You are on page 1of 17

UBND HUYỆN HOÀI ĐỨC

TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN TRẠM TRÔI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3
GIẢI TỐT BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN”

Lĩnh vực/ Môn: Toán


Cấp học: Tiểu học
Tên Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Hằng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Trạm Trôi
Thị trấn Trạm Trôi – Hoài Đức
Chức vụ: Giáo viêna

NĂM HỌC 2020 - 2021


1/14
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ

Môn Toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng có vị trí và tầm quan
trọng rất lớn. Nó góp phần trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh . Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu
về số học, các số tự nhiên, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn có ứng
dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Đồng thời,
nó còn giúp học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá,
khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học Toán. Môn Toán
góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông
minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo; nó góp phần hình thành phẩm
chất cần cù, cẩn thận , có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch có nề nếp
và tác phong khoa học.
Đối với học sinh lớp 3, việc giải toán có lời văn có một vị trí rất quan
trọng. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất
cả các kiến thức về Số học, về Đo lường, về các yếu tố Đại số, về các yếu tố
hình học đã được học trong môn Toán ở Tiểu học. Hơn nữa, phần lớn các biểu
tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất toán học đều đựơc tiếp thu qua con đường
giải toán.
Giải toán có lời văn lớp 3 không những giúp học sinh luyện giải các dạng
toán có lời văn đã học ở lớp 1, 2 mà các em còn được làm quen với nhiều dạng
toán mới: bài toán tìm một trong những phần bằng nhau của một số, gấp một số lên
nhiều lần, bài toán có liên quan đến rút về đơn vị…. Việc học tốt toán có lời văn ở
lớp 3 sẽ tạo nền móng vững chắc cho học sinh học tốt toán các lớp trên.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua thực tế giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy việc giải các bài toán có
lời văn (nhất là các bài toán kết hợp) không hề đơn giản. Kĩ năng giải toán có lời
văn của học sinh còn nhiều hạn chế. Nhiều em không nhớ và phân biệt được
dạng toán, không nhớ cách giải dạng bài toán đó. Có trường hợp, học sinh
không hiểu được bản chất của vấn đề trong bài toán đưa ra,. Các em chưa biết
tìm sự liên quan của yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. Khi giải toán có lời văn, có
học sinh biết giải bài toán nhưng không biết tóm tắt bài toán, có trường hợp lời
giải không phù hợp với phép tính, hoặc lời giải và phép tính đúng nhưng lại
không xác định được tên đơn vị….
2/14
Trước thực trạng đó, tôi vô cùng băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để tìm
cách giúp học sinh giải tốt các bài toán có lời văn. Chính vì vậy, trong năm học
này, tôi quyết định đi sâu nghiên cứu để tìm ra đề tài :
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn
III. MỤC ĐÍCH VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Là một giáo viên tôi luôn ý thức rằng vai trò của người thầy là vô cùng
quan trọng. Một người giáo viên tâm huyết với nghề phải tìm ra cách dạy học tốt
nhất để nâng cao chất lượng giáo dục. Hơn thế nữa, môn Toán là môn học có
tầm quan trọng đối với học sinh, đặc biệt là các bài toán có lời văn. Vì vậy, tôi
nghiên cứu vấn đề này với mục đích giúp các em:
- Rèn kĩ năng giải toán thành thạo.
- Nắm chắc các dạng toán điển hình và phương pháp giải toán của từng
dạng bài.
- Mở rộng vốn kiến thức về giải toán.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Qua thực tế giảng dạy lớp 3, tôi đã nắm được những khó khăn khi dạy các
bài toán có lời văn và cũng đã học tập, tìm tòi cách khắc phục và thấy có hiệu
quả. Trong năm học này, tôi mạnh dạn áp dụng các biện pháp đã nghiên cứu đối
với học sinh lớp 3D do tôi chủ nhiệm trong năm học 2020 – 2021.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để nghiên cứu vấn đề này, tôi đã áp dụng phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp quan sát.
2. Phương pháp điều tra.
3. Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học
sinh lớp 3.
4. Phương pháp thực hành luyện tập.
5. Phương pháp thực nghiệm.
Ngoài ra, tôi còn tích cực dự giờ để học hỏi áp dụng kinh nghiệm của
đồng nghiệp.
VI . THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Đề tài này được áp dụng với học sinh lớp 3D - Năm học 2020- 2021
3/14
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. KHẢO SÁT THỰC TẾ:


1. Tình trạng khi chưa thực hiện:
Để nắm rõ kĩ năng giải toán của học sinh lớp mình, tôi đã tìm hiểu qua cô
giáo chủ nhiệm của các em ở những năm học trước và được biết khả năng giải
bài toán của các em cũng hạn chế. Để hiểu điều đó rõ hơn, vào đầu tuần học thứ
tư của năm học, tôi đã tiến hành cho học sinh làm bài kiểm tra toán, với nội
dung là những kiến thức các em đã được học ở lớp 2 (tương tự nội dung kiến
thức của tiết “Luyện tập chung” - trang 18, sách Toán 3). Kết quả thu được như
sau:
Giải toán
Đúng và tương Đúng nhưng Làm bài còn Không làm
đối nhanh chậm hơn nhầm lẫn (lời được bài
Tổng số HS
giải, tên đơn vị)
SL % SL % SL % SL %
50 17 34 15 30 14 28 4 8

2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh giải toán chưa tốt là:
- Chưa đọc kĩ đề.
- Kĩ năng phân tích để tìm hướng giải còn hạn chế.
- Chưa chú ý vào những dữ kiện mà đầu bài cho.
- Chưa biết cách trả lời bài toán.
- Tính toán còn nhầm lẫn.
- Chưa biết tự kiểm tra lại kết quả.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Sau khi tìm hiểu thực tế và cùng với những kinh nghiệm giảng dạy của
bản thân tôi nhận thấy.
+ Để học sinh lớp 3 giải toán có hiệu quả cao, các em cần nắm chắc
phương pháp giải của từng dạng toán điển hình.
+ Khi giải một bài toán phải tuân thủ theo các bước:
Bước 1: Đọc kĩ bài đề phân tích các yếu tố của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng cách dễ hiểu nhất.
Bước 3: Phân tích bài toán để dựa vào đó tìm hướng giải.
Bước 4: Dựa vào sơ đồ phân tích hướng giải để giải bài toán
Bước 5: Trình bày bài giải.
Bước 6: Kiểm tra kết quả
Bước 7: Khai thác - mở rộng bài toán.
Sau đây là một số biện pháp tôi thực hiện rèn kĩ năng giải toán cho học
sinh lớp 3.
4/14
1. Kĩ năng đọc đề và phân tích các yếu tố của đề bài:
- Để hình thành thói quen đọc kĩ đề bài trước khi làm toán tôi yêu cầu học
sinh thực hiện các công việc sau:
+ Đọc đề thật chậm nhiều lần.
+ Xác định bài toán cho biết gì ? Hỏi gì ?
+ Gạch chân dưới các yếu tố quan trọng của đề toán.
+ Tự đặt câu hỏi tìm mối quan hệ giữa các yếu tố có trong bài, giải thích
mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 163 - Toán 3 - Tiết Chia số có năm chữ số cho số có một
chữ số)
1
Đề bài: Một kho hàng có 36550kg xi măng, đã bán 5 số xi măng đó.
Hỏi cửa hàng
* Học sinh đọc kỹ đề, xác định:
- Bài toán cho biết: Có 36550 kg xi măng
1
Đã bán 5 số xi măng
- Bài toán hỏi: Còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?
* Học sinh đã xác định được các yếu tố cho biết và yếu tố cần tìm của
bài toán thì dùng thước kẻ, bút chì gạch chân dưới các yếu tố đó.
* Giải thích:
1
+ Đã bán 5 số kg xi măng nghĩa là số kg xi măng được chia thành 5 phần
bằng nhau và số kg xi măng bán đi chiếm 1 phần trong số 5 phần đó.
Số thóc nếp + Số thóc tẻ -= 27280 kg
(hoặc tổng số thóc nếp và tẻ là 27280 kg)
+ Số thóc nếp bằng 1/4 số thóc trong kho có nghĩa là:
Số thóc trong kho chia làm 4 phần bằng nhau thì số thóc nếp chiếm 1 phần
trong số 4 phần đó.
+ Tìm mỗi loại có bao nhiêu kg thóc chính là đi tìm có bao nhiêu kg thóc
nếp, bao nhiêu kg thóc tẻ.
* Đối với bài toán này nếu các em không đọc kĩ mà đọc lướt sẽ mắc sai
lầm như sau:
- Trả lời sai: Mỗi loại thóc trong kho có là:
- Giải sai (giải bằng một phép tính)
Mỗi loại thóc trong kho có là:
27280 : 4 = 6820 (kg)
Đáp số: 6820 kg gạo
2. Chọn cách tóm tắt bằng cách dễ hiểu nhất:
5/14
Sau khi đọc kĩ đề toán các em cần phải biết sử dụng hình vẽ, ngôn ngữ, sơ
đồ, kí hiệu hoặc từ ngữ ngắn gọn nhất để tóm tắt đề bài. Việc tóm tắt đề đã diển
tả trực quan các yếu tố của bài toán, lược bỏ những cái không thuộc bản chất của
đề mà chỉ tập trung vào những yếu tố bản chất của đề toán. Nhờ đó các em nhìn
bao quát được toàn bộ bài toán, tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho và
yếu tố phải tìm, từ đó xác lập hướng suy nghĩ và đi đến cách giải.
Ở chương trình Toán 3 các em được học các dạng toán điển hình: Gấp
một số lên nhiều lần, Giảm một số đi nhiều lần, Tìm một phần mấy của một số,
Bài toán hợp giải bằng hai phép tính, Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Đối với những bài toán có nhiều cách tóm tắt khác nhau thì các em phải
biết lựa chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu nhất. Chính vì vậy trong quá trình giảng
dạy tôi đã phân ra các dạng toán để giúp các em lựa chọn cách tóm tắt bài toán
một cách nhanh nhất.
a) Đối với dạng bài: Tìm một phần mấy của một số, Gấp một số lên
nhiều lần, Giảm một số đi nhiều lần hoặc Bài toán tìm số nhiều hơn, ít hơn ta
nên chọn cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng và kết hợp dùng ký hiệu móc.
Ví dụ:
 Bài 2 (trang 50 - Toán 3 - Tiết: Bài toán giải bằng hai phép tính)
Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?
Tóm tắt:
Thùng thứ nhất 18 l
Thùng thứ hai 6l ?l

 Bài 2 (trang 51 - Toán 3)


?l
1
Đề bài: Một thùng đựng 24 lít mật ong, lấy ra 3 số mật ong đó. Hỏi trong
thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong ?
Tóm tắt:
24 l

Lấy ?l
ra
- Khi tóm tắt bằng sơ đồ các em có thể nhanh chóng xác lập được hướng
giải và giải bằng nhiều cách khác nhau.
b) Đối với những bài toán hợp giải bằng hai phép tính hoặc các bài
toán liên quan đến rút về đơn vị, nên dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để
tóm tắt. Thực chất là ta viết tắt các ý chính của toàn bài và phối hợp với ký
hiệu dấu móc để tóm tắt.
6/14
Ví dụ:
 Bài 2 (Trang 166 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập chung)
Đề bài: Nhà trường mua 105 hộp bánh, mỗi hộp có 4 cái bánh. Số bánh
này đem chia hết cho các bạn, mỗi bạn được 02 cái bánh. Hỏi có bao nhiêu bạn
được nhận bánh ?
Tóm tắt:
2 bánh : 1 bạn
1 hộp: 4 bánh ? bạn
105 hộp: ? bánh
Nhỡn vào phần túm tắt các em có thể nhận ra bài toán được chia ra làm 2
bài toán nhỏ và xác định ngay được cách giải.
Bài 2 (Trang 129 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập)
Đề bài: Muốn lát 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi muốn lát
7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch ?
Tóm tắt: 6 căn phòng : 2550 viên gạch
7 căn phòng : .... viên gạch?
- Nhìn vào phần tóm tắt, học sinh nhận ra ngay được dạng bài toán liên
quan đến rút về đơn vị.
c) Tóm tắt bằng Graph (lưu đồ) cũng là cách tóm tắt tiện lợi và có hiệu
quả giúp học sinh giải toán khá dễ.
Ví dụ: Bài 89 (trang 14 - Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Tìm một số biết rằng nếu bớt số đó đi 45 sau đó giảm đi 3 lần,
cuối cùng thêm 17 thì được 26.
Tóm tắt
Gọi số phải tìm là a ta có hình vẽ
-45 :3 +17

a 26

+45 x3 -17
- Học sinh hiểu: Đem số a trừ đi 45 được số ở hình tròn thứ 2. Lấy số ở
hình tròn thứ hai chia cho 3 được số ở hình tròn thứ 3. Lấy số ở hình tròn thứ ba
cộng với 17 thì được số 26.
- Dựa vào lưu đồ này học sinh có thể tìm cách giải toán bằng cách đưa
mũi tên ở dưới theo chiều ngược lại với mũi tên ở trên và điền phép tính ngược
lại với phép tính ở trên để tìm kết quả: (26 - 17) x 3 + 45 = 72. Vậy số a bằng 72

3. Phân tích bài toán tìm hướng giải:


7/14
Sau khi học sinh tóm tắt bài toán các em cần phân tích các điều kiện bài
toán cho để tìm hướng giải. Quá trình phân tích bài toán là quá trình tách bài
toán ra thành nhiều bài toán nhỏ dễ giải hơn.
a) Thông thường khi phân tích bài toán ta thường tập trung suy nghĩ vào
các câu hỏi của bài toán, nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết
những gì và phải làm những phép tính gì ? Trong những điều kiện đã biết đó thì
yếu tố nào đã cho sẵn trong đề toán, cái nào phải tìm. Muốn tìm cái này cần phải
biết những gì ? Làm phép tính gì ? ... Cứ như thế suy ngược lên từ câu hỏi bài
toán. Đây là đường lối suy nghĩ theo hướng phân tích.
Ví dụ:
Bài 3 (trang 82 - Toán 3)
Đề bài: Có 240 quyển sách xếp đều vào 2 tủ, mỗi tủ có 4 ngăn. Hỏi mỗi
ngăn có bao nhiêu quyển sách ? (biết rằng mỗi ngăn có số sách đều như nhau)
- Từ câu hỏi của bài toán có thể suy ngược lên như sau:
+ Muốn biết mỗi ngăn có bao nhiêu quyển sách là như thế nào ?
(Tổng số sách : tổng số ngăn)
+ Tổng số sách đó biết chưa ? Số ngăn đựng sách đó biết chưa ?
(Tổng số sách đó biết, số ngăn đựng sách chưa biết.)
+ Muốn tìm số ngăn sách đựng sách ta làm như thế nào ?
(Số ngăn của một tủ x số tủ)
- Từ đây học sinh thiết lập sơ đồ giải
Số sách một ngăn = tổng số sách : tổng số ngăn
||

Số ngăn một tủ x số tủ
b) Tìm hướng giải cho bài toán ta cũng có thể phân tích từ các điều kiện
đã cho của bài toán, suy luận dần dần đến câu hỏi của bài toán. Đây là cách suy
luận theo đường lối tổng hợp.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 163 - Toán 3 - Tiết: Chia số có 5 chữ số cho số có 1 chữ số)
Đề bài: Một cửa hàng có 36550 kg xi măng, đã bán 1/5số xi măng đó. Hỏi
cửa hàng cònn lại bao nhiêu ki – lô - gam xi măng?
8/14
- Từ các điều kiện đã cho của bài toán, ta suy luận dần đến câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì ?
1
(Có 36550 kg xi năng, đã bán 5 số xi măng đó).

+ Trong các điều kiện đó cái gì đã cho sẵn, cái gì phải tìm ?
(Số xi măng của cửa hàng đó biết (36550 kg) số đã bán chưa biết)
+ Tìm số xi măng đã bán làm như thế nào ? (Lấy số xi măng có ban đầu :
số phần)
+ Biết số xi măng ban đầu, và số đã bán, tìm số xi măng còn lại làm như
thế nào ?
+ Bài toán thuộc dạng toán gì ? Liên quan dạng toán gì ?
c) Có những bài toán khó có thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng cả hai
phương pháp suy luận trên trong một bài toán để tìm hướng giải.
Ví dụ:
Bài 147 (Sách: Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Có hai tấm vải dài 100m. Tấm vải thứ hai dài bằng ¼ tấm vải thứ
nhất. Nếu tấm vải thứ hai bán đi 9m thì tấm vải thứ nhất phải bán đi bao nhiêu
mét để số vải còn lại ở tấm thứ nhất gấp 6 lần số vải còn lại ở tấm thứ hai ?
Hướng dẫn: - Theo bài ra ta có thể tính ngay được:
+ Độ dài tấm vải thứ nhất
+ Độ dài tấm vải thứ hai
- Từ câu hỏi của đề bài suy ngược lên:
+ Để tính số mét vải cần bán của tấm thứ nhất sao cho phần còn lại
gấp 6 lần phần còn lại của tấm thứ hai cần tính:
Phần còn lại của tấm thứ hai: (20 - 9 = 11 )
Phần còn lại của tấm thứ nhất: (11 x 6 = 66 )
Số mét vải cần bán ở tấm thứ nhất: (80 - 66 = 14)
Từ hai phần suy luận trên, học sinh có thể tự giải.
Bài giải:
Độ dài tấm vải thứ hai là: 100: (4 + 1) = 20 (m)
Độ dài tấm vải thứ nhất là: 100 - 20 = 80 (m)
9/14
(hoặc 20 x 4 = 80 (m))
Phần còn lại của tấm thứ hai là: 20 - 9 = 11 (m)
Phần còn lại của tấm thứ nhất là: 11 x 6 = 66 (m)
Số mét vải tấm thứ nhất bán là: 80 - 66 = 14 (m)
Đáp số: 14 m vải
Đối với những bài toán khó nên vận dụng cả hai phương pháp suy luận trên
để giải. Trong chương trình Toán lớp 3 ít khi sử dụng mà chỉ vận dụng khi hướng
dẫn học sinh khá giỏi giải toán nâng cao. Thông thường các bài toán điển hình ở
lớp 3 chỉ giải bằng một hoặc hai phép tính nên ta có thể chỉ vận dụng một trong hai
phương pháp trên trong một bài toán.
4. Trình bày bài giải:

Việc trình bày bài giải toán ở lớp 3 cũng giống như ở lớp 2 học sinh đã
được học. Thông thường một bài toán được trình bày bài giải theo thứ tự
như sau:
+ Câu lời giải
+ Phép tính tương ứng (tên đơn vị được viết trong ngoặc đơn sau kết
quả)
+ Đáp số (tên đơn vị được viết bình thường không có ngoặc)
Đối với học sinh lớp 3, các em đã được học phép chia có dư. Vì vậy, có một
số bài toán có lời văn xuất hiện các từ như: “nhiều nhất”, “ít nhất”, “thừa”,
“dư” ….
V í dụ bài toán 3 trang 70 - SGK toán 3 : Có 31 mvải, may mỗi bộ quần áo
hết 3m. hỏi có thể may được nhiều nhất là mấy bộ quần áo và còn thừa mấy mét
vải?
Hoặc bài toán 2 trang 71 – SGK toán 3: Một lớp học có 33 học sinh, phòng
học của lớp đó chỉ có loại bàn 2 chỗ ngồi. Hỏi cần có ít nhất bao nhiêu bàn học
như thế ?
Đối với những bài toán kiểu như trên thì không thể trình bày theo cách thông
thường, tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải theo thứ tự như sau:
+ Phép tính (không có tên đơn vị)
+ Câu trả lời (dựa vào kết quả phép tính)
+ Đáp số
10/14
Chẳng hạn đối với bài toán 3 – trang 70, SGK toán 3
Bài giải
Ta có 31 : 3 = 10 (dư 1)
Vậy có thể may được nhiều nhất là 10 bộ quần áo và còn thừa 1 m vải.
Đáp số: 10 bộ quần áo, thừa 1m vải.
Mỗi khi gặp những bài toán có xuất hiện những từ ngữ “nhiều nhất”, “ít
nhất”, “dư” “thừa “ …. , tôi yêu cầu học sinh nhắc lại cách trình bày bài toán
để giúp các con nhớ lại và làm bài cho đúng.
Trong phần trình bày bài giải, tôi cũng lưu ý học sinh viết tên đơn vị của bài
toán cho đúng. Trên thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy có học sinh thực
hiện phép tính thì đúng nhưng lại lúng túng khi viết tên đơn vị sau kết quả
phép tính. Bởi các con quen dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu lời giải
một cách máy móc, chưa hiểu bản chất bài toán nên khi câu hỏi bài toán không
xuất hiện từ chỉ đơn vị thì học sinh bị nhầm lẫn, đặc biệt là những bài toán liên
quan đến tiền, những bài toán có liên quan đến đơn vị đo độ dài, …

Ví dụ: Khi dạy bài toán 4 – trang 160 , SGK- toán 3:

Mua 5 cái com pa phải trả 10 000 đồng. Hỏi mua 3 cái com pa cùng loại phải trả
bao nhiêu tiền?

Có một số học sinh trình bày bài giải như sau:


Mỗi com pa mua hết số tiền là :
10 000 : 5 = 2 000 ( tiền)
Ba com pa mua hết số tiền là :
2 000 x 3 = 6 000 ( tiền )
Đáp số: 6 000 ( tiền)
Ở đây, học sinh đã dựa vào câu hỏi “phải trả bao nhiêu tiền?” để ghi lời giải và
ghi tên đơn vị của phép tính mà không hiểu được bản chất đơn vị của tiền Việt
Nam là đồng vì vậy đã nhầm lẫn như trên. Để khắc phục tình trạng này, tôi
yêu cầu cả lớp phải đọc kĩ đề, suy nghĩ kĩ , xác định tên đơn vị cho chính xác.
5. Kiểm tra kết quả:
11/14
Kiểm tra kết quả là công việc thường xuyên trong khi giải toán. Sau mỗi bài
toán làm xong các em có thể tự kiểm tra lại kết quả bài làm của mình bằng các cách
như sau:
- Tính ngược lên.
- Thay đáp số vào đầu bài tính lại.
- Tìm cách giải khác.
Ví dụ:
Bài 2 (Trang 162 - Toán 3)
Thử lại bằng cách tính ngược lên:
29240 + 7310 = 36550 (kg)
Thử lại bằng cách giải khác:
36550 : 5 x (5 - 1) = 29240
Bài 89 (Học giỏi Toán 3)
Thử lại bằng cách thay đáp số để tính
(72 - 45) : 3 + 17 = 26
6. Khai thác, mở rộng bài toán:
Đối với học sinh khá giỏi ngoài việc các em giải bài toán và tìm đúng đáp số
bài toán các em còn cần phải biết khai thác bài toán mình vừa làm. Đây là giai đoạn
làm việc hoàn toàn có tính sáng tạo nhằm giúp học sinh tìm hiểu sâu thêm bài toán,
“học một hiểu mười”. Đây là giai đoạn làm việc hoàn toàn tự nguyện, tự giác.
a) Giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau:
Ví dụ: Bài 2 (trang 163 - Toán 3)
- Sau khi các em giải bài toán bằng 2 phép tính thông thường em còn cách
giải nào khác ?
Cách 2: Giải bằng cách gộp hai phép tính thành biểu thức
36550 - 36550: 5
Cách 3: So sánh số phần chỉ số xi măng còn lại nhiều gấp 4 lần số xi măng
đã bán nên có thể giải:
Số xi măng đã bán: 36550 : 5 = 7310 (kg)
Số xi măng còn lại: 7310 x (5 - 1) = 29240 (kg)
Khi các em tìm được các cách giải khác nhau cần nhận xét, so sánh tìm cách
giải hay nhất, ngắn gọn nhất.
Trong bài này tôi có thể gợi mở cho học sinh cách giải thứ 3 chính là dạng
toán "Tìm hai số biết tổng và tỷ số của hai số" các em sẽ được học ở lớp trên.
12/14
Vậy là với việc tìm nhiều cách giải khác nhau cho một bài toán đã góp phần
to lớn trong việc rèn kĩ năng củng cố kiến thức, phát huy trí thông minh và óc sáng
tạo cho học sinh.
b) Tự đặt đề toán bằng cách thay đổi số liệu đó cho đối tượng trong đề toán
Ví dụ: Bài 4 (Trang 105 - Toán 3)
Đề bài: Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 lít dầu, buổi chiều bán được
gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
* Thay đổi số liệu - > cách giải không đổi
Một cửa hàng buổi sáng bán 325 lít dầu, buổi chiều bán được gấp 3 lần buổi
sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
* Thay đổi thuật ngữ toán học - Nội dung bài không thay đổi
Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 lít dầu và bán bằng 1/2 số dầu buổi
chiều. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
* Thay đổi từ chỉ quan hệ "nhiều hơn" - Nội dung bài thay đổi
Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 lít dầu, buổi chiều bán nhiều hơn
buổi sáng 2 lít. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
Tóm lại: Việc khai thác bài toán giúp cho học sinh hiểu sâu thêm bài toán,
tích luỹ được nhiều kinh nghiệm giải toán. Việc khai thác sâu các bài toán chính là
rèn cho các em sự sáng tạo và khả năng suy nghĩ linh hoạt.
7. Tổ chức trò chơi học tập tạo không khí học tập thoải mái
Với nhận thức tâm sinh lý của học sinh Tiểu học là luôn luôn hiếu động,
ham chơi thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Đối với trẻ trò chơi là một phát
hiện mới, kích thích tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Thông qua trò chơi học
sinh nắm được kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, phát huy tính tích cực
của học sinh trong học tập. Chính vì vậy, tôi đã thiết kế một số trò chơi và áp
dụng trong tiết dạy học giải toán.
Ví dụ: Trò chơi : Hái hoa toán học :
* Mục đích : Giúp học sinh nhớ lâu các công thức tính chu vi, diện tích của
hình chữ nhật, hình vuông. Từ đó vận dụng linh hoạt, kết hợp với kĩ năng tính
nhẩm để tính chu vi, diện tích của hình với số đo cho trước …
- Phát triển khả năng diễn đạt rõ ràng, mạch lạc .

* Chuẩn bị : Giáo viên soạn trò chơi trên PowerPoint


(Tuỳ theo nội dung bài học để giáo viên chọn nội dung ghi trong hoa )
Ví dụ : Khi dạy các bài toán với mục tiêu rèn kĩ năng tính chu vi, diện tích
của hình vuông, hình chữ nhật tôi đã chọn một số nội dung sau:
1. Muốn tính diện tích hình vuông
Một cạnh nhân bốn ra ngay khó gì ?
13/14
Bạn hãy cho biết hai câu thơ trên đúng hay sai ? Hãy tính nhẩm nhanh
diện tích hình vuông có cạnh bằng 5 cm ?
Đáp án : Câu thơ trên sai vì diện tích hình vuông bằng cạnh nhân với cạnh.
Diện tích hình vuông có cạnh bằng 5 xăng - ti - mét là:
5 x 5 = 25 (cm2)

2 . Muốn tính chu vi hình vuông ta làm thế nào?


3 . Đố bạn điền tiếp những từ thích hợp và chỗ trống trong bài thơ sau :
Diện tích chữ nhật là gì ?
Lấy dài…………..tức thì ra ngay.
Chu vi chữ nhật dễ thay.
Lấy ……………nhân hai là thành .
Đáp án : Diện tích chữ nhật là gì ?
Lấy dài nhân rộng tức thì ra ngay .
Chu vi chữ nhật dễ thay .
Lấy dài cộng rộng nhân hai là thành .
4.Một hình chữ nhật có số đo cạnh dài bằng 2 dm, cạnh rộng bằng 6 cm .
Bạn A nói : Diện tích hình chữ nhật bằng 120 xăng - ti - mét vuông .
Bạn B nói : Diện tích hình chữ nhật bằng 12 xăng - ti- mét vuông .
Theo bạn ai nói đúng ? ai nói sai ? vì sao ?
Đáp án : Bạn A nói đúng , bạn B nói sai .
8 cm
5. Hình bên tên gọi là gì ?
5 cm
Chu vi, diện tích em thì tính mau?
Đáp án : Hình bên là hình chữ nhật .
Chu vi = ( 8 + 5 ) x 2 = 26 (cm) .
Diện tích = 8 x 5 = 40 (cm2)
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN, CÓ SO SÁNH ĐỐI CHIẾU:
Trên đây là một số biện pháp dạy tốt nội dung giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 3 mà tôi đã tiến hành từ đầu năm đến nay. Với những biện pháp sát
thực của giáo viên và sự nỗ lực của học trò việc giải các bài toán có lời văn của
lớp tôi đã có tiến triển tốt.
Cho đến nay, tất cả học sinh trong lớp đã biết giải toán có lời văn, tuy
nhiên vẫn còn một số em giải chậm hơn bạn cần phải có sự hướng dẫn của cô
giáo khi có bài toán phức tạp. Song kết quả đạt được này đã cho thấy các em có
tiến bộ đáng mừng. Dưới sự hướng của cô, các học sinh lớp tôi đã hào hứng
hơn khi học toán. Những học sinh yếu đã mạnh dạn, tự tin hơn, kết quả học tập
có nhiều tiến bộ. Để có kết quả cụ thể hơn, tôi đã tổ chức cho học sinh lớp mình
làm bài kiểm tra giải toán. Kết quả đạt được như sau:
14/14
Giải toán
Đúng và tương Đúng nhưng Làm bài còn
Tổng số học sinh đối nhanh chậm hơn nhầm lẫn (lời
giải, tên đơn vị)
SL % SL % SL %
48 35 85,7 11 14,3 2 4,2
15/14
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
1. KẾT LUẬN
Để giúp học sinh có những kĩ năng giải toán thành thạo thì cả giáo viên và
học sinh cần đảm bảo các yêu cầu sau:
a. Giáo viên:
- Luôn đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng phương pháp dạy học tối ưu
và có hiệu quả cao.
- Là người hướng dẫn, gợi mở cho học sinh.
- Quan tâm tới mọi đối tượng học sinh. Với mỗi đối tượng phải có phương
pháp dạy khác nhau và phù hợp.
- Chó träng viÖc x©y dùng cho häc sinh thãi quen thùc hiÖn c¸c bíc gi¶i
mét bµi to¸n
b. Học sinh:
- Tuân thủ tốt các bước khi giải một bài toán.
- Tự chiếm lĩnh kiến thức, chủ động, linh hoạt khi giải toán.
- Mỗi học sinh phải nhận thức tự giác việc học tập của mình, ý thức được
việc học tập là cần thiết đối với bản thân. Phải kiên trì và quyết tâm trong học tập.
2. DỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ:
- Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn các cuộc thi Toán học để các em hào
hứng tham gia nhằm củng cố kiến thức về Toán.
- Cấp trên cần tổ chức nhiều chuyên đề dạy toán để giáo viên học tập.
- Tổ chức phổ biến rộng rãi những sáng kiến kinh nghiệm chất lượng để
giáo viên học tập, áp dụng trong dạy học.
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân nhận thấy tuy đề tài mang tên
"Sáng kiến kinh nghiệm" song nội dung còn hạn chế, không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong được sự giúp đỡ, góp ý, bổ sung của lãnh đạo nhà trường để sáng
kiến đầy đủ và hoàn thiện hơn.
T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n!
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Toán 3 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.


2. Sách giáo viên Toán 3 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.Học giỏi Toán 3 - Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục.
5. Hỏi đáp về dạy học Toán 3 - Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Tạp chí Giáo dục Tiểu học.

You might also like