You are on page 1of 83

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Dành cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh ĐHNNHN)
THÔNG TIN CHUNG VỀ MÔN HỌC
I. MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
1. Kiến thức
(1). Nắm vững được điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng –
chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
(2.) Hiểu nội dung cơ bản của mỗi đường lối và một số chính sách của Đảng
trong quá trình cách mạng Việt Nam.
(3). Đánh giá đường lối và hiệu quả thực hiện đường lối.
2. Kỹ năng
(1). Rèn luyện năng lực tư duy độc lập trong nghiên cứu đường lối cách
mạng của Đảng.
(2). Hình thành duy phê phán, kỹ năng phân tích, tổng hợp và đánh giá
những vấn đề liên quan đến môn học. Từ đó, vận dụng kiến thức đã học để chủ
động, tích cực nhận thức những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội theo
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
(3). Rèn luyện kỹ năng viết, có kỹ năng làm việc cá nhân, làm việc nhóm và
trình bày kết quả nghiên cứu.
3. Thái độ
(1) Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
(2) Quyết tâm phấn đấu thực hiện đường lối cách mạng của Đảng.
(3) Có thái độ nghiêm túc trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong nhận
thức về cuộc sống, xã hội, tự rèn luyện bản thân trở thành người có phẩm chất , bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trình độ chuyên môn tốt; hình thành tình cảm,
niềm tin vào con đường cách mạng mà dân tộc ta đã lựa chọn.
II. THỜI LƯỢNG VÀ CÁC MÔN HỌC TIÊN QUYẾT
1. Thời lượng
Gồm 45 tiết (03 tín chỉ), thực hiện theo nguyên tắc chia tổng số tiết như sau:
- Giảng lý thuyết: 35 tiết.
- Thảo luận trên lớp: 10 tiết.
2. Môn học tiên quyết
- Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC
Môn học bao gồm 8 chương, là một hệ thống tri thức về quá trình hoạch
định đường lối của Đảng, gắn liền với những hoạt động đa dạng, phong phú, nhằm
thực hiện đường lối của Đảng, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam từ khi Đảng ra đời (1930) cho đến nay.
Môn học trình bày một cách khách quan, có hệ thống quá trình ra đời của
Đảng – chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam và đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam, các biện pháp, giải pháp trong tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó, so sánh
với yêu cầu thực tiễn, thông qua sự kiểm nghiệm của thực tiễn để đánh giá đường
lối của Đảng; khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế trong quá trình
hoạch định, thực hiện đường lối, từ đó làm rõ những nguyên tắc, những quy luật
khách quan chi phối quá trình Đảng hoạch định, thực hiện đường lối.
III. NỘI DUNG CHI TIẾT MÔN HỌC

Bài mở đầu
NHẬP MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
 Khái niệm “đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”
- Là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam và các biện pháp,
giải pháp trong tổ chức thực hiện.
- Đường lối cách mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết,
chỉ thị ... của Đảng.
 Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong tiến trình cách
mạng Việt Nam, từ CMDTDCND đến CMXHCN.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ sự ra đời tất yếu của ĐCSVN - chủ thể hoạch định đường lối cách
mạng Việt Nam.
- Làm rõ quá trình hình thành, bổ sung, phát triển đường lối cách mạng của
Đảng.
- Làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trên một số lĩnh
vực cơ bản trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC
1. Phương pháp nghiên cứu
 Cơ sở phương pháp luận
- Thế giới quan, Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm
có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
 Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so
sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa...
2. Ý nghĩa của việc học tập môn học
- Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về
đường lối của Đảng trong CMDTDCND và CMXHCN, chú trọng một số đường
lối, chủ trương quan trọng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định hướng
phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách
nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
- Sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực
giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… theo đường lối, chính sách của
Đảng.
Chương I
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (SV tự nghiên
cứu tài liệu)
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
 Sự chuyển biến của CNTB và hậu quả
 Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
 Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
2. Hoàn cảnh trong nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
 Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam
Về chính trị
- Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế.
Về kinh tế
- Thi hành chính sách kinh tế phản động, bóc lột nặng nề.
Về văn hoá
- Kìm hãm, nô dịch về văn hoá. Sử dụng chính sách “Ngu dân dễ trị”.
 Sự phân hóa xã hội và các mâu thuẫn trong xã hội thuộc địa Việt Nam
Sự phân hóa xã hội
Xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, kết cấu giai cấp thay đổi, xuất
hiện nhiều giai tầng mới; đồng thời ở một số giai tầng lại tiếp tục có sự phân hóa:
- Giai cấp nông dân.
- Giai cấp địa chủ, phong kiến (chia làm hai bộ phận:Tầng lớp trên và địa
chủ vừa và nhỏ).
- Giai cấp tư sản (phân hóa thành tư sản dân tộc và tư sản mại bản).
- Tiểu tư sản.
- Giai cấp công nhân.
Tính chất và mâu thuẫn của xã hội thuộc địa Việt Nam
- Tính chất xã hội thay đổi:
+ Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm thay đổi tính chất xã hội Việt
Nam.
+ Xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập đã trở thành xã hội
thuộc địa nửa phong kiến.
- Mâu thuẫn xã hội thay đổi:
+ Mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến là mâu
thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến không mất đi mà vẫn tiếp tục tồn tại.
+ Hình thành mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược.
+ Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau, trong đó mâu thuẫn bao trùm, gay
gắt, cơ bản, chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và tay
sai. Thái độ, vị trí các giai cấp ở Việt Nam đều bị mâu thuẫn này chi phối.
II. NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG
1. Cuộc khủng hoảng con đường cứu nước (SV tự nghiên cứu tài liệu)
 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
Phong trào Cần Vương (1885-1896):
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884-1913):
- Kết luận: Mặc dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng các phong trào
đều bị dập tắt. Sự thất bại này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không thể giúp
nhân dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ của lịch sử
đề ra.
 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
- Xu hướng bạo động:
+ Phong trào Đông Du (1906-1908):
Do Phan Bội Châu (1867-1940) khởi xướng và lãnh đạo.
Hạn chế lớn của ông là chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp, chẳng khác
gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
+ Việt Nam Quang phục Hội (1912):
Cách mạng Tân Hợi nổ ra, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn ảnh
hưởng đến Phan Bội Châu. Ông chuyển sang lập trường dân chủ tư sản, lập ra Việt
Nam Quang phục hội (5-1912) để chống Pháp.
- Xu hướng cải lương:
+ Phong trào Duy Tân (1906-1908):
Do Phan Châu Chinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đứng đầu, giương
cao ngọn cờ, dân chủ và cải cách văn hoá - xã hội, phản đối vũ trang bạo động chống
Pháp.
Hạn chế của ông là dựa vào Pháp chống chính quyền tay sai, kêu gọi Pháp
cho phép thực hiện những cải cách dân chủ, “chẳng khác nào xin giặc rủ lòng
thương”.
+ Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907):
Do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo.
Phong trào diễn ra khá sôi nổi, dưới các hình thức tuyên truyền cải cách văn
hoá - xã hội, bài trừ mê tín dị đoan, tuyên truyền cho việc học chữ quốc ngữ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918 - 1930)
- Phong trào quốc gia cải lương của tầng lớp tiểu tư sản thành thị và địa chủ
lớp trên:
+ Năm 1919, phong trào tẩy chay Hoa kiều, bài trừ hàng hoá ngoại, chấn
hưng hàng nội hoá, với khẩu hiệu: “Người Việt Nam không mang vàng đi đổ sông
Ngô”, “ Người Việt Nam mua hàng Việt Nam”.
+ Năm 1923, phong trào chống độc quyền xuất khẩu gạo ở cảng Sài Gòn của
Pháp.
+ Cuộc đấu tranh chống độc quyền nước mắm (1920-1926).
+ Cuộc đấu tranh đòi mở rộng các quyền tự do, dân chủ, tham gia các hoạt
động chính trị. Tiêu biểu là Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1923).
- Phong trào yêu nước dân chủ công khai:
+ Những phần tử tiểu tư sản yêu nước khác tập trung trong những tổ chức
như “Tâm Tâm xã” (1923), “ Việt Nam nghĩa hoà Đoàn” (1925), “Hội phục Việt”
(1925), “Đảng Thanh niên” ( 1926).
+ Họ xuất bản một số tờ báo tiến bộ như “Chuông rè”. “ L’ Annam”, “ Nước
Annam trẻ”, với một loạt các nhà xuất bản như: Nam đồng thư xã, Cường học thư
xã…
- Phong trào cách mạng quốc gia tư sản:
+ Gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng.
+ Ra đời ngày 25-12-1927. Tiền thân là Nam đồng thư xã.
+ Lãnh tụ : Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài.
+ Thành phần: Công chức, hào lý, địa chủ, binh lính trong quân đội...
+ Tư tưởng chính: Đánh đổ thực dân Pháp, phá bỏ ngôi vua, thành lập chính
quyền của người Việt Nam.
+ Địa bàn hoạt động: Đồng bằng, trung du Bắc Bộ.
+ Tiến hành các hoạt động ám sát và bị thực dân Pháp đàn áp.
+ Tổ chức khởi nghĩa Yên Bái vào ngày 9-2-1930 và nhanh chóng bị thực
dân Pháp đàn áp. Phong trào thất bại, chấm dứt vai trò của giai cấp tư sản.
Ý nghĩa của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân
chủ tư sản

2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước


 Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- 1911-1916: Nguyễn Tất Thành đi qua nhiều nước, qua nhiều thuộc địa,
với các châu lục khác nhau, khảo nghiệm cách mạng trên hai phương diện lý luận
và thực tiễn.
- 1917- 1920: Hoạt động trên nhiều địa bàn khác nhau, chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi tư tưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và lựa chọn con đường
cứu nước và giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản.
 Những bước phát triển nhận thức trong quá trình tìm đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc
- 1911- 1916: Ra đi với xuất phát điểm là chủ nghĩa yêu nước, qua nghiên
cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc rút ra những kết luận mang tính
nền tảng cho nhận thức và hành động:
+ Nhận thức rõ bạn – thù.
+ Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời ở Việt Nam.
+ Tìm ra hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng
không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
- 1917-1920: Dưới tác động của hàng loạt sự kiện (Cách mạng tháng Mười
Nga thắng lợi, Bản yêu sách 8 điểm bị từ chối, đọc được Luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin…), Nguyễn Ái Quốc tiếp tục rút ra hàng
loạt những kết luận quan trọng, mang tính đột phá về chất:
+ Cách mạng vô sản là là cuộc cách mạng triệt để nhất (1917).
+ Các dân tộc muốn được độc lập tự do thực sự phải trông cậy trước hết vào
lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng mình (1919).
+ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác,
ngoài con đường cách mạng vô sản (7-1920).
- 12-1920, khi bỏ phiếu tán thành thành lập ĐCS Pháp và gia nhập Quốc tế
III, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
3. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối giải
phóng dân tộc vào Việt Nam
 Hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc những năm 20 (XX)(SV tự xem lại môn Tư tưởng HCM)
Hệ thống quan điểm và lý luận về “Đường cách mệnh” thể hiện khá hoàn
chỉnh qua các tác phẩm, bài viết của Người trong chặng đường hoạt động từ năm
1921 đến 1927. Nội dung hệ thống quan điểm đó là:
- Vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Từ đó xác định, chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn
thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước thuộc địa.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại cách
mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động
và giai cấp công nhân.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng ở “chính
quốc” có quan hệ khăng khít với nhau. Phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa các
lực lượng cách mạng ở thuộc địa và “chính quốc”. Cách mạng thuộc địa không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà có tính chủ động, độc lập và nó có
thể thành công trước cách mạng ở “chính quốc”.
- Cách mạng ở thuộc địa trước hết là giải phóng dân tộc, sau đó mở đường
tiến lên giải phóng hoàn toàn lao động, giải phóng con người, tức là làm cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN.
- Về lực lượng cách mạng: “công nông là người chủ cách mệnh”, “là gốc
cách mệnh”; công nhân là giai cấp lãnh đạo, tiểu tư sản trí thức là bạn đồng minh
của cách mạng.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng cần được giác ngộ
và tổ chức lại thành đội ngũ vững bền; hiểu biết tình thế, “có mưu chước”.
- Phải thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế;
phải nêu cao tính chủ động cách mạng, ý thức tự lực, tự cường.
- Cách mạng muốn thắng lợi phải có đảng lãnh đạo. Đảng muốn vững phải
có học thuyết cách mạng, đó là học thuyết Mác - Lênin, phải biết vận dụng đúng
đắn học thuyết đó vào cách mạng Việt Nam.
 Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) và phong
trào “vô sản hóa” (1928)
- Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, xuất bản báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận.
- Hội tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng và xây dựng hệ thống tổ
chức trong nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập ĐCS ở Việt Nam.
- Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" đưa hội viên của mình
vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước cùng sống và làm việc với công
nhân, truyền bá lý luận, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhanh chóng phát triển (năm 1928
có 300 hội viên, năm 1929 đã tăng tới 1.700 hội viên) và phát triển ở nhiều trung
tâm kinh tế - chính trị quan trọng.
- Hoạt động truyền bá chủ nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cách
mạng Hồ Chí Minh của Hội đã có tác dụng tích cực, làm dấy lên một phong trào
đấu tranh ngày càng mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt là phong trào công nhân.
4. Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời
 Phong trào công nhân chuyển sang tự giác
- Từ năm 1920-1925, đã nổ ra 25 cuộc bãi công của công nhân, tiêu biểu
nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân xưởng Ba Son (Sài Gòn- 8-1925).
- Trong hai năm 1926-1927, có 17 cuộc đấu tranh của công nhân trong cả
nước. Tiêu biểu là bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (7-1926), đồn
điền Cam Tiên (12-1926), đồn điền Phú Riềng (tháng 8, 9-1927).
- Năm 1928-1929, các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ rệt tinh thần đoàn kết
giai cấp, ý thức tổ chức của công nhân.
- Phong trào nông dân đến năm 1927 đã phát triển khá mạnh ở nhiều vùng
trong cả nước.
- Phong trào công nhân và phong trào nông dân đã có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau.
 Sự ra đời của các tổ chức cộng sản
Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh
nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ. Nắm bắt được đòi hỏi của phong trào,
những người lãnh đạo trong kỳ bộ Bắc Kỳ nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một
ĐCS thay cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, để tiếp tục đưa phong trào
giải phóng dân tộc tiến lên. Xu thế thành lập một ĐCS đã chín muồi.
- Tháng 3-1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên họp tại số nhà 5D Hàm Long (Hà Nội) quyết định thành lập chi bộ cộng
sản đầu tiên bao gồm 7 đồng chí.
- Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đưa ra đề nghị giải tán Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên và thành lập ĐCS. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận, nên Đoàn
đã bỏ đại hội ra về.
- Đêm 17-6-1929, một số đại biểu của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã họp tại 312 phố
Khâm Thiên tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông
qua Tuyên ngôn, Điều lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn
luận của Đảng.
- Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ
Thanh niên và Kỳ bộ Nam kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng vào
tháng 8-1929, xuất bản báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận của mình.
- Tháng 1-1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời từ trong phái cấp
tiến của Đảng Tân Việt.
III. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG
1. Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
a.Hội nghị thành lập Đảng
- Thời gian : Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-19301 đến 7-2-1930.
- Địa điểm: Cửu Long – Hương Cảng – Trung Quốc.
- Nội dung:
+ Hội nghị thảo luâ ̣n và nhất trí với năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn
Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản lấy tên là ĐCSVN.
+ Hội nghị thảo luâ ̣n và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo. Những văn kiện này hợp thành cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh Hồ Chí Minh.
- Ngày 24-2-1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn chính thức gia nhập
ĐCSVN. ĐCSVN đã hoàn tất viê ̣c hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
b.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng bao gồm: Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt; được thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng.
- Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
+ Phương hướng chiến lược: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
+ Về nhiệm vụ cách mạng, Cương lĩnh xác định trên những lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa. Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc, dân chủ và
XHCN. Song, nổi bật là nhiệm vụ ''đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''.
+ Lực lượng cách mạng: đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực
lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của
1
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), căn cứ vào những tài liệu hiện có, đã ra Nghị quyết lấy
ngày 3-2-1930 làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
dân tộc là CNĐQ Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng
lợi hoàn toàn.
+ Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạngthế giới:
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, đứng trong mặt trận
cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới, mà đội quân
tiên phong của mặt trận này là Liên Xô.
+ Lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp vô sản và là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng (SV tự nghiên cứu tài liệu)
- Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành
và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam..
- ĐCSVN ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm
dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
- Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của
cách mạng thế giới.

● Kết luận
Năm 1930, ĐCSVN ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã.
Cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư
sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển qua tay giai cấp công nhân.
- ĐCS ra đời là sản phẩm của lịch sử đấu tranh dân tộc và giải quyết yêu cầu
của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
- ĐCS ra đời là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát
triển của lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy
nhất của ĐCSVN - một Đảng mác-xít kiên cường, có đường lối cách mạng khoa
học và sáng tạo, đủ sức đương đầu với mọi kẻ thù và sẽ dẫn dắt dân tộc giành
những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử dân tộc.
HỌC LIỆU
1. Nguyễn Đình Bài (2003), “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về quy luật hình
thành ĐCSVN”, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, số 1, tháng 1-2, tr. 5-6.
2. Lê Mậu Hãn (2006), ĐCSVN, các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 9-28.
3. Lê Mậu Hãn (1990), “Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân tộc trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, tr. 18.
4. Đinh Xuân Lâm (2001), “Về con đường cứu nước Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, tháng 7, tr. 10-13.
5. Trịnh Nhu (2000), “Nguyễn Ái Quốc với sự kiện thành lập ĐCSVN”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 3, tháng 3, tr. 30-34.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Bản án chế độ thực dân Pháp, Tập 2, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 21-128.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Đường cách mệnh, Tập 2, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 257-318.
8. Lê Ngọc (1997), “Đường cách mệnh”- tác phẩm đặt nền móng đường lối
cứu nước mới”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 6, tr. 10-13.
9. Song Thành (2000), “Những cống hiến lịch sử của Nguyễn Ái Quốc vào
quá trình thành lập ĐCSVN”, Tạp chí Cộng sản, số 3, tháng 2, tr. 22-25.
10. Phạm Xanh (1990), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin ở Việt Nam (1921-1930), Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.
Chương II
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)

I. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939


1. Trong những năm1930-1935
a. Luận cương chính trị tháng 10-1930
Nội dung của Luận cương
- Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt ở Đông Dương.
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương:
+ Lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, có tính chất thổ địa và phản đế, tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị
để làm xã hội cách mạng.
+ Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua
thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Đánh đổ phong kiến, thực
hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương xác định: “Vấn đề thổ địa là cái cốt
của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân
cày.
- Về lực lượng cách mạng:
+ Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền,
vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày (nông dân) là lực lượng đông đảo
nhất và là động lực mạnh của cách mạng.
+ Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách
mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách
mạng phát triển cao thì họ theo đế quốc.
+ Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự;
tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu
hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời
kỳ đầu.
+ Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con
đường “võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ
thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản
Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp
vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh
cách mạng ở Đông Dương.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện
cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn,
có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của
giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung
cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ý nghĩa của Luận cương
- Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến
lược cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra.
- Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản giữa Luận cương chính trị với Chánh
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt có mặt khác nhau:
+ Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc
lên hàng đầu.
+ Đánh giá không đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận
mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân hoá, lôi kéo một
bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó Luận cương
đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
- Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau:
+ Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam.
+ Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách
mạng ở thuộc địa, và lại chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế
Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời gian đó. Chính vì vậy, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới,
sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong Đường Cách mệnh,
Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
b. Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng. (SV tự
nghiên cứu tài liệu)
- Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng rộng
lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Giữa lúc phong trào cách mạng của quần
chúng đang dâng cao, đế quốc Pháp và tay sai đã thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng
dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn quần chúng yêu nước bị bắt, bị
giết hoặc bị tù đầy. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và các địa
phương lần lượt bị phá vỡ. Toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị bắt. Toà án của
chính quyền thực dân Pháp mở các phiên toà đặc biệt để xét xử những người cách
mạng.
- Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức đảng ở Cao
Bằng, Sơn Tây, Hà Nội, Hải phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá, Quảng Trị,
Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở miền Nam vẫn được duy trì và bám
chắc quần chúng để hoạt động. Nhiều đảng viên vượt tù đã tích cực tham gia khôi
phục Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
- Các Xứ uỷ Bắc-Trung-Nam Kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ nhiều lần, đã lần
lượt được lập lại trong năm 1931 và 1933. Nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ, chi bộ lần lượt
được phục hồi. Ở miền núi phía Bắc, một số tổ chức của Đảng được thành lập.
- Đầu năm 1932, trước tình hình các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và hầu hết Uỷ viên các Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ bị địch bắt và
nhiều người đã hy sinh, theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng
Phong cùng một số đồng chí chủ chốt ở trong và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh
đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã công bố
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Chương trình hành động của Đảng khẳng định: công nông Đông Dương
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thực hiện những
nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động sau này, Đảng phải đề ra và lãnh đạo quần
chúng đấu tranh giành những quyền lợi thiết thực hàng ngày, rồi dần đưa quần
chúng tiến lên đấu tranh cho những yêu cầu chính trị cao hơn. Những yêu cầu
chung trước mắt của đông đảo quần chúng được nêu lên trong Chương trình hành
động:
Thứ nhất, đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước
và ra nước ngoài.
Thứ hai, bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho tù
chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình.
Thứ ba, bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.
Thứ tư, bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.
Ngoài ra Chương trình hành động của Đảng còn đề ra những yêu cầu cụ thể
riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân.
Những yêu cầu chính trị trước mắt cùng với những biện pháp tổ chức và đấu
tranh do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với điều
kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng của quần chúng và hệ
thống tổ chức của Đảng đã nhanh chóng được khôi phục.
- Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao
(Trung Quốc). Đại hội khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục phong
trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ trước mắt là:
củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng; mở
rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên bang Xô viết,
ủng hộ cách mạng Trung Quốc…
2. Trong những năm 1936-1939
a. Hoàn cảnh lịch sử (SV tự nghiên cứu tài liệu)
- Hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-
1933 và tình trạng tiêu điều tiếp theo trong các nước thuộc hệ thống tư bản chủ
nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong
trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
- Chủ nghĩa phátxít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi đã và đang đe doạ
nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
- Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva
(tháng 7-1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu.
+ Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa
phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phátxít.
  + Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới
lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chủ nghĩa xã hội, mà
là chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
+ Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, giai cấp công nhân các nước trên thế
giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống
phátxít và chiến tranh phátxít.
Đại hội chỉ rõ đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập mặt
trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
b. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
 Chủ trương đấu tranh dân sinh, dân chủ:
  - Xuất phát từ đặc điểm tình hình Đông Dương và thế giới, vận dụng Nghị
quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị 7/1936 của Đảng ta xác định:
+ Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống. Đảng phải nắm lấy những yêu cầu đó để phát động quần chúng đấu
tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
+ Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là bọn
phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
+ Nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống
bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; "lập
Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp, các đảng phái,
các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông
Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ"
+ Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức
và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho
Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần
chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp.
+ Phải nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và
điền địa trong cách mạng ở Đông Dương.
 Nhận thức mới của Đảng về nhiệm vụ dân tộc, dân chủ:
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936,
Đảng nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết
chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì
cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng". Nói tóm lại, nếu
phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa
chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân
chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được
toàn thắng. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách
mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị
tháng 10-1930.
- Tiếp theo Hội nghị 7/1936, các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp trong năm 1937, 1938 và 1939 đã tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa
mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, đã đặt ra nhiệm
vụ chính trị cụ thể của cách mạng trong một hoàn cảnh cụ thể, biết tập hợp rộng rãi
những lực lượng chính trị dù là bé nhỏ, bấp bênh, tạm thời, sử dụng các hình thức
tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mục tiêu cụ thể nhằm động viên hàng
triệu quần chúng lên trận tuyến đấu tranh cách mạng, chuẩn bị tiến lên những trận
chiến đấu cao hơn, thực hiện mục tiêu chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ.
Có thể nói rằng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời
kỳ này đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản
lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của đảng, mở ra một cao trào mới trong
cả nước.

II. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945
1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a. Tình hình thế giới và trong nước
- Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp
tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.
- Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
- Ngày 22-6-1941, phát xít Đức xâm lược Liên Xô.
- Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông
Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài
sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập
đông người.
- Ở Việt Nam và Đông Dương lúc này, một số quyền tự do, dân chủ của
người dân đã bị thủ tiêu, thực dân Pháp đã ban bố lệnh tổng động viên, ra sức vơ
vét sức người, sức của để phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc. Hơn bảy vạn
thanh niên bị bắt sang Pháp để làm “bia đỡ đạn”.
- Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940, phát xít Nhật đã tiến vào
Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định
đầu hàng Nhật, đặt nhân dân ta dưới cảnh một cổ hai tròng. Điều đó đã làm cho
mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp-Nhật trở nên gay gắt hơn bao
giờ hết.
b. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
- Căn cứ vào tính chất cách mạng Đông Dương đã có sự thay đổi, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ
bảy (11-1940), và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng
diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể ở
trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược như sau:
+ Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác lại vấn đề
“ruộng đất dân cày”
+ Hai là, tăng cường đoàn kết các lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng.
+ Ba là, thay đổi hình thức đấu tranh, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện
tại.
Bên cạnh đó, Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng tới công tác
xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời
chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận,
binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Đường lối gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt
trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và
thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn
đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi
Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a. Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng
phần
Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước
- Vào cuối 1944, đầu 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai
đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của
mình và tiến như vũ bão về Béclin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn.
Tại Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp ngày càng diễn ra gay gắt. Đêm ngày 9-3-
1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp đã nhanh
chóng đầu hàng quân Nhật.
- Ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở
rộng ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
+ Chỉ thị nhận định: sự biến vào đêm 9-3-1945 đã tạo ra một cuộc khủng
hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy
vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh
chóng chin muồi.
+ Chỉ thị xác định: sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù
cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu
“đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít nhật”.
+ Chỉ thị chủ trương: phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh
mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ
chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa
như tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá
kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu
quốc…
+ Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du
kích, giải phóng từng phần, mở rộng căn cứ địa.
+ Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa
như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt
trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật
bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật
bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận (SV tự
nghiên cứu)
- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất
sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú cả về nội dung và hình thức.
+ Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều
nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân giải
phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Tuyên Quang.
+ Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng ở
nhiều làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa
nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập.
- Giữa lúc Cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng lên mạnh mẽ, ngày 15-
4-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng
Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị nhận định: tình thế đã đặt nhiệm vụ
quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta
phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để
chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị đã quyết định thống nhất
các lực lượng vũ tranh sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây
dựng bảy chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ
trang và nửa vũ trang…
- Trong tháng 5, 6-1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và
nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền. Ở khu giải phóng và một số địa
phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền
tay sai của phát xít Nhật.
- Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các
tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một
số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.
- Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở
cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ do Nhật, Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Hơn
hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần
chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ
trương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta, vì vậy trong
một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận
tuyến cách mạng.
b. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa (SV tự nghiên cứu)
- Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-5-
1945, Hồng quân Liên Xô chiếm Béclin, tiêu diệt phát xít Đức tận hang ổ của
chúng. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ở Châu Á, phát xít
Nhật đang đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn.
- Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết
định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến
ngày 15-8-1945. Hội nghị nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc
lập đã tới và quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ
tay phát xít Nhật và tay sai, trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
+ Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược ! Hoàn
toàn độc lập ! Chính quyền nhân dân !”.
+ Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp
thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông
thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch trước
khi đánh… Bên cạnh đó, Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về
chính sách đối nội và đối ngoại trong tình hình mới.
- Ngay đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi
nghĩa.
- Ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp. Đại hội nhiệt
liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Mười chính sách của Việt
Minh, quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và
chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề nổi dậy
khởi nghĩa giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8-1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã
thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay
mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn
độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời.
c. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc
Cách mạng Tháng Tám (SV tự nghiên cứu)
Kết quả và ý nghĩa
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan
xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm
dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
- Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân độc lập, tự do,
người làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một
nước độc lập và tự do. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật,
không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân
tộc, kỷ nguyên độc lập tự do.
- Về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu
quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp
và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn
lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải
phóng dân tộc.
Nguyên nhân thắng lợi
- Cách mạng Tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của
toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân
tộc 1939-1945.
- Đảng Cộng sản Đông Dương có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn
kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết
tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là
điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Bài học kinh nghiệm
- Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm
vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
       - Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông
      - Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách
mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước
của nhân dân
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
- Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa
giành chính quyền

HỌC LIỆU
1. Tô Bửu Giám (2005), “Bàn về nguyên nhân trực tiếp đưa đến thắng lợi
của cuộc Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1, tr. 50-51.
2. Lê Mậu Hãn (2002), “Trí tuệ và sức mạnh của Đảng, của dân tộc- cội
nguồn thắng lợi của Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Cộng sản, số 23, tháng 8, tr.
18-24.
3. Vũ Quang Hiển (2002), “Bàn thêm về tính chất của Cách mạng tháng
Tám”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4, tháng 7- 8, tr. 60-62.
4. Phan Văn Hoàng (1998), “Tình hình chính trị ở Việt Nam từ Nhật đảo
chính Pháp đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 4 (299), tr. 10-17.
5. Trình Mưu, “Về Đại hội lần thứ I của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001,
số 4 (125), tr. 50.
6. Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên, 2003), Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam qua các Đại hội và Hội nghị Trung ương 1930-2002, Nxb Lao động, tr
83-87; 103-109; 121-126; 161-166; 167-170; 203-210;
7. Văn Tạo (2005), “Cách mạng tháng Tám - Thắng lợi của đường lối chiến
lược, sách lược chủ động và sáng tạo của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 16, tr. 13-
17.
8. Song Thành (2001), “Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) và bước
ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, tháng 5, tr. 9-42.
10. Hoàng Minh Thảo (2000), “Nghệ thuật thế và thời trong Tổng khởi
nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1954 của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghệ thuật
quân sự, số 4, tr. 1-3.
Chương III
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ
QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
I. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VÀ CAN
THIỆP MỸ (1945-1954)
1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
a. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng Tháng Tám (SV tự nghiên cứu)
- Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập
đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị
các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
+ Phía Bắc vĩ tuyến 16, có gần 20 vạn quân Tưởng, Việt quốc, Việt cách.
+ Phía Nam vĩ tuyến 16, hơn 1 vạn quân Anh. Được sự hậu thuẫn của quân
Anh, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc
xâm lược nước ta lần thứ hai.
+ Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh
dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
- Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội.
+ Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Nhiều
ruộng đất bị bỏ hoang. Sản xuất công nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả
tăng vọt, ngoại thương đình trệ.
+ Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó
quá nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân
Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trường.
+ 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức
nặng nề.
- Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta.
Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ
quốc lâm nguy!
b. Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng
- Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc. Chỉ thị xác định:
+ Tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng". Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết".
+ Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
+ Nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nước ta lúc nay là "củng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho
nhân dân".
Để thực hiện các nhiệm vụ đó Trung ương đề ra các công tác cụ thể:
+ Về nội chính: xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính
thức, lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
+ Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và
lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
+ Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc "bình đẳng tương trợ", thêm bạn bớt thù,
thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và
chủ trương "độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng
về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng khôn khéo trong tình thế vô cùng
hiểm nghèo của nước nhà.
c. Kết quả, ý nghĩa và bài học lịch sử
Kết quả thực hiện
Về chính trị xã hội (sinh viên tự nghiên cứu)
- Ngày 6-1-1946, tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất đã bầu Hồ Chí Minh giữ chức
Chủ tịch nước và trao quyền cho Người lập chính phủ chính thức.
- Tại kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và khẩn trương bầu Hội đồng nhân dân và Hội
đồng nhân dân đã bầu Uỷ ban hành chính các cấp.
- Cũng trong thời gian này, Mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng, đưa
đến sự ra đời của các đoàn thể yêu nước như: Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
(tháng 5-1946), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam.... Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập nhằm đoàn kết những trí thức yêu
nước Việt Nam.
- Với tinh thần coi trọng việc xây dựng và phát triển công cụ bảo vệ chính
quyền cách mạng như quân đội, công an. Cuối năm 1946, lực lượng quân đội
thường trực mang tên Quân đội quốc gia Việt Nam có 8 vạn người. Việc vũ trang
quần chúng cách mạng, quân sự hoá toàn dân được thực hiện rộng khắp.
Về kinh tế, văn hoá (sinh viên tự nghiên cứu)
- Đảng và Chính phủ phát động thi đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm
giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của
chế độ thực dân; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông
dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý; giảm tô 25%, giảm
thuế, miễn thuế cho nông dân vùng bị thiên tai; chủ trương cho mở lại các nhà máy
do Nhật để lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh... Đảng đã động
viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng
trăm kilôgam vàng, nền tài chính độc lập từng bước được xây dựng.
- Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn
văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình
dân học vụ để chống nạn mù chữ, diệt "giặc dốt". Một năm sau Cách mạng Tháng
Tám đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng
- Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng tiến
công ra các tỉnh Nam Bộ, Thường vụ Trung ương Đảng đã nhất trí với quyết tâm
kháng chiến của Xứ uỷ Nam Bộ và kịp thời lãnh đạo nhân dân đứng lên kháng
chiến.
Đảng đã phát động phong trào cả nước hướng về Nam Bộ. Hàng vạn thanh
niên nô nức lên đường Nam tiến. Nhân dân miền Nam "thành đồng Tổ quốc" chiến
đấu với sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh của cả dân tộc đã làm thất
bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
- Cùng với việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chế độ mới
và tổ chức kháng chiến ở miền Nam, Đảng ta đã thực hiện sách lược lợi dụng mâu
thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế đương đầu cùng một
lúc với nhiều kẻ thù.
+ Từ 9/1945 đến 3/1946, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược hoà
hoãn, nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập
trung chống Pháp ở miền Nam.
+ Từ 3/1946 đến 12/1946, Đảng và Chính phủ ta đã chọn giải pháp thương
lượng với Pháp, nhằm mục đích buộc quân Tưởng rút ngay về nước. Hiệp định Sơ
bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtennơbờlô, Tạm ước 14-9-1946 đã
tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu
mới.
Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là đã bảo vệ được nền độc
lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền
móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;
chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc
sau đó.
Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là Đảng đã
đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách mạng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ
trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù…
Bài học trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng chiến kiến
quốc giai đoạn 1945-1946 là: phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân
để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc
với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh
cụ thể. Tận dụng khả năng hoà hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền
nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh
lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.

2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân (1946 - 1954)
a. Hoàn cảnh lịch sử (SV tự nghiên cứu)
  - Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí,
cố gắng làm những việc có thể nhằm đẩy lùi chiến tranh, nhưng với dã tâm cướp
nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách việc đã rồi, tăng cường
khiêu khích và lấn chiếm.
+ Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải
Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng.
+ Ngày 16-12-1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Dương đã họp tại
Hải Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16.
+ Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào
ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ
Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô.
- Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát
động toàn dân kháng chiến và chủ động mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trước khi
thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội vào ngày 20-12-
1946 như chúng đã nêu lên trong tối hậu thư gửi cho Chính phủ ta trong những
ngày 18, 19. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, Mệnh lệnh kháng chiến đã được
phát đi, tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Nhân dân cả nước đã đứng lên theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua
thực tiễn:
 Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn đầu được
thể hiện tập trung trong ba văn kiện:
+ Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng (12/12/1946)
+ Lời Kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch hồ Chí Minh
(19/12/1946).
+ Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng bí thư Trường Chinh
(3/1947).
- Nội dung:
+ Mục đích của kháng chiến là "đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập";
+ Tính chất của cuộc kháng chiến: Dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa
vào sức mình là chính.
+ Triển vọng của cuộc kháng chiến: kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất
định thắng lợi.
 Về đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân:
Tháng 2-1951,Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng đã thông qua
nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam:
-Tính chất xã hội: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến
- Đối tượng của cách mạng Việt Nam: có hai đối tượng, đối tượng chính hiện nay
là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp
Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản
động.
- Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích
phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội".
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành
giải phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để
quyết thắng quân xâm lược...
-Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm có: giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ)
yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân
mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo cách mạng.
-Tính chất của cách mạng Việt Nam là: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhất định sẽ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen lẫn với nhau.
Nhưng mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm.
 Đường lối, chính sách của Đại hội hai đã được bổ sung phát triển qua các
Hội nghị Trung ương tiếp theo: Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng
3-1951); Hội nghị Trung ương lần thứ hai (tháng 9-1951); Hội nghị Trung
ương lần thứ ba (tháng 4-1952); Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1-
1953); Hội nghị Trung ương lần thứ năm (tháng 11-1953)
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm lịch sử (SV
tự nghiên cứu)
a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Kết quả của việc thực hiện đường lối
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức,
tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp
được củng cố, Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập.
Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất
được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại đoàn bộ binh,
1 đại đoàn công binh – pháo binh. Thắng lợi của các chiến dịch Trung Du, Đường
18, Hà – Nam – Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào… đã tiêu diệt được nhiều
sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng
của Việt Nam và cho cách mạng Lào, chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954
được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống
Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo
hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân.
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và
ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta ngày 27-12-
1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: “Lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên
quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Xong nhân dân và Chính phủ ta cũng
tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hoàn bình vấn đề Việt Nam”.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức
khai mạc ở Giơ-ne-vơ (Thuỵ Sỹ). Ngày 20-7-1954, các văn bản của Hiệp nghị
Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết,
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta kết thúc thắng
lợi.
Ý nghĩa lịch sử
- Chúng ta đã bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ trên phạm vi cả nước.
- Nhân dân ta cùng với nhân dân Lào và Campuchia đã đập tan ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương.
- Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới.
b. Nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm lịch sử
Nguyên nhân thắng lợi
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
với đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính, có sức mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.
- Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt - được xây dựng trên nền tảng khối liên minh
công nông và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày
càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí là lực lượng quyết định
tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai
của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ
vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và
xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào,
Campuchia cùng chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ của Trung
Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc yêu chuộng hòa bình
trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Kinh nghiệm
1. Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
2. Kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ
chống phong kiến, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ chống đế quốc.
3. Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày
càng vững mạnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
4. Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài chủ động
đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng
tạo.
5. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
II. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, THỐNG
NHẤT TỔ QUỐC (1954-1975)
1. Đường lối trong giai đoạn 1954-1964
a. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954 (SV tự nghiên
cứu)
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng
lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên
phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song
miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị
chia làm hai miền.
+ Sau ngày 16-5-1955, miền Bắc đã hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
+ Ở miền Nam, sau tháng 7/1954, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
Quá trình hình thành và nội dung đường lối
- Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt cho cách
mạng hai miền là:
+ Cách mạng miền Bắc: hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế
quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội,
ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế...
để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín năm chiến tranh.
+ Cách mạng miền Nam: đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố
hòa bình, thực hiện tự do dân chủ,... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và
tranh thủ độc lập.
- Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở
miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp
phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố
miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam.
- Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối
cách mạng trong giai đoạn mới.
- Tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
mười bốn đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế - văn hóa và cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960). Đồng thời tại
Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm
vụ chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một
nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
- Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười
lăm chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam; Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền
Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết
hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô
Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc,
dân chủ ở miền Nam
- Tháng 9/1960, Đại hội III của Đảng xác định:.
+ Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
+ Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
- Nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước: thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình để thống nhất nước nhà
Ý nghĩa của đường lối:
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với Miền Bắc vừa phù hợp với
Miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế,
nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức
mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ
được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được
sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của
cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta
trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn
Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.
- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi
miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu
to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống
các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở Miền Nam.
2. Đường lối trong giai đoạn 1965-1975
a. Bối cảnh lịch sử
- Thuận lợi:
+ Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới
đang ở thế tiến công.
+ Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về
kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng miền
Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
+ Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ
năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba công cụ
của “Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị
quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
- Khó khăn:
+Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có
lợi cho cách mạng Việt Nam.
+ Việc đế quốc Mỹ mở cuộc “Chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân đội viễn
chinh và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương
quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
Quá trình hình thành và nội dung đường lối:
- Trước hành động gây “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến
tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-
1965) và lần thứ 12 (12-1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước:
+ Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện
kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng
đến mức cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công
lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn
trên chiến trường miền Nam.
+ Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: giữ vững và
phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên
trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt đề vận
dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn
hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày
càng quan trọng.
+ Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo
đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều
kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên
sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng
miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường
hợp chúng liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả nước.
+ Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền
Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã
hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng
cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền
Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật
thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là: “Tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ý nghĩa của đường lối:
- Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công,
tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta.
- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách
mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với
thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
- Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để
dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học (SV tự nghiên
cứu)
a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Kết quả
- Ở miền Bắc, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, sau 21 năm phấn
đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tự đáng tự hào,
một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành.
+ Quân dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, điển hình là chiến thắng lịch sử của trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu
trời Hà Nội cuối năm 1972.
+ Miền Bắc không chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất
sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với
chiến trường miền Nam.
- Ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân dân ta đã
vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các
chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
+ Trong giai đoạn 1954-1960 đã đánh bại “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ
- nguỵ, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công;
+ Giai đoạn 1961-1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
+ Giai đoạn 1965-1968 đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ
và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm
phán với ta tại Paris.
+ Giai đoạn 1969-1975 đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải đầu hàng vô điều
kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ý nghĩa lịch sử
- Nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị tàn
bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta. Cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống
nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Bằng thắng lợi vĩ đại của mình, nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một
phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở đầu sự sụp đổ
không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tăng cường lực lượng
của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế
giới.
b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học
- Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi
ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối
quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.
- Đó là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và
quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu
nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu
"Thành đồng Tổ quốc".
- Là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của
đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc
nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền
Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân
tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
Bài học
- Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy
động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
- Hai là, Đảng đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn,
sáng tạo.
- Ba là, sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác
tổ chức chiến đấu tài giỏi của Đảng qua các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân
đội.
- Bốn là, Đảng ta hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực
lượng cách mạng ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả
nước.
HỌC LIỆU
1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội
3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Trường Chinh (1947), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà
Nội.
3. Doãn Hùng (2005), “Tầm vóc lịch sử vĩ đại và bài học kinh nghiệm của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, tr. 3-6.
4. Hồ Khang (2001), “Chỉ thị kháng chiến kiến quốc ngày 25-11-1945, tầm
nhìn chiến lược của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12, tháng 12, tr. 9-11.
5. Phan Huy Lê (2004), “Chiến thắng Điện Biên Phủ trong lịch sử và bản sắc
văn hoá của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2 (146), tháng 2, tr. 7-
11.
6. Nguyễn Đình Lê (2005), “Tìm hiểu về đường lối chống Mỹ, cứu nước của
Đảng trong cách mạng miền Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, tr. 33-35.
7. Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên, 2003), Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam qua các Đại hội và Hội nghị Trung ương 1930-2002, Nxb. Lao động, tr.
289-306. 420-425; 437-445; 546-552; 569-576; 624-632; 649-652.
8. Trần Ngọc Tuệ (2005), “Tính ưu việt và sức mạnh của CNXH ở miền Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, tr.
21-23+35.
9. Trần Trung Thành (2000), “Những nước cờ chiến lược Xuân 1975”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 4, tháng 4, tr. 17-21.
10. Nguyễn Huy Thục (2000), “Cơ sở hình thành quyết tâm chiến lược giải
phóng miền Nam mùa Xuân 1975 của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4, tháng 4,
tr. 12-16.
CHƯƠNG IV

ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ


I. ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa (sinh
viên đọc tài liệu)
Đường lối công nghiệp hoá đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của
Đảng (9-1960). Thời kỳ trước đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa theo hai giai đoạn: từ 1960 đến 1975 triển khai ở
miền Bắc và từ 1975-1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
* Giai đoạn từ 1960-1975
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời
chia làm hai miền: miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã hoạch định đường lối
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đại hội khẳng định:
- Tính tất yếu của công nghiệp hoá: “Muốn cải biến tình trạng nông nghiệp
lạc hậu hiện nay của nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên chế
độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con
đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Vị trí của CNH: công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Mục tiêu: công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cơ bản cho chủ nghĩa xã hội
thắng lợi.
- Chủ trương tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là: “Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một
nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại” ( Đảng cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr. 545-
546).
* Giai đoạn từ 1975 đến 1985
Sau thắng lợi mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976) trên cơ sở phân
tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, đã xác định
đường lối công nghiệp hoá trong thời kỳ quá độ ở nước ta là:
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành cơ cấu công - nông nghiệp.
- Vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết
hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982) xác định “chặng
đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến năm 1990 là
khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt”. Nội dung chính của công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt là:
- Cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng.
- Kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.
b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới
- Công nghiệp hoá theo mô hình truyền thống với nền kinh tế khép kín, thiên
về phát triển công nghiệp nặng.
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về tài nguyên, lao động và sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực hiện công nghiệp hoá là Nhà nước; việc phân bổ các
nguồn lực để thực hiên công nghiệp hoá chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hoá, tập
trung quan liêu bao cấp.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không
quan tâm đến hiệu quả KT-XH.
2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Kết quả, ý nghĩa
+ Công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong điều kiện đất nước
còn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nhưng vẫn thu được những kết
quả quan trọng:
- Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, nhiều công trình lớn của đất
nước về thuỷ điện, thuỷ lợi, xi măng, dầu khí, cầu đường, công nghiệp cơ khí,
luyện kim, hoá chất... được xây dựng đã tạo ra những cơ sơ vật chất - kỹ thuật ban
đầu cho chủ nghĩa xã hội.
- Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật được đào tạo từ các trường đại học, cao
đẳng, trung học, dạy nghề bước đầu đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá. Các
trường này là những cơ sở tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực quan trọng cho sự
nghiệp công nghiệp hoá sau này.
+ Những thành tựu trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần tạo nên
chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đồng thời tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn
tiếp theo.
b. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nghèo nàn và lạc hậu. Những ngành công
nghiệp then chốt còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế
quốc dân.
- Lực lượng sản xuất còn thấp kém, nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa vào lao
động thủ công, chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội.
- Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng (giữa cung và cầu về lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nhiên liệu...; giữa xuất khẩu và nhập khẩu;
giữa thu và chi...).
* Nguyên nhân
+ Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hoá từ một nền kinh tế lạc
hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài nên không thể tập trung mọi
nguồn lực cho công nghiệp hoá.
+ Về chủ quan:
- Sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước.
- Sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hoá thời kỳ 1960-1985
mà trực tiếp là từ 1975 đến 1985.
- Sai lầm trong việc xác định mục tiêu, bước đi và phương thức tiến hành
công nghiệp hoá. Thực chất là do chủ quan, nóng vội nên chúng ta đã chủ trương
đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết 1.
- Sai lầm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế (cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư
không hợp lý), không xuất phát từ thực tế, thiên về phát triển công nghiệp nặng và
xây dựng những công trình qui mô lớn, kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả
thấp...

II. ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Quá trình đổi mới tư duy về CNH (sv tự nghiên cứu)
2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a. Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
+ Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Đại hội X xác định mục tiêu tổng quát của 5 năm 2006-2010 là sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại 1.
b. Quan điểm cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội X (2006) Đảng ta đã nêu ra nhiều quan
điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau
đây là những quan điểm cơ bản nhất:
- Một là, công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
- Bốn là, lấy khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học.
3. Nội dung và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát
triển kinh tế tri thức
a. Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt
Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế -xã
hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành,
lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao .
b. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
* Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
+ Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo
ra giá trị gia tăng ngày càng cao.
- Tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và
dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
+ Về qui hoạch phát triển nông thôn
- Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ.
- Phát huy dân chủ đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá ở nông thôn.
+ Về giải quyết việc làm, lao động ở nông thôn
- Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân.
- Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Mục tiêu đề ra là, phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ lao động nông, lâm,
ngư nghiệp xuống dưới 50% tổng số lao động xã hội và nâng cao tỷ lệ thời gian sử
dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 85%.
* Thứ hai, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
* Thứ ba, phát triển kinh tế vùng
* Thứ tư, phát triển kinh tế biển
* Thứ năm, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ
* Thứ sáu, bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi
trường tự nhiên.
4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa
+ Một là, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể,
khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Cả nước hiện có trên 100
khu công nghiệp; ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất đang phát triển
mạnh mẽ; ngành xây dựng tăng trưởng nhanh; nhiều công trình quan trọng như sân
bay, cảng biển, đường bộ, bưu chính viễn thông được xây dựng theo hướng hiện
đại.
+ Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đã đạt được những kết quả quan trọng. Tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng, tỉ trọng nông nghiệp giảm; cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu thành phần kinh
tế, cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực.
+ Ba là, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định, bình quân từ năm
2000 đến nay đạt trên 7,5%/năm. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xoá
đói, giảm nghèo. Thu nhập đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Những thành tựu này là cơ sở để đưa đất nước ra khỏi tình trạng chậm phát
triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
b. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động và thu nhập bình quân đầu
người vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên,
đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
- Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy hết thế mạnh để đi nhanh vào
cơ cấu kinh tế hiện đại.
- Cơ cấu các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
chưa tạo môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác qui hoạch chất lượng thấp, quản lý
kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của đất nước.
* Nguyên nhân
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do nguyên
nhân chủ quan như:
- Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được
tốt nhất các nguồn lực vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội.
- Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ
chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu.
- Công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện và quản lý còn yếu kém, nhiều sai phạm
trong quản lý chưa được xử ký kịp thời.

HỌC LIỆU
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 317-327.
2. Đại học quốc gia Hà Nội (2008), Một số chuyên đề Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 165-209.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 80-91.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 87 - 94.
5. Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà, Đoàn Minh Huấn (Chủ biên, 2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam – những tìm tòi và đổi mới trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội (1986- 2006), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 100-130.
6. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 308- 325.
7. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 97-113
8. Trần Văn Thọ (2005), Con đường công nghiệp hóa của Việt Nam, Tạp chí
Tia sáng, số 16, tr.48-53.
9. Nguyễn Đình Liêm (2005), Ba bài học kinh nghiệm về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Đài Loan, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc,
Số 5, tr.72-82.
10. Nguyễn Tiệp (2004), Một số đặc trưng của điều liện lao động ở nước ta
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập vào nền kinh tế thế, Tạp
chí Kinh tế và phát triển, số 88, tr. 20, 27

Chương V
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ TRƯỚC ĐỔI MỚI
a. Đặc điểm và khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
* Đặc điểm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp:
- Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
- Các cơ quản hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và
pháp lý đối với các quyết định của mình
- Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực.
 - Nhà nước bao cấp bằng những hình thức:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyế định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, theo định mức qua hình thức tem
phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ
tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá
vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
+ Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đố làm nảy
sinh cơ chế “xin – cho”.
* Khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
- Cơ chế này trong những thời kỳ nhất định đã tập trung được tối đa các
nguồn lực kinh tế, phát huy được sức mạnh tổng hợp cả nước, phù hợp với điều
kiện có chiến tranh. Bên cạnh đó, còn có những hạn chế:
+ Thủ tiêu cạnh tranh.
+ Kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ.
+ Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động.
+ Không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
b. Những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế
của Đảng (1979-1986)
 Bước 1: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (8-1979)
- Hội nghị phủ định một số yếu tố của thể chế kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp.
- Thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường (tuy nhiên thị
trường vẫn được coi ở vị trí thứ yếu, bổ sung cho kế hoạch.
- Nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích, huy động vai trò của
tiểu thương, cá thể, tiểu chủ… làm cho sản xuất bung ra.
Như vậy, Hội nghị đã đột phá vào khâu quan trọng nhất của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp: Chế độ công hữu và kế hoạch hóa trực tiếp.
 Bước 2: Chỉ thị 100, Quyết định 25 CP, 26CP của Chính phủ (1981)
- Nội dung các chỉ thị, quyết định trên là nhằm giải phóng sức sản xuất.
Những điều chỉnh này đã tạo ra hình thái song song tồn tại giữa kinh tế công hữu
kế hoạch hóa với phi công hữu và thị trường tự do. Đây là nét đặc thù từ sau Hội
nghị Trung ương 6. “Cộng sinh” và “xung đột” giữa hai loại cơ chế kinh tế, hai
loại thị trường là đặc trưng cơ bản của thời kỳ manh nha cho sự ra đời của thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
 Bước 3: Đại hội V của Đảng (1982)
- Nhấn mạnh: Xác lập chế độ quản lý và kế hoạch hóa đúng đắn, đổi mới chế
độ quản lý và kế hoạch hiện hành. Xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp.
- Về kế hoạch hóa nền kinh tế, kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán
kinh doanh XHCN.
- Để chấn chỉnh và phát huy tốt vai trò của phân phối lưu thông, Đại hội chủ
trương kết hợp chặt chẽ cả ba biện pháp quản lý: Kinh tế, hành chính, giáo dục,
trong đó biện pháp kinh tế là gốc. Như vậy, Đảng đã nhận thức được vai trò của
các biện pháp kinh tế, của các động lực kinh tế, thay vì đề cao, tuyệt đối hóa các
biện pháp hành chính mệnh lệnh như trước đây.
 Bước 4: Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (6-1985)
- Chủ trương xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, chuyển sang
hạch toán kinh doanh XHCN, thừa nhận quy luật của sản xuất hàng hóa.
- Đề cập ba nội dung quan trọng của cái cách: Giá cả, tiền lương, tiền tệ (giá
– lương – tiền).
+ Giá cả: Thực hiện cơ chế một giá thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi phí
cho giá thành sản phẩm.
+ Tiền lương: Xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương tiền tệ
gắn với xóa bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo cho người lao động tái tạo
sức lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.
+ Tiền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ; thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh nhịp
độ quay vòng đồng tiên; chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh XHCN.
Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI
khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế...” Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp
thiết và cấp bách.
2. Chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN thời kỳ
đổi mới (1986- nay)
a. Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng (sinh viên
đọc tài liệu)
- Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII.
- Tư duy của Đảng về KTTT từ Đại hội IX đến Đại hội XI
b. Những nội dung cơ bản của mô kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Về mục đích phát triển: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ,công bằng, văn minh”.
- Về phương hướng phát triển:Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, khuyến khích và đãi ngộ xứng
đáng tài năng, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
3. Kết quả của chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng
XHCN
a. Thành tựu
- Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh
tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành pháp luật, tạo
hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hình và phát triển.
- Chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
được hình thành: từ sở hữu toàn dân và tập thể, từ kinh tế quốc doanh và hợp tác xã
là chủ yếu đã chuyển sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan
xen, hỗn hợp, trong đó sở hữu toàn dân những tư liệu sản xuất chủ yếu và kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
- Việc gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói,
giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Sau hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
hình thành và từng bước hoàn thiện, thay cho thể chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp. Thể chế kinh tế mới đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích
cực, thúc đẩy tăng trường kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
b. Hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
 Hạn chế, yếu kém
- Trong hơn 20 năm xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền
kinh tế phát triển vẫn còn chưa vững chắc, chưa hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
- Trong chỉ đạo điều hành, công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch còn
thiếu tập trung, dứt điểm. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xã hội còn thấp, lãng phí;
cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, phân tán, dàn trải, số dự án dở dang, kéo dài còn nhiều.
- Việc đầu tư để đổi mới thiết bị công nghệ cũng như chuyển dịch cơ cấu
kinh tế còn chậm, một số lĩnh vực còn mang tính tự phát.
- Công tác quản lý đầu tư, quản lý xã hội còn bộc lộ nhiều thiếu sót, sơ hở
gây lãng phí, thất thoát và tiêu cực. Môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện song
vẫn chưa tương xứng với yêu cầu, còn nhiều ách tắc làm ảnh hưởng lớn đến thu
hút vốn đầu tư cả trong nước và ngoài nước.
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong những năm
qua chưa thực sự tạo dựng những cơ sở đủ tương thích để chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, đẩy nhanh CNH, HĐH và phát triển kinh tế vững chắc.
- Cải cách kinh tế thị trường chưa đáp ứng tốt yêu cầu chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường chưa thực sự tạo lập môi trường
cạnh tranh bình đẳng và thuận lợi đối với các chủ thể kinh doanh.
- Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn yếu.
 Nguyên nhân
- Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề hoàn
toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
XHCN còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn.
- Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn
chậm, nhất là trong giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
- Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ
quan dân cư, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp còn yếu.
HỌC LIỆU
1. Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Một số chuyên đề Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 210-270.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 47-86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 62-72.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 91-104.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83 - 88.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 77 - 87.
7. Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà, Đoàn Minh Huấn (Chủ biên, 2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam – những tìm tòi và đổi mới trên con đường đi lên CNXH
(1986- 2006), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 48-99.
8. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 243-346.
9. Nguyễn Trọng Phúc (2001), Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 128- 152.
10. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 52-83.
Chương VI
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
* Hệ thống chính trị và cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam
 Hệ thống chính trị
- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao
gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được
liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của
đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi
ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
- Hệ thống chính trị là khái niệm được Hội nghị Trung ương 6 khoá VI của
Đảng (3-1989) đưa ra, được ghi nhận về mặt pháp lý trong Hiến pháp 1992, thay
cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”, “nhà nước chuyên chính vô sản”
được dùng phổ biến trước đổi mới.
 Cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay bao gồm:
ĐCSVN, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; các đoàn thể chính trị xã hội: Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam,
Hội cựu chiến binh và các mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống.
1. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRƯỚC ĐỔI MỚI (SV
tự nghiên cứu)
a.Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân(1945-1954)
b.Hệ thống dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản
(1954-1975)
c.Hệ thống chuyên chính vô sản theo tư tưởng làm chủ tập thể(1975-1985)
2. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
 Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị
Quan điểm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành đồng bộ với
nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đổn Đảng, với các thành tố của hệ thống chính trị, với
đổi mới kinh tế.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng kiên định nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần chủ động, tích cực, quyết tâm,
thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm.
Nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
- Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các
chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức
kiểm tra bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
- Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
- Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị.
 Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN (Sv tự nghiên cứu)
 Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội (sv tự
nghiên cứu)
3. Kết quả quá trình xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới (SV tự
nghiên cứu)
 Ưu điểm
Hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới. Cụ thể là:
- Về Nhà nước:
+ Nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước được phân định rõ hơn,
phân biệt quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh.
+ Bộ máy nhà nước từng bước được kiện toàn (lập pháp, hành pháp, tư pháp).
+ Quản lý nhà nước bằng pháp luật được tăng cường
- Về Đảng:
+ Thường xuyên coi trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng
+ Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nhiều đổi
mới, dân chủ trong Đảng được phát huy, mối quan hệ giữa Đảng với dân được
củng cố
- Về Mặt trận và các đoàn thể chính trị:
+ Bộ máy tổ chức được đổi mới một bước
+ Đa dạng hoá các hình thức để tập hợp nhân dân, phát huy dân chủ
+ Tham gia vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền
 Nhược điểm
- Năng lực và hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị
chưa ngang tầm với đòi hỏi của tình hình mới.
- Cải cách nền hành chính quốc gia còn chậm, tình trạng quan liêu, hách dịch,
nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà nước, nạn tham nhũng trong hệ thống
chính trị còn trầm trọng, quyền làm chủ nhân dân còn bị vi phạm.
- Vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị còn
yếu chưa có cơ chế thật hợp lý, đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nói chung
chất lượng con hạn chế.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
còn chậm đổi mới.
 Nguyên nhân
- Nhận thức về đổi mới hệ thống chính trị chưa thật sự thống nhất.
- Trong hoạch định, thực hiện một số chủ trương giải pháp còn thiếu dứt
khoát, không triệt để.
- Đổi mới hệ thống chính trị chưa quan tâm đúng mực, chậm so với đổi mới
kinh tế.
- Lý luận về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nước ta còn
nhiều điều chưa tốt.
HỌC LIỆU
1. Đại học quốc gia Hà Nội (2008), Một số chuyên đề Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 271-321.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 109-123.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 80-91.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 129-135.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 131-137.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 124 - 129.
7. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội, tr. 146-164.
8. Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà, Đoàn Minh Huấn (Chủ biên, 2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam – những tìm tòi và đổi mới trên con đường đi lên CNXH
(1986- 2006), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 305-332.
9. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 347- 476.
10. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 114-222.
Chương VII
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VÀ GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
 Khái niệm “Văn hoá”(SV đọc tài liệu)
1. Xây dựng nền văn hóa trước đổi mới (sv đọc tài liệu)
a. Quan điểm, chủ trương xây dựng nền văn hóa mới
* Đề cương văn hóa 1943
* Đường lối văn hoá kháng chiến (1945-1954)
- Thể hiện qua các văn kiện:
+ Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” (25-11-1945).
+ Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam” (Trường Chinh, 7-1948).
* Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá (1954-1986)
Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cuộc cách
mạng về QHSX và cách mạng về khoa học- kỹ thuật, xây dựng và phát triển nền
văn hoá mới, con người mới.
b. Kết quả xây dựng nền văn hóa trước đổi mới (Sv đọc tài liệu nghiên cứu)
Thành tựu
- Đã xoá bỏ dần những mặt lạc hậu, lỗi thời trong di sản văn hoá phong kiến,
văn hoá nô dịch của thực dân Pháp, bước đầu xây dựng nền văn hoá dân chủ mới.
- Văn hoá cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào công cuộc
kháng chiến giành độc lập dân tộc, cổ vũ quần chúng trong chiến đấu và sản xuất.
Hạn chế
- Công tác tư tưởng và văn hoá thiếu tính sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc
xây dựng thể chế văn hoá còn chậm. Đời sống văn học nghệ thuật còn những bất
cập. Một số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống không được
quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá huỷ, mai một.
Nguyên nhân
- Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1954-1986 bị chi phối
bởi tư duy chính trị “nắm vững chuyên chính vô sản”.
- Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị
quy định bởi cuộc cách mạng.
- Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo
dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
2. Đường lối xây dựng văn hóa thời kỳ đổi mới
a. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển văn hóa
* Một là, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
*Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
*Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
*Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
*Năm là,văn hóa là một mặt trận, Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận
trọng.
b. Kết quả xây dựng nền văn hóa thời kỳ đổi mới (SV tự nghiên cứu)
Thành tựu
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hóa đã được tạo dựng. Nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được đề cao và phát huy.
- Nhận thức về giá trị di sản văn hóa và truyền thống văn hóa ngày càng
được nâng cao, tạo được sự đồng thuận và nguồn lực xã hội trong việc bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới. Khoa học và công nghệ có
bước phát triển.
- Giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng cùng với quá
trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Nhà nước ta
Hạn chế và nguyên nhân
Những yếu kém
- Những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn chưa
tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ mạnh.
- Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng
kinh tế.
- Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm, thiếu đồng bộ
- Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn và lạc hậu về đời sống văn hóa – tinh thần
ở nhiều vùng nông thôn, vùng khó khăn.
Những nguyên nhân chủ yếu
- Về khách quan:
+ Những thành tựu to lớn và sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội có tác động nhiều chiều, dẫn tới sự bỡ
ngỡ, lúng túng trong lực lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ.
+ Các thế lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng, văn hóa.
+ Sự bùng nổ về thông tin, truyền thông đi kèm với làn sóng giao thoa, du
nhập văn hóa với nhiều yếu tố văn hóa mới, có mặt tích cực nhưng cũng không ít
những tiêu cực.
- Về chủ quan:
+ Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, nhận thức về vị trí, vai trò
của văn hóa chưa đúng tầm, chưa coi phát triển văn hóa là trách nhiệm của toàn xã
hội.
+ Sự chỉ đạo của các cấp từ Trung ương đến địa phương còn bộc lộ sự bất
cập, hạn chế, phương thức lãnh đạo còn chậm được đổi mới.
+ Đầu tư cho lĩnh vực xã hội nói chung và văn hóa nói riêng, chưa tương
xứng với yêu cầu mới. Chưa có nhiều cơ chế và chính sách cụ thể phát huy nội lực
của nhân dân.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC
VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Thời kỳ trước đổi mới (SV tự nghiên cứu)
a.Đặc điểm của chính sách xã hội trước đổi mới
Thời kỳ 1945 – 1954
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình dân chủ nhân dân. Chính
phủ có chủ trương để các tầng lớp nhân dân chủ động tự mình giải quyết các vấn
đề xã hội
Thời kỳ 1954 – 1975
- Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình CNXH kiểu cũ thời
chiến. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao
cấp tràn lan dựa vào viện trợ.
Thời kỳ 1975 – 1985
Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng,
nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.
b.Kết quả thực hiện chính sách xã hội trước đổi mới
- Bảo đảm xã hội ổn định trong chiến tranh ác liệt, kéo dài, tạo niềm tin vào
chế độ; đồng thời đạt được thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực.
- Vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội chưa
được đề cập một cách thỏa đáng trong nhận thức của Đảng.
- Nguyên nhân cơ bản là do chúng ta chưa đặt đúng tầm chính sách xã hội
trong mối quan hệ với chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và
duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp.
2. Thời kỳ đổi mới
a. Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội
- Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.
- Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
- Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn
bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
- Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người găn với chỉ tiêu phát
triển con người (HDI), và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
b.Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
(1)- Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu
quả mục tiêu xoá đói, giảm nghèo.
(2)- Đảm bảo cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người
dân, tạo việc làm và thu nhập.
(3)- Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả; chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng.
(4)- Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ; cải thiện nòi
giống.
(5) -Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
(6) -Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
(7)- Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
c. Kết quả thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới (SV tự
nghiên cứu)
 Thành tựu
- Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào nhà nước và tập thể, trông chờ viện trợ đã
chuyển sang tính năng động, chủ động và tích cực của tất cả các tầng lớp dân cư.
- Công bằng xã hội trong thực hiện chế độ phân phối được thể hiện ngày một
rõ hơn.
- Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối
quan hệ tương tác với chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế
với chính sách xã hội.
- Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần
chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm
- Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hoá giàu – nghèo đã đi đến khuyến
khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo
- Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ
còn có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến
quan niệm cần thiết xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng.
 Hạn chế
- Sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại.
- Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến rất phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế
và an sinh xã hội.
- Công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của
nhân dân, phòng chống các tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
- Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng thêm; tài nguyên bị khai thác
bừa bãi và tàn phá.
- Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, sự phát triển
của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương
xứng với vị trí quốc sách hàng đầu của lĩnh vực này trong giai đoạn mới; an sinh
xã hội chưa được đảm bảo.
 Nguyên nhân
- Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo
số lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững xã hội.
- Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế - xã
hội.
HỌC LIỆU
1. Đại học quốc gia Hà Nội (2008), Một số chuyên đề Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 271-321.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 109-123.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 80-91.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 129-135.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 131-137.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 124 - 129.
7. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội, tr. 146-164.
8. Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà, Đoàn Minh Huấn (Chủ biên, 2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam – những tìm tòi và đổi mới trên con đường đi lên CNXH
(1986- 2006), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 305-332.
9. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 347- 476.
10. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 114-222.
Chương VIII. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
I. Đường lối đối ngoại của Đảng từ năm 1975 đến năm 1986

1. Hoàn cảnh lịch sử (sinh viên tự nghiên cứu)


.aTình hình thế giới
- Sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc
đẩy LLSX thế giới phát triển mạnh mẽ.
-Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ thống
XHCN đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh.
- Tuy nhiên, đến giữa thập kỉ 70 (XX), tình hình kinh tế - xã hội ở các nước
XHCN xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước XHCN cũng xuất hiện
những mâu thuẫn bất đồng.
- Tình hình Đông Nam Á cũng có những chuyển biến mới. Sau năm 1975,
Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa, khối quân sự SEATO tan rã; ngày 24 –
2 – 1976, các nước ASEAN ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi
tắt là Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình hợp tác trong khu vực
Tình hình trong nước
- Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, đất nước hòa bình, thống nhất
tiến lên CNXH với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại.
- Công cuộc xây dựng CNXH đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Đây
cũng chính là thuận lợi cơ bản của nước ta.
- Bên cạnh đó, nước ta cũng đã gặp vô vàn khó khăn: Hậu quả nặng nề của
hơn 30 năm chiến tranh; hai cuộc chiến tranh hai đầu biên giới làm suy giảm tiềm
lực của đất nước
- Các thế lực thù địch sử dụng những âm mưu thâm độc phá hoại nước ta.
Nước ta đang ở trong tình trạng vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh. Đó là cuộc
chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch.
- Tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên CNXH trong một thời
gian ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế xã hội.
b. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng
• Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Được xác định tại Đại hội lần thứ IV (1976), Đại hội lần thứ V (1982)
 Chính sách đối ngoại
Phương hướng chung
Phương hướng cụ thể
- Với các nước XHCN
- Đối với các nước trong khu vực Đông Dương
- Đối với các nước ASEAN
c. Kết quả thực hiện đường lối (sinh viên tự nghiên cứu)
 Thành tựu
- Với các nước XHCN:
+ Quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước XHCN được tăng cường,
trong đó đặc biệt là với Liên Xô.
+ Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế (khối
SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và
các nước XHCN khác trong khối SEV đều tăng (riêng ngoại thương chiếm 70 đến
80% kim ngạch buôn bán của Việt Nam).
+ Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện
với Liên Xô.
- Mở rông quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế:
+ Từ năm 1975 - 1977, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước.
+ Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF,15-9-1976); ghế thành viên chính thức ngân hàng thế giới (WB, 21-9-1976);
gia nhập ngân hàng châu Á (ADB, 23-9-1976); tiếp nhận ghế thành viên Liên hợp
quốc (20-9-1977); tham gia tích cực các hoạt động Phong trào không liên kết…
+ Từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.
+ Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á, cuối năm 1976, Philpin
và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam (tuy nhên, từ năm 1979, lấy cớ sự kiện Campuchia, các nước
ASEAN tham gia liên minh thực hiện bao vây cô lập Việt Nam).
- Những kết quả trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam:
+ Tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau
chiến tranh.
+ Tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng
thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
+ Tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau,
nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
 Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
- Quan hệ quốc tế của Việt Nam cũng gặo những trở ngại lớn.
- Từ những năm cuối của thập kỉ 70, lấy cớ sự kiện “Campuchia”, nước ta bị
bao vây, cấm vận vế kinh tế, cô lập về chính trị, vừa phải đương đầu với “một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế lực thù địch.
Nguyên nhân
- Chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua
kinh tế trên thế giới, không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ
quốc tế để khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
- Do “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, không đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù
hợp với tình hình.
2. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔI
MỚI (1986- NAY)
a. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
Hoàn cảnh lịch sử
 Những thay đổi to lớn trên thế giới, thời cơ và thách thức
Ảnh hưởng của cách mạng khoa học – công nghệ
- Từ giữa thập kỷ 80, cuộc cách mạng khoa học công nghệ (đặc biệt là công
nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống
của các quốc gia dân tộc.
Diễn biến mới trong quan hệ quốc tế
- Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Năm 1991, chế độ XHCN
ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế mở ra một trật
tự thế giới mới
- Những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế
của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển.
- Trước diễn biến mới của tình hình thế giới, các quốc gia, các tổ chức và lực
lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và
phương thức hành động cho phù hợp với nhu cầu nhiệm vụ bên trong và xu hướng
phát triển của thế giới.
- Các nước đấu tranh mạnh mẽ nhằm xác lập vai trò, vị thế của mình đối với
khu vực và thế giới. Xu hướng đa cực hoá chính trị đang trở thành phổ biến của thế
giới đương đại.
Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó
- Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ XI (tháng 1-2011) nhận định: “Toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình
thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”.
- Toàn cầu hóa tạo ra những tác động tích cực và tiêu cực đòi hỏi các nước
phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, đồng thời phải có bản
lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.
- Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ XI (tháng 1-2011) dự báo tình hình thế giới
trong những năm tới: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ
có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường…”
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương
- Trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn như: vấn đề hạt nhân, tranh
chấp chủ quyền biển đảo…nhưng vẫn được đánh giá là khu vực ổn định.
- Châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực lớn và năng
động nhất về phát triển kinh tế.
- Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.
 Tình hình đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
Tình hình đất nước
- Đất nước đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
- Sự đối đầu, thù địch của Mỹ và một số nước khác trong khu vực đối với
Việt Nam gây khó khăn nghiêm trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Từ năm 1979, xuất hiện vấn đề Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam nói
riêng và các nước Đông Dương nói chung với nhiều nước trên thế giới và với
ASEAN giảm xuống mức thấp nhất.
Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
- Giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới
bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cấp thiết và cấp bách đối với
nước ta.
- Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế.
- Tăng cường hợp tác đa phương với khu vực sẽ tạo nên sự đan xen quyền
lợi, sự phụ thuộc về lợi ích kinh tế giữa các nước với nhau và giữa các nước với
Việt Nam.
Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối (sinh viên tự
nghiên cứu)
 1986-1996: Phá thế bao vây, cấm vận, đa dạng phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế
- Đại hội VI (tháng 12/1986)
-Nghị quyết 13 BCT về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình
mới (tháng 5/1988) đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và sự chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. :
- Các Hội nghị Trung ương khóa VI, ĐHĐBTQ lần thứ VII (tháng 6/1991)
và các Hội nghị Trung ương khóa VII về đối ngoại:
+ Chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang
quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.
+ Nguyên tắc triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại là giữ vững nguyên
tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt
phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến
của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan
hệ.
+ ĐHĐBTQ lần thứ VII (tháng 6/1991) đề ra phương châm đối ngoại “Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”.
.1996 - 2011: Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển;đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ; chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế
+ ĐHĐBTQ lần thứ IX (tháng 4/2001): “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”.
+ ĐHĐBTQ lần thứ X (tháng 4/2006): thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế.
+ ĐHĐBTQ lần thứ XI (tháng 1/2011): triển khái đồng bộ, toàn diện, hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
b. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế
Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định.
- Tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển
kinh tế - xã hội, tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
- Kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng
hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng
của Việt Nam.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng
thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích
hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh bị đẩy vào
thế cô lập.
- Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực;
chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả
các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải
cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của
Đảng và Nhà nước.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò
của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Thành tựu và ý nghĩa
- Phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước
liên quan
- Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa
- Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế
- Mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý
- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi
trường cạnh tranh.
- Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ XI (tháng 1/2011) đánh giá: “hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng
cao”.
b.Hạn chế và nguyên nhân
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn bị lúng
túng, bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nước.
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn
chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ
chức kinh tế quốc tế.
- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh
tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
- Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công
nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu
hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát
triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
- Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu
cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc
tế, về kỹ thuật kinh doanh.
- ĐHĐBTQ lần thứ XI (tháng 1/2011): “Công tác nghiên cứu, dự báo chiến
lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại
giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn
hóa đối ngoại chưa thật đồng bộ”.
HỌC LIỆU
1. Đại học quốc gia Hà Nội (2008), Một số chuyên đề Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 400-475.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội
VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 77-89;95-100;104-109; 113-
120;123-129.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 112-116.
4. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội, tr. 302-348.
5. Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà, Đoàn Minh Huấn (Chủ biên, 2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam – những tìm tòi và đổi mới trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội (1986- 2006), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 449-470.
6. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 442-468.
7. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr. 288-340.
8. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000 (2002), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 292-296;319-329.
9. Nguyễn Trọng Phúc (2001), Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 211-236.
10. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 83-96.

You might also like