Professional Documents
Culture Documents
Chuyªn ®Ò
thùc tËp tèt nghiÖp
§Ò tµi:
t×m hiÓu thùc tr¹ng vµ mét sè gi¶i ph¸p n©ng cao
Hµ Néi - 2010
Chuyªn ®Ò
thùc tËp tèt nghiÖp
Hµ Néi – 2010
MỤC LỤC
KH Kế hoạch
KTHT & PTNN Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn
KTXH Kinh tế xã hội
KHPT KTXH Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
KHĐT Kế hoạch đầu tư
NNPTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Công tác quản lý bao gồm các nội dung chính: Lập kế hoạch, tổ chức,
lãnh đạo và kiểm tra. Trong đó chức năng lập kế hoạch là quá trình đầu tiên,
không thể thiếu với công tác quản lý. Lập kế hoạch đóng vai trò quan trọng
trong việc quyết định chất lượng hoạt động của tổ chức. Đặc biệt, đối với các cơ
quan nhà nước, công tác kế hoạch luôn giữ một vai trò rất quan trọng. Tuy
nhiên, theo em nhận thấy thì: việc đổi mới công tác lập kế hoạch trong lĩnh vực
tư nhân diễn ra nhanh chóng, cùng với đó là sự thay đổi tư duy, phương thức và
công cụ. Tuy nhiên, công tác lập kế hoạch tại những cơ quan nhà nước vẫn
chậm hơn so với khu vực tư nhân, điều này có thể do tư duy, cơ chế hay cơ sở
khoa học của công tác đổi mới quản lý ở khu vực nhà nước vẫn còn chưa được
hoàn thiện. Chính vì vậy, để làm rõ hơn về công tác lập kế hoạch trong thực tế,
em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề của mình là: “Tìm hiểu thực trạng và một
số giải pháp nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch năm của Cục Kinh
tế hợp tác và Phát triển nông thôn – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn”. Chuyên đề gồm có 3 phần:
Chương II. Thực trạng công tác lập kế hoạch hàng năm của Cục
Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn
Chương III. Một số giải pháp nâng cao công tác lập kế hoạch của Cục
Thông qua chuyên đề này, em hy vọng sẽ vận dụng được những kiến thức
đã học được để làm rõ về công tác lập kế hoạch tại một cơ quan nhà nước. Đồng
thời hy vọng đóng góp một số ý kiến của mình nhằm có thể đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch.
Xin cám ơn Cô giáo Đoàn Thị Thu Hà đã hướng dẫn và các anh chị trong
Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đã giúp đỡ cho em hoàn thành
chuyên đề này. Em hy vọng sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến để chuyên đề của
mình hoàn thiện hơn.
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng của quản lý là
lập kế hoạch , tổ chức , lãnh đạo và kiểm tra. Lập kế hoạch là một trong những
công việc quan trọng trong một tổ chức bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn mục
tiêu và chương trình hành động trong tương lai, giúp tổ chức nhận định được các
hoạt động khác còn lại nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra. Một tổ chức
càng lớn thì công tác lập kế hoạch càng được coi trọng và được chia làm nhiều
tầng lớp, với mức độ cụ thể khác nhau.
Lập kế hoạch cũng có nhiều khái niệm. Nếu đứng trên góc độ ra quyết
định thì : “ Lập kế hoạch là một loại ra quyết định đặc thù để xác định một
tương lai cụ thể mà các nhà quản lý mong muốn cho tổ chức của họ “. Quản lý
có bốn chức năng cơ bản là lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra . Lập kế
hoạch có thể ví như là bắt đầu từ rễ cái của một cây sồi lớn , rồi từ đó mọc lên
các “ nhánh” tổ chức , lãnh đạo và kiểm tra. Xét theo quan điểm này thì lập kế
hoạch là chức năng được thực hiện đầu tiên trong mỗi quá trình quản lý. Tuy
vậy, khái niệm này chưa thể hiện được sự tiếp diễn, phản ánh và thích ứng với
những biến động trong môi trường của công tác lập kế hoạch. Vì vậy còn có
những khái niệm bổ sung ví dụ như: “Lập kế hoạch là một quá trình bắt đầu từ
việc thiết lập các mục tiêu , quyết định các chiến lược , các chính sách , kế
hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu đã định. Lập kế hoạch cho phép thiết lập các
quyết định khả thi và bao gồm cả chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và
quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa.” (Steiner). Khái niệm như vậy
cho thấy kế hoạch được xem là một quá trình tiếp diễn phản ánh và thích ứng
được với những biến động diễn ra trong môi trường của mỗi tổ chức, đó là quá
trình thích ứng với sự không chắc chắn của môi trường bằng việc xác định trước
các phương án hành động để đạt được mục tiêu cụ thể của tổ chức.
Tóm lại, lập kế hoạch là hoạt động chủ quan, có ý thức, tổ chức của con
người, bao gồm quá trình xác định các mục tiêu và lựa chọn các phương thức để
đạt được mục tiêu đó.
Các kế hoạch của tổ chức có thể được phân loại theo một số các tiêu thức
khác nhau. Mỗi cách phân loại này dựa trên một đặc điểm riêng của công tác kế
hoạch, bởi vì kế hoạch là một hoạt động quan trọng và bao trùm lên nhiều lĩnh
vực, ở nhiều cấp độ khác nhau. Chính vì vậy việc phân loại hệ thống kế hoạch là
cần thiết. Tuy nhiên, dù phân loại kế hoạch theo cách nào đi chăng nữa thì mỗi
loại kế hoạch đều phải có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo định hướng chung
nhắm vào mục tiêu cao nhất của tổ chức.
Kế hoạch chiến lược được hình thành bởi các nhà quản lý cấp cao, nhằm
xác định những mục tiêu tổng thể cho tổ chức. Kế hoạch chiến lược liên quan
đến mối quan hệ giữa con người với con người của tổ chức với các con người
của tổ chức khác. Kế hoạch chiến lược xác định những mục tiêu dài hạn của tổ
chức với các nguồn lực có thể huy động được. Kế hoạch chến lược là loại kế
hoạch được xây dựng và không ngừng hoàn thiện và bổ sung trong quá trình
thực hiện kế hoạch. Kế hoạch chiến lược cần dựa trên cơ sở phân tích vị trí của
tổ chức trong môi trường hoạt động của nó.
- Chiến lược cấp tổ chức: do bộ phận quản lý cao nhất vạch ra nhằm trả
lời cho các câu hỏi: Tổ chức nên hoạt động trong lĩnh vực nào? Mục tiêu và kỳ
vọng trong lĩnh vực đó? Phân bổ nguồn lực ra sao để đạt được mục tiêu?
- Chiến lược cấp ngành: chỉ liên quan đến những mối quan tâm và hoạt
động trong một ngày (lĩnh vực) của tổ chức. Chiến lược cấp ngành xác định
được lĩnh vực này của tổ chức nằm ở vị trí nào trong môi trường hoạt động của
nó; các sản phẩm, dịch vụ cần được cung cấp; đối tượng phục vụ và nguồn lực
phân bổ như thế nào.
- Chiến lược cấp chức năng: bao gồm các chức năng như nhân sự, tài
chính, marketing, sản xuất.. nằm trong một lĩnh vực hoạt động của tổ chức.
Chiến lược cấp chức năng là sự cụ thể hóa của chiến lược cấp ngành, nhằm mục
đích hỗ trợ chiến lược cấp tổ chức và là cách thức đạt được mục tiêu trong của
chiến lược cấp ngành.
Kế hoạch tác nghiệp bao gồm những chi tiết cụ thể hóa của kế hoạch
chiến lược thành những hoạt động hàng năm, hàng quý, hàng tháng, hàng tuần
thậm chí hàng ngày. Mục đích của kế hoạch tác nghiệp là bảo đảm mọi người
trong tổ chức đều hiểu về các mục tiêu của tổ chức và xác định rõ trách nhiệm
của họ liên quan như thế nào trong việc thực hiện hiện các mục tiêu đó nhằm đạt
được kế quả dự kiến. Kế hoạch tác nghiệp có xây dựng để sử dụng một lần, có
loại được xây dựng để sử dụng nhiều lần.
Dự án Thủ tục
- Chương trình: bao gồm một số các mục đích, chính sách, thủ tục, quy
tắc, các nhiệm vụ được giao, các bước tiến hành, các nguồn lực có thể huy động
và yếu tố khác. Chương trình được hỗ trợ bằng ngân quỹ cần thiết. Một chương
trình quan trọng thường ít khi đứng một mình, thường là bộ phận của một hệ
thống phức tạp. Chương trình thường có mục tiêu lớn, quan trọng, mang tính
độc lập tương đối trong quá trình phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu.
- Dự án: có mục tiêu thường cụ thể, quan trọng, mang tính độc lập tương
đối. Nguồn lực để thực hiện mục tiêu thường phải rõ ràng đối với tất cả các hình
thái nguồn lực theo thời gian và không gian.
- Ngân sách: là bản tường trình các kết quả mong muốn bằng các con số.
Có thể coi đó là chương trình được “số hóa”. Ngân quỹ ở đây không đơn thuần
là ngân quỹ bằng tiền mà còn có ngân quỹ thời gian, nhân công, máy móc thiết
bị, ngân quỹ nguyên vật liệu.
b. Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần và sử dụng nhiều lần:
- Thủ tục: là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc
điều hành các hoạt động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là việc
chỉ ra một cách chi tiết, biện pháp chính xác cho một hoạt động nào đó cần phải
thực hiện. Đó là chuỗi các hoạt động cần thiết theo thứ tự, theo cấp bậc quản lý.
Theo thời gian thì kế hoạch được chia làm 3 loại: kế hoạch dài hạn, kế
hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn.
- Kế hoạch dài hạn : Là kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở lên nhằm xác
định các lĩnh vực hoạt động của tổ chức, xác định các mục tiêu, chính sách, giải
pháp dài hạn … do những cấp quản lý cao đưa ra, mang tính tập trung cao và
bao quát, linh hoạt.
- Kế hoạch trung hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ từ 1 đến 5 năm nhằm phác
thảo các chính sách, chương trình trung hạn để thực hiện các mục tiêu được
hoạch định trong chiến lược của tổ chức. Kế hoạch trung hạn ít tập trung và ít
uyển chuyển hơn kế hoạch dài hạn. Kế hoạch trung hạn được đưa ra bởi các
quản lý cấp trung trong tổ chức.
Ba loại kế hoạch trên có quan hệ hữu cơ với nhau .Trong đó, kế hoạch dài
hạn giữ vai trò trung tâm , chỉ đạo trong hệ thống kế hoạch của tổ chức, là cơ sở
để xây dựng kế hoạch trung hạn và kế hoạch hằng năm.
Kế hoạch 5 năm
Chương trình, dự án quốc gia
0 Thời gian
1 năm 5 năm
Tùy thuộc vào tầm quan trọng của kế hoạch mà nó được xây dựng và
thông qua bởi một cấp quản lý nhất định. Thông thường kế hoạch càng quan
trọng thì càng cần phải được đưa ra bởi cấp quản lý cao hơn. Có những kế hoạch
ngắn hạn nhưng có phạm vi tác động lớn cũng cần được đưa ra bởi cấp quản lý
cao. Sơ đồ dưới đây thể hiện phân cấp kế hoạch tại tổ chức là Nhà nước.
Việc phân cấp quản lý của kế hoạch cho phép xác định một cách rõ ràng
đường lối và trách nhiệm của các cơ quan lập kế hoạch. Theo đó, kế hoạch của
cấp dưới cần phải tuân thủ theo định hướng của cấp trên. Kế hoạch cấp cao
thường bao quát và linh hoạt, mang tính nguyên tắc. Còn kế hoạch cấp thấp
thường cụ thể và ít cần sự thay đổi hơn.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, Tỉnh Chiến lược phát triển ngành, kế
hoạch hàng năm, kế hoạch phát
triển KTXH tỉnh, dự án quốc
gia
Các đơn vị nhỏ hơn: chi cục, Phương hướng nhiệm vụ hàng
phòng, ban, cá nhân.. năm, nội quy tổ chức…
Lập kế hoạch hàng năm là một trong những nội dung của công tác lập kế
hoạch. Kế hoạch hàng năm là một loại kế hoạch ngắn hạn, không mang tính
chiến lược. Tuy nhiên, kế hoạch hàng năm là một phần tất yếu không thể thiếu
nhằm làm cụ thể hóa nội dung của kế hoạch chiến lược, kế hoạch trung và dài
hạn. Từ đó giúp tổ chức thấy được các mục tiêu trước mắt và định hướng các
hoạt động cụ thể hơn nhằm đạt được mục tiêu đó. Kế hoạch hàng năm đảm bảo
cho sự sẵn sàng ứng phó với môi trường của tổ chức. Bởi tương lai càng xa thì
kết quả càng kém chắc chắn, kế hoạch hàng năm giúp cho việc kiểm tra cũng trở
nên dễ dàng hơn và nhanh chóng nhận ra những sai sót của tổ chức nhằm điều
chỉnh tổ chức đi đúng hướng.
Đối với tổ chức là cơ quan nhà nước, kế hoạch hàng năm ngoài mục đích
đánh giá kết quả của chương trình, dự án, kế hoạch được giao mà còn nhằm
phân tích hiệu quả của các phương án, tìm ra những tồn tại, vướng mắc, phản
2.1. Xác định thực trạng: là điểm bắt đầu của quá trình lập kế hoạch.
Nội dung cơ bản là hiểu biết môi trường bên trong và bên ngoài của tổ chức.
Các yếu tố bên trong tổ chức bao gồm như: nguồn lực, cơ cấu, chính sách, văn
hóa... Các yếu tố bên ngoài của tổ chức bao gồm: xu thế trong nước và quốc tế,
tiến bộ của khoa học và công nghệ... Nắm được thực trạng của tổ chức là cơ sở
tối quan trọng để công tác lập kế hoạch đảm bảo cơ sở thực tiễn, phù hợp với
năng lực của đơn vị và biến động của môi trường.
2.2. Thiết lập các mục tiêu, chỉ tiêu: là xác định rõ thời hạn thực hiện
và lượng hóa mục tiêu đến mức cao nhất có thể. Mục tiêu tổ chức bao gồm mục
tiêu định tính vào mục tiêu định lượng. Các mục tiêu cần được tổ chức, phân
nhóm, ưu tiên thứ tự thực hiện. Quan trọng nhất là các mục tiêu cần thật rõ ràng,
có thể đo lường được và mang tính khả thi. Ngoài ra cần xác định rõ trách nhiệm
trong việc thực hiện mục tiêu và thời hạn cần phải hoàn thành.
2.3. Đánh giá tính khả thi của mục tiêu: đây là bước rà soát lại hệ thống
mục tiêu, chỉ tiêu mà tổ chức đã đặt ra. Trong bước này, cần vận dụng những kết
quả của bước một “Xác định thực trạng” nhằm lựa chọn ra hệ thống mục tiêu có
hiệu quả nhất dựa trên đánh giá ban đầu về tổ chức và môi trường. Một mục tiêu
có khả thi là mục tiêu đảm bảo được khả năng thực hiện của tổ chức, tuy vậy,
vẫn phải mang tính thách thức để mang lại động lực cho tổ chức.
2.4. Phác thảo kế hoạch hoạt động: là việc tìm ra và nghiên cứu các
phương án hành động để lựa chọn. Sau khi đã có được hệ thống mục tiêu của tổ
chức, cần lên kế hoạch cụ thể các hoạt động cần phải được tiến hành nhằm đạt
được mục tiêu. Trong giai đoạn này, có thể có nhiều phương án được đưa ra
cùng nhằm đến mục tiêu đã có. Chính vì vậy, cần giảm bớt các phương án lựa
2.5. Xác định nguồn tài chính: tất cả các hành động chính sách đều cần
có nguồn tài chính nhất định để thực thi. Đối với tổ chức là nhà nước, nguồn tài
chính phong phú đa dạng như: ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, vốn
vay nước ngoài, vốn vay từ các tổ chức tài chính hoặc huy động nguồn vốn của
nhân dân. Xác định nguồn tài chính cho kế hoạch là một bước quan trọng đảm
bảo kế hoạch được thực hiện một cách thông suốt.
2.6. Xác định các chỉ số giám sát: các chỉ số giám sát cần được thiết lập
ngay từ khâu lập kế hoạch để đảm bảo cho hành động của tổ chức phù hợp với
khuôn khổ pháp luật và mang tính hiệu quả. Các chỉ số giám sát cho phép người
thực hiện kế hoạch nhận ra khi nào kế hoạch đi không đúng hướng để có những
điều chỉnh phù hợp.
2.7. Trình bày kế hoạch: là thông báo kế hoạch cho các bộ phận của tổ
chức, cấp trên và cấp dưới. Từ đó các bộ phận của tổ chức tiến hành thực hiện
kế hoạch, bắt đầu bằng việc xây dựng các kế hoạch hoạt động chi tiết cho từng
nội dung của kế hoạch.
Lập kế hoạch hàng năm mang những đặc điểm của lập kế hoạch tác
nghiệp, với thời gian ngắn và tính chiến lược không cao. Chủ yếu của công tác
lập kế hoạch tác nghiệp là đưa ra các mục tiêu hành động cụ thể nhằm đảm bảo
cho tổ chức hoạt động một cách liên tục. Quy trình lập kế hoạch tác nghiệp có
thể được thể hiện như bảng dưới đây.
Kế hoạch, mục tiêu chi tiết về: Chế độ kiểm tra kiểm soát,
Chuyên môn hệ thống thông tin báo cáo
Tài chính
Nhân lực
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lập kế hoạch hàng năm
3.1. Hệ thống mục tiêu, chiến lược của tổ chức
Một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc xây dựng kế
hoạch hàng năm đó là hệ thống chiến lược, kế hoạch dài hạn và trung hạn của tổ
chức. Kế hoạch hàng năm phải đảm bảo được yếu tố phù hợp, nhất quán với các
kế hoạch, chiến lược ở cấp cao hơn. Bởi vì kế hoạch hàng năm là sự chi tiết hóa
của các kế hoạch cấp cao, vì vậy kế hoạch hàng năm cần đưa ra các mục tiêu,
hành động cụ thể, chi tiết nhất có thể đạt được nhằm xác định đảm bảo tổ chức
Trương Đức Giang 11 Lớp: Quản lý kinh tế 48A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đi đúng hướng. Sự chi tiết này cũng giúp cho công tác báo cáo, kiểm tra và điều
chỉnh được thuận lợi.
Nguồn lực ở đây không chỉ là nguồn lực về tài chính mà còn là tất cả các
nguồn lực mà tổ chức có khả năng huy động để thực hiện mục tiêu: vốn, kỹ
thuật, công nghệ, kinh nghiệm, văn hóa… Việc tổ chức và phối hợp nguồn lực
một cách hiệu quả sao cho phát huy được tối đa tiềm năng của tổ chức là một
thách thức của nhà quản lý. Trong ngắn hạn,nguồn lực của tổ chức thay đổi ít.
Chính vì vậy mà trong kế hoạch hàng năm chúng ta có thể nắm được tương đối
rõ ràng nguồn lực của tổ chức. Điều này giúp cho việc lập kế hoạch trở nên dễ
dàng hơn. Tuy nhiên việc nguồn lực bị hạn chế cũng làm cho các hành động của
tổ chức bị hạn chế trong khuôn khổ. Chính vì vậy đòi hỏi những người lập kế
hoạch trong ngắn hạn cần có tư duy đột phá, sử dụng nguồn lực một cách hợp lý
và có lợi nhất, nhằm đạt hiệu quả cao. Trong dài hạn, khả năng mở rộng nguồn
lực của tổ chức là rõ ràng thông qua việc tăng vốn, tăng thêm nhân lực và áp
dụng thêm khoa học kỹ thuật.
Môi trường xung quanh của một tổ chức luôn thay đổi một cách liên tục.
Tuy nhiên mức độ thay đổi cũng tùy thuộc vào tính chất của tổ chức. Đối với
những tổ chức hoạt động kinh doanh, có thể môi trường thay đổi từng ngày từng
giờ. Tuy nhiên đối với tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, sự thay đổi này diễn ra
theo khoảng thời gian dài hơn. Tuy nhiên, sự biến đổi này có thể diễn ra một
cách từ từ, không nhận thấy rõ ràng nhưng khi xảy ra lại đột ngột. Chính vì vậy
mà đòi hỏi công tác lập kế hoạch phải hết sức thận trọng, tính toán đầy đủ đến
các yếu tố bất ổn định của môi trường xung quanh có thể gây ra nhằm đảm bảo
cho công tác lập kế hoạch được đầy đủ và chính xác. Đối với công tác lập kế
hoạch hàng năm, điều quan trọng là cần dự báo trước được những biến động
trong ngắn hạn chứ không phải là xu thế trong dài hạn. Đặc biệt là các sự cố bất
thường của tình hình kinh tế, xã hội hay thiên tai. Điều đó sẽ giúp cho công tác
lập kế hoạch đảm bảo tính thực tế hơn.
Lập kế hoạch là một hoạt động đặc thù, không phải ai cũng có khả năng
lập kế hoạch mà đây là công việc đòi hỏi kỹ năng và sở trường. Thông thường
kế hoạch được lập ra bởi nhà quản lý. Vì đặc thù của công tác lập kế hoạch là
hoạt động trí óc, cần sự phân tích, phán đoán và quyết định dựa trên chủ quan
của con người. Chính vì vậy kết quả của hoạt động này khó mang tính chính xác
hoàn toàn. Năng lực của chuyên gia lập kế hoạch là một trong những yếu tố ảnh
hưởng lớn đến chất lượng của kế hoạch. Một chuyên gia có năng lực về lĩnh vực
lập kế hoạch cần dựa trên những quy tắc khách quan, có khả năng đánh giá sự
tác động của môi trường lên tổ chức, khả năng dự đoán được sự biến động của
môi trường nhằm đưa ra được kế hoạch mang tính tương đối chính xác và phù
hợp nhất với điều kiện hiện tại của tổ chức. Nâng cao năng lực của cán bộ lập kế
hoạch là một nội dung cơ bản nhằm nâng cao chất lượng của công tác lập kế
hoạch.
Trước kia, ở Việt Nam chúng ta quan niệm: Công tác lập kế hoạch là tổng
thể các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, văn
hóa, đời sống… dựa trên chủ trương, đường lối trong từng thời kỳ. Khái niệm
Trương Đức Giang 13 Lớp: Quản lý kinh tế 48A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
này chưa đề cập đến sự biến động của môi trường xung quanh và môi trường nội
bộ của tổ chức, chưa thực sự tạo được thôi thúc nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động trong tổ chức. Ngày nay, khi nền kinh tế đã phát triển theo cơ chế thị
trường, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phạm
vi và trình độ của công tác kế hoạch ngày càng được nâng cao tương ứng. Mặt
khác, xuất phát từ đặc điểm của môi trường kinh tế của chúng ta đang hướng tới
xây dựng là “Mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước”, vì vậy kế hoạch vẫn được coi là một trong những công cụ
điều tiết để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Ở cấp độ thấp hơn, kế hoạch thể
hiện sự sáng tạo, tự chủ của mỗi tổ chức nhưng phải phù hợp với chủ trương của
Nhà nước trong từng thời kỳ, ứng phó với sự thay đổi của kinh tế thế giới.
CHƯƠNG II
- 02 Chi cục Phát triển nông thôn và Quản lý chất lượng NLTS.
Hệ thống kế hoạch hóa hiện nay ở nước ta vẫn chủ yếu là hệ thống mang
tính chất thứ bậc. Theo đó, có 2 cách phân loại kế hoạch chủ yếu của Nhà nước là:
a. Phân loại theo mức độ khái quát, hệ thống kế hoạch hóa ở Việt Nam bao gồm:
- Chiến lược phát triển KTXH: là hệ thống các phân tích đánh giá lựa chọn
về quan điểm, mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu
của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm cả cơ cấu, cơ chế
vận hành hệ thống KTXH trong khoảng thời gian dài (ít nhất 10 năm).
- Quy hoạch phát triển KTXH: là sự phân bố, sắp xếp các hoạt động và các
yếu tố sản xuất, dịch vụ và đời sống KTXH trên một địa bàn lãnh thổ (quốc gia,
vùng, tỉnh, huyện..) cho một thời kỳ trung hạn, dài hạn (có chia giai đoạn) và là
cơ sở lập kế hoạch phát triển.
- Kế hoạch phát triển KTXH: là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, nó là sự cụ thể hóa các mục tiêu, định hướng của chiến lược phát triển trong
từng thời kỳ bằng hệ thống các chỉ tiêu, mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định
hướng phát triển; hệ thống chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ đó. Kế
hoạch phát triển KTXH biểu hiện bằng một hệ thống chỉ tiêu kế hoạch về số
lượng và chất lượng. Kế hoạch phát triển KTXH có thể là trung hạn (5 năm)
hoặc ngắn hạn (hàng năm).
- Chương trình, dự án phát triển: là công cụ triển khai thực hiện chiến lược
và kế hoạch phát triển. Nó cụ thể hóa kế hoạch thành các nội dung triển khai
hoạt động cụ thể trong đó thể hiện rõ mục tiêu, nguồn lực, tiến độ thực hiện…
Như vậy chỉ khi nào các kế hoạch được triển khai thành chương trình, dự án thì
b. Phân loại theo cấp độ quản lý, hệ thống kế hoạch hóa bao gồm:
- Kế hoạch phát triển KTXH quốc gia: được xây dựng dựa trên cơ sở nội
dung chiến lược phát triển KTXH quốc gian 10 năm hoặc 20 năm và quy hoạch
phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ trong dài hạn; là tổng hợp của KHPT
KTXH các ngành, lĩnh vực, tỉnh. Văn bản hoạch định thể hiện bằng mục tiêu
tổng quát, các nhiệm vụ cụ thể, các cân đối nguồn lực, chương trình phát triển,
dự án phát triển, dự án đầu tư và giải pháp nhằm phát triển KTXH theo những
mục tiêu, chỉ tiêu mà chiến lược đã đề ra.
- Kế hoạch phát triển ngành: theo định hướng của chiến lược và kế hoạch
cấp quốc gia, các ngành xây dựng kế hoạch phát triển của ngành mình, những
tiềm năng phát triển của ngành sẽ được đánh giá lại và chuẩn xác thêm, đồng
thời trên một mức độ nào đó, sẽ lượng hóa các nguồn lực phát triển của ngành,
tính toán các mục tiêu theo hướng hiệu quả hóa và sử dụng tối đa các nguồn lực
phát triển.
- Kế hoạch phát triển vùng, lãnh thổ: hiểu theo phạm vi rộng thì kế hoạch
này có thể là vùng kinh tế lớn, hoặc cấp tỉnh, địa phương (huyện, xã), thậm chí
cộng đồng (thôn, xóm).
1.2. Nội dung của bản Kế hoạch hàng năm của Cục
Đối với kế hoạch phát triển KTXH 5 năm, trước kỳ kế hoạch, thường là
hơn 1 năm, sau khi nhận được Chỉ thị hướng dẫn công tác lập KHPT KTXH 5
năm của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn lập kế hoạch của Bộ KHĐT tới các
tỉnh và Bộ/cơ quan ngang Bộ, Bộ trưởng Bộ NNPTNN ban hành chỉ thị hướng
dẫn công tác lập KHPT KTXH 5 năm tới các đơn vị trực thuộc và các sở ban
ngành của các tỉnh. Các sở NNPTNN có khoảng 2 tháng để xây dựng KHPT
KTXH 5 năm và trình lên Sở KHĐT, Sở tài chính và Bộ NNPTNT. Vào tháng 2
và 4, Bộ NNPTNT phải hoàn tất KHPT KTXH của quốc gia và trình lên Thủ
tướng Chính phủ, thường đến tháng 5 Thủ tướng Chính phủ có thể trình bản kế
Kế hoạch hàng năm của Cục được xây dựng trên cơ sở kế hoạch tiểu
ngành 5 năm và kế hoạch phát triển tiểu ngành hàng năm. Nội dung của bản kế
hoạch hàng năm bao gồm đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của đơn vị, đánh
giá các thành tích của tiểu ngành. Căn cứ vào kết quả thực hiện kế hoạch của
cục, đánh giá bối cảnh và mục tiêu kế hoạch phát triển của cục. Kế hoạch hàng
năm tiếp tục xây dựng kế hoạch năm tới nhằm đưa ra kiến nghị điều chỉnh, bổ
sung, thay thế hoặc ban hành văn bản mới các chính sách phát triển tiểu ngành,
dự kiến nguồn lực có thể huy động để phát triển các hoạt động của cục và dự
kiến kế hoạch hàng năm.
Kế hoạch năm 2010 của Cục bao gồm các phần chính :
- Báo cáo tình hình thực hiện công tác chỉ đạo điều hành (xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật, hợp tác quốc tế, thanh tra kiểm tra, cải cách hành chính).
- Báo cáo tình hình thực hiện công tác chuyên môn (lĩnh vực kinh tế tập
thể; phát triển nông thôn; di dân tái định cư; quy hoạch bố trí dân cư; các
chương trình dự án: 135, 30a…)
- Đánh giá kết quả hoạt động của Cục, nêu ra những điểm mạnh, điểm
yếu trong công tác thực hiện kế hoạch của Cục.
b. Kế hoạch hoạt động để thực hiện mục tiêu kế hoạch năm 2010
- Xác định những thuận lợi, khó khăn trong năm kế hoạch.
- Dự kiến ngân sách để thực hiện kế hoạch hàng năm của đơn vị
- Kế hoạch theo dõi-đánh giá thực hiện kế hoạch; phân công trách nhiệm
theo dõi, đánh giá.
2. Các căn cứ cho công tác lập kế hoạch năm 2010 của Cục
Dựa trên cơ sở kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp phát triển nông
thôn 5 năm, hàng năm và kế hoạch phát triển ngành kinh tế hợp tác và phát triển
nông thôn 5 năm. Đối với các chương trình, dự án ở các tỉnh, cần dựa trên quy
hoạch phát triển 5 năm của tỉnh, thành phố.. Kế hoạch hàng năm cần dựa trên
các chính sách chung, đặc thù cho từng vùng lãnh thổ, các định mức kinh tế-kỹ
thuật được áp dụng cho quá trình hoạch định và tính toán và phương án kế
hoạch. Các văn bản cụ thể bao gồm:
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ: số 756/2009/CT-TTg ngày 05/6/2009
về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước
2010;
- Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt chương trình bố trí dân cư các vùng: thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên
giới, hải đảo, di dân tự do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu
bảo tồn nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006-2015;
- Quyết định số 78/2008/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ thay thế quyết định
số 193/2006/QĐ-TTg;
- Quyết định số 07/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 2006-
2010;
Các căn cứ thực tiễn của công tác lập kế hoạch năm 2010 của Cục bao gồm:
- Tình hình triển khai và kết quả thực hiện nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch
được giao năm 2009.
- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Cục, phạm vi quản lý của ngành,
tìm ra những nội dung cần thiết, bức xúc nhất.
- Căn cứ vào nguồn lực để bố trí những nội dung cần ưu tiên.
- Các quy định, thủ tục theo quy định chung của Nhà nước về đầu tư
nhằm đảm bảo tính khả thi của từng dự án như: dự án đầu tư phải được phê
duyệt trước tháng 11 hàng năm; quy trình lập,thẩm định,phê duyệt dự án đầu
tư…
Đánh giá thực trạng và xu thế nhằm mục đích đánh giá mức độ hoàn
thành những mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch đề ra; xác định được những điểm mạnh,
yếu, cơ hội, thách thức đối với việc thực hiện nhiệm vụ tại thời điểm đánh giá
cũng như trong kỳ kế hoạch tới.
Trong bước này cần tránh xu hướng liệt kê thành tích hoặc mô tả lại
những con số đã có trong biểu, phụ lục. Nội dung quan trọng nhất là phải khái
- Báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu kế hoạch có liên quan đến Cục.
- So sánh giá trị thực hiện năm kế hoạch với giá trị thực hiện cùng kỳ năm
trước, dưới dạng bảng biểu hoặc đồ thị. Đối với các chỉ tiêu kế hoạch, ngoài việc
so sánh với giá trị thực hiện cùng kỳ năm trước, cần phải so sánh với giá trị thực
hiện năm kế hoạch và giá trị dự kiến đạt được (chỉ tiêu kế hoạch).
- Đánh giá kết quả hoạt động của Cục góp phần đạt mục tiêu trên, căn cứ
vào chức năng, nhiệm vụ của Cục và những nhiệm vụ thực tế được giao. Nội
dung đánh giá bao gồm:
+ đánh giá kết quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn (tư vấn chính
sách, cung cấp dịch vụ công…)
+ đánh giá tiến độ thực hiện các chương trình/dự án/đề án đang
thực hiện trong lĩnh vực của Cục.
+ đánh giá tác động chính sách do từ các chương trình/dự án do các
đơn vị khác thực hiện có ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của Cục.
- Xây dựng khung SWOT để phân tích các cơ hội, thách thức, mặt mạnh
và điểm yếu của tiểu ngành.
3.2. Đề xuất quan điểm phát triển của kỳ kế hoạch tới, xây dựng và
lựa chọn mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể đối với lĩnh vực hợp tác xã và phát triển
nông thôn.
Các mục tiêu, chỉ tiêu đưa ra cần phù hợp với kế hoạch 5 năm và mang
tính khả thi. Để nâng cao tính khả thi của các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch cần
làm tốt công tác dự báo, nhất là dự báo về khả năng huy động các nguồn lực,
khó khăn, thuận lợi với từng mục tiêu đề ra. Trong đó:
- Mục tiêu: là một nội dung định tính, gồm động từ miêu tả hướng hành
động và danh từ miêu tả nội dung can thiệp. Ví dụ: nâng cao+mức sống nhân
dân, phát triển+kinh tế trang trại…
Cấu thành Ví dụ
Nội dung Tỉ lệ hợp tác xã hoạt
động hiệu quả, có lãi.
Đến năm 2010, cả
Giá trị 90% nước có 90% hợp
Đối tượng Hợp tác xã tác xã hoạt động
Không gian Cả nước hiệu quả, có lãi.
Thời gian 2010
Các chỉ tiêu được xác định nhằm mục đích:làm sáng tỏ các đặc điểm của
mục tiêu tổng thể, tạo điều kiện cho việc quản lý các mục tiêu và quản lý việc
thực hiện kế hoạch, tạo điều kiện cho việc theo dõi và đánh giá mục tiêu. Mỗi
mục tiêu có thể có 1 hay nhiều chỉ tiêu, nhưng để có được thông tin đáng tin cậy
liên quan đến việc thực hiện mục tiêu, chúng ta thường xây dựng nhiều chỉ tiêu
khác nhau.
Một số chỉ tiêu khó xác định được chính xác hình thái biểu hiện. Ví dụ
như: nâng cao chất lượng kỹ thuật trong canh tác trang trại. Khi đó cần xác định
các chỉ tiêu “đại diện” thay thế, ví dụ như năng suất lao động, sản lượng.. trong
canh tác trang trại.
- Chỉ số: là thước đo đo lường tiến độ đạt được của mục tiêu, chỉ tiêu. Ví
dụ:
- Measurable = Đo lường: mục tiêu phải đo lường được, và phải xác định
luôn tiêu chuẩn, công cụ đo lường.
- Achivealbe = Khả thi: mục tiêu đưa ra phải khả thi, mang tính thực hiện
được, không quá viển vông.
- Rewarding = Đáng giá: mục tiêu phải mang lại lợi ích rõ rệt, lớn hơn chi
phí phải bỏ ra.
- Time-bound = Có thời hạn: mục tiêu phải gắn liền với thời hạn đạt được
mục tiêu.
Đồng thời, cùng với việc xác định các mục tiêu, chỉ tiêu, còn phải xác
định được nguồn dữ liệu báo cáo, thẩm định về các thông tin về chỉ tiêu được
cung cấp. Nguồn thẩm định cần tin cậy, cụ thể, chi phí tìm kiếm chấp nhận được
và tạo điều kiện dễ dàng cho việc tổng hợp, phân tích chỉ tiêu.
Một số chỉ tiêu cụ thể trong năm 2010 của Cục KTHT & PTNN.
3.3. Xác định các chính sách và giải pháp thực hiện các chỉ tiêu đề ra
Do nguồn lực có hạn, việc xác định các chính sách và giải pháp thực hiện
cần gắn với dự kiến nguồn lực cần huy động trong kỳ kế hoạch. Các giải pháp
thực hiện mục tiêu kế hoạch bao gồm:
- Các chính sách phát triển hiện hành cần tiếp tục duy trì, sửa đổi hoặc
ban hành mới. Cơ sở của giải pháp này là các đánh giá chính sách thu được từ
việc phân tích tác động chính sách và phân tích SWOT từ bước đầu tiên - “Đánh
giá thực trạng và xu thế”
Để thực hiện việc theo dõi và thực hiện kế hoạch được thuận tiện, cần xây
dựng khung theo dõi-đánh giá thực hiện kế hoạch của tiểu ngành, bao gồm các
nội dung như trong bảng trên. Trong đó, các thông tin về mục tiêu tổng quát,
mục tiêu chính được lấy từ kế hoạch phát triển 5 năm và hàng năm, các thông
tin về chương trình, dự án cụ thể được lấy từ các bước trước của quy trình lập kế
hoạch.
Cùng với bảng theo dõi –đánh giá việc thực hiện kế hoạch cần phân công
trách nhiệm theo dõi cho đơn vị, cá nhân thích hợp. Đồng thời xác định cơ chế
khen thưởng, xử phạt rõ ràng để khuyến khích theo dõi-đánh giá việc thực hiện
kế hoạch được chính xác, công bằng.
(Ban hành kèm văn bảo số 320/KTHT & PTNN-KH ngày 9/7/2009)
Mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, Nhu cầu vốn trong năm Đơn vị chủ trì, đơn Chỉ số/chỉ tiêu Nguồn số liệu
chương trình hành động (tỷ đồng) vị phối hợp năm 2010 và tần suất
Tổng số Bộ NNPTNT báo cáo
Mục tiêu 1:
Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
33,34 4,34
tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp
Các chương trình/hoạt động:
1. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX, tổ HT Cục KTHT & 2.000 cán bộ HTX Báo cáo năm,
(theo thông tư 66 của Bộ Tài chính) 10 2 PTNN, Sở NNPTNT 1.000 cán bộ tổ HT quý
các tỉnh được đào tạo
2. Hỗ trợ thành lập HTX mới và xây dựng Cục KTHT & 200 HTX được hỗ Báo cáo năm,
mô hình HTX điểm của các địa phương PTNN, Sở NNPTNT trợ, xây dựng 30 quý
về chế biến, tiêu thụ, tín dụng nội bộ, 20 0 các tỉnh mô hình tại 15 tỉnh
khuyến nông…
3. Đánh giá hiện trạng, đề xuất giải pháp 0,15 0,15 Cục KTHT & Ban hành cơ chế Báo cáo năm
xây dựng kế hoạch hàng năm PTNN, các Cục, Vụ,
Phụ lục 2: Tổng hợp vốn đầu tư năm 2010 (2/11 mục)
(Ban hành kèm văn bảo số 320/KTHT & PTNN-KH ngày 9/7/2009)
Công tác lập kế hoạch đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu về thời gian rất
chặt chẽ, những thời điểm cụ thể đã được quy định trong điều 45 của Luật
Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
16/12/2002.
Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm thường ban hành vào
31/5 của năm trước, trên cơ sở đó các ngành Kế hoạch, Tài chính chuẩn bị nội
dung hướng dẫn xây dựng kế hoạch của năm đó, tổ chức tập huân cho các sở
kế hoạch, tài chính của các địa phương và các vụ kế hoạch, tài chính của các
bộ, ngành. Trên cơ sở đó các Bộ, ngành ban hành hướng dẫn cho các đơn vị.
Các bước thời gian của công tác lập kế hoạch có thể thể hiện như sau:
Bước 1: Chỉ thị và hướng dẫn về xây dựng kế hoạch do Thủ tướng và
bộ KHĐT ban hành (tháng 6)
Bước 2: Lãnh đạo bộ NNPTNT ban hành chỉ thị hướng dẫn lập kế
hoạch cho các đơn vị trực thuộc Bộ
Bước 3: Các đơn vị trực thuộc bộ phối hợp với đối tác của tiểu ngành
mình ở cấp địa phương tiến hành đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch và đề
xuất kinh phí cho các chương trình/dự án
Bước 4: Các sở NNPTNN hướng dẫn các huyện và các chi nhánh thu
thập dữ liệu, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch và xây dựng kế hoạch phát
triển ngành NNPTNT của tỉnh. (trong 2-3 tuần)
Bước 7: Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt Kế hoạch PT
KTXH (tháng 11)
Chế độ báo cáo kết quả phân bố kế hoạch: Sau khi được Quốc hội
thông qua đến hết 10/12 hàng năm là thời gian giao kế hoạch chính thức của
Chính phủ, Bộ Kế hoạch đầu tư, bộ Tài chính và UBND các tỉnh, thành phố.
Đây là thời gian có thể diễn ra những thay đổi nhất định do các chỉ tiêu kế
hoạch chính thức có thể không trùng với dự kiến đã được thông báo hoặc có
những vấn đề mới ở địa phương mới phát sinh đòi hỏi phải điều chỉnh phương
án phân bổ so với dự kiến. Vì vậy các chi cục cần có thông tin kịp thời, phục
vụ cho việc điều chỉnh phương án bố trí (nếu cần thiết). Ngoài ra, các chi cục
cần gửi các quyết định của UBND tỉnh giao chỉ tiêu kế hoạch cho từng dự án,
chương trình thuộc chức năng, nhiệm vụ của Cục chậm nhất sau 15 ngày từ
khi quyết định đó được ban hành.
Chế độ báo cáo kết quả thực hiện: quy định về chế độ báo cáo thực hiện
kế hoạch nói chung, chương trình và dự án nói riêng đều yêu cầu các địa
phương, các ngành gửi báo cáo về cơ quan quản lý chương trình, dự án, bộ kế
hoạch đầu tư, bộ tài chính hàng quý. Do đó, các chi cục địa phương được yêu
cầu gửi báo cáo lũy kế của quý I, 6 tháng, 9 tháng và cả năm về Cục trước
ngày 15 của tháng cuối quý.
III. Một số phương pháp, công cụ sử dụng trong quá trình lập kế hoạch
Để có thể đưa ra được những chỉ tiêu của kỳ kế hoạch một cách khoa
học, hợp lý và tương đối chính xác. Chúng ta sử dụng một số phương pháp
tính toán dựa trên cơ sở hệ thống thông tin đã có.
Đây là phương pháp phân tích, đánh giá sự phát triển ngành thông qua
chuỗi các số liệu được hình thành từ trong quá khứ đến thời điểm đánh
giá.Trên cơ sở chuỗi số liệu có được, tiến hành phân tích, rút ra những quy
luật phát triển qua các chỉ tiêu được xác định bằng các phương pháp thống kê.
Yêu cầu: có số liệu của nhiều năm yếu tố cần phân tích. Thông thường với
các yếu tố của quá trình kinh tế xã hội ít biến động người ta sử dụng phương
trình hồi quy tuyến tính theo đường thẳng.
Y = a + bX
Trong đó: Y là giá trị ước tính, X là năm. Sử dụng phương pháp bình
phương nhỏ nhất xây dựng được hệ phương trình nhằm xác định chỉ số
a và b. Hệ phương trình:
n.a +b.∑x = ∑y
a.∑x + b.∑x2=∑xy
Dưới đây ta sử dụng số liệu 5 năm đầu tiên để tính toán. Tính ra được
phương trình hồi quy: Y=89543+7568.X (X=1 tại T=2000)
T= Giá trị sản xuất Giá trị ước tính theo phương Sai lệch
Năm ngành trồng trọt pháp hồi quy tuyến tính
thực tế (tỉ đồng)
2000 101043,7 -
2001 101403,1 -
2002 111171,8 -
2003 116065,7 -
2004 131551,9 -
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=390&idmid=3&ItemID=8815)
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giả, dễ tính toán, tuy nhiên nhược
điểm chỗ không lường hết được các yếu tố bất ngờ có thể xảy ra trong năm kế
hoạch.
Phương pháp này sử dụng để so sánh thực trạng các yếu tố kinh tế, kỹ
thuật, năng lực cạnh tranh, năng suất lao động của ngành so với kế hoạch đặt
ra, với mức trung bình cả nước hoặc so với nước khác. Tác dụng của nó là
đánh giá chính xác điểm mạnh, yếu, kết luận chính xác về trình độ phát triển
của ngành, là cơ sở để đưa ra định hướng khai thác nguồn lực của ngành và
khu vực nông thôn trong tương lai.
Ví dụ: so sánh năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam và một số
nước APEC
Tên nước Năng suất lao động So sánh với nước thấp
(USD/LĐ) nhất (lần)
Hoa Kỳ 36 863 125
Australia 27 058 92
Với so sánh như trên chúng ta có thể xác định rằng năng suất lao động
nông nghiệp ở Việt Nam nằm ở mức thấp so với thế giới. Cần phải tăng thêm
đầu tư cho phát triển năng suất. Cũng với so sánh như vậy, chúng ta có thể
nhận ra năng suất lao động của Việt Nam tăng nhanh hay chậm so với thế giới
bằng số liệu cùng kỳ năng năm trước để thấy rằng đầu tư của chúng ta có hiệu
quả hay không.
Phương pháp này sử dụng để lượng hóa mối quan hệ giữa các yếu tố
trong quá trình lập kế hoạch đối với kết quả của kế hoạch. Đây là một
phương pháp có ích trong việc xác định các mục tiêu, chỉ tiêu phù hợp, đưa
ra các giải pháp về nguồn lực hợp lý để đạt được mục tiêu.
Ví dụ: mối liên hệ giữa các yếu tố đầu vào và kết quả
Ví dụ như trên có thể hiểu răng: mức độ ảnh hưởng của tổng chi đến
tăng số trang trại lớn hơn đến tăng năng suất; còn chi cho hướng dẫn kỹ thuật
ảnh hưởng lớn hơn đến tăng năng suất và ít hơn đến số trang trại. Từ đó, nếu
đặt mục tiêu là tăng năng suất trang trại, chúng ta cần chú trọng hơn đến việc
tăng chi cho hướng dẫn kỹ thuật.
Ma trận SWOT: là một phương pháp phân tích chiến lược nhằm xác
định các Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của ngành trong quá
trình phát triển của ngành. Việc tổng hợp các vấn đề then chốt thông qua phân
tích SWOT cho phép chúng ta hình dung ra thực trạng của ngành đang đứng
trong giai đoạn phát triển nào, qua đó hình dung ra các phương án phát triển
ngành trong tương lai, từ đó lựa chọn một phương án phù hợp làm cơ sở cho
việc xác định các mục tiêu và giải pháp phát triển ngành. Quy trình phân tích
SWOT về phát triển kinh tế ngành gồm các bước:
Bước 1: Tóm tắt các phát hiện về thực trạng phát triển kinh tế xã hội
của ngành (điểm mạnh điểm yếu) và về những tác động của môi trường bên
ngoài đến phát triển ngành (cơ hội thách thức).
Bước 2: Xây dựng ma trận phân tích SWOT liệt kê các phát hiện vào
các ô tương ứng với ma trận
Bước 3: Hình dung ra các phương án chiến lược bằng cách kết hợp các
điểm mạnh, điểm yếu với cơ hội và thách thức của môi trường.
Bước 4: Phân tích từng phương án chiến lược để đưa ra kết luận về
những phương án phù hợp nhất với sự lựa chọn trong phát triển ngành.
Xác định được ma trận SWOT là cơ sở để hình thành các chiến lược
phù hợp thông qua ma trận TOWS gồm các yếu tố:
- Chiến lược S-O: nhằm theo đuổi những cơ hội phù hợp với các điểm mạnh.
- Chiến lược W-O: nhằm khắc phục các điểm yếu để theo đuổi và nắm
bắt cơ hội.
- Chiến lược S-T: xác định những hành động mà cơ quan, tổ chức có
thể sử dụng điểm mạnh của mình để giảm khả năng bị thiệt hại khi có sự biến
đổi hay tác động từ yếu tố bất lợi của môi trường.
- Chiến lược W-T: là việc hạn chế dần những điểm yếu trong nội bộ
của tổ chức có thể dẫn tới bất lợi khi có yếu tố bất lợi của môi trường.
- Công tác chỉ đạo điều hành được kế hoạch hóa, tăng cường hiệu quả
thực hiện, công tác báo cáo được thực hiện nghiêm túc và tổ chức tốt công tác
giao ban định kỳ. Các hội nghị, hội thảo chuyên đề thường xuyên được tổ
chức tăng cường sự gắn kết và chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ. Kết quả là
đã hoàn thành được mục tiêu kế hoạch của năm, đáp ứng nhanh các nhiệm vụ
đột suất được giao, xử lý tình huống có hiệu quả, tháo gỡ các khó khăn phát
sinh.
- Hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước của toàn ngành về cơ bản đã được
kiện toàn. Bên cạnh đó, công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ cho cán bộ chủ chót ở các chi cục được thực hiện thường xuyên,
nhiều địa phương vẫn duy trì được hệ thống tổ chức tại cấp huyện, nhiệm vụ
được bổ sung, cơ sở vật chất được tăng cường tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được hoàn thành tốt
theo kế hoạch cũng như các yêu cầu đột xuất. Tham mưu xây dựng nhiều nghị
quyết, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thực hiện các chương
trình như 135, giảm nghèo, bố trí dân cư.. Hoàn thành các nhiệm vụ được
giao ở các địa bàn khó khăn
- Công tác thanh kiểm tra được tăng cường, tổ chức thường xuyên.
Công tác cải cách hành chính bước đầu phát huy hiệu quả tích cực.
- Nhiều chi cục chưa nắm vững chức năng quản lý nhà nước, còn nhiều
lúng túng trong công tác tổ chức đặc biệt là công tác xây dựng kế hoạch, xây
dựng các chương trình, dự án… Một số chi cục đến nay chưa thực hiện đầy
đủ các nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước với các chương trình dự án do
ngành quản lý.
- Trình độ đội ngũ làm công tác hợp tác xã và phát triển nông thôn từ
trung ương đến địa phương còn hạn chế. Đặc biệt đội ngũ cán bộ tại các chi
cục mới được thành lập và kiện toàn, chưa nắm vững được hết các nội dung
quản lý của ngành nên còn nhiều lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch
hàng năm và công tác chỉ đạo, điều hành.
- Nguồn vốn quản lý các chương trình, dự án, đề án còn hạn chế gây
nhiều khó khăn cho công tác chỉ đạo quản lý của toàn ngành tại trung ương và
địa phương. Vốn đầu tư bố trí cho hầu hết các nhiệm vụ còn thấp, đặc biệt là
vốn đầu tư phát triển. Nhiều địa phương còn sử dụng nguồn vốn chưa đúng
với mục đích, đối tượng của chương trình mục tiêu.
- Trao đổi thông tin, tình hình, nắm bắt thực tế giữa Cục và các chi cục
còn hạn chế. Chế độ thông tin, báo cáo định kỳ theo quy định của chính phủ
chưa được các ngành và địa phương thực hiện đầy đủ.
- Cục và địa phương phải đảm đương nhiều công việc đột xuất do Bộ giao
chiếm một khối lượng thời gian không nhỏ nên ít nhiều gây ảnh ưởng đến kế
hoạch chỉ đạo điều hành và thực hiện các việc thường xuyên theo kế hoạch.
Trong những năm qua, công tác kế hoạch của Cục đã có những bước cố
gắng, từng bước đáp ứng được yêu cầu chung, thể hiện ở các mặt sau:
- Công tác kế hoạch chung của ngành đã đảm bảo được việc hoạch định
những nội dung hoạt động của toàn hệ thống trong từng năm kế hoạch, được Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn và các ngành tạo điều kiện và ghi vào kế
hoạch chung của Bộ, thông báo cụ thể tới từng địa phương để thực hiện.
- Kế hoạch của từng địa phương đã góp phần quan trọng đối với việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương, góp phần khẳng định
vai trò của các chi cục ở địa phương.
- Thông qua các hoạt động chỉ đạo thực hiện kế hoạch, nhiều vấn đề
thực tiễn đặt ra đã được tổng hợp, nghiên cứu góp phần đổi mới và hoàn thiện
các chính sách có liên quan.
- Kế hoạch đã tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng, bức xúc ở
các địa phương (như di dân vùng ảnh hưởng của thiên tai, ổn định dân di cư
tự do, đưa dân đang sống trong khu vực rừng cấm ra định cư tại các dự án
hoặc vùng quy hoạch…)
- Cung cấp kịp thời những tư liệu, số liệu cơ bản, đáp ứng nhu cầu quản
lý và chỉ đạo chung.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng qua theo dõi tình hình triển khai
việc thực hiện nhiệm vụ thời gian qua, nhất là sau khi làm việc trực tiếp với
các đơn vị về việc chuẩn bị triển khai kế hoạch năm, cho thấy địa phương còn
nhiều lúng túng và hạn chế về nghiệp vụ kế hoạch, cụ thể:
- Kế hoạch chưa phản ánh đầy đủ các nhiệm vụ của cục kinh tế hợp tác
và phát triển nông thôn theo quyết định số 96/2003/QĐ-BNN của Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Một số chỉ tiêu kế hoạch chưa đảm bảo căn cứ khoa học và thực tiễn,
chưa xác định được nhiệm vụ trọng tâm. Sự gắn kết giữa các nội dung còn
chưa thể hiện rõ nhằm xây dựng được một bức tranh tổng thể về ngành. Mối
liên hệ giữa kế hoạch phát triển với nguồn lực, nguồn ngân sách chưa logic,
thuyết phục.
- Thực hiện chế độ báo cáo, trao đổi thông tin, cơ sở dữ liệu giữa Cục
và các chi cục còn nhiều hạn chế. Báo cáo còn chậm, sơ sài, nhiều khi không
đủ số liệu. Những hạn chế này ảnh hưởng đến chất lượng, thời gian báo cáo
của Cục, công tác kế hoạch năm của cục cũng thường chậm và kéo dài. Vì
vậy cục rất khó tổng hợp, xây dựng kế hoạch từ cơ sở theo yêu cầu của Bộ và
cơ quan thường trực các chương trình.
- Việc kiểm tra, giám sát thực hiện kế hoạch của Cục đối với các địa
phương chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.
CHƯƠNG III
CỦA CỤC
Đổi mới tư duy về kế hoạch là nội dung quan trọng nhất trong quy trình
đổi mới công tác kế hoạch. Nó một mặt thích ứng được với những đổi mới
chung của cơ chế kinh tế, thể chế kinh tế trong cả nước cũng như đổi mới của
riêng ngành kế hoạch. Mặt khác, nó thể hiện khả năng tiên phong, năng lực tự
chủ trong quản lý ngành. Hiện nay, đổi mới tư duy trong lập kế hoạch phải
dựa trên quan điểm chuyển từ kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh dựa trên cơ
chế xin-cho sang kế hoạch hóa chủ động hướng tới tương lai của các ngành,
địa phương, bảo đảm khả năng cạnh tranh của ngành, địa phương trong nền
kinh tế thị trường hội nhập quốc tế. Trong kế hoạch cần hướng tới mô hình
lập kế hoạch mang tính chiến lược nhằm hướng hoạt động của ngành trong
ngắn hạn, trung hạn theo bức tranh tổng thể trong tương lại. Bản kế hoạch cần
thể hiện rõ nét những nội dung ưu tiên trong từng giai đoạn, xem như là
những đột phá cho sự phát triển ngành và làm cơ sở xác định và tổ chức, bảo
đảm nguồn lực thực hiện.
Trước kia, trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, kế hoạch hóa thể hiện
ở sự không chế trực tiếp của Chính phủ đối với những hoạt động kinh tế xã
hội thông qua quá trình đưa ra những quyết định pháp lệnh phát ra từ Trung
ương. Các chỉ tiêu kế hoạch được xác định bởi các nhà kế hoạch trung ương
tạo nên một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ; nguồn nhân lực,
vật tư và tài chính không được phân phối theo giá thị trường và điều kiện
cung cầu mà phân phối theo các nhu cầu của kế hoạch tổng thể, theo những
quyết định hành chính của các cấp lãnh đạo.
Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch hóa là thể hiện sự nỗ lực có ý
thức của cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện sự can thiệp vào nền kinh
tế, trên cơ sở chủ động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm
đạt được mục tiêu sử dụng hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. Kế hoạch
hóa trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở các phương án lựa chọn, sắp
xếp, khai thác và huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phép để đạt
được kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch hóa thị trường là
định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu thông qua chính sách và công
cụ định hướng.
So sánh bản chất của kế hoạch trong cơ kế tập trung và cơ chế thị trường
Đổi mới về hệ thống chỉ tiêu: hệ thống chỉ tiêu kế hoạch được phân
thành:
- Các chỉ tiêu kinh tế: tốc độ tăng trưởng, GDP bình quân…
- Các chỉ tiêu xã hội: chất lượng cuộc sống, môi trường tự nhiên, công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo…
- Các chỉ tiêu lồng ghép: đặt các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế
sao cho 2 chỉ tiêu kinh tế xã hội đều phản ánh trong một mục tiêu, ràng buộc
lẫn nhau.
Trước kia, chúng ta thường đặt các chỉ tiêu mang tính chất kinh tế, định
lượng.. nhằm tập trung chủ yếu vào tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Khi nền
kinh tế phát triển đến mức độ nhất định, cần chú trọng hơn vào các mục tiêu
xã hội và xây dựng các chỉ tiêu mang tính lồng ghép. Đảm bảo sự ràng buộc
lẫn nhau giữa các nội dung kinh tế và xã hội có liên quan.
Đứng trên góc độ quản lý, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch lại được chi
thành:
- Chỉ tiêu pháp lệnh: mang tính bắt buộc thực hiện, kèm theo thể chế,
trách nhiệm cụ thể.
- Chỉ tiêu hướng dẫn: mang tính định hướng, thuyết phục, thương
lượng, thảo luận nhằm hướng nền kinh tế theo một mục tiêu nào đó và tạo
điều kiện chủ động, khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
cho phát triển.
- Chỉ tiêu dự báo: do cơ quan kế hoạch xây dựng nhằm dự báo một số
chỉ tiêu vĩ mô cơ bản mang tính dài và trung hạn, xây dựng các chỉ tiêu dự
báo giúp tạo ra nền tảng, cơ sở cho việc lập kế hoạch trong ngắn hạn.
Trong cơ chế kế hoạch mới, cần tập trung vào xây dựng hệ thống chỉ
tiêu mang tính hướng dẫn và dự báo, từng bước loại bỏ các chỉ tiêu pháp lệnh.
Điều đó đảm bảo cho kế hoạch thực hiện đúng chức năng điều tiết của mình.
Tóm lại, tư duy kế hoạch hóa trong cơ chế thị trường cần đảm bảo các
yêu cầu:
- Về bản chất, kế hoạch là sự thiết lập các mối quan hệ để hướng tới
tương lai, xác định các mục tiêu và tìm kiếm các giải pháp chính. Kế hoạch
của cấp dưới là do chính địa phương tự quyết định trên cơ sở không phá vỡ
khung định hướng chung của cấp trên.
- Về căn cứ, kế hoạch trong cơ chế thị trường cần đánh giá được tiềm
năng, nguồn lực và thực trạng phát triển của đơn vị, dự báo các yếu tố môi
trường bên trong, bên ngoài, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức để
hướng đến mục tiêu.
- Nội dung chính của bản kế hoạch là xác định tầm nhìn, hướng đi, đề
cao tính tự quyết định mang tính hệ thống, có sự ưu tiên các mục tiêu. Bản kế
hoạch cần quan tâm nhiều hơn đến tác động của các chỉ tiêu kế hoạch đến môi
trường.
- Về nguồn lực của kế hoạch, cần hướng tới khuyến khích việc chủ
động tìm kiếm nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế, bên trong và bên ngoài
địa phương, đơn vị.
- Sử dụng sự tham gia của nhiều bên trong quá trình lập kế hoạch, đặc
biệt là sự tham gia của cộng đồng dân cư
Phương pháp lập kế hoạch truyền thống hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên
cơ chế kiểm soát đầu vào hoặc quy trình. Có nghĩa là khi xây dựng một kế
hoạch hoặc ban hành một chính sách, các cơ quan quản lý thiên về kiểm soát,
theo dõi xem việc thực hiện kế hoạch, chính sách của các đơn vị có phù hợp
với các quy định hiện hành hay không, khống chế các khoản chi tiêu cho các
chính sách đó theo khoản mục chi (chi bao nhiêu, chế độ và chính sách chi
tiêu…). Cách quản lý này khiến những người quản lý trở nên thụ động, không
sáng tạo, ít quan tâm đến kết quả đầu ra. Cụ thể, trong phương thức kế hoạch
này, vấn đề quan trọng không phải là khối lượng sản phẩm cung ứng cho xã
hội là bao nhiêu, hiệu quả của hoạt động như thế nào mà cốt là “sử dụng hết
các nguồn lực”. Chính vì vậy mà chất lượng các hàng hóa, dịch vụ công được
cung cấp không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Điều đó đặt ra một yêu
cầu phải chuyển từ quản lý theo đầu vào/qui trình sang một mô hình lập kế
hoạch mới đó là quản lý theo kết quả.
Ví dụ mô hình lập kế hoạch truyền thống dựa trên đầu vào/quy trình
cho một chương trình phát triển kinh tế xã hội: “nâng cao trình độ kỹ thuật
trong nông nghiệp cho các hộ nông dân ở tỉnh ABC”
- Ngân sách cho công tác chỉ đạo - Chia bình quân ngân sách cho mỗi
điều hành: 300 triệu/năm hộ: 10 triệu/hộ
- Ngân sách cho thực hiện chương - Tập huấn vào ngày 20 hàng tháng
trình, dự án: 10 tỷ/năm - Dự án từ tháng 1/2010 đến tháng
- Số hộ dân tham gia vào dự án: 1/2012 hoàn thành
1000 hộ
Với phương pháp lập kế hoạch truyền thống như trên, chúng ta chỉ để ý
đến phương thức sử dụng nguồn lực, đồng thời với đó là kiểm soát quy trình
thực hiện xem có đúng với kế hoạch đã được vạch ra hay không. Trong khi
đó, kết quả của kế hoạch suy cho cùng chỉ là % hoàn thành kế hoạch. Không
rõ là kết quả đó đã phù hợp với mong muốn của xã hội hay chưa, kết quả có
xứng đáng với những nguồn lực đã bỏ ra không.
Đổi lại, với phương pháp lập kế hoạch dựa trên mục tiêu thì bản kế
hoạch có thể thay đổi như sau:
hộ chuyển giao tăng 10% - Tổ chức tập huấn linh hoạt, tùy
cảm thấy dự án có hiệu quả biết phù hợp nhất, có điều tra
sau khi thực hiện dự án…
Như vậy, có thể thấy, phương pháp lập kế hoạch dựa trên mục tiêu đã
có sự thay đổi rõ rệt ở nội dung của kế hoạch. Theo đó, kế hoạch không nhất
thiết phải theo một khuôn khổ, trình tự nhất định mà có thể được sáng tạo,
thay đổi. Điều quan trọng nhất của kế hoạch đó là đạt được mục tiêu đề ra.
Với kế hoạch dựa trên kết quả như vậy, chúng ta có thể đảm bảo rằng, kế
hoạch đặt ra sẽ đáp ứng được tốt nhất với mong muốn của người dân và đạt
được hiệu lực và hiệu quả cao nhất. Để hoàn thành kế hoạch này, đòi hỏi
người thực hiện kế hoạch phải năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm để đưa
ra những phương án hành động tốt nhất.
Tóm lại, cách lập kế hoạch và quản lý theo kết quả nhằm hướng hoạt
động của khu vực công trở nên gần với cách thức của khu vực tư nhân. Lúc
này, các nhà hoạch định chính sách sẽ không quá chú trọng đến việc đề ra
những quy định chi tiets, chặt chẽ về đầu vào (như kinh phí, nguồn lực..) hay
quy trình (cách thức triển khai) mà phải quan tâm đến kết quả đạt được sau kế
hoạch, chính sách được thực hiện. Biểu hiện cụ thể của phương thức quản lý
này là tính hiệu quả và hiệu lực đối với vấn đề ban hành và thực thi chính
sách, vấn đề thiết lập và thực thi hệ thống luật pháp, cung cấp các dịch vụ
công cần thiêt cho xã hội bằng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước. Bằng
cách đó, sẽ tăng tính linh hoạt, quyền tự chủ trong việc thực hiện kế hoạch,
tăng tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức coong. Mặt khác hướng hoạt động
kiểm tra, giám sát vào việc xem kế hoạch có đạt được mục tiêu đề ra hay
không và có cách nào để đạt mục tiêu những ít tốn kém hơn hay không.
Trong phương thức lập kế hoạch theo kết quả, vấn đề quan trọng nhất
chính là đánh giá được mức độ thực hiện các kế hoạch, chính sách và đưa kết
quả đó thành cơ sở để phân bổ ngân sách. Để có cơ sở cho việc phân tích,
đánh giá, người ta xây dựng mô hình logic về chuỗi kết quả của kế hoạch đó.
Chuỗi kết quả là sự hợp thành của các kết quả đạt được trong một khung thời
gian cụ thể và gắn kết với nhau theo một mối quan hệ logic nhân-quả.
Quản lý theo đầu vào/qui trình Quản lý theo kết quả: 3 cấp kết quả
Trong đó:
- Đầu vào là những nguồn lực: tiền, nhân lực, vật lực mà đơn vị sử
dụng để thực hiện các hoạt động và tự đó tạo ra kết quả. Ví dụ: vốn, kinh phí,
nhân lực cho một dự án xây dựng trang trại ở một xã... là đầu vào của dự án
đó. Quản lý theo đầu vào sẽ kiểm soát xem việc mua sắm các yếu tố đầu vào
có đúng chế độ của nhà nước về chủng loại, chất lượng, số lượng.. hay không.
- Các hoạt động: là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra các
sản phẩm cuối cùng ở đầu ra. Hoạt động theo ví dụ trên là toàn bộ quá trình
sử dụng các yếu tố đầu vào để xây dựng trang trại. Quản lý theo quy trình sẽ
chú trọng đến các vấn đề như tiến độ xây dựng, đảm bảo các quy định về xây
dựng, giám sát, an toàn lao động…
- Đầu ra: là sản phẩm cụ thể của cơ quan, đơn vị tạo ra và cung cấp cho
xã hội trong quá trình thực hiện kế hoạch. Đầu ra chính là phương tiện để kế
hoạch đạt được mục tiêu đề ra. Trong ví dụ trên, trang trại sau khi được xây
dựng xong chính là đầu ra. Quản lý theo đầu ra là việc đảm bảo rằng trang trại
được xây dựng đúng thời gian, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng.
- Kết quả: là tác động, ảnh hưởng tới cộng động (chủ ý hoặc không chủ
ý) từ quá trình tạo ra đầu ra. Kết quả kế hoạch là cố gắng đạt được các mục
tiêu thông qua đầu ra. Ví dụ như trên, đầu ra là trang trại sẽ đem đến kết quả
là phát triển nông nghiệp của xã theo hướng hiện đại, quy mô, tăng năng suất
lao động nông nghiệp.. Quản lý kết quả là việc đảm bảo mục tiêu của kế
hoạch có đạt được hay không nếu như chúng ta có đầu ra. Hiện nay, việc đánh
giá kết quả của một chính sách, công trình, dự án sau khi được thực hiện còn
chưa được quan tâm đúng mức, dẫn tới việc khi báo cáo thì vẫn là hoàn thành
kế hoạch, nhưng thực tế thì chương trình, dự án đó có thực sự đem lại hiệu
quả không thì lại không được nhắc đến.
- Tác động: là những kết quả mang tính dài hạn đạt được nhờ việc đạt
được những kết quả ở mục trên. Theo như ví dụ trên, kết quả của việc phát
triển nông nghiệp theo hướng quy mô, hiện đại, tăng năng suất lao động sẽ là
giảm số hộ nghèo, tăng an sinh xã hội…
Như vậy, công tác lập kế hoạch theo kết quả là việc chuyển từ chú
trọng đến đầu vào hoặc hoạt động được triển khai để chuyển sang nghiên cứu
các cấp kết quả (đầu ra, kết quả, tác động) của kế hoạch. Từ đó tạo ra được sự
cởi mở, linh hoạt trong việc thực hiện kế hoạch. Đồng thời, các cơ quan theo
dõi, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch sẽ quan tâm hơn đến việc kế hoạch
có đạt được mong muốn hay không – điều mà phương thức quản lý theo đầu
vào thường không chú trọng.
Công tác kế hoạch là công tác chủ quan, duy ý chí của con người nhằm
đạt được các mục tiêu mà kế hoạch đặt ra. Chính vì vậy, năng lực của người
làm công tác kế hoạch có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng và khả năng
thực hiện kế hoạch. Để công tác kế hoạch đạt kết quả cao, cần nâng cao năng
lực của cán bộ làm công tác kế hoạch theo hướng:
- Cử cán bộ làm công tác kế hoạch đi học tập về lập kế hoạch theo
phương pháp mới, hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của công việc.
- Đề cao, phát huy tinh thần sáng tạo, trách nhiệm của cán bộ kế hoạch.
- Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về công tác kế hoạch, trao đổi
kinh nghiệm với các đơn vị khác.
- Xây dựng những bộ tài liệu, các nguyên tắc, quy tắc của quá trình
lập kế hoạch thành văn bản để có thể dễ dàng truyền đạt, phổ biến
cho các đơn vị cơ sở. Tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công tác kế
hoạch từ cấp Cục cho tới các chi cục.
- Thường xuyên tổng hợp các vấn đề thực tiễn trong quá trình lập và
thực hiện kế hoạch. Từ đó rút ra kinh nghiệm, đối chiếu với khung
lý thuyết để hoàn thiện cơ sở khoa học cho công tác lập kế hoạch.
Ngoài ra, để công tác lập kế hoạch đạt chất lượng, chúng ta nên ngày
càng mở rộng sự tham gia của các đối tượng khác vào quá trình lập kế hoạch.
Sao cho mỗi người dân, những người nhận ảnh hưởng của chính sách có khả
năng đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định và ra quyết định. Muốn vậy,
phải thay đổi tư duy của cán bộ kế hoạch, không coi kế hoạch là mệnh lệnh
từ trên xuống mà kế hoạch phải xuất phát từ tâm tư nguyện vọng, mong
muốn của cấp dưới, từ tình hình thực tế mà quyết định.
Một trong những điểm còn tồn tại của công tác quản lý hiện nay là hệ
thống thông tin và kiểm tra giữa Cục và các Chi cục địa phương còn chưa
được hoàn thiện. Do đó, thông tin, số liệu trao đổi giữa các Chi cục địa
phương về Cục còn chưa được kịp thời và đầy đủ. Nhiều khi, các chi cục gửi
thông tin về rất chậm, thiếu thậm chí không có những thông tin cần thiết để
Cục có thể tổng hợp và báo cáo tình hình thực tiễn. Điều này dẫn tới kế hoạch
của Cục đưa ra có thể không phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương,
điều này dẫn tới việc có thể kế hoạch phải điều chỉnh qua lại nhiều lần, tốn
thời gian và công sức cho các cán bộ là công tác kế hoạch và làm chậm kế
hoạch chung. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống thông tin giữa Cục và
các chi cục là một vấn đề hết sức cần thiết. Một số công tác cần được đẩy
mạnh bao gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện website của Cục, nhằm đưa thông tin về kế
hoạch, chính sách, chương trình, dự án đến một cách nhanh chóng
với các Chi cục.
- Đăng tải thông tin về các văn bản, chính sách mà Cục ban hành lên
mạng, giúp cho người dân, những người chịu ảnh hưởng của chính
sách có thể dễ dàng tiếp cận.
- Tăng cường trang bị hệ thống thông tin: máy tính, mạng internet cho
các Chi cục địa phương. Tổ chức tập huấn công tác sử dụng công
nghệ thông tin trong việc thực thi các công tác của ngành.
Ngoài ra, để việc lập kế hoạch được dễ dàng và có cơ sở, cần thực hiện
theo các cuộc kiểm tra về số liệu, thẩm định thông tin cung cấp từ địa
phương. Cần có kế hoạch thanh tra, kiểm tra những thông tin này thường
xuyên hoặc bất thường, tăng cường độ tin cậy của hệ thống thông tin, từ đó
giúp cho công tác lập kế hoạch của Cục được hoàn thiện.
Nghiên cứu và dự báo là một trong những cơ sở để tạo ra được một bản
kế hoạch tốt. Với sự thay đổi liên tục của môi trường xung quanh như hiện
nay, nghiên cứu và dự báo đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho kế
hoạch đặt ra có thể ứng phó tốt với những sự biến động của môi trường xung
quanh. Đối với ngành KTHT & PTNN, công tác nghiên cứu dự báo cần tập
trung vào các yếu tố như:
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia trong dài hạn và
ngắn hạn.
- Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến lĩnh
vực kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn.
- Sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhu cầu phát triển hợp tác xã
và nông thôn mới. Sự tiến bộ trong công tác giống cây trồng, vật nuôi, tín dụng.
- Các dự án phát triển kinh tế, xã hội của quốc tế và tư nhân trong lĩnh
vực kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn.
- Sự biến đổi khí hậu và xu hướng ngày càng khắc nghiệt của thiên tai
dẫn đến ảnh hưởng đến bố trí dân cư, di cư..
Vì nguồn lực và chuyên môn của Cục không thể bao quát được hết các
lĩnh vực trên, do đó, Cục cần tổ chức phối hợp với các cơ quan có liên quan
trong lĩnh vực nghiên cứu và dự báo. Cần có chính sách trao đổi thông tin, tài
liệu một cách khoa học và kịp thời với những đơn vị có liên quan nhằm mục
tiêu đảm bảo cho công tác lập kế hoạch của Cục được hoàn chỉnh.
KẾT LUẬN
Qua những nghiên cứu đã trình bày ở trên và quãng thời gian thực tập
tại Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn. Em đã được tìm hiểu và nắm
được một số những hiểu biết cơ bản về quá trình lập kế hoạch cũng như
phương pháp, công cụ của công tác lập kế hoạch tại một cơ quan nhà nước.
Có thể nhận thấy rằng: công tác lập kế hoạch tại Cục kinh tế hợp tác và phát
triển nông thôn được tiến hành một cách rất bài bản, khoa học, có cơ sở pháp
lý và thực tiễn. Cục cũng đã sử dụng quy trình lập kế hoạch một cách khoa
học, hợp lý, sử dụng những phương pháp và công cụ của công tác lập kế
hoạch rất chính xác. Hơn nữa, công tác lập kế hoạch của Cục luôn được sự
quan tâm của các cấp lãnh đạo, từ đó tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch được
thực hiện một cách thuận lợi nhất. Cùng với đó, công tác lập kế hoạch của
Cục thường xuyên được nghiên cứu, tổng hợp kinh nghiệm và các vấn đề
thực tiễn. Từ đó, chúng ta có thể thấy được những điểm mạnh và yếu của
công tác lập kế hoạch của Cục. Thông qua các tổng hợp này, em đã có nghiên
cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác lập kế
hoạch của Cục theo hướng hiện đại và phù hợp với tư duy của công tác lập kế
hoạch theo cơ chế thị trường.
Em xin chân thành cảm ơn PGS TS Đoàn Thị Thu Hà đã hướng dẫn và
đóng góp ý kiến cho em thực hiện chuyên đề. Em xin cảm ơn các cô chú, anh
chị tại Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn – Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và viết chuyên
đề. Vì kiến thức còn hạn chế và kinh nghiệm thực tế còn chưa đầy đủ, em
chắc chắn rằng chuyên đề của mình sẽ còn những thiếu sót nhất định. Em hy
vọng được cô giáo và mọi người đóng góp ý kiến để chuyên đề của em được
hoàn thiện hơn.
1. Khoa Khoa học quản lý, trường ĐH KTQD, – Giáo trình Khoa học Quản lý
I,II – PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền - NXB
Khoa học và kỹ thuật 2007,Hà Nội.
2. Khoa Khoa học quản lý, trường ĐH KTQD – Giáo trình Chính sách Kinh
tế Xã hội – PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền -
NXB Khoa học và kỹ thuật 2007,Hà Nội.
3. Bộ môn Quản lý kinh tế, trường ĐH KTQD – Giáo trình Quản lý nhà nước
về kinh tế – GS.TS Đỗ Hoàng Toàn, PGS TS Mai Văn Bưu - NXB ĐH
KTQD 2007,Hà Nội.
4. Khoa Toán kinh tế, ĐH KTQD – Giáo trình Kinh tế lượng – Nguyễn
Quang Dong – NXB Thống Kê – 2007, Hà Nội.
5. ĐH KTQD - Giáo trình Phương pháp định lượng trong quản lý, Nguyên
Thống, Cao Hào Thi – NXB Thống kê – 1998, Hà Nội.
6. Sổ tay hướng dẫn lập kế hoạch phát triển ngành/tiểu ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2009.
7. Kế hoạch năm 2010, Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn.