Professional Documents
Culture Documents
Tim Hieu Ve The Gioi 2
Tim Hieu Ve The Gioi 2
Sau khi lật đổ được ách cai trị của người Duy Ngô Nhĩ.
người Kyrgyz chi kiểm soát ưên danh nghĩa đe chế Duy Ngô
N h ĩ , đặc biệt là vùng phía đông đế chế này. Quyền lực và ánh
hường của họ rút cuộc bị đế chế Khiết Đan đè bẹp khi Khiết
Dan từ miền Đông Mông cồ tiến về phía tây. Ngày nay, nhiều
người Kyrgyz sống ờ nước Tuva, một nước cộng hòa tự trị cúa
Liên bang Nga, giáp với biên giới tây bắc Mông c ổ . Một bộ
phận người Kyrg>'Z khác bị đế chế Mông c ồ dồn đuối và phải
di cư về phía tây nam, nơi họ tạo thành đa số dân cư Kyrgyz.
96
KHIÉT ĐAN (LIÊU)
Trong giai đoạn hỗn loạn diễn ra sau khi quốc gia Duy
Ngô Nhĩ sụp dồ. quyền lực được chuyển về chò những người
được gọi là "Người tiền - Mông cồ” ờ các vùng phía đông
Mông Cồ và Mân Châu ngày nay. Khiết Đan cùng là một dân
tộc du mục ờ vùng này, vốn nam ưong nhà nước liên minh cùa
người Tiên Ty vào thế kỳ II SCN. Người Khiết Đan có bàn sẳc
văn hóa dân tộc đặc thù và có chữ viết riêng.
Khi nhà nước Bắc Ngụy (một liên minh cùa các bộ tộc
sống định cư và là láng giềng của người Khiết Đan) dược thành
lập thì người Khiết Đan từ chối không theo Bắc Ngụy và vi thế
họ đă phái trá giá đẳt trong nhiều thế kỳ tiếp theo. Người Khiết
Dan phải hứng chịu các cuộc tấn công liên lục từ bèn ngoài vào
và mọi nỗ lực giành độc lập của họ đều bị người Thồ Nhĩ K ỳ ờ
phía tây và Trung Quốc ờ phía đông đè bẹp. Thậm chí cả người
Koguryo ờ Triều tiên cũng muốn thống trị họ. Tuy người Khiết
Dan tham gia vào các liên minh chính trị nhưng vẫn không
tránh khỏi bị thống trị. Năm 696 SCN , khi người Đột Quyết bị
nhà Đưòng tấn công thì người Khiết Đan cũng chịu những cuộc
tấn công ciia quốc gia Duy Ngô Nhĩ đương thời là liên minh
cùa nhà Dường.
Vào đầu thế kỷ X , khi Duy Ngô Nhĩ suy yếu và nhà
Dường sụp đồ, lập tức người Khiết Đan thành lập triều đại
riêng cùa mình (tức nhà Liêu, thành lập năm 947) và khẳng
dịnh quyền lực ở miền bắc Trung Quốc. Họ tiến vào vùng phía
97
C Á C DẾ CH Ề VÀ MỘT SÔ VlX>H6 QUÒC có ĐẠI TRÊN THẺ G IỞ Ĩ
đông và tmng tâm Mông cổ, írong đó có địa điểm chiến lược
quan trọng là thung lũng Orhon và đóng đô ờ thung lũng này.
Tiến về phía tây và phía nam, họ kiểm soát được Con đưòmg Tơ
lụa và nắm được nguồn hàng hóa là muối vá các loại công cụ
đồ sắt. Họ cũng mờ mang quan hệ thương mại và ngoại giao
với cả Nhà nước Hồi Giáo và Đế chế Ba Tư.
Sau khi tiếp xúc với người Trung Quốc, trong xã hội <Ju
mục Khiết Đan xuất hiện những đặc điểm mới. Hơn 150 đô thị
mới được xây dựng mà những làn tích cùa chúng vẫn còn lại
cho đến ngày nay, đặc biệt là ờ các thung lũng phía dông sông
Herlen. Các đô thị này trở thành những trung tâm văn hóa, tôn
giáo và thương mại.
Sức mạnh quân sự của Khiết Đan suy giảm khi đế chế cùa
họ phân chia thành hai vùng, một vùng dựa trên cơ sơ xã hội du
mục bàn địa, còn vùng kia thi theo mô hình Trung Quốc. Người
Khiết Đan không sử dụng chừ Hán mà họ có chữ viết riêng của
mình. Phật giáo là quốc giáo cùa Khiết Dan; ngoài ra Mani
giáo, Thiên Chúa Nestoria, Khổng giáo và Đạo giáo cũng tồn
tại ưong đế chế Khiết Đan.
Đen nảm 1125, sau 200 năm tồn tại, đế chế Liêu bị
người Kim chinh phục. Ngưòi Kim là một bộ tộc có nguồn gốc
Tunjusic ờ bẳc Mãn Châu, sống bàng nghề chăn thà và săn bẩt
súc vật. Người Kim liên minh với Nam Tống để tấn công nguời
Khiết Đan. Một số người Khiết Đan vẫn bám trụ lại giao chiến
với Nam Tống, còn khoảng 10 vạn người khác, kế cả các thù
lĩnh, di cư về phía tây qua dãy Antai và tại đó họ thành lập nhà
nước Tây Liêu khá rộng ở Trung Á . ỏ vùng mới đến, họ sống
du mục và khuất phục các bộ tộc theo Hồi giáo ở đây và biển
các nhà ứiờ Hồi giáo ửiành các ngôi chùa Phật giáo và nhà thờ.
Thủ đô cùa Tây Liêu là Balasagun ở Kyrgyzstan ngày nay. Táy
Liêu tồn tại gần 100 năm, sau đó tan rã do nội chiến. Nàm
1218, Mông Cổ xâm lược Liêu.
98
KHMER
Vào thời cồ đại, một bộ lạc Mon cổ ở vùng hợp lưu của
sông Mẻkong và sông Sêmun tiếp nhận các yếu tố văn hóa mới
và phát triển thành dân tộc Khmer. Ngôn ngừ Khmer dần dần
hình thành và cộng đồng Khmer lớn mạnh sau khoảng vài ba
thế kỳ và bẳt đầu mỡ mang lănh thổ. Từ thế kỳ IX đến thế kỷ
X III, nhà nước Khmer phát triền phồn vinh ở khu vực Tonle
Sap và được coi là mạnh nhất ở Đông Nam Á khi đó.
Hình thức của nhà nước Khmer khác với các nhà nước
Đông Nam Á ở những thời kỳ ừước. Người Khmer coi vua là
“Trờ i" và họ phát triển một hệ Uiống thủy lợi phức tạp vào bậc
nhất thế giới, về tồng thể, dân cư Khmer tách ra thành hai
nhánh là nhánh cùa thị tộc Bhavavarman (Kambu - Mcra) ờ
phía bắc dày núi Đăngréc và nhánh của thị tộc Soma ở phía
nam dãy núi này (trung lưu sông Mêkông). Trung tâm nhánh
phía bẳc ờ Vatphu và trung tâm nhánh phía nam ờ Sambor.
99
CÁCĐÌ CH Ề VÀ MỌT sô V U tỉH G QUỎC cố ĐẠI TRẼN THỂ G IÓ I
Đến nâm 802, một người trong hoàng tộc Khmer trốn về
được từ Java và lên ngôi vua, lấy vương hiệu là Jayvarman II,
mờ ra thời kỳ Angkor. Jayvarman II thu phục các lãnh chúa rồi
lui về tây bắc Biển Hồ và xây dựng kinh đô Ankor ờ đó. Năm
994, vua Rajendravarman II lên ngôi, thống nhất Cămpuchia rồi
tiến đánh Champa.
100
CÁC ĐẾ CHẺ VÀ MỘT sò VUdMG QUỎC cỏ Đ Ạ Ĩ TRỀH T H Ỉ G IỚ I
Thái phát triển mạnh ờ lưu vực sông Mênam ưong ửiế kỷ X lll
thì lãnh thồ Cămpuchia ứiu hẹp dần và phải lo đối phó với các
thế lực bên ngoài hơn là lo mở mang lânh ứiổ.
Sau năm 1432, người Thái nhiều lần tấn công Angkor
khiến triều đình Cămpuchia phải rút về phía đông nam và thành
lập thủ đô mới, lúc đầu ở Basan, sau chuyển về Pursat, Lovek,
và cuối cùng là về Phnompenh. Đến thế kỷ X V I, Campuchia có
chiến tranh với Thái Lan ưong 78 năm và từ đó Campuchia
không còn khống ché được Phù Nam nữa. Trong những thời
gian sau, người Thái vẫn tiến vào Campuchia và nhiều người
Khmer chạy về phía nam xuống đồng bằng sông Cửu Long.
101
SRIVUAYA
102
:Ã C Đ ẻ CHẺ VÀ MỌT sỏ VƯŨNG QUỐC cồ Đ Ạ I TRẼN THẺ G IỚ I
Java.Cư dân Srivijaya chủ yếu theo Phật giáo. Srivijaya lúc này
có 15 vùng Dân chúng chù yếu làm nông nghiệp và sống
trong những ngôi nhà gỗ.
Vào khoảng năm 680, dưới thời vua Jayanasa. vương quốc
giàu có Malayu sáp nhập vào Srivijaya. Vua Jayanasa chiếm cứ
phần lớn vùng đất phía nam Sumatra. Đến cuối thế kỳ V II,
Jayanasa mờ một chiến dịch quân sự vào Bhumi Java và từ đó
Srivijaya đủ mạnh để khống chế nền thương mại ở Eo biển
Malacca, Eo biển Sunda, một số vùng biển Nam Á - Thái Bình
Dương, Biển Java và Eo biển Karimata.
Cuối thế kỷ V II, Srivijaya bao gồm hai vương quốc trên đào
Sumatra và ba vương quốc trên đảo Java. Đến cuối thế kỷ V III,
nhiều vương quổc ở tây Java như Tarumanagara và Holing
cùng nằm trong vòng ảnh hường của Srivijaya. Sừ sách cũng
chép rằng, cai trị ờ miền Trung Java vào thời đó có một gia tộc
Phật giáo có quan hệ với Srivijayavà và đó có thể là gia tộc
Sailendra. Cũng trong thế kỳ này, vùng Langkasuka trên bán
đảo Malay Irở thành một phần lãnh thổ của Srivijaya. Một
thời gian sau, hai vương quốc có thương mại phát triển là Pan
Pan và Tram bralinga ở bẳc Langkasuka cũng bị Srivijaya
khống chế.
103
CÁC ĐẺ CHẺ VÁ MpT sỏ VUONG QUỎC có Đ Ạ I TRẼN THẺ G IỚ I
Từ năm 820 đến năm 850, thủ lĩnh vương quốc Jambi cũ giành
lại độc lập. Cũng vào thời gian này, thủ lĩnh Balaputradewa của
hoàng tộc Sailendra, người bị ưục xuất khỏi Java, nẳm ngai vàng
104
CẢC DÉ CHẺ VÀ MỌT số Vư DNG QUÒC cổ dại trên th ẻ g iờ i
Nẽm 1288, trong cuộc chinh phục của Pamalayu, quốc gia
Singhasari (kế tiếp Kediri) chinh phục nhà nước Melayu, trong
105
C Ã CĐ É CHẺ VẢ MỌT sò VUONG QUÒC có D Ạ I TRÊN THẺ G IỚ I
106
MAJAPAHIT
Sau khi đánh bại vương quốc Melayu trên đào Sumatra
năm 1290, vương quốc Singhasari trở thành một trong những
thế lực khu vực mạnh nhất. Hoàng dế I lốt Tất Liệt của đế chế
Nguyên Mông đòi Singhasari cống nạp nhưng bị vua
Kertanegara cự tuyệt. Năm 1293, Hốt Tất Liệt đưa 1000 tàu
chiến đến đào Java. Nhưng cũng lúc dó vua Kertanagara bị
Quận công Jayakatwang cùa vương quốc Kediri, nước chư hầu
cùa Singhasari, tiếm ngôi và giết hại. Tuy vậy Jayakatwang
cũng không giết mà đã tha bổng con rể vua Kertanagara là
Raden W ijaya và cấp cho Raden W ijaya vùng đấl Tarik. Tại
đây một ngôi làng được dựng nên, có tên gọi là Majapahit (tên
quả cùa một loại cây ở đây). Khi quân Nguyên Mông đến Java,
Radcn W ijaya liên minh với họ và đánh bại Jayakatwang,
107
CÁC DỀ CHÈ VÀ MỌT sò VUCMG QUỎC có Đ Ạ I TRÉN THẺ G IỚ I
nhưng về sau Raden W ijaya bất ngờ tấn công các đạo quân
Nguyên Mông, buộc các đạo quân này rút khỏi Inđônêsia.
Năm 1377, quân đội Mạịapahit trấn áp một cuộc nổi dậy
ờ Palembang. Sau khi vua Hayam NVuruk qua đời năm 1389,
quyền lực Mạịapahit suy yếu do cuộc tranh giành ngai vàng
giữa các con ông. Rút cuộc, NVikramavvardhana kế ngôi. Lúc
này, người Hồi giáo và người Trung Quốc đặt các cơ sở của họ
108
CÁC ĐỀ CHẾ VÀ MỌT sò VƯCNG QUÒC có Đ Ạ I TRÊN THẺ G IỚ I
109
MÔNG CỐ
110
CÁC DẺ CHÊ VÀ MỌT s ỏ V lX ữ tG QUỎC c ò ĐẠI TRẼN THỀ G IỚ I
Vào khoảng năm 500 SCN , các liên minh bộ tộc đầu tiên
được thành lập. Lúc này, người Mông cổ phát minh ra bàn đạp
và hàm thiếc ngựa. Các bộ tộc du mục mờ các cuộc đột kích
vào cộng đồng người Trung Quốc định cư ở miền nam để cướp
lúa mì, tơ lụa và các công cụ sản xuất. Trong những thế kỳ sau,
nhờ có ngựa mà các bộ tộc sống ở thảo nguyên phân tán rộng
hơn về các vùng phía tây Trung Á , Nga và Đông Âu. Một số họ
đi đến khu vực Trung Đông như Iran và thậm chí họ còn đến
tận Án Độ. Vào thời kỳ này, Mông c ổ là “chiếc nồi hầm” của
các bộ tộc và sắc tộc khác nhau. Vào năm 2006, ngưòi ta tìm
thấy dấu tích cùa người Scithy ở phía tây dãy núi Antai, chứng
tò người Ản - Âu đã có mặt ờ Mông c ổ vào thời kỳ Đồ sắt.
24. Người M ông cố ngày nay là những người sống ớ Cộng hòa Nhân dân
Mông C ố (truớc đây gọi là Ngoại Mông). 18 % dân số Nội Mông thuộc nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay là người Mông cổ. ớ Liên Xô cũ,
c ó 2 dãn tộc nguồn gốc Mông C o là người Buryat và người Kalmyk.
111
CÁC ĐẾ CBẺ VÀ MỘT s ò VUOMG QUỎC c ò Đ Ạ Ĩ TRẼN THÈ GXỚI
cùa các bộ tộc là săn bắt súc vậl, chăn nuôi gia súc và đánh cá.
Cùng với những đàn cừu dê, họ di chuyển theo mùa quanh thảo
nguyên và tuy sống phân tán song họ vẫn độc lập với nhau. Họ
ửiờ Thượng Đế và làm theo những chi dẫn cùa các Shaman.
Khó mà biết được chính xác gốc tộc của người Mông
Cổ, nhưng chắc chắn họ thuộc nhóm tộc Altaic (Thổ N hĩ K ỳ -
Mông Cổ)‘ ^ sống ờ bình nguyên Mông c ồ và các cao nguyên
Trung Á suốt một Thiên niên kỳ trước thời kỳ Thành Cát T ư
Hãn, Ngay từ T C N , các bộ tộc Altaic đã xâm nhập vào Trung
Quốc và một số trong đó là tổ tiên của người Mông cổ mà nồi
bật nhất là người Hung Nô (được coi thuộc nhóm tộc Thổ Nhĩ
K ỳ). Bên cạnh họ còn có các tộc người khác như Tiên T y ,
Tôba, Duy Ngô Nhĩ và Tácta■^ Khi đế chế Khiết Đan sụp đồ
đầu thế kỳ X II, các bộ tộc Mông c ổ nồ lực thống nhất lại
nhung không thành công do mâu thuẫn nội bộ và chủ nghĩa bè
phái của tầng lớp quí tộc.
25. Nhóm này gồm nguời Mông cố. Thồ Nhĩ Kỳ và Mân Châu.
26. Triều đại Liêu ờ Trung Quốc vẫn được co i có nguồn g ố c Mông cồ; nhà
Liêu bị thay thế bàng nhà Kim, còn nhà Kim thi bị Thành C át T ư Hăn lật đô.
112
CÁC DẺ CHỀ VÁ MỌT s ổ VUDHG QUỐC c 6 DẠI T R ÌN T B Ì G IÓ I
MỘC Chân (Thành Cát T ư Hãn) khi đó mới 9 tuồi. Sự phàn bội
và hắt hủi của những người cùng bộ tộc càng làm cho quyết
tâm chinh phục thế giới cùa Thiết Mộc Chân thêm mãnh liệt.
Tiếp theo, Thiết Mộc Chân học được cách thành lập liên
minh. Với sự giúp đỡ cùa các chiến hữu của cha mình, cùa
người anh ruột là Hãn Toghrul và bộ tộc Kereit, ông cứu thoát
được người vợ bị bắt cóc là Borte từ tay bộ tộc Merkit ở phía
bắc sông Selenga.Thế nhung, những công trạng của ông cũng
khiến các chiến hừu và người bạn thủâ nhò là Jamuha ghen tị.
Khi Thiết Mộc Chân được bầu làm Hãn cúa bộ tộc Borjigin thì
Jamuha tấn công và đánh bại ông. Những năm sau, Thiết Mộc
Chân lại một lần nữa thành lập liên minh với bộ tộc Kerit hùng
mạnh, ông đánh bại được người Tácta cùng với sự trợ giúp của
người Kim . Cuối cùng, ông thống lĩnh được các bộ tộc Kereit,
Merkit và khuất phục được bộ tộc Naiman. Jamuha bị xử từ.
Thờ i kỳ đính cao: Năm 1206, Hội nghị Thủ lĩnh các bộ
tộc bầu Thiet Mộc Chân làm Đại Hãn của một liên minh các bộ
tộc sống ở vùng sông Anon. Liên minh này không chi gồm
người Mông c ổ mà còn cà người Đột Quyết (Thổ Nhĩ K ỳ).
Đen năm 1206, Thành Cát T ư Hãn kiểm soát được lãnh địa cùa
các bộ tộc nằm giừa dày núi Hùng Am phía đông và dây núi
Antai phía tây và từ hồ Bai Can cho đến Vạn Lý Trưcmg
Thành, òng đặt tên cho dân tộc mình là Mông cổ (Mongol
Uls). Năm 1206 có thế được coi là năm mở dầu của triều đại
Mông Cố.
113
CÁC DỀ CBỄ V À MỘT s ô VUDHG QUÒC c ó đại tr ẽ n th ẻ GIỞX
Bộ luật Yasa. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các vua tiếp
ửieo, quàn đội Mông c ổ tuy không đông nhưng đạt được những
chiến tích lớn nhờ những chiến lược và sách lược khôn ngoan.
Trước khi các cuộc chinh phục đầu tiên được mở màn, Thành
Cát T ư Hãn đà lập đuợc liên minh với các nhóm tộc sổng ớ rìa
phía lây Mông cổ như Oriat. Kyrgyz và Duy Ngô Nhĩ, nhờ đó
tạo ra được một cơ cấu quân sự liên bộ tộc biết cách mờ các
cuộc bao vây chiến lược và tiến hành các chiến dịch quân sự
trong mùa đông.
Trong quân thì kỵ binh đóng vai trò chủ yếu, có tốc độ
hành quân cao và bám sát nhau chặt chẽ. Khi lâm trận, quàn
Mông Cổ chủ yếu dùng cung nò và chi sau khi đã phá vỡ thế
trận của đối thủ mcri chuyển sang đánh giáp lá cà. Tuy nhiên,
kiều dánh này thường thích hợp với địa hình bằng phăng hơn là
rừng núi. Để tấn công thành ư ì, Mông c ổ sử dụng thợ thủ công
114
C Á C DẾ CHẾ VÀ M pT sỏ vư^HG Q06c cổ DẠI TRÊN THẾ G IỚ I
của những nước có kỹ thuật phát triển cao hom (như Trung
Quốc, Arập hay Ba T ư ). Một kiểu đánh trận khác của quân
Mông Cổ là kêu gọi đầu hàng: irước khi tấn công một thành
phố, quân Mông cổ thường kêu gọi dân cư ở đó chịu đầu hàng
để đôi lấy an toàn tính mạng, còn nếu chống lại thi toàn bộ họ
sẽ bị tàn sát, chi có rất ít người, thường là các thương gia, mới
được sống sót.
Các cuộc chinh phục của Mông cổ: Sau khi đạt được sự
thống nhất trong nước, Thành Cát T ư Hãn bẳt đầu các cuộc
chinh phục. Đầu liên, ông tấn công vưomg quốc Tây Hạ ờ phía
tây nam Mông cổ và bắc Trung Quốc. Tại đây, mộl chiến lược
hăm thành kiểu mới dược áp dụng. Vua Tây Hạ đầu hàng và trờ
thành chư hầu cúa Mông cổ. Trong chiến dịch thứ hai, Thành
Cát T ư Hân vượt qua sa mạc Gôbi và Vạn Lý Trường Thành ớ
phía tây nam dánh bại nước Kim hùng mạnh hơn. Thù đô Nam
Kinh (Bắc Kinh) cùa Kim bị chiếm năm 1215, toàn bộ lành thổ
vùng phía bắc sông Hoàng Hà rơi vào tay quân Mông cồ. Vua
Kim chạy xuống phía nam sông Hoàng Hà đến thành phố Khai
Phong và đóng dô ớ đó 20 nãm. Tiếp theo, Thành Cát T ư Hãn
mờ các cuộc tiến công lên Trung Á . Năm 1218, nước Tây Liêu
ở đông Turkistan bị sáp nhập vào Đe chế Mông cổ.
Từ năm 1219 đến năm 1225, Thành Cát T ư Hăn mở các
cuộc tấn công ác liệt vào vương quốc Khorezm‘ ^ ờ miền tây
Turkistan và năm trên Con đưòmg lơ lụa. Năm 1218, khi quốc
vương Hồi giáo ở đây ra lệnh giết hại một sứ đoàn gồm 200
27. Tiếng Hán lả Hoa Lạc Tư Mô, một đế chế lớn o Trung Á gồm
Udabẽkistan. Tuốcm ênistan. Ảpghanistan và phần lớn lãnh thố cúa Iran
ngày nay.
115