Nghị định này cũng quy định chế tài xử lý đối với
hành vi không có biện pháp bảo vệ thông tin riêng hoặc TTCN của người sử
dụng bị phạt từ 20 đến 30 triệu đồng (Khoản 1 Điều 100); phạt tiền 20 – 30
triệu đồng với hành vi tiết lộ thông tin thuộc bí mật cá nhân chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 101); phạt tiền 30 – 50 triệu đồng

47
với hành vi tiết lộ trên môi trường mạng thông tin thuộc bí mật kinh doanh
hoặc tiết lộ trái phép nội dung thông tin riêng của người sử dụng dịch vụ viễn
thông (Khoản 4 Điều 102); phạt tiền từ 50 -70 triệu đồng với hành vi mua bán
hoặc trao đổi trái phép thông tin riêng của người sử dụng dịch vụ viễn thông
(Khoản 5 Điều 102). Như vậy, mức phạt cao nhất đối với các hành vi mới chỉ
là 70 triệu đồng trong khi lợi nhuận từ hành vi trái pháp luật mang lại là nhiều
hơn nhiều lần mức tiền phạt. Theo nhiều chuyên gia trong ngành, mặc dù có
một số văn bản quy phạm pháp luật có đề cập tới bảo vệ dữ liệu cá nhân
nhưng chưa đầy đủ và thiếu chế tài đủ mạnh do đó các cơ quan chức năng khó
xác định và xử lý. Trong hệ thống quy định pháp luật hiện hành, các hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ NTD có thể phải chịu các chế tài xử lý, thực tiễn
công tác bảo vệ NTD trong thời gian qua cho thấy các chế tài này không đủ
sức răn đe, giáo dục đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm. Đây có lẽ chính là
một trong những nguyên nhân lý giải cho sự gia tăng cả về số lượng và mức
độ của các vụ việc vi phạm quyền lợi của NTD trên thực tế.
Thứ tư, ý thức của NTD về quyền được bảo vệ TTCN chưa thực sự
cao. Đây là một trong các lý do chính dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về
TTCN của NTD ở nước ta ngày càng cao. Với vai trò là chủ thể được pháp
luật hướng đến bảo vệ, bản thân NTD phải là người chủ động thực hiện các
quy định pháp luật, tuy nhiên một bộ phận người tiêu dùng vẫn chưa ý thức
được vấn đề này, chưa tích cực tiếp cận pháp luật bằng nhiều phương tiện
công nghệ thông tin, truyền thông khác nhau. Bên cạnh đó, xuất phát từ thói
quen mua sắm truyền thống, sự chủ quan, ỷ lại mà người dân chưa biết lựa
chọn nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ uy tín, bảo vệ bản thân trước các nguy cơ
có thể xảy ra. Theo kết quả khảo sát của Cục quản lý cạnh tranh (nay là Cục
Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng) vào tháng 3, tháng 4 năm 2016, trong
tổng số NTD được khảo sát có: hơn 70% khi được hỏi cho rằng mình đã từng

48
nghe hoặc biết đến Luật BVQLNTD, có tới 44% số người được hỏi về cách
ứng xử khi xảy ra tranh chấp trong tiêu dùng chọn cách im lặng. Có thể thấy
rằng, NTD vẫn chưa có nhiều hiểu biết liên quan và xem nhẹ việc bảo mật
thông tin cá nhân của mình, khi có tranh chấp phát sinh thường chọn cách im
lặng để giải quyết, tạo cơ hội cho các chủ thể vi phạm thoát khỏi các chế tài
xử lý và tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật.

Tiểu kết chương 2


Trên cơ sở những lý luận chung về pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân
của người tiêu dùng, nội dung Chương 2 đã phân tích thực trạng pháp luật
hiện hành về bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam. Qua những nội dung đề
cập, có thể thấy rằng pháp luật đã và đang từng bước hoàn thiện nhằm bảo vệ
tốt hơn quyền lợi của NTD trên mọi phương diện, đặc biệt là quyền được đảm
bảo về đời sống riêng tư, quyền cá nhân đáp ứng điều kiện trong nước và phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, những quy định hiện hành còn có một số bất cập, hạn chế,
đặc biệt là sự thiếu đồng bộ trong hệ thống các quy định pháp luật (chưa đề
cập đến các giao dịch khác trên môi trường truyền thống). Quá trình thực thi
pháp luật mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng cũng còn
không ít hạn chế như: tình trạng sử dụng trái pháp luật TTCN của NTD diễn
ra ngày càng nhiều mà không được phát hiện và xử lý kịp thời, tính tích cực
pháp luật của người tiêu dùng trong bảo vệ TTCN chưa cao, giữa các cơ quan
nhà nước còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong
thực thi pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD. Thực tế đó đang đặt ra yêu cầu
tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo
vệ TTCN của NTD ở nước ta trong giai đoạn tới.

49
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân
người tiêu dùng tại Việt Nam
Trên cơ sở phân tích thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ TTCN
của NTD, chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng, có thể
thấy, pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng nên được
hoàn thiện theo các giải pháp sau.
Thứ nhất, những nội dung cần bổ sung vào Luật BVQLNTD.
Luật BVQLNTD là luật chuyên ngành để thực thi công tác bảo vệ
quyền lợi NTD trên nhiều phương diện khác nhau, trong đó có cả lĩnh vực
bảo vệ TTCN của nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, xuất phát từ sự không
thống nhất về các cơ chế thực hiện, thuật ngữ sử dụng, do đó cần phải bổ sung
vào Luật BVQLNTD những nội dung sau:
Một là, tại Điều 3 Luật BVQLNTD về giải thích từ ngữ chưa đưa ra
định nghĩa về TTCN để làm cơ sở xác định phạm vi thông tin nào thuộc về
thông tin cá nhân, nhất là các thông tin thuộc về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình của NTD để xác định trách nhiệm của chủ thể kinh
doanh trong quá trình thu thập, xử lý và sử dụng theo quy định của pháp luật.
Có thể bổ sung khái niệm về TTCN của NTD, cụ thể như sau: “Thông tin cá
nhân của người tiêu dùng là các thông tin đã được người tiêu dùng công khai
hoặc chưa được người tiêu dùng công khai mà qua đó có thể xác định được
cụ thể danh tính của người tiêu dùng, phân biệt được họ với một người khác.”
Hai là, hoạt động thu thập, xử lý thông tin của NTD thường do chủ thể
kinh doanh trực tiếp tiến hành. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2 Điều 6

50
Luật BVQLNTD thì chỉ được chuyển giao thông tin của NTD cho bên thứ ba
khi có sự đồng ý của NTD, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trên
cơ sở đó, mối quan hệ này còn phát sinh thêm một chủ thể thứ ba khác tham
gia, cho nên để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, cần phải làm rõ khái
niệm “Bên thứ ba tiếp nhận chuyển giao thông tin cá nhân của NTD”.
Ba là, bổ sung các quy định về bảo vệ TTCN của NTD một cách nhất
quán, thống nhất. Luật BVQLNTD chỉ quy định chung về bảo vệ thông tin
của NTD (Điều 6), trong khi đó Luật ATTTM lại quy định về thu thập và sử
dụng TTCN đối với các giao dịch trên không gian mạng (Điều 17). Có thể
thấy chưa có quy định chung điều chỉnh hoạt động bảo vệ TTCN của NTD
trong các giao dịch phát sinh trên thị trường bao gồm cả môi trường mạng và
môi trường vật lý. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa các nội dung của
Luật CNTT, Luật ATTTM, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định về
bảo vệ TTCN trong Luật BVQLNTD để tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc,
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi của NTD, những quy
định này không chỉ phù hợp với yêu cầu trong nước mà còn đáp ứng với các
tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ TTCN và phát huy quyền con người.
Bốn là, sửa đổi bổ sung để định vị rõ hơn vai trò của cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi của NTD (trung tâm điều tiết, điều phối) cũng
như trách nhiệm của các cơ quan, bộ, ngành khác, cơ chế phối hợp trong triển
khai các hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD nói chung, nâng cao trách nhiệm
bảo vệ TTCN của NTD tại địa phương, yêu cầu các ban, ngành, lĩnh vực liên
quan có trách nhiệm phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động
thu thập, sử dụng thông tin riêng tư của NTD, có sự phân công nhiệm vụ rõ
ràng, cụ thể đối với từng cấp, ngành, từng bước chuyên trách hóa hoạt động
bảo vệ TTCN của NTD một cách đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Cần
có quy định xử lý dứt điểm tình trạng chồng lấn về thẩm quyền hoặc xây

51
dựng cơ chế phối hợp trong thực thi pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD giữa
ngành công thương, ngành thông tin và truyền thông với ngành công an.
Thứ hai, những nội dung cần bổ sung vào nghị định hướng dẫn thi
hành Luật BVQLNTD.
Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 về quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD có phạm vi điều chỉnh
về bảo vệ NTD trong giao dịch cá nhân với hoạt động thương mại độc lập,
thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, hợp đồng giao kết với NTD và
điều kiện giao dịch chung, giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi NTD, tổ chức
xã hội tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, tổ chức hòa giải các tranh
chấp giữa NTD và cá nhân, tổ chức kinh doanh và quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi NTD. Tuy nhiên các nội dung của nghị định này chưa hướng dẫn
các nội dung về phương thức xử lý, trình tự thủ tục bảo vệ TTCN của NTD
dẫn đến tình trạng áp dụng quy định của Luật BVQLNTD còn gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển của thương mại điện tử và sự xuất
hiện của nhiều mô hình kinh doanh trên cơ sở nền tảng truyền thống, cho nên
NTD cũng cần phải thay đổi nhận thức và chủ động tích cực trong các hoạt
động bảo vệ quyền lợi của mình. Trên cơ sở đó, các nhà làm luật phải xây
dựng các cơ chế để đảm bảo việc cung cấp thông tin của NTD, theo đó tiến
hành sửa đổi, bổ sung thêm quy định về trách nhiệm cung cấp TTCN của
NTD trong các giao dịch thực hiện, đặc biệt là trên không gian mạng cần cung
cấp thông tin một cách có chọn lọc, hạn chế cung cấp TTCN ở mức thấp nhất
có thể để các đối tượng không thể khai thác trục lợi.
Đồng thời, pháp luật cần làm rõ những mâu thuẫn của nguyên tắc
khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của
NTD nhưng chỉ có các tổ chức xã hội được thành lập hợp pháp theo Luật mới
được thực hiện các hoạt động có tính đặc thù, đồng thời nghiên cứu tạo cơ sở

52
cho một số chính sách, cơ chế nhằm hỗ trợ các tổ chức trong quá trình hoạt
động bảo vệ quyền lợi NTD.
Thêm vào đó, Nghị định hướng dẫn Luật BVQLNTD cần xây dựng tiêu
chí đánh giá kết quả thực hiện bảo vệ quyền lợi của NTD, đây là một trong
các nội dung đánh giá mức độ hoàn thiện nhiệm vụ hằng nằm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh và người đứng đầu các cơ quan ban ngành. Cần ban hành
một danh mục TTCN theo nhóm lĩnh vực thiết yếu để phân loại TTCN gắn
với các cấp độ bảo vệ; từ đó xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn bảo về
TTCN của NTD. Qua đó, tạo động lực để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tích
cực hưởng ứng các chính sách của Nhà nước ban hành, nghiêm túc chấp hành
pháp luật, nâng cao ý thức của các thành viên trong xã hội đối với nhiệm vụ
bảo vệ quyền lợi NTD.
Thứ ba, những nội dung chính cần bổ sung và nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính và các văn bản có liên quan.
Mặc dù pháp luật đã cấm nhưng tình trạng mua bán TTCN vẫn diễn ra
tràn lan là do hệ thống pháp luật của Việt Nam quy định vấn đề này còn chưa
đầy đủ, việc bảo vệ TTCN vẫn chưa được quy định cụ thể, chế tài xử phạt cho
các hành vi xử phạt còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe.
Một là, quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
thu thập, sử dụng trái phép TTCN của NTD gây ra. Theo đó, đặt ra yêu cầu bổ
sung các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (có thiệt hại, có
hành vi vi phạm, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi vi
phạm). Trong đó, nêu rõ các loại thiệt hại (chi phí bỏ ra để khắc phục, xử lý
việc lộ thông tin, chi phí ngăn chặn thiệt hại, chi phí thiệt hại về thu nhập
giảm sút khi TTCN bị lộ,…) và cách thức xác định thiệt hại do vi phạm nghĩa
vụ bảo vệ TTCN của NTD (dựa vào các giấy tờ chứng minh, văn bản xác
nhận của các cơ quan tổ chức liên quan…).

53
Hai là, tăng mức phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm. Hiện nay,
chế tài hành chính được áp dụng để xử lý trong lĩnh vực bảo vệ TTCN của
NTD được quy định cụ thể trong các văn bản như Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012; Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông,
tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử. Thực tiễn công
tác bảo vệ NTD trong thời gian qua ngày càng có sự gia tăng cả về số lượng
và mức độ của các vụ việc vi phạm quyền lợi của NTD cho thấy các chế tài
này không đủ sức răn đe, giáo dục đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm khi
mà các mức phạt này chỉ là một phần nhỏ trong khi lợi nhuận từ hành vi trái
pháp luật mang lại là nhiều hơn nhiều lần mức tiền phạt, cho nên nhiều đối
tượng chấp nhận bị phạt để có thể kiếm được một khoản lợi bất chính lớn
hơn. Chính vì vậy, các chế tài chưa đầy đủ và tình trạng thiếu chế tài đủ mạnh
đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng để xác định và xử lý các
hành vi vi phạm một cách phù hợp.
Ba là, bổ sung để tạo cơ sở xử lý hình sự đối với hành vi thu thập, sử
dụng trái phép TTCN của NTD. Theo quy định của BLHS hiện hành, các
hành vi xâm phạm đến TTCN được xử lý gián tiếp thông qua các quy định tại
Điều 159 quy định về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại,
điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác; Điều
288 về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông, đồng thời còn có các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
mạng viễn thông tại Mục 2 Chương XXI của Bộ luật này. Do đó, để nâng cao
tinh thần tự giác chấp hành pháp luật, răn đe các đối tượng xấu trong xã hội
để giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ TTCN của NTD đặt ra

54
yêu cầu hình sự hóa xử lý nghiêm minh các hành vi hành vi thu thập, sử dụng
trái phép TTCN của NTD.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ thông
tin cá nhân của người tiêu dùng tại Việt Nam
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật để nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng, cá nhân và tổ chức sản
xuất, kinh doanh
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật là nhiệm vụ chính của các cơ quan,
ban, ngành được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ quyền lợi của NTD. Mặc dù
pháp luật đã và đang xây dựng khung pháp luật bảo vệ NTD trước các nguy
cơ bị rò rỉ, lộ, đánh cắp thông tin cá nhân, nhưng quy định pháp luật vẫn chưa
thực sự được nhận thức đầy đủ bởi người tiêu dùng cũng như tổ chức, cá nhân
kinh doanh. Chính vì vậy, cần phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD để nâng cao nhận thức cho NTD, cá
nhân và tổ chức sản xuất, kinh doanh về lĩnh vực quan trọng này.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ TTCN
của NTD có thể được thực hiện qua nhiều hình thức như: các buổi hội nghị,
hội thảo phổ biến pháp luật; khảo sát lấy ý kiến đóng góp, đánh giá của NTD
và các chủ thể kinh doanh; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về TTCN của
NTD; xây dựng các chương trình, chuyên mục trên phương tiện thông tin đại
chúng về phổ biến pháp luật; treo băng rôn, khẩu hiệu với các nội dung tuyên
truyền ở các địa điểm công cộng, nơi mà NTD dễ có thể nhìn thấy và tiếp
cận,… Các hoạt động này cần được triển khai một cách đồng bộ, thường
xuyên và liên tục với các nội dung đơn giản, xúc tích, trọng tâm, ngôn từ dễ
hiểu, phù hợp với từng nhóm đối tượng cần truyền tải thông tin để tăng cường
hiệu quả phổ biến, nâng cao nhận thức của NTD về bảo vệ TTCN của bản
thân, giúp họ có thể trang bị cho mình các kiến thức cần thiết để tự bảo vệ

55
được chính mình trước các hành vi xâm phạm, tạo tiền đề đảm bảo chất lượng
công tác thực thi pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD.
3.2.2. Tăng cường tập huấn cho cán bộ, cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Với những biến đổi của các yếu tố kinh tế - xã hội, các chính sách của
pháp luật cũng có sự thay đổi qua các thời kỳ để phát huy được vai trò bảo vệ
các đối tượng yếu thế trong xã hội. Do đó, các cán bộ, cơ quan quản lý nhà
nước được giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi NTD cần tích cực cập nhật pháp
luật, củng cố chuyên môn và nghiệp vụ, kỹ năng xử lý để đảm bảo hiệu quả
trong việc thực thi pháp luật bảo vệ TTCN của NTD, nhất là trong bối cảnh
công nghệ thông tin phát triển ở tốc độ cao, nhiều loại hình giao dịch mới
xuất hiện trên thị trường.
Cần thực hiện các chương trình nâng cao trình độ chuyên môn của cán
bộ, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD thông qua các buổi
học nghiệp vụ, bồi dưỡng, tập huấn, hội thi, khóa đào tạo,… Qua đó, khuyến
khích tinh thần học hỏi, rèn luyện tiến bộ để có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu
công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tiếp thu học hỏi các kinh
nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới, bắt kịp sự tiến bộ của khoa
học công nghệ và kinh tế thị trường, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ đời
sống riêng tư và phát huy quyền con người.
3.2.3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Bảo vệ TTCN của NTD là một hoạt động có tính cấp thiết nhưng lại phức
tạp với sự đa dạng các loại hình giao dịch và nhiều chủ thể tham gia nên công tác
thanh tra, kiểm tra cần được tổ chức một cách thường xuyên, đúng trình tự, có sự
phối hợp giữa cán bộ thanh tra của các lĩnh vực, cấp, ban ngành có liên quan để
các bên cùng nhau trao đổi, xây dựng kế hoạch triển khai, tìm hiểu rõ về đối
tượng và nội dung thanh tra, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

56
Thông qua sự tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tiến hành đánh
giá chất lượng chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn thông tin khách
hàng của các chủ thể kinh doanh, kịp thời phát hiện các sai phạm và kiên
quyết xử lý để nhanh chóng khắc phục, phòng ngừa các hậu quả có thể xảy ra,
góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của NTD và các cá nhân, tổ
chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Bên cạnh đó, đây là giải
pháp góp phần khắc phục các chi phí xử lý hậu quả cho các chủ thể liên quan,
tạo cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, tiết
kiệm chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi NTD.
3.2.4. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý,
giám sát, xử lý vi phạm
Chỉ thị số 30-CT/TW của Ban Bí thư Ban chấp hành Trung ương về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối
với công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đã đề cập bảo vệ quyền lợi
của NTD là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của
cấp ủy đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Khắc phục triệt để tình trạng thiếu trách nhiệm,
vô cảm, thiếu quyết liệt của từng ngành, địa phương, đơn vị được phân công
phụ trách; có cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức và
địa phương, trong đó có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể đối với từng
cấp, từng ngành trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD.
Với số lượng khiếu nại về bảo vệ thông tin của NTD tăng dần qua các
năm, có thể thấy rằng vấn nạn xâm phạm trái phép TTCN của NTD rất đáng
được coi là một trong các mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước ta hiện nay.
Việc bảo vệ TTCN của NTD không chỉ là mục tiêu trước mắt mà còn là một
trong các nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển

57
đất nước qua nhiều thời kỳ, gắn liền với những biến chuyển của kinh tế thị
trường. Để thực hiện tốt công tác bảo vệ TTCN của NTD, cần có sự vào cuộc
quyết liệt của các cơ quan chức năng, có sự phối hợp giữa các bộ ngành và cơ
quan điều tra để khởi tố các đối tượng có hành vi mua bán thông tin của NTD,
đặc biệt là trên không gian mạng.
3.2.5. Tăng cường công tác giám sát xã hội
Một trong các nội dung chỉ đạo trong Chỉ thị số 30-CT/TW của Ban Bí
thư Ban chấp hành Trung ương đó là tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy,
tổ chức Đảng; phát huy vai trò tiên phong, giám sát chi bộ, đảng viên trong
công tác bảo vệ quyền lợi của NTD. Trên cơ sở đó, khi cộng đồng NTD đang
ngày càng được kết nối gần nhau hơn, cần tiến hành các giải pháp tăng cường
giám sát xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động bảo vệ TTCN của NTD.
Hoạt động giám sát xã hội có thể thực hiện thông qua các tổ chức xã
hội tham gia bảo vệ quyền lợi của NTD, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các
đoàn thể là các tổ chức chính trị, xã hội gần gũi với người dân, hoạt động vì
quyền lợi của cộng đồng nên cần được trao nhiệm vụ tăng cường giám sát
công tác bảo vệ quyền lợi NTD. Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ
chức xã hội trong công tác bảo vệ quyền lợi của NTD. Các tổ chức có nhiệm
vụ bảo vệ quyền lợi NTD phải thường xuyên quan tâm phân tích, đánh giá,
phân loại để kịp thời có cơ chế, chính sách để xử lý nghiêm minh các trường
hợp vi phạm, nhanh chóng tố giác các hành vi trái pháp luật, đồng thời có
chính sách khen thưởng, vinh danh các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp
trong công tác bảo vệ TTCN của NTD.
Qua công tác giám sát xã hội, tích cực xây dựng một môi trường kinh
doanh lành mạnh, gắn kết trách nhiệm của doanh nghiệp trong thực thi pháp
luật về bảo vệ TTCN của NTD và trách nhiệm bảo vệ cộng đồng, đẩy mạnh

58
các lợi thế cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp khi không chia sẻ trái pháp
luật các thông tin khách hàng cho các đối thủ kinh doanh.
3.2.6. Tăng cường nguồn lực con người và đầu tư trang thiết bị,
phương tiện làm việc phù hợp cho các cơ quan có thẩm quyền
Cùng với sự phát triển kinh tế đi liền với các tiến bộ của khoa học và
công nghệ, trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều loại hình kinh doanh
mới. Quá trình triển khai đồng bộ các giải pháp về tăng cường tuyên truyền,
phổ biến pháp luật, tổ chức thanh tra, kiểm tra để đánh giá chất lượng chấp
hành quy định phát luật đặt ra các yêu cầu về nguồn lực con người trong công
cuộc hoàn thiện pháp luật. Trên tinh thần mỗi một cá nhân, một tổ chức, một
cơ quan tham gia xác định rõ nhiệm vụ, vai trò của mình, phối hợp cùng nhau
xây dựng pháp luật, nghiêm túc chấp hành các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ TTCN của NTD, cần tiến
hành trang bị đầy đủ kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ và quản lý nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thành thạo
về chuyên môn, nghiệp vụ; trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, tận tụy
với công vụ; có trình độ, quản lý tốt, đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và
nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước, thực hiện chương trình cải cách
pháp luật, cải cách giáo dục, rèn luyện tinh thần tự lực, tự cường, tìm tòi sáng
tạo cùng với việc thu hút nguồn nhân lực cao để làm việc trong các lĩnh vực
bảo vệ TTCN của NTD, đặc biệt là trong hoạt động quản lý các giao dịch trên
không gian mạng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh nguồn lực con người, một trong các nhiệm
vụ cần thiết phải tiến hành là tăng cường đầu tư trang thiết bị, phương tiện
làm việc phù hợp cho các cơ quan có thẩm quyền. Cùng với các tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, cần thiết phải đổi mới, xây dựng cơ sở vật chất, phương
tiện, điều kiện làm việc thực hiện nhiệm vụ được giao, phục vụ yêu cầu đổi

59
mới, tổ chức hoạt động, quản lý thông tin, kiểm tra các cơ sở kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ để kịp thời phát hiện các sai phạm và áp dụng biện pháp xử lý
kịp thời.
Việc tăng cường nguồn lực con người và đầu tư trang thiết bị, phương
tiện làm việc phù hợp cho các cơ quan có thẩm quyền là một giải pháp tất yếu
phải tiến hành để giải quyết các hạn chế và hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện
học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới, xây dựng hệ thống pháp luật đáp
ứng các tiêu chuẩn quốc tế, bắt kịp thời đại và công nghệ.

60
Tiểu kết chương 3
Qua những phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp
luật bảo vệ TTCN của NTD, có thể thấy rằng yêu cầu hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này đang được đặt ra một cách cấp bách. Phúc đáp yêu cầu đó,
Chương 3 của Luận văn đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, trong
đó, đặc biệt chú trọng các giải pháp sửa đổi, bổ sung một số nội dung của
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nghị định hướng dẫn Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và bổ sung chế tài xử lý các hành vi vi phạm.
Chương 3 còn đề cập đến một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam hiện nay. Đây
là những giải pháp cơ bản, mang tính thiết yếu được đề xuất nhằm khắc phục
các hạn chế còn tồn đọng trong công tác triển khai, áp dụng pháp luật vào đời
sống. Trong đó, trọng tâm là tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật, đẩy mạnh giám sát xã hội, tăng cường nguồn lực con
người và đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc phù hợp cho các cơ quan
có thẩm quyền. Từ đó, giúp cho hoạt động bảo vệ TTCN của NTD càng hiệu
quả hơn, giúp người tiêu dùng ngày càng tin tưởng vào hoạt động kinh doanh,
thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh, nhất là kinh doanh trên môi
trường mạng, qua đó, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
kinh tế quốc tế một cách hiệu quả.

61
KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ TTCN
của NTD, Luận văn đã phần nào làm rõ khái niệm và khẳng định vai trò của
hoạt động bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam. Qua đó, Luận văn đã hệ thống
hóa khung pháp luật hiện hành điều chỉnh các hoạt động liên quan đến bảo vệ
TTCN của NTD, nhất là trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, cơ quan
quản lý nhà nước và tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD. Có thể thấy rằng,
đây là trách nhiệm của tất cả mọi người, do đó rất cần tinh thần đoàn kết,
nghiêm túc chấp hành của mọi thành viên trong cộng đồng.
Qua phân tích thực trạng pháp luật bảo vệ TTCN của NTD, Luận văn
đã chỉ rõ một số hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bảo vệ TTCN
của NTD, nhất là qua thực tiễn thực thi. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực phi pháp
luật bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam. Nhìn một cách tổng quan, các giải
pháp này không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực bảo vệ NTD mà còn góp phần
tạo ra sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các chủ thể trên thị trường,
tạo ra các giá trị bền vững để phát triển kinh tế đất nước, ổn định trật tự xã
hội, tạo điều kiện bảo vệ quyền con người nói chung và quyền về đời sống
riêng tư nói riêng.

62

You might also like