Professional Documents
Culture Documents
HÀ NỘI - 2013
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ts.Vũ Thị Trâm - Trường Đại
học Dược Hà Nội, là người đã tận tình hướng dẫn và truyền đạt kinh nghiệm
nghiên cứu cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ts.Nguyễn Thị Thanh Hương – Bộ
môn Quản lý kinh tế dược, trường ĐH Dược Hà Nội, DS.Nguyễn Hồng Lĩnh -
Trưởng phòng Hành nghề y dược tư nhân, Sở Y tế tỉnh Nghệ An đã tạo điều
kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập và xử lý số liệu trên địa bàn tỉnh
Nghệ An và hoàn thành đề tài này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học dược
Hà Nội, phòng sau đại học, thầy cô các bộ môn đã tham gia giảng dạy lớp chuyên
khoa 1 này, đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè và những
người thân của tôi trong suốt thời gian qua đã luôn ở bên cạnh khích lệ, đồng
viên tôi thực hiện đề tài này.
ADR (Adverse Drug Reaction): Phản ứng bất lợi của thuốc.
BYT: Bộ y tế
FIP (Federation International Pharmaceutical): Liên đoàn dược phẩm quốc tế
(Good Pharmacy Practice): Thực hành tốt nhà thuốc
GMP (Good Manufacturing Practice): Thực hành tốt sản xuất thuốc
GLP (Good Laboratory Practice): Thực hành tốt phân phối thuốc
GSP (Good Storage Practice): Thực hành tốt bảo quản thuốc
HIV (Human Immunodeficiency Virus): Virus suy giảm miễn dịch ở người
NIDA (National Institute on Drug Abuse): Viện nghiên cứu về lạm dụng thuốc
NQ: Nghị quyết
QĐ: Quyết định
STD (Sexually Transmitted Disease): Bệnh lây qua đường tình dục.
STT: Số thứ tự
Thuốc ETC (Ethical Drugs): Thuốc phải kê đơn
Thuốc OTC (Over The Counter): Thuốc không phải kê đơn
TP: Thành phố
TT: Thông tư
WHA (World Heath Assembly): Hội đồng y khoa thế giới
WHO: (World Heath Organization): Tổ chức y tế thế giới
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuốc là loại hàng hóa đặc biệt, vì vậy kinh doanh thuốc ngoài việc phải
tuân theo những quy luật chung của nền kinh tế thị trường thì còn có nhiều điểm
khác biệt so với những loại hàng hóa thông thường khác. Một trong các yếu tố
khác biệt đó là thị trường thuốc ngày càng được nhà nước quản lý chặt chẽ, và
người kinh doanh thuốc phải có trình độ chuyên môn dược nhất định.
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành và thực hiện các chính sách mở cửa, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế tư nhân được phép kinh doanh thuốc, hệ
thống bán lẻ mở rộng, số lượng các nhà thuốc tư nhân tăng lên đáng kể, góp
phần to lớn vào công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân. Nhìn chung đã đảm
bảo cung ứng thuốc đầy đủ, đảm bảo chất lượng, kịp thời, với giá cạnh tranh.
Do các yếu tố về sự tiện lợi, chi phí thấp, cùng với sự nâng cao kiến thức
về sức khỏe thường thức của người dân nên xu hướng ngày nay phần lớn người
dân thường đến trực tiếp nhà thuốc, hiệu quốc để mua thuốc tự điều trị ngày
càng đông. Chỉ khi có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, họ mới tìm đến các cơ
sở khám chữa bệnh. Do vậy các nhà thuốc, hiệu thuốc trở thành nơi tiếp cận đầu
tiên với người dân trong hệ thống y tế.
Cũng vì tình hình đó, việc nâng cao chất lượng dịch vụ dược tại các nhà
thuốc tư nhân, các quầy thuốc là hết sức quan trọng và cấp thiết để đáp ứng nhu cầu
điều trị ngày một tăng của người dân. Tuy nhiên, sự phong phú và sẵn có của các
loại thuốc trên thị trường, cùng với thói quen và xu hướng tự sử dụng thuốc để điều
trị của người dân đã nảy sinh nhiều vấn đề đối với sức khỏe người bệnh, hiện tượng
lạm dụng thuốc, sử dụng thuốc sai chỉ định hay sai hướng dẫn ngày càng trở nên
phổ biến[8]. Tình trạng các nhà thuốc tư nhân vì chạy theo lợi nhuận mà vi phạm
các quy chế chuyên môn vẫn xảy ra phổ biến ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, điều
này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như tính mạng của người bệnh.
1
Thấy được vai trò quan trọng của các cơ sở bán lẻ thuốc đối với việc chăm sóc
sức khỏe cộng đồng, Liên đoàn dược phẩm quốc tế FIP đã đưa ra một văn bản bao
gồm các tiêu chuẩn về “Thực hành tốt nhà thuốc - GPP” và được WHO thông qua
năm 1997[16]. Kể từ đó đến nay, FIP và WHO đã đưa ra nhiều văn bản hướng dẫn
để hoàn thiện về “Thực hành tốt nhà thuốc” để các khu vực và quốc gia thực hiện.
Tại Việt Nam, năm 2007 Bộ Y tế chính thức ban hành và áp dụng nguyên tắc,
tiêu chuẩn “Thực hành tốt nhà thuốc - GPP” nhằm hướng đến cung ứng thuốc đảm
bảo chất lượng và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả cho người dân. Các tỉnh,
thành trong cả nước đã tích cực triển khai quyết định số 11/2007/QĐ-BYT về “Thực
hành tốt nhà thuốc”, trong đó Nghệ An là tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong việc thực
hiện chuẩn hóa các nhà thuốc theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế đưa ra để các nhà thuốc
trên địa bàn toàn tỉnh đạt GPP theo đúng lộ trình. Cho đến nay, các nhà thuốc trên
địa bàn thành phố Vinh đã cơ bản được chuẩn hóa để đạt tiêu chuẩn GPP. Điều này
đã góp phần làm việc kinh doanh thuốc tại các nhà thuốc có chất lượng được nâng
lên rõ rệt, góp phần làm củng cố niềm tin đối với người dân trong việc đến các nhà
thuốc để mua thuốc điều trị bệnh, phần nào làm thay đổi diện mạo ngành Dược trên
địa bàn. Tuy vậy, thực trạng các nhà thuốc đã đạt chuẩn GPP vẫn còn tồn tại nhiều
bất cập và sai sót trong quá trình hoạt động. Trước thực trạng đó, trong thời gian từ
tháng 6/2012 đến tháng 10/2012, tôi đã thực hiện đề tài “Khảo sát chất lượng dịch
vụ dược tại các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP trên địa bàn thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An” với 2 mục tiêu sau:
1. Khảo sát về cơ sở vật chất, sổ sách, tài liệu và việc thực hiện một số
quy định chuyên môn của một số nhà thuốc GPP trên địa bàn thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An.
2. Mô tả thực trạng một số kỹ năng thực hành của nhân viên bán thuốc tại
những nhà thuốc khảo sát.
Từ đó đưa ra ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ dược của
các nhà thuốc đạt GPP trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình hình chung về sử dụng thuốc trên thế giới và tại Việt Nam
1.1.1. Tình hình tự sử dụng thuốc trên thế giới
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, ngày càng
nhiều loại hoạt chất, chế phẩm thuốc ra đời giúp cải thiện công tác chăm sóc sức
khỏe cộng đồng. Xu hướng tự chăm sóc sức khỏe và sử dụng thuốc dẫn đến việc
người bệnh thường tự tìm đến các cơ sở bán lẻ thuốc để mua thuốc và tự điều trị,
chỉ khi có vấn đề thực sự nghiêm trọng, họ mới tìm đến cơ sở y tế khám chữa
bệnh và mua thuốc theo đơn. Do đó cũng phát sinh nhiều vấn đề trong việc quản
lý dược cộng đồng.
Hiện tượng lạm dụng, sử dụng thuốc kháng sinh, corticoid, các loại
vitamin … bừa bãi không cần thiết, đang là thách thức lớn cho ngành y tế của
bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới [7], đặc biệt là ở các quốc gia đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới WHO năm 2011 về sử dụng thuốc
cho thấy:
Sử dụng thuốc không hợp lý đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng toàn
cầu, dẫn đến lãng phí và có hại cho người bệnh. Ở các nước đang phát triển và
chuyển tiếp, ít hơn 40% bệnh nhân trong khu vực công và 30% bệnh nhân trong
khu vực tư nhân được điều trị phù hợp với hướng dẫn điều trị chuẩn. Thuốc
kháng sinh được sử dụng sai mục đích và sử dụng quá mức ở tất cả các vùng.
Tại châu Âu, một số nước đã sử dụng gấp ba lần số tiền thuốc kháng sinh cho
mỗi đầu người so với các nước khác với hồ sơ bệnh tương tự. Ở các nước đang
phát triển và chuyển đổi, chỉ có 70% trường hợp viêm phổi nhận được kháng
sinh thích hợp, khoảng một nửa tất cả các nhiễm trùng cấp tính do virus trên
3
đường hô hấp và các trường hợp tiêu chảy do virus sử dụng thuốc kháng sinh
không phù hợp.
Hiện tượng sử dụng các thuốc an thần và tiền chất không đúng theo chỉ
dẫn y tế cũng rất đáng lưu ý. Tại Mỹ, năm 2010 theo báo cáo của Viện nghiên
cứu về lạm dụng thuốc NIDA (National Institute on Drug Abuse) có khoảng 7 triệu
người sử dụng các thuốc tâm lý trị liệu không hợp lý (khoảng 2,7% dân số). Các loại
thuốc bị lạm dụng phổ biến nhất là: thuốc giảm đau: 5,1 triệu; thuốc an thần, gây
ngủ: 2,6 triệu; các chất kích thích: 1,1 triệu [20].
Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ chế độ điều trị chiếm khoảng 50% trên thế gới và
thấp hơn ở các nước đang phát triển và chuyển tiếp, có đến 50% của tất cả các
trường hợp pha chế thuốc là không đầy đủ (về hướng dẫn bệnh nhân hoặc ghi nhãn
khi cấp phát thuốc) [20].
Hậu quả tai hại của việc sử dụng thuốc không hợp lý dẫn đến việc: xuất hiện
nhiều thêm các tác dụng phụ, làm tăng các vi khuẩn kháng thuốc, hậu quả làm lây
lan các bệnh nhiễm trùng khiến nhiều bệnh lý trở nên trầm trọng, tỷ lệ tử vong cao và
chi phí điều trị tăng lên hàng tỷ đô la mỗi năm.
Chưa đến một nửa các quốc gia trên thế giới đang thực hiện các chính sách cơ
bản cần thiết để đảm bảo sử dụng hợp lý các loại thuốc như: giám sát và cập nhật
thường xuyên việc sử dụng thuốc, các hướng dẫn lâm sàng và có một trung tâm
thông tin thuốc ETC, thuốc OTC, tổ chức các hội đồng thuốc và điều trị tại hầu hết
các bệnh viện hoặc khu vực.
Sự lưu hành của các thuốc kém chất lượng cộng với việc bán thuốc và sử
dụng thuốc của người dân trong cộng đồng không đúng theo quy định chuyên môn
đã và đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của chính bản thân họ và các
thế hệ sau [15].
Bên cạnh đó hiện tượng thuốc giả xuất hiện trên thị trường vẫn xảy ra ở nhiều
nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Việc củng cố và nâng cao chất
lượng quản lý phân phối dược trong cộng đồng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
4
các nhà quản lý, nhằm khắc phục những tình trạng trên. Trong đó một phần quan
trọng là củng cố chất lượng các nhà thuốc tư nhân và quầy thuốc, là nơi trực tiếp bán
thuốc cho người bệnh.
Trên 50% các trường hợp mua thuốc giả được thực hiện trên Internet từ các
cơ sở hành nghề y dược bất hợp pháp[19].
1.1.2. Sự phát triển của thị trường dược phẩm tại Việt Nam
Sau nhiều năm đổi mới, ngành dược Việt Nam đã có những bước phát triển
tốt, đáp ứng nhu cầu thuốc phòng bệnh và chữa bệnh cho người dân cả về số lượng
và chất lượng.
Bảng 1.1. Số liệu thống kê sản xuất, xuất nhập khẩu thuốc qua các năm
Tổng giá trị tiền thuốc Trị giá SX trong nước Trị giá thuốc nhập
Năm
sử dụng (1.000USD) (1.000USD) khẩu (1.000USD)
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Population
81.8 82.7 83.5 84.4 85.3 86.1 87 87.8 89 90.1 91.3 92.5
(Triệu Người)
USD/người 5.9 6.7 7.5 9.1 11.6 13.8 16.2 18.8 21.8 25.4 29.4 33.83
33.8
US$/người
Triệu dân
94 35
92 29.4
30
25.4
90
21.8 25
88
18.8
86 20
16.2
84 13.8
15
11.6
82 9.1
7.5 10
6.7
80 5.9
5
78
76 0
3
4
00
00
00
00
00
00
00
01
01
01
01
01
2
Hình 1.1. Tiền thuốc bình quân đầu người qua các năm tại Việt Nam
6
Bảng 1.3: Tốc độ tăng trưởng của thị trường dược qua các năm
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Gr% 15.7 15.9 12.7 23.0 28.4 20.3 18.5 17.2 17.4 17.7 17.5
30 28.4
25
23
20 20.3
18.5
17.2 17.4 17.7 17.5
15.7 15.9
15
12.7
10
5
0
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
năm
Gr %
Hình 1.2. Tốc độ tăng trường thị trường dược phẩm Việt Nam
Tuy nhiên, trên thị trường thuốc Việt Nam vẫn xuất hiện một số loại thuốc
với chất lượng không đáng tin cậy.
7
Bảng 1.4. Tỷ lệ mẫu thuốc không đạt chất lượng
21
Bảng 1.6: Số liệu các cơ sở đạt tiêu chuẩn GPP đến 8/2012
Nhà Quầy Đại Lý Tủ thuốc
TT Cơ sở đạt GPP 8/2012
thuốc Thuốc Thuốc TYT
1 Tỉnh Nghệ An 138 388 139 466
2 Nhà thuốc đạt GPP 125 - - -
3 Nhà thuốc tại Thành Phố 118 - - -
Vinh đạt chuẩn GPP
(Nguồn: Sở Y tế Nghệ An)
Trong quá trình triển khai, thực hiện các tiêu chuẩn “Thực hành tốt nhà thuốc
- GPP” tỉnh Nghệ An đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, trong đó phải kể đến:
- Dược sỹ đại học không đủ để phụ trách chuyên môn các cơ sở trong địa
bàn toàn tỉnh và chỉ tập trung phần lớn tại thành phố Vinh.
- Nhiều địa điểm bán thuốc của các doanh nghiệp, nhà thuốc là địa điểm
thuê, nên rất khó khăn trong việc sửa chữa, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất…;
- Dược sỹ chủ nhà thuốc thường xuyên vắng mặt khi nhà thuốc hoạt động,
nên công tác tư vấn sử dụng thuốc không đảm bảo theo quy định;
- Doanh số bán của một số nhà thuốc còn thấp, nên không có nhiều kinh
phí đầu tư để nâng cấp cơ sở vật chất.
- Việc chấp hành quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú chưa được chú
trọng đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh dẫn đến các nhà thuốc GPP không có
đơn thuốc hoặc không đúng quy định nhưng vẫn bán thuốc cho người bệnh [9].
Tuy nhiên việc thực hiện “Thực hành tốt nhà thuốc” GPP không chỉ đơn
thuần là đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn mà thực hiện GPP là để
hướng tới nâng cao chất lượng dịch vụ dược tại các nhà thuốc nhằm thúc đẩy
chăm sóc sức khỏe cho người dân thông qua từng viên thuốc đảm bảo chất
lượng và những viên thuốc khi đến tay người dân được hướng dẫn sử dụng
thuốc an toàn, hiệu quả và hợp lý. Do đó ngoài việc đảm bảo đầy đủ về cơ sở vật
22
chất, trang thiết bị, các nhà thuốc GPP còn phải thực hiện đầy đủ các quy chế
chuyên môn và thực hành tại nhà thuốc.
23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
26
+ Sắp xếp thuốc hợp lý: theo nhóm tác dụng dược lý hoặc theo nhóm thuốc
kê đơn/ không kê đơn. Nếu nhà thuốc có kinh doanh thêm mặt hàng khác ngoài
thuốc thì cần phải xếp riêng thuốc và các mặt hàng đó.
b) Chỉ tiêu mô tả thực trạng kỹ năng thực hành của nhân viên bán thuốc
Các chỉ tiêu cụ thể đối với từng kỹ năng hỏi, khuyên, hướng dẫn sử dụng
thuốc cho từng trường hợp khách hàng mua thuốc. (Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Chỉ tiêu về kỹ năng hỏi, khuyên và hướng dẫn sử dụng
Kỹ năng Chỉ tiêu
Câu hỏi về triệu chứng bệnh
Về tiền sử bệnh liên quan
Về đối tượng sử dụng
Hỏi Về nhu cầu sử dụng thuốc ngoại hay nội.
Hiệu quả sử dụng thuốc trong quá khứ.
Về đơn thuốc Câu hỏi khác
Không hỏi
Chế độ sinh hoạt, dinh dưỡng khi sử dụng thuốc này.
Không nên tự sử dụng thuốc hay giới thiệu
Khuyên Nên tới cơ sở khám chữa bệnh
Cách phòng bệnh Lời khuyên khác
Không khuyên
Liều dùng 1 lần
Số lần dùng trong ngày
Tổng số ngày dung thuốc
Hướng dẫn sử dụng
Thời điểm dùng thuốc
Tác dụng không mong muốn và xử lý
Không hướng dẫn
27
Đối với các thuốc ra lẻ: Nhãn thuốc phải phù hợp với tiêu chuẩn của Bộ Y
tế (phụ lục 4)
2.3.3. Phương pháp thu thập dữ liệu
* Quan sát trực tiếp:
- Cơ sở vật chất, sổ sách, tài liệu và việc thực hiện một số quy chế chuyên
môn của nhà thuốc.
- Kỹ năng thực hành của nhân viên nhà thuốc và các thuốc mà khách hàng
đã mua.
* Phỏng vấn trực tiếp:
Phỏng vấn trực tiếp khách hàng sau khi mua thuốc tại nhà thuốc và ghi lại
các thông tin liên quan (Phụ Lục 5), thực hiện với tổng số 177 lượt khách.
- Tên khách hàng, tuổi, giới tính.
- Mua thuốc theo đơn, sổ khám chữa bệnh (KCB) hay không?
- Bệnh / chứng bệnh?
Phỏng vấn trực tiếp nhân viên bán thuốc để làm rõ:
- Tên người bán thuốc.
- Trình độ người bán thuốc.
- Các thuốc đã bán
Dữ liệu thu thập về cơ sở vật chất, sổ sách, tài liệu và thực hiện một số quy
định chuyên môn sẽ được điền vào “Phiếu khảo sát tại nhà thuốc” (phụ lục 3).
Dữ liệu thu thập về kỹ năng thực hành của nhân viên bán thuốc sẽ được điền
vào “Phiếu thu thập thông tin thực hành của nhân viên bán thuốc” (phụ lục 4)
Dữ liệu thu thập được từ việc phỏng vấn khách hàng được điền vào “Phiếu
khảo sát khách hàng” (Phụ lục 5).
2.4. Phương pháp đánh giá kết quả:
* Khảo sát về cơ sở vật chất, sổ sách tài liệu và việc thực hiện một số quy
chế chuyên môn:
Thông qua xác định tỷ lệ % số nhà thuốc đạt được ở từng chỉ tiêu
28
- Công thức tính như sau: TL% = 100 x Ni / N
Trong đó: TL%: Là tỷ lệ đạt được ở từng chỉ tiêu
Ni: Số nhà thuốc đạt chỉ tiêu i
N: Tổng số nhà thuốc nghiên cứu; N = 59
* Mô tả thực trạng kỹ năng thực hành của nhân viên tại nhà thuốc:
Công thức như sau:
TL% = 100 x Mi / M,
Trong đó: TL%: Là tỷ lệ đạt ở từng yêu cầu
Mi: Số trường hợp mua thuốc đạt ở chỉ tiêu i
M: Tổng số trường hợp mua thuốc; M = 177
2.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu:
Các số liệu thu thập được qua phiếu khảo sát và phiếu thu thập thông tin kỹ
năng thực hành của nhân viên tại nhà thuốc sẽ được nhập vào máy tính và phân tích
bằng phần mềm Microsoft Offce Excel 2007.
29
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Cơ sở vật chất, sổ sách tài liệu và việc thực hiện một số quy định
chuyên môn.
3.1.1 Cơ sở vật chất
a) Xây dựng và thiết kế
Bảng 3.1 : Một số tiêu chuẩn về xây dựng và thiết kế.
Số nhà Tỷ lệ (%)
STT Tiêu chuẩn
thuốc (n=59)
1 Địa điểm cố định, riêng biệt 59 100
2 Diện tích > 10 m2 59 100
3 Khu vực ra lẻ thuốc 13 22
4 Khu vực rửa tay cho người mua và bán 31 52,5
5 Khu vực tư vấn riêng 9 8,1
6 Khu vực ngồi cho người mua đợi 11 18,6
31
Hình 3.2: Một số thiết bị bảo quản tại nhà thuốc
Nhận xét: Hầu hết các nhà thuốc khảo sát đã chú trọng đầu tư trang
thiết bị cần thiết theo yêu cầu của thực hành tốt nhà thuốc. Trong đó, 100%
nhà thuốc có tủ quầy giá kệ chắc chắn, có nhiệt kế, ẩm kế để đảm bảo trưng
bày và bảo quản thuốc, 64.4% nhà thuốc có quạt thông gió để đảm bảo lưu
thông không khí trong nhà thuốc, chỉ có 93.2% nhà thuốc có điều hòa nhiệt
độ, tuy nhiên các nhà thuốc tại thời điểm khảo sát hầu như không bật điều
hòa. Chỉ có trên 15.2% các nhà thuốc có máy hút ẩm, còn tỷ lệ lớn nhà thuốc
trong danh sách khảo sát không có máy hút ẩm. Tại thời điểm khảo sát không
có nhà thuốc nào để nhiệt độ trong nhà thuốc lên trên 30oC và độ ẩm lên trên
75%. Về việc tránh cho thuốc không tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời,
đã có 88.1% nhà thuốc có biện pháp thực hiện như: sử dụng rèm, cửa kính tối
màu, tạo mái che chắn, một số nhà thuốc có cây xanh ở phía trước, tạo không
khí bóng mát cho khách vào mua hàng và cũng đảm bảo được việc tránh ánh
nắng mặt trời chiếu vào nhà thuốc.
32
3.1.2 Sổ sách và tài liệu chuyên môn
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu về sổ sách và tài liệu chuyên môn
Số nhà Tỷ lệ (%)
STT Tiêu chuẩn
thuốc (n=59)
33
Nhận xét: Chỉ có 62.7% nhà thuốc có danh mục thuốc OTC,ETC để
tra cứu. Có 81.3% các nhà thuốc có tài liệu tra cứu hướng dẫn sử dụng
thuốc và 88.1% nhà thuốc có sổ mua bán thuốc. Các loại tài liệu chủ yếu
sử dụng là Thuốc và Biệt dược, Mims. Với chỉ tiêu về máy tính, thì mới
có 10.1% các nhà thuốc sử dụng để quản lí thuốc tại nơi kinh doanh của
mình. Quy chế chuyên môn và sổ theo dõi ADR là 2 chỉ tiêu thấp dưới
5%, chứng tỏ các nhà thuốc chưa thấy được tầm quan trọng và mức độ
cần thiết của các loại sổ sách này. Các nhà thuốc tuy có nhiệt kế và ẩm
kế đầy đủ 100% nhưng số nhà thuốc có sổ để theo dõi nhiệt độ, độ ẩm lại
rất thấp, chỉ có 18.6%, trong số này thì lại có nhiều nhà thuốc không
thực hiện việc ghi chép đầy đủ.
Về các quy trình thao tác chuẩn được áp dụng tại nhà thuốc,
kết quả khảo sát thu được như sau:
Bảng 3.4: Chỉ tiêu về một số SOP áp dụng tại nhà thuốc
Số nhà Tỷ lệ %
STT Tên SOP
thuốc (n= 59)
5 SOP giải quyết đối với thuốc bị khiếu nại hay thu hồi 5 8,4
34
Hình 3.4: Chỉ tiêu về một số SOP áp dụng tại nhà thuốc
Nhận xét: Từ đồ thị trên cho thấy: Phần đa các nhà thuốc GPP
trong diện khảo sát không có quy trình thao tác chuẩn áp dụng tại
nhà thuốc. Các nhà thuốc có sử dụng SOP là các nhà thuốc của công
ty dược và một số ít nhà thuốc bệnh viện. Tuy nhiên, trong số các
nhà thuốc có SOP này thì một số nhà thuốc, SOP lại không được để
ở nơi dễ thấy, dễ đọc để có thể thực hành theo. Phần đa các nhà
thuốc công ty được khảo sát đều có quy trình mua thuốc, quy trình
bảo quản, quy trình làm vệ sinh. Không một nhà thuốc nào có quy
trình bán thuốc không theo đơn. Tất cả các nhà thuốc kinh doanh hộ
cá thể đều không có các quy trình chuẩn.
35
3.1.3 Về thực hiện một số quy định chuyên môn
Bảng 3.5: Tình hình thực hiện một số quy định chuyên môn
Số nhà Tỷ lệ (%)
STT Tiêu chuẩn
thuốc (n=59)
1 Dược sĩ đại học có mặt 8 13,5
2 Niêm yết giá thuốc 55 93,2
3 Mặc áo blouse 59 100
4 Đeo thẻ 23 38,9
5 Sắp xếp thuốc hợp lý 52 88,1
100 100
Tỷ lệ %
93.2
90 88.1
80
70
60
50
40 38.9
30
20 13.5
10
0 Tiêu chuẩn
DSĐH có Niêm yết Mặc áo Đeo thẻ Sắp xếp
mặt giá Blouse hợp lý
Hình 3.5: Tình hình thực hiện một số quy định chuyên môn
Nhận xét: Tại thời điểm khảo sát, một số quy định chuyên môn chưa được
các nhà thuốc chấp hành đầy đủ. Tỷ lệ nhà thuốc dược sỹ đại học có mặt trong
thời gian hoạt động chỉ chiếm 13.5%. Có 93.2% số nhà thuốc thực hiện niêm
yết giá thuốc đầy đủ, đúng quy định, 100% nhà thuốc khảo sát chấp hành tốt
36
việc nhân viên mặc áo blouse khi bán thuốc, tuy nhiên việc đeo thẻ lại chỉ có một
tỷ lệ thấp nhà thuốc khảo sát chấp hành (khoảng 28.9%). 88.1% số nhà thuốc thực
hiện sắp xếp thuốc hợp lý ở khu vực trưng bày và bảo quản thuốc, các thuốc
được sắp xếp theo nhóm tác dụng dược lý một cách ngăn nắp và khoa học.
3.2 Thực trạng một số kỹ năng thực hành của nhân viên nhà thuốc
3.2.1 Trình độ của người bán thuốc
2 Dược tá 32 17.9
DSTH
Dược tá
17.9
82.1
37
Khảo sát ngẫu nhiên mỗi nhà thuốc với 3 lượt khách hàng mua thuốc,
nhóm nghiên cứu đã khảo sát tổng cộng là 177 lượt khách hàng. Tổng số
thuốc đã mua trong 177 lần khảo sát là 295 thuốc. Cơ cấu các nhóm thuốc
được thống kê trong bảng 3.6.
Bảng 3.7: Các nhóm thuốc khách hàng đã mua
Tỷ lệ %
STT Nhóm thuốc Tần suất
(n=295)
6 Vitamin 12 4.1
Nhận xét: Tổng số các loại thuốc mà 177 khách hàng được khảo sát đã
mua là 295 thuốc. Tỷ lệ bình quân một người mua 1,6 thuốc. Trong đó nhóm
thuốc giảm đau, hạ sốt chống viêm NSAIDS và Paracetamol được mua
nhiều nhất (27.8% lượt mua thuốc), sau đó là kháng sinh (22.7%), thuốc trị
ho, long đờm, chống phù nề (16.3%). Các thuốc ảnh hưởng chức năng dạ
dày ruột, hormon và nội tiết tố, Vitamin, thuốc tim mạch lần lượt chiếm tỷ lệ
6.4%; 5.8%; 4.1%; 5.4%. và có 11.5% lượt khách hàng mua các thuốc khác
như: sát trùng, kháng histamin, an thần, điều trị nấm ký sinh trùng…
38
b) Tỷ lệ thuốc bán có nhãn phù hợp và không phù hợp.
38.3
Nhãn Phù hợp
Nhãn không phù hợp
61.7
Thuốc ETC
Thuốc OTC
38
62
56.29
43.71
30
25
20
15
10
5
0
Hình 3.10: Tỷ lệ các nhóm thuốc ETC đã mua có toa và không có toa
Nhận xét: Tỉ lệ bán thuốc kháng sinh không theo đơn chiếm tỉ lệ cao
nhất trong các nhóm thuốc được bán ra, tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau, hạ
sốt, chống viêm phi steroid. Nhóm thuốc tim mạch thì 100% bán thuốc có
đơn hoặc sổ khám bệnh. Nhóm thuốc dạ dày, ruột tỉ lệ bán theo đơn cũng cao
hơn bán không có đơn.
3.2.3 Kỹ năng thực hành của nhân viên tại nhà thuốc
a) Kỹ năng hỏi
Nhóm nghiên cứu đã khảo sát một số câu hỏi thường gặp trong 177 lượt
khách hàng mua thuốc tại 59 nhà thuốc được khảo sát. Kết quả thu được thể
hiện trong bảng 3.11.
42
Bảng 3.11: Những câu hỏi của nhân viên nhà thuốc
Tỷ lệ %
STT Câu hỏi Tần suất
(n=177)
1 Triệu chứng bệnh 123 69.5
2 Tiền sử bệnh liên quan 47 26.5
3 Đối tượng sử dụng thuốc 76 43
4 Khả năng thanh toán 59 33.3
5 Hiệu quả sử dụng thuốc trong quá khứ 43 24.3
6 Đơn thuốc và kiểm tra đơn thuốc 37 21
7 Câu hỏi khác 18 10
8 Không hỏi 9 5
Hình 3.11: Những câu hỏi của nhân viên bán thuốc
43
Nhận xét: Qua khảo sát 177 lượt khách hàng mua thuốc tại 59 nhà thuốc, có
9 lượt (tương đương 5%) mua thuốc nhân viên nhà thuốc không đặt bất cứ câu hỏi
nào cho khách hàng, phần đa đối với những trường hợp này người bán thuốc chỉ
bán theo yêu cầu của người mua. 168 trường hợp còn lại, nhân viên nhà thuốc đưa
ra ít nhất 1 câu hỏi cho khách hàng. Tổng số câu hỏi thu được trong 168 lượt khách
hàng mua thuốc được người bán thuốc đặt câu hỏi là 403, trung bình nhân viên nhà
thuốc đặt ra 2.27 câu hỏi cho 1 trường hợp mua thuốc. Đối với câu hỏi triệu chứng
bệnh, đã có 123/177 lượt khách được hỏi, chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các câu hỏi
dành cho người bệnh đến mua thuốc là 69.5%.Câu hỏi được người bán thuốc sử
dụng để hỏi người mua nhiều tiếp theo là đối tượng sử dụng thuốc (độ tuổi) chiếm
43%, các câu hỏi chủ yếu tập trung khai thác về tuổi và giới tính. Có 47 lượt (tức
26.5%) trường hợp được hỏi về tiền sử bệnh liên quan như: Có đau dạ dày không?
(đối với trường hợp có mua các thuốc NSAID, hay corticosteroid)…Có 33.3%
trường hợp nhân viên nhà thuốc có hỏi khả năng thanh toán của khách hàng. Với
những trường hợp này khi người bán thấy người mua đề nghị đổi sang thuốc khác,
hoặc thấy người mua đang phân vân lượng lữ một số thuốc trong đơn thì người bán
mới hỏi đến khả năng thanh toán của bệnh nhân. Đáng chú ý là trong 128 trường
hợp mua thuốc ETC chỉ có 37 trường hợp được người bán thuốc hỏi kiểm tra đơn
thuốc, điều này nói lên rằng việc tuân thủ bán thuốc theo đơn tại các nhà thuốc
được khảo sát đang còn rất thấp. Các câu hỏi về hiệu quả sử dụng thuốc còn ở tỷ lệ
thấp (24.3%), chủ yếu rơi vào những đối tượng mua thuốc cảm hay thuốc ho hoặc
thuốc chữa loét dạ dạy tá tràng. Ngoài ra nhân viên nhà thuốc còn đặt thêm 1 số câu
hỏi xã giao hay giới thiệu thêm thực phẩm chức năng cho khách hàng, số trường
hợp xuất hiện các câu hỏi này chiếm 10%.
b) Kỹ năng khuyên
Khảo sát về những lời khuyên của nhân viên bán thuốc dành cho khách hàng
trong 177 lượt khách hàng mua thuốc, thu được kết quả như bảng 3.11.
44
Bảng 3.12: Những lời khuyên của nhân viên nhà thuốc
Tỷ lệ %
STT Lời khuyên Tần suất
(n = 177)
1 Chế độ sinh hoạt dinh dưỡng 38 21.5
2 Không nên tự sử dụng và giới thiệu 22 12.4
3 Nên tới cơ sở khám chữa bệnh 19 10.7
4 Dùng thử một thời gian 51 28.8
5 Cách phòng bệnh 18 10.1
6 Lời khuyên khác 13 7.3
8 Không khuyên 67 37.8
Hình 3.12 : Những lời khuyên của nhân viên bán thuốc.
Nhận xét: Các nhân viên tại nhà thuốc chưa chú trọng vào việc đưa ra
lời khuyên cho khách hàng. Tổng số lời khuyên thu thập được là 161, như vậy
trung bình khoảng gần 0,9 lời khuyên cho 1 lượt khách hàng mua thuốc. Có
45
đến 37.8% số trường hợp nhân viên nhà thuốc không giành cho khách hàng
mua thuốc bất cứ lời khuyên nào. Khoảng 21.5% số trường hợp mua thuốc
nhận được lời khuyên về chế độ sinh hoạt và dinh dưỡng, chủ yếu là dành cho
những người mua thuốc tim mạch tiểu đường hoặc bệnh loét dạ dày tá tràng.
Có 28.8% trường hợp được nhận lời khuyên dùng thử thuốc một thời gian.
Các trường hợp này đều do nhà thuốc không có thuốc mà người mua yêu cầu
nên người bán muốn đổi sang thuốc khác có cùng chỉ định hoặc là khuyên
người mua mua thêm thực phẩm chức năng. Các lời khuyên còn lại bao gồm :
không nên tự sử dụng thuốc chiếm 12.4%, nên tới cơ sở khám chữa bệnh
10.7%, cách phòng bệnh chiếm 10.1%. Một số lời khuyên khác được nhân
viên nhà thuốc đưa ra chủ yếu hướng tới muốn thúc đẩy khách hàng mua
thêm thuốc hay thực phẩm chức năng, nên mua thuốc ngoại, 7,3% lượt khách
hàng mua thuốc xuất hiện lời khuyên loại này.
c) Kỹ năng hướng dẫn sử dụng thuốc.
Bảng 3.13: Hướng dẫn sử dụng thuốc của nhân viên nhà thuốc
46
Hình 3.13: Hướng dẫn sử dụng thuốc của nhân viên bán thuốc
Nhận xét : Có 14.1% lượt khách hàng mua thuốc không được nhân viên nhà
thuốc đưa ra bất cứ lời hướng dẫn sử dụng thuốc nào cho khách hàng. Có tổng cộng
468 lời hướng dẫn được đưa ra, trung bình 2,6 lời tư vấn cho một trường hợp mua
thuốc. Phần đa lời khuyên sử dụng là liều dùng một lần và số lần dùng trong ngày
(chiếm 85-86%). Tuy nhiên, tổng số ngày dùng thuốc lại không được người bán thuốc
khuyên, chỉ có 26.5% số lượt khách hàng mua thuốc nhận được lời khuyên nên sử
dụng thuốc trong bao nhiêu ngày, chủ yếu là thuốc kháng sinh. Có 41.8% được tư vấn
về thời điểm dùng thuốc, lời tư vấn phổ biến nhất cho các trường hợp mua thuốc uống
là " Ngày 2 lần sau ăn" . Cách dùng thuốc chỉ có 20.9% lượt khách hàng được tư vấn,
chủ yếu là thuốc bao vết loét không dùng với nước hoặc ít nước, hay uống nhiều nước
với một số thuốc kháng sinh có gây độc với thận.
Nhân viên nhà thuốc ít chú ý đến việc tư vấn về tác dụng không mong muốn, chỉ
có 4.5% số trường hợp mua thuốc được tư vấn về tác dụng không mong muốn và
phương pháp xử lý, đây là một tỷ lệ khá thấp phản ánh mức độ quan tâm đến việc sử
dụng thuốc an toàn của người bệnh còn hạn chế.
47
Chương 4
BÀN LUẬN
1. Cơ sở vật chất, sổ sách, tài liệu và việc thực hiện một số quy định
chuyên môn của nhà thuốc GPP.
1.1 Cơ sở vật chất.
+ Xây dựng và thiết kế.
Tất cả các nhà thuốc GPP trong diện khảo sát đều có địa điểm cố định riêng
biệt; được xây dựng chắc chắn, kiên cố, diện tích trên 15m2, nhiều nhà thuốc có
diện tích trên 20 m2 nên đã bố trí được không gian rộng rãi cho khu vực trưng bày
và bảo quản. Trên 50% số nhà thuốc có khu vực rửa tay cho nhân viên nhà thuốc
và khách hàng để đảm bảo vệ sinh khi tiếp xúc với thuốc. Tuy nhiên, phần đa lại
không sử dụng đến khu vực này, bằng chứng là nhiều nhà thuốc có chỗ rửa tay
nhưng lại không có nước hoặc nơi rửa tay lại rất bẩn, không được làm vệ sinh sạch
sẽ. Các nhà thuốc chưa chú trọng đến việc thiết kế khu vực ra lẻ thuốc và khu vực
để cho người mua đợi . Chỉ có khoảng 22% số nhà thuốc trong diện khảo sát có ô
ra lẻ thuốc nhưng qua quan sát việc ra lẻ thuốc chủ yếu thực hiện ngay tại các tủ
quầy, nơi khách hàng đứng mua thuốc. Tỷ lệ số nhà thuốc có khu vực cho người
mua đợi là 18,6 %, khi đến mua thuốc khách hàng thường đợi ngay ở trước khu
vực và bảo quản. Có khoảng trên 8% số nhà thuốc khảo sát có khu vực tư vấn.
Nhưng phần lớn việc tư vấn cho khách hàng không thực hiện tại khu vực tư vấn mà
thực hiện nhanh chóng tại khu vực đứng mua hàng. Ở các nước phát triển, khu vực
tư vấn là nơi dành cho các hoạt động có liên quan đến chăm sóc khách hàng và các
dịch vụ chuyên môn khác như: đo lâm sàng; hướng dẫn sử dụng thuốc, tư vấn về
thuốc và sức khỏe; hay phát các tài liệu và tờ rơi. Trái lại, ở Việt Nam, việc tư vấn
tại khu vực tư vấn ít được thực hiện mà chủ yếu diễn ra ngay tại tủ quầy bán thuốc.
Nhìn chung, các nhà thuốc khảo sát đã có sự đầu tư nhất định về hạ tầng
48
và thiết kế để tạo nên hình ảnh khang trang, sạch sẽ. Tuy nhiên việc bố trí các
khu vực và thực hiện đúng chức năng của các khu vực lại chưa được thực hiện
đầy đủ, chủ yếu mang tính chất đối phó lại các cơ quan chức năng.
- Trang thiết bị bảo quản.
Qua khảo sát cho thấy 100% số nhà thuốc có tủ quầy, giá kệ chắc chắn để
trưng bày, bảo quản thuốc, có đầy đủ nhiệt kế và ẩm kế để theo dõi nhiệt độ và
độ ẩm, có tới 93,3% các nhà thuốc trong số đó được trang bị điều hòa nhiệt độ.
Tuy nhiên chỉ có hơn 15% số nhà thuốc khảo sát được trang bị máy hút ẩm để
điều chỉnh độ ẩm khi cần thiết, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến việc bảo quản
chất lượng thuốc vào mùa mưa ẩm, nhất là đối với một tỉnh ven biển như Nghệ
An. Tại thời điểm khảo sát, tất cả các nhà thuốc đều giữ được nhiệt độ ở mức
dưới 30oC và độ ẩm dưới 75%. Trên 60% các nhà thuốc có quạt thông gió và có
trên 88% các nhà thuốc có các biện pháp chống ánh sáng mặt trời tiếp xúc trực
tiếp với thuốc như rèm, cửa kính tối màu, mái che…Đây là đặc điểm nổi bật của
một vùng có khí hậu rất nóng vào mùa hè.
Có thể thấy, các nhà thuốc khảo sát đã có tương đối đầy đủ các trang thiết
bị bảo quản cần thiết để đảm bảo chất lượng thuốc, tuy nhiên vẫn còn một tỉ lệ
khá nhiều các nhà thuốc được khảo sát chưa có trang thiết bị đầy đủ để bảo
quản, những nhà thuốc này cần phải đầu tư đầy đủ hơn nữa để nâng cao chất
lượng bảo quản thuốc tại đây.
Tóm lại, các nhà thuốc GPP đã có những bước tiến rõ rệt trong việc đầu
tư về cơ sở vật chất. Hình ảnh các nhà thuốc chật chội, ẩm thấp, tối tăm đã
không còn. Đây là một bước khởi đầu quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
thuốc và tạo được sự tin tưởng nơi khách hàng.
1.2 Sổ sách, tài liệu tại các nhà thuốc GPP
Trong các nhà thuốc được khảo sát, nhìn chung các loại sổ sách để quản lí
để thực hiện việc kinh doanh thuốc và để đảm bảo về chuyên môn còn rất thiếu
49
và chưa được các nhà thuốc quan tâm đúng mức. Có đến hơn 80% nhà thuốc có
tài liệu tham khảo để hướng dẫn sử dụng thuốc khi cần thiết, chủ yếu là Thuốc
và biệt dược, Dược thư quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên qua phiếu thu thập thông
tin kỹ năng thực hành của nhân viên tại nhà thuốc, các nhân viên rất ít khi sử
dụng tài liệu tham khảo để hướng dẫn, tư vấn sử dụng thuốc, việc tư vấn chủ yếu
sử dụng toa thuốc để đọc cho khách hàng cách sử dụng nếu khách hàng hỏi.
Tỷ lệ các nhà thuốc có danh mục thuốc OTC chiếm hơn 60% nhưng các
danh mục này thường để nơi rất khó tìm hoặc không dễ dàng cho việc tra cứu.
Các quy chế chuyên môn cần thiết để thuận tiện chấp hành quy chế hành nghề
dược là rất thấp, khoảng 5% . Điều này cho thấy các nhà thuốc chưa có ý thức
chấp hành các quy chế chuyên môn một cách triệt để. Biểu hiện rõ ràng nhất là
tỷ lệ vi phạm quy chế kê đơn thuốc vẫn lớn hơn 50% lượt khách hàng (trong
diện nghiên cứu) có yêu cầu mua thuốc kê đơn.
Về việc thực hiện theo dõi, ghi chép tại nhà thuốc, trên 88% số nhà thuốc
trong diện khảo sát có sổ theo dõi ghi chép mua bán thuốc. Bởi đây là công việc
gắn liền với quản lý lợi nhuận của nhà thuốc nên chủ nhà thuốc thường làm
nghiêm chỉnh. Đã có nhiều nhà thuốc trang bị máy tính để phục vụ kinh doanh,
tuy nhiên, việc sử dụng máy tính chỉ là dùng thủ công, manh mún và chưa sử
dụng các phần mềm chuyên dụng để quản lí. Mặc dầu vậy, đây là bước đầu đáng
khích lệ trong việc ưu thế hóa so với quản lí bằng giấy tờ sổ sách. Có 18,6% số
nhà thuốc có sổ theo dõi nhiệt độ, độ ẩm, đây là tỉ lệ rất thấp so với tỉ lệ các nhà
thuốc có trang bị nhiệt kế và ẩm kế. Điều này chứng tỏ tuy các nhà thuốc có đầu
tư trang thiêt bị nhưng phần đa vẫn đang là hình thức chứ không thật sự chú trọng
vào chất lượng thật sự. Những nhà thuốc có ghi chép thì việc ghi chép lại không
được thực hiện thường xuyên và đầy đủ. Chỉ có 2 nhà thuốc khảo sát có sổ theo
dõi ADR, tuy nhiên lại không có những ghi chép cần thiết và cập nhật, điều này
có thể do khách hàng chưa có những phản hồi kịp thời về những phản ứng bất lợi
khi dùng thuốc hoặc người bán thuốc không dặn dò khách hàng để ý vấn đề này
50
khi bán thuốc cho khách. Vì vậy có thể nói rằng thấy chưa có công tác theo dõi
ADR tại các nhà thuốc GPP trên địa bàn. Điều này phải được khắc phục một cách
đồng bộ bằng cách thay đổi thói quen, ý thức của khách hàng, của người bán
thuốc và tăng cường tuyên truyền, tập huấn của các cơ quan quản lý.
Nhìn chung, các nhà thuốc đạt GPP khảo sát chưa chú trọng vào việc thu thập
các tài liệu chuyên môn cần thiết và thực hiện ghi chép sổ sách đầy đủ, thường xuyên.
1.3 Thực hiện một số quy định chuyên môn.
Theo quy định, dược sỹ đại học có mặt tại nhà thuốc khi nhà thuốc đang hoạt
động để đảm bảo tư vấn, hướng dẫn sử dụng thuốc. Tuy nhiên, tại thời điểm khảo
sát, tỷ lệ này vẫn còn ở mức thấp chỉ khoảng 13.5% nhà thuốc khảo sát. Như vậy,
hoạt động kinh doanh và tư vấn sử dụng thuốc do nhân viên tại nhà thuốc thực
hiện. Có thể thấy, yêu cầu có dược sỹ đại học làm việc tại nhà thuốc GPP vẫn còn
là một thách thức lớn đối với các nhà thuốc chuẩn GPP.
Việc niêm yết giá thuốc để đảm bảo bán đúng giá thuốc đã được chấp
hành tương đối cao, trên 93%, đây là kết quả của việc tăng cường kiểm tra giá
thuốc của ngành y tế phối hợp với các cơ quan khác như quản lý thị trường
trong những năm gần đây. Về yêu cầu mặc áo blouse đã đạt 100% trên tổng số
nhà thuốc khảo sát, nhưng nhân viên đeo thẻ chỉ có gần 39%. Điều này cho thấy
ý thức chấp hành về trang phục khi làm việc tại nhà thuốc GPP của một bộ phận
không nhỏ nhân viên nhà thuốc là chưa tốt.
Sắp xếp thuốc cũng là một trong những tiêu chí quan trọng tại nhà
thuốc GPP cần phải được chấp hành để đảm bảo tính ngăn nắp, khoa học
trong thực hành nhà thuốc. Có 88% số nhà thuốc khảo sát đã thực hiện tốt
việc sắp xếp thuốc theo tác dụng dược lý.
Nói tóm lại, hiện tượng vi phạm quy định chuyên môn vẫn còn xảy ra
tương đối phổ biến tại các nhà thuốc trong diện khảo sát, phản ánh ý thức
chấp hành quy chế nhà thuốc GPP còn thấp. Điều này đòi hỏi các cấp, ban
ngành chức năng , tăng cường tuyên truyền, tập huấn và thanh tra kiểm soát
51
để nâng cao ý thức của những người làm việc tại nhà thuốc.
2. Kỹ năng thực hành của nhân viên tại nhà thuốc
Qua khảo sát, chủ yếu người bán thuốc tại các nhà thuốc GPP là dược sỹ
trung học, còn lại là dược tá. Chỉ có 13.5% nhà thuốc có dược sỹ đại học trực
tiếp bán thuốc tại thời điểm khảo sát. Cùng với việc tư vấn chủ yếu diễn ra ở khu
vực tủ quầy bán hàng và sự vắng mặt của đa phần dược sỹ đại học tại nhà thuốc,
các khách hàng khi đến mua thuốc sẽ ít được sự tư vấn, sử dụng thuốc của dược
sỹ đại học.
2.1 Các thuốc đã bán
Các thuốc đã bán trong các trường hợp khảo sát khá đang dạng về chủng loại.
Tỷ lệ các trường hợp có nhãn không hợp lệ là 38.3% chủ yếu là do khi ra lẻ
thuốc không còn bao bì ngoài và không có đơn thuốc, các nhân viên tại các nhà
thuốc không ghi thêm các thông tin cần thiết về hạn dùng, hoạt chất, liều dùng, số lần
dùng và cách dùng. Một số trường hợp vỉ thuốc được chia nhỏ, thuốc được ra lẻ theo
từng viên rồi đưa đến tay khách hàng trong cùng bao gói nên không xác định được:
tên thuốc, dạng bào chế, nồng độ… Đặc biệt, ở một số nhà thuốc xung quanh khu
vực bệnh viện, do có nguồn thuốc BHYT từ bệnh viện lấy ra, phần đa các thuốc này
không còn bao bì nguyên vẹn, khi đến tay người bệnh không còn đủ thông tin cần
thiết để người bệnh có thể xem. Điều này lại càng nghiêm trọng nếu như việc dùng
thuốc có xuất hiện những phản ứng bất lợi, có thể gây khó khăn cho việc chẩn đoán
và xử lý của bác sĩ khi có những tai biến khi dùng thuốc. Từ đó có thể thấy việc ghi
nhãn thuốc chưa được thực hiện tốt tại các nhà thuốc. Điều này có thể dẫn đến sử
dụng thuốc không an toàn, hợp lý. Tỷ lệ thuốc ETC mà các nhà thuốc bán không có
đơn còn chiếm tỷ lệ khá cao gần 60%. Việc bán thuốc ETC không cần đơn hay sổ
khám bệnh của bác sĩ có thể dẫn tới những hậu quả đáng tiếc trước mắt cũng như lâu
dài đối với người bệnh, ví như có thể điều trị không đúng bệnh đúng thuốc làm bệnh
trầm trọng hơn, hoặc gây gia tăng sự kháng kháng sinh của vi khuẩn trong cộng
đồng, hay xuất hiện nhiều hơn là những phản ứng bất lợi, những tương tác thuốc bất
52
lợi có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân.
2.2 Kỹ năng hỏi của nhân viên tại nhà thuốc.
Kỹ năng hỏi là kỹ năng đầu tiên và xuyên suốt trong quá trình bán hàng.
Việc đặt câu hỏi sẽ giúp nhân viên nhà thuốc khai thác được các thông tin cần
thiết giúp cho việc tư vấn lựa chọn và hướng dẫn sử dụng thuốc được hiệu quả.
Trong số các trường hợp mua thuốc mà đề tài khảo sát, số lượng câu hỏi
mà nhân viên tại nhà thuốc đặt cho bệnh nhân là chưa cao, trung bình 1 trường
hợp được hỏi trên 2,27 câu. Số câu hỏi xuất hiện nhiều nhất là các câu hỏi khai
thác bệnh/ triệu chứng bệnh nhưng cũng chỉ chiếm 69,5 % số trường hợp mua
thuốc. Tiếp đó là các câu hỏi về đối tượng sử dụng thuốc chiếm 43%, khả năng
thanh toán chiếm khoảng trên 33 %. Các câu hỏi về hiệu quả sử dụng thuốc chưa
được nhân viên tại nhà thuốc quan tâm nhiều (21,3%).Thông tin về đối tượng sử
dụng thuốc ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả của
người bệnh. Đặc biệt là tiền sử bệnh liên quan có thể ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả điều trị và mức độ an toàn khi sử dụng thuốc của bệnh nhân nhưng tỉ lệ
đặt câu hỏi vẫn còn mức thấp, chỉ có 26%. Các đối tượng dùng thuốc mà nhân
viên nhà thuốc cần lưu ý: người già,trẻ em, phụ nữ có thai hoặc đang cho con
bú. Đây là các đối tượng mà chuyển hóa thuốc khác với người bình thường nên
việc lựa chọn và hướng dẫn sử dụng thuốc cần phải đặc biệt quan tâm. Nhân
viên tại các nhà thuốc cũng chưa giành sự lưu tâm đúng mức trong việc hỏi và
kiểm tra đơn thuốc đối với các trường hợp mua thuốc kê đơn.
Tuy nhiên, việc hỏi để khai thác được bệnh, tiền sử bệnh hay khả năng
thanh toán của bệnh nhân là những kĩ năng tương đối khó, đòi hỏi người bán
thuốc phải có kinh nghiệm và thường xuyên trau dồi, nhưng trước hết người bán
thuốc cần phải có thái độ niềm nở đón khách, nhiệt tình tư vấn khi khách có yêu cầu,
nhân viên tại các nhà thuốc phải rèn luyện hơn nữa về kỹ năng hỏi, thường xuyên
cập nhật tài liệu để có thể thu thập đủ các thông tin mới cần thiết về bệnh và thuốc để
phục vụ khách hàng tốt hơn.
53
2.3 Kỹ năng khuyên của nhân viên tại nhà thuốc.
Kỹ năng khuyên đòi hỏi nhân viên nhà thuốc phải có kiến thức chuyên môn
sâu về bệnh và nắm chắc các thông tin liên quan đến thuốc, bệnh để có thể đưa ra
những lời khuyên bổ ích trong việc lựa chọn, sử dụng thuốc hay chế độ sinh hoạt
của người bệnh, để đảm bảo lời khuyên không lệch lạc hoặc bị sai, người khuyên
cần phải đặt lợi ích của người bệnh lên cao hơn lợi ích kinh doanh của nhà thuốc.
Theo kết quả khảo sát trung bình 1 trường hợp mua thuốc chỉ nhận được
khoảng 0,9 lời khuyên. Có đến 37,8% trường hợp mua thuốc không nhận được
bất cứ lời khuyên nào. Tỷ lệ số lời khuyên đưa ra nhiều nhất khoảng gần 29%
lượt mua thuốc với lời khuyên "dùng thử một thời gian rồi quay lại". 21% trường
hợp mua thuốc được khuyên về chế độ sinh hoạt hay dinh dưỡng. Còn lại các lời
khuyên về việc nên tới cơ sở khám chữa bệnh, cách phòng bệnh hay không nên tự
sử dụng hay giới thiệu thuốc ít được đưa ra.
Nhìn chung, nhân viên tại các nhà thuốc GPP chưa chú trọng vào việc đưa
ra những lời khuyên cho khách hàng hoặc là lời khuyên mang mang tính chất
kích thích nhu cầu để bán hàng còn nhiều mà chưa chú trọng thật sự vào lợi ích
của bệnh nhân.
2.4 Kỹ năng hướng dẫn sử dụng thuốc.
Kỹ năng hướng dẫn sử dụng thuốc là kỹ năng rất quan trọng có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả của bệnh nhân. Kỹ năng này đòi
hỏi nhân viên nhà thuốc phải hiểu biết, tận tình, chu đáo đối với khách hàng.
Trung bình một trường hợp mua thuốc nhận được 2,6 lời hướng dẫn sử
dụng thuốc. Những lời hướng dẫn được đưa ra chủ yếu về liều dùng 1 lần, số lần
dùng trong ngày và thời điểm dùng thuốc. Có rất ít khách hàng mua thuốc được
tư vấn về tác dụng không mong muốn của thuốc và cách xử lý nếu có phản ứng
bất lợi xảy ra khi dùng thuốc. Để hạn chế các phản ứng có hại của thuốc, nhân viên
tại các nhà thuốc cần tăng cường tư vấn về tác dụng không mong muốn của thuốc
và cách xử trí khi có TDKMM xảy ra với bệnh nhân.
54
Các nhà thuốc cũng đã ý thức được việc vi khuẩn kháng kháng sinh là bất lợi
đối với người bệnh nên đã nhắc nhở người bệnh nên uống đủ ngày và đủ liều.
Như vậy, kỹ năng thực hành của nhân viên nhà thuốc còn một số hạn chế nhất
định. Qua khảo sát có 5% lượt mua thuốc không được nhân viên nhà thuốc đưa ra
bất cứ câu hỏi nào, 37,8 % không nhận được lời khuyên và 14 % không được hướng
dẫn sử dụng thuốc. Điều này cho thấy các nhà thuốc chưa thực sự quan tâm đến chất
lượng tư vấn, sử dụng thuốc. Điều này có thể do một số nguyên nhân:
- Các nhà thuốc chưa thực sự hiểu hết về khái niệm thực hành tốt nhà thuốc:
nhà thuốc GPP không chỉ đơn thuần cần phải đầu tư về cơ sở vật chất và trang thiết
bị mà còn cần có kỹ năng thực hành hợp lý, khoa học , ý thức trách nhiệm, kiến
thức chuyên môn và y đức đối với cộng động.
- Ở thời điểm đông khách hàng, nhân viên nhà thuốc tập trung bán thuốc cho
nhiều người nên ít thời gian thực hiện hỏi, khuyên và hướng dẫn tận tình.
- Các nhà thuốc chưa nhìn thấy lợi ích lợi ích của việc thực hành tốt nhà
thuốc GPP đối với họ. Do đó, nảy sinh tâm lý đối phó với cơ quan chức năng.
- Lực lượng thanh kiểm tra, giám sát hoạt động hành nghề dược còn mỏng,
tần suất hoạt động chưa nhiều chưa đủ kiểm soát hết được hoạt động của các nhà
thuốc.
Các nhà thuốc chỉ chú trọng xây dựng diện mạo bên ngoài chứ về thực chất
chưa tuân thủ nghiêm ngặt theo đúng các quy định về GPP. Khi mà quy chế kê
đơn và bán thuốc theo đơn vẫn còn bị vi phạm với một tỷ lệ không nhỏ, y đức của
nhân viên nhà thuốc chưa được nâng cao, cùng với việc giám sát hoạt động của
các nhà thuốc GPP còn bị buông lỏng thì chất lượng dịch vụ dược tại các nhà
thuốc GPP vẫn khó có thể nâng cao
55
KẾT LUẬN
Theo mục tiêu nghiên cứu của đề tài trong chương 2, đề tài đưa ra kết luận như sau:
1. Cơ sở vật chất:
Phần lớn các yêu cầu về cơ sở vật chất và trang thiết bị bảo quản thuốc trong
quy định về thực hành tốt nhà thuốc của Bộ y tế đều được các nhà thuốc chấp
hành nghiêm chỉnh. Nhìn chung, đa số các nhà thuốc GPP khảo sát đã tạo ra
được một hình ảnh khang trang, sạch sẽ, kiên cố, riêng biệt và hiện đại. Bước
đầu tạo cho khách hàng sự yên tâm, tin tưởng vào chất lượng thuốc.
+ Thiết kế xây dựng: 100% các nhà thuốc đạt các chỉ tiêu: địa điểm cố định,
riêng biệt ; diện tích đạt tiêu chuẩn trên 10m2; tủ quầy giá kệ chắc chắn. Tuy nhiên, các
chỉ có hơn 50% nhà thuốc có khu vực rửa tay, 22% nhà thuốc có khu vực ra lẻ thuốc, có
18% nhà thuốc có khu vực cho khách hàng ngồi đợi và chỉ có 8% nhà thuốc có khu vực
tư vấn riêng cho khách hàng. Nhìn chung các chỉ tiêu xây dựng để phục vụ việc bán
thuốc theo yêu cầu của nhà thuốc GPP còn tương đối thấp.
+ Trang thiết bị bảo quản: Tủ quầy, giá kệt, nhiệt kế, ẩm kế đều đạt
100%, điều hòa nhiệt độ đã đạt 93%. biện pháp bảo quản: tránh ánh sáng mặt
trời tiếp xúc trực tiếp và tài liệu tham khảo đạt trên 80%. Duy nhất chỉ tiêu máy
hút ẩm còn đạt tỉ lệ rất thấp (dưới 20%).
2. Sổ sách, tài liệu chuyên môn.
Nhìn chung, các nhà thuốc chưa trang bị đầy đủ những sổ sách và tài liệu
chuyên môn cần thiết để phục vụ việc kinh doanh:
+ Sổ theo dõi mua bán thuốc: Được trang bị tương đối đầy đủ ở các nhà
thuốc (gần 90% các nhà thuốc khảo sát),
+ Tài liệu tra cứu, hướng dẫn sử dụng: Cũng tương đối ở mức 80%.
+ Danh mục thuốc OTC: Chỉ được hơn 60% nhà thuốc có danh mục.
+ Các loại sổ sách khác như: Sổ theo dõi ADR, sổ theo dõi nhiệt độ, độ
ẩm, sổ quản lý xuất nhập- tồn-hsd, sổ kiểm soát chất lượng, các SOP còn đạt
56
mức thấp hơn 20%. Để việc quản lý chất lượng thuốc tại nhà thuốc GPP được
tốt hơn thì các nhà thuốc cần làm đầy đủ hơn nữa các loại sổ sách trên.
3. Thực hiện quy chế chuyên môn.
+ Niêm yết giá thuốc và mặc áo blouse: Đạt hơn 90%
+ Sắp xếp thuốc hợp lý theo nhóm tác dụng dược lý: Đạt gần 90%
+ Các quy định khác (có mặt dsđh, đeo thẻ): Đạt tỉ lệ thấp
+ Quy chế ghi nhãn thuốc: Hơn 38% thuốc bán ra có nhãn không phù hợp.
+ Quy chế bán thuốc theo đơn: Hơn 56% thuốc ETC bán ra không có đơn
thuốc hay sổ khám bệnh của bác sĩ.
4. Kỹ năng thực hành của nhân viên bán thuốc
Có thể kết luận rằng, hầu hết các nhà thuốc mới chỉ chú trọng vào đầu tư về cơ sở
vật chất chứ chưa quan tâm đến kỹ năng tư vấn sử dụng thuốc cho khách hàng. Việc tư
vấn cho người mua thuốc chưa được quan tâm đúng mức.
+ Kỹ năng hỏi: Trung bình mỗi lượt khách chỉ nhận được 2,27 câu hỏi, chủ yếu
tập trung vào câu hỏi triệu chứng bệnh. Các câu hỏi khác chưa được quan tâm đúng mức,
đều thấp hơn 50%, đáng chú ý có đến 5% khách hàng không nhận được bất cứ câu hỏi
nào. Cần thấy rằng, việc hỏi để tạo ra quá trình mua bán thuận lợi và hiệu quả không chỉ là
nhiệm vụ mà còn là quyền lợi của chính người bán thuốc.
+ Kỹ năng khuyên: Trung bình, mỗi lượt khách hàng chỉ nhận được 0.9 lời khuyên.
Có đến 37.8 lượt khách hàng mua thuốc không nhận được bất cứ lời khuyên nào. Các lời
khuyên chủ yếu được đưa ra khi mà khách hàng cần sự tư vấn, chủ yếu là lời khuyên dùng
thêm một loại thực phẩm chức năng hay về chế độ sinh hoạt hay khẩu phần ăn.
+ Kỹ năng hướng dẫn sử dụng thuốc: Có đến 14% khách hàng không nhận được
bất cứ lời hướng dẫn sử dụng nào. Liều dùng và số lần dùng trong một ngày là hướng
dẫn phổ biến nhất, chiếm tỉ lệ hơn 80% số nhà thuốc khảo sát. Những yếu tố khác liên
quan đến việc sử dụng thuốc như: Tổng số ngày dùng thuốc, cách dùng, thời điểm dùng
thuốc chưa được quan tâm đúng mức (chiếm tỉ lệ dưới 50%). Đặc biệt hướng dẫn về
TDKMM và cách xử trí còn chiếm tỉ lệ rất thấp là 4.5%.
57
Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13. Trần Thị Ngọc Anh (2004), Tài liệu hướng dẫn thực hành tốt nhà thuốc
hướng tới đạt tiêu chuẩn GPP.
14. Trần Thị Thu Thủy (2000), Tình hình sử dụng kháng sinh trong điều trị,
Hội thảo sử dụng kháng sinh an toàn hợp lý, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh.
15. FIP (1993), Standard for quality pharmacy services, The Tokyo
Declaration, Tokyo 1993.
16. FIP (1997), Standard for quality pharmacy services, Good pharmacy
practice.
17. FIP and WHO (2011), Guideline on Good Pharmacy practice: standards
for quality of pharmacy services.
18. NIDA (2011), Prescription drug abuse remains a signigicant problem in
the United States. Available from:
http://www.drugabuse.gov/publications/topics-in-brief/ prescription-drug-
abuse.
19. WHO (1998), The role of pharmacist in self- care and self- Medication.
20. WHO ( 2010), Medicines: spurious/ falsely- labelled/ falsified/ counterfeit
(SFFC) medicines. Availble from:
http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs275/en.
21. WHO (2011), The World Medicines Situation 2011- Rational Use of Medicines
Phụ lục 1
15 Nguyễn Huy Hiệp NT Trường Sinh-CT TNHH 85-Tôn Thất Tùng- (số GPP
DP Trường Sinh 99/12)
79 Hoµng §øc VÜnh NTTN Minh H»ng 33-Ng V¨n Trçi, BÕn thñy-
Vinh(SGPP: 86)
Chúng tôi là nhóm nghiên cứu đến từ trường Đại học Dược Hà Nội đang thực
hiện đề tài “Khảo sát chất lượng dịch vụ dược tại các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP
trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”, rất mong ông (bà) vui lòng hợp tác và
cung cấp một số thông tin sau. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
I. THÔNG TIN CHUNG:
(Điều tra viên sẽ điền vào các thông tin dưới đây)
• Không hỏi
2. Kỹ năng khuyên
Những lời khuyên mà nhân viên bán thuốc đã đưa ra:
• Chế độ sinh hoạt, dinh dưỡng khi sử dụng thuốc này
• Không nên tự sử dụng thuốc này hoặc giới thiệu cho người khác.
• Nên tới cơ sở khám chữa bệnh để được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
• Dùng thử một thời gian rồi quay lại.
• Cách phòng bệnh.
• Lời khuyên khác: ...................................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................................................................................