Professional Documents
Culture Documents
Môn Toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng có vị trí và tầm quan
trọng rất lớn. Nó góp phần trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh . Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu
về số học, các số tự nhiên, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn có ứng
dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Đồng thời,
nó còn giúp học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá,
khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học Toán. Môn Toán
góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông
minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo; nó góp phần hình thành phẩm
chất cần cù, cẩn thận , có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch có nề nếp
và tác phong khoa học.
Đối với học sinh lớp 3, việc giải toán có lời văn có một vị trí rất quan
trọng. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất
cả các kiến thức về Số học, về Đo lường, về các yếu tố Đại số, về các yếu tố
hình học đã được học trong môn Toán ở Tiểu học. Hơn nữa, phần lớn các biểu
tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất toán học đều đựơc tiếp thu qua con đường
giải toán.
Giải toán có lời văn lớp 3 không những giúp học sinh luyện giải các dạng
toán có lời văn đã học ở lớp 1, 2 mà các em còn được làm quen với nhiều dạng
toán mới: bài toán tìm một trong những phần bằng nhau của một số, gấp một số lên
nhiều lần, bài toán có liên quan đến rút về đơn vị…. Việc học tốt toán có lời văn ở
lớp 3 sẽ tạo nền móng vững chắc cho học sinh học tốt toán các lớp trên.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua thực tế giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy việc giải các bài toán có
lời văn (nhất là các bài toán kết hợp) không hề đơn giản. Kĩ năng giải toán có lời
văn của học sinh còn nhiều hạn chế. Nhiều em không nhớ và phân biệt được
dạng toán, không nhớ cách giải dạng bài toán đó. Có trường hợp, học sinh
không hiểu được bản chất của vấn đề trong bài toán đưa ra,. Các em chưa biết
tìm sự liên quan của yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. Khi giải toán có lời văn, có
học sinh biết giải bài toán nhưng không biết tóm tắt bài toán, có trường hợp lời
giải không phù hợp với phép tính, hoặc lời giải và phép tính đúng nhưng lại
không xác định được tên đơn vị….
2/14
Trước thực trạng đó, tôi vô cùng băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để tìm
cách giúp học sinh giải tốt các bài toán có lời văn. Chính vì vậy, trong năm học
này, tôi quyết định đi sâu nghiên cứu để tìm ra đề tài :
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn
III. MỤC ĐÍCH VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Là một giáo viên tôi luôn ý thức rằng vai trò của người thầy là vô cùng
quan trọng. Một người giáo viên tâm huyết với nghề phải tìm ra cách dạy học tốt
nhất để nâng cao chất lượng giáo dục. Hơn thế nữa, môn Toán là môn học có
tầm quan trọng đối với học sinh, đặc biệt là các bài toán có lời văn. Vì vậy, tôi
nghiên cứu vấn đề này với mục đích giúp các em:
- Rèn kĩ năng giải toán thành thạo.
- Nắm chắc các dạng toán điển hình và phương pháp giải toán của từng
dạng bài.
- Mở rộng vốn kiến thức về giải toán.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Qua thực tế giảng dạy lớp 3, tôi đã nắm được những khó khăn khi dạy các
bài toán có lời văn và cũng đã học tập, tìm tòi cách khắc phục và thấy có hiệu
quả. Trong năm học này, tôi mạnh dạn áp dụng các biện pháp đã nghiên cứu đối
với học sinh lớp 3D do tôi chủ nhiệm trong năm học 2020 – 2021.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để nghiên cứu vấn đề này, tôi đã áp dụng phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp quan sát.
2. Phương pháp điều tra.
3. Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học
sinh lớp 3.
4. Phương pháp thực hành luyện tập.
5. Phương pháp thực nghiệm.
Ngoài ra, tôi còn tích cực dự giờ để học hỏi áp dụng kinh nghiệm của
đồng nghiệp.
VI . THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Đề tài này được áp dụng với học sinh lớp 3D - Năm học 2020- 2021
3/14
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh giải toán chưa tốt là:
- Chưa đọc kĩ đề.
- Kĩ năng phân tích để tìm hướng giải còn hạn chế.
- Chưa chú ý vào những dữ kiện mà đầu bài cho.
- Chưa biết cách trả lời bài toán.
- Tính toán còn nhầm lẫn.
- Chưa biết tự kiểm tra lại kết quả.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Sau khi tìm hiểu thực tế và cùng với những kinh nghiệm giảng dạy của
bản thân tôi nhận thấy.
+ Để học sinh lớp 3 giải toán có hiệu quả cao, các em cần nắm chắc
phương pháp giải của từng dạng toán điển hình.
+ Khi giải một bài toán phải tuân thủ theo các bước:
Bước 1: Đọc kĩ bài đề phân tích các yếu tố của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng cách dễ hiểu nhất.
Bước 3: Phân tích bài toán để dựa vào đó tìm hướng giải.
Bước 4: Dựa vào sơ đồ phân tích hướng giải để giải bài toán
Bước 5: Trình bày bài giải.
Bước 6: Kiểm tra kết quả
Bước 7: Khai thác - mở rộng bài toán.
Sau đây là một số biện pháp tôi thực hiện rèn kĩ năng giải toán cho học
sinh lớp 3.
4/14
1. Kĩ năng đọc đề và phân tích các yếu tố của đề bài:
- Để hình thành thói quen đọc kĩ đề bài trước khi làm toán tôi yêu cầu học
sinh thực hiện các công việc sau:
+ Đọc đề thật chậm nhiều lần.
+ Xác định bài toán cho biết gì ? Hỏi gì ?
+ Gạch chân dưới các yếu tố quan trọng của đề toán.
+ Tự đặt câu hỏi tìm mối quan hệ giữa các yếu tố có trong bài, giải thích
mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 163 - Toán 3 - Tiết Chia số có năm chữ số cho số có một
chữ số)
1
Đề bài: Một kho hàng có 36550kg xi măng, đã bán 5 số xi măng đó.
Hỏi cửa hàng
* Học sinh đọc kỹ đề, xác định:
- Bài toán cho biết: Có 36550 kg xi măng
1
Đã bán 5 số xi măng
- Bài toán hỏi: Còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?
* Học sinh đã xác định được các yếu tố cho biết và yếu tố cần tìm của
bài toán thì dùng thước kẻ, bút chì gạch chân dưới các yếu tố đó.
* Giải thích:
1
+ Đã bán 5 số kg xi măng nghĩa là số kg xi măng được chia thành 5 phần
bằng nhau và số kg xi măng bán đi chiếm 1 phần trong số 5 phần đó.
Số thóc nếp + Số thóc tẻ -= 27280 kg
(hoặc tổng số thóc nếp và tẻ là 27280 kg)
+ Số thóc nếp bằng 1/4 số thóc trong kho có nghĩa là:
Số thóc trong kho chia làm 4 phần bằng nhau thì số thóc nếp chiếm 1 phần
trong số 4 phần đó.
+ Tìm mỗi loại có bao nhiêu kg thóc chính là đi tìm có bao nhiêu kg thóc
nếp, bao nhiêu kg thóc tẻ.
* Đối với bài toán này nếu các em không đọc kĩ mà đọc lướt sẽ mắc sai
lầm như sau:
- Trả lời sai: Mỗi loại thóc trong kho có là:
- Giải sai (giải bằng một phép tính)
Mỗi loại thóc trong kho có là:
27280 : 4 = 6820 (kg)
Đáp số: 6820 kg gạo
2. Chọn cách tóm tắt bằng cách dễ hiểu nhất:
5/14
Sau khi đọc kĩ đề toán các em cần phải biết sử dụng hình vẽ, ngôn ngữ, sơ
đồ, kí hiệu hoặc từ ngữ ngắn gọn nhất để tóm tắt đề bài. Việc tóm tắt đề đã diển
tả trực quan các yếu tố của bài toán, lược bỏ những cái không thuộc bản chất của
đề mà chỉ tập trung vào những yếu tố bản chất của đề toán. Nhờ đó các em nhìn
bao quát được toàn bộ bài toán, tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho và
yếu tố phải tìm, từ đó xác lập hướng suy nghĩ và đi đến cách giải.
Ở chương trình Toán 3 các em được học các dạng toán điển hình: Gấp
một số lên nhiều lần, Giảm một số đi nhiều lần, Tìm một phần mấy của một số,
Bài toán hợp giải bằng hai phép tính, Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Đối với những bài toán có nhiều cách tóm tắt khác nhau thì các em phải
biết lựa chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu nhất. Chính vì vậy trong quá trình giảng
dạy tôi đã phân ra các dạng toán để giúp các em lựa chọn cách tóm tắt bài toán
một cách nhanh nhất.
a) Đối với dạng bài: Tìm một phần mấy của một số, Gấp một số lên
nhiều lần, Giảm một số đi nhiều lần hoặc Bài toán tìm số nhiều hơn, ít hơn ta
nên chọn cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng và kết hợp dùng ký hiệu móc.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 50 - Toán 3 - Tiết: Bài toán giải bằng hai phép tính)
Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?
Tóm tắt:
Thùng thứ nhất 18 l
Thùng thứ hai 6l ?l
Lấy ?l
ra
- Khi tóm tắt bằng sơ đồ các em có thể nhanh chóng xác lập được hướng
giải và giải bằng nhiều cách khác nhau.
b) Đối với những bài toán hợp giải bằng hai phép tính hoặc các bài
toán liên quan đến rút về đơn vị, nên dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để
tóm tắt. Thực chất là ta viết tắt các ý chính của toàn bài và phối hợp với ký
hiệu dấu móc để tóm tắt.
6/14
Ví dụ:
Bài 2 (Trang 166 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập chung)
Đề bài: Nhà trường mua 105 hộp bánh, mỗi hộp có 4 cái bánh. Số bánh
này đem chia hết cho các bạn, mỗi bạn được 02 cái bánh. Hỏi có bao nhiêu bạn
được nhận bánh ?
Tóm tắt:
2 bánh : 1 bạn
1 hộp: 4 bánh ? bạn
105 hộp: ? bánh
Nhỡn vào phần túm tắt các em có thể nhận ra bài toán được chia ra làm 2
bài toán nhỏ và xác định ngay được cách giải.
Bài 2 (Trang 129 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập)
Đề bài: Muốn lát 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi muốn lát
7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch ?
Tóm tắt: 6 căn phòng : 2550 viên gạch
7 căn phòng : .... viên gạch?
- Nhìn vào phần tóm tắt, học sinh nhận ra ngay được dạng bài toán liên
quan đến rút về đơn vị.
c) Tóm tắt bằng Graph (lưu đồ) cũng là cách tóm tắt tiện lợi và có hiệu
quả giúp học sinh giải toán khá dễ.
Ví dụ: Bài 89 (trang 14 - Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Tìm một số biết rằng nếu bớt số đó đi 45 sau đó giảm đi 3 lần,
cuối cùng thêm 17 thì được 26.
Tóm tắt
Gọi số phải tìm là a ta có hình vẽ
-45 :3 +17
a 26
+45 x3 -17
- Học sinh hiểu: Đem số a trừ đi 45 được số ở hình tròn thứ 2. Lấy số ở
hình tròn thứ hai chia cho 3 được số ở hình tròn thứ 3. Lấy số ở hình tròn thứ ba
cộng với 17 thì được số 26.
- Dựa vào lưu đồ này học sinh có thể tìm cách giải toán bằng cách đưa
mũi tên ở dưới theo chiều ngược lại với mũi tên ở trên và điền phép tính ngược
lại với phép tính ở trên để tìm kết quả: (26 - 17) x 3 + 45 = 72. Vậy số a bằng 72
Số ngăn một tủ x số tủ
b) Tìm hướng giải cho bài toán ta cũng có thể phân tích từ các điều kiện
đã cho của bài toán, suy luận dần dần đến câu hỏi của bài toán. Đây là cách suy
luận theo đường lối tổng hợp.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 163 - Toán 3 - Tiết: Chia số có 5 chữ số cho số có 1 chữ số)
Đề bài: Một cửa hàng có 36550 kg xi măng, đã bán 1/5số xi măng đó. Hỏi
cửa hàng cònn lại bao nhiêu ki – lô - gam xi măng?
8/14
- Từ các điều kiện đã cho của bài toán, ta suy luận dần đến câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì ?
1
(Có 36550 kg xi năng, đã bán 5 số xi măng đó).
+ Trong các điều kiện đó cái gì đã cho sẵn, cái gì phải tìm ?
(Số xi măng của cửa hàng đó biết (36550 kg) số đã bán chưa biết)
+ Tìm số xi măng đã bán làm như thế nào ? (Lấy số xi măng có ban đầu :
số phần)
+ Biết số xi măng ban đầu, và số đã bán, tìm số xi măng còn lại làm như
thế nào ?
+ Bài toán thuộc dạng toán gì ? Liên quan dạng toán gì ?
c) Có những bài toán khó có thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng cả hai
phương pháp suy luận trên trong một bài toán để tìm hướng giải.
Ví dụ:
Bài 147 (Sách: Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Có hai tấm vải dài 100m. Tấm vải thứ hai dài bằng ¼ tấm vải thứ
nhất. Nếu tấm vải thứ hai bán đi 9m thì tấm vải thứ nhất phải bán đi bao nhiêu
mét để số vải còn lại ở tấm thứ nhất gấp 6 lần số vải còn lại ở tấm thứ hai ?
Hướng dẫn: - Theo bài ra ta có thể tính ngay được:
+ Độ dài tấm vải thứ nhất
+ Độ dài tấm vải thứ hai
- Từ câu hỏi của đề bài suy ngược lên:
+ Để tính số mét vải cần bán của tấm thứ nhất sao cho phần còn lại
gấp 6 lần phần còn lại của tấm thứ hai cần tính:
Phần còn lại của tấm thứ hai: (20 - 9 = 11 )
Phần còn lại của tấm thứ nhất: (11 x 6 = 66 )
Số mét vải cần bán ở tấm thứ nhất: (80 - 66 = 14)
Từ hai phần suy luận trên, học sinh có thể tự giải.
Bài giải:
Độ dài tấm vải thứ hai là: 100: (4 + 1) = 20 (m)
Độ dài tấm vải thứ nhất là: 100 - 20 = 80 (m)
9/14
(hoặc 20 x 4 = 80 (m))
Phần còn lại của tấm thứ hai là: 20 - 9 = 11 (m)
Phần còn lại của tấm thứ nhất là: 11 x 6 = 66 (m)
Số mét vải tấm thứ nhất bán là: 80 - 66 = 14 (m)
Đáp số: 14 m vải
Đối với những bài toán khó nên vận dụng cả hai phương pháp suy luận trên
để giải. Trong chương trình Toán lớp 3 ít khi sử dụng mà chỉ vận dụng khi hướng
dẫn học sinh khá giỏi giải toán nâng cao. Thông thường các bài toán điển hình ở
lớp 3 chỉ giải bằng một hoặc hai phép tính nên ta có thể chỉ vận dụng một trong hai
phương pháp trên trong một bài toán.
4. Trình bày bài giải:
Việc trình bày bài giải toán ở lớp 3 cũng giống như ở lớp 2 học sinh đã
được học. Thông thường một bài toán được trình bày bài giải theo thứ tự
như sau:
+ Câu lời giải
+ Phép tính tương ứng (tên đơn vị được viết trong ngoặc đơn sau kết
quả)
+ Đáp số (tên đơn vị được viết bình thường không có ngoặc)
Đối với học sinh lớp 3, các em đã được học phép chia có dư. Vì vậy, có một
số bài toán có lời văn xuất hiện các từ như: “nhiều nhất”, “ít nhất”, “thừa”,
“dư” ….
V í dụ bài toán 3 trang 70 - SGK toán 3 : Có 31 mvải, may mỗi bộ quần áo
hết 3m. hỏi có thể may được nhiều nhất là mấy bộ quần áo và còn thừa mấy mét
vải?
Hoặc bài toán 2 trang 71 – SGK toán 3: Một lớp học có 33 học sinh, phòng
học của lớp đó chỉ có loại bàn 2 chỗ ngồi. Hỏi cần có ít nhất bao nhiêu bàn học
như thế ?
Đối với những bài toán kiểu như trên thì không thể trình bày theo cách thông
thường, tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải theo thứ tự như sau:
+ Phép tính (không có tên đơn vị)
+ Câu trả lời (dựa vào kết quả phép tính)
+ Đáp số
10/14
Chẳng hạn đối với bài toán 3 – trang 70, SGK toán 3
Bài giải
Ta có 31 : 3 = 10 (dư 1)
Vậy có thể may được nhiều nhất là 10 bộ quần áo và còn thừa 1 m vải.
Đáp số: 10 bộ quần áo, thừa 1m vải.
Mỗi khi gặp những bài toán có xuất hiện những từ ngữ “nhiều nhất”, “ít
nhất”, “dư” “thừa “ …. , tôi yêu cầu học sinh nhắc lại cách trình bày bài toán
để giúp các con nhớ lại và làm bài cho đúng.
Trong phần trình bày bài giải, tôi cũng lưu ý học sinh viết tên đơn vị của bài
toán cho đúng. Trên thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy có học sinh thực
hiện phép tính thì đúng nhưng lại lúng túng khi viết tên đơn vị sau kết quả
phép tính. Bởi các con quen dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu lời giải
một cách máy móc, chưa hiểu bản chất bài toán nên khi câu hỏi bài toán không
xuất hiện từ chỉ đơn vị thì học sinh bị nhầm lẫn, đặc biệt là những bài toán liên
quan đến tiền, những bài toán có liên quan đến đơn vị đo độ dài, …
Mua 5 cái com pa phải trả 10 000 đồng. Hỏi mua 3 cái com pa cùng loại phải trả
bao nhiêu tiền?