You are on page 1of 23

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TÊN ĐỀ TÀI : TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG
QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN
ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Lớp học phần: 211200503
GVHD: Th.S Lê Hoài Nam
NHÓM 8
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Phan Tiểu Phương 16046941
2 Đặng Võ Diễm Hương 16066771
3 Ngô Thị Xuân Giàu 16024781
4 Nguyễn Thị Kiều 16070371
5 Phạm Thị Ngọc Thuy 16024821
6 Trần Thị Thanh Trúc 16040961
7 Huỳnh Hữu Khanh 16044791
8 Phạm Hữu Cần 16049211

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài: ........................................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: ................................................................. 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: ....................................................................................... 5
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................. 6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: ............................................................ 6
6. Ý nghĩa của tiểu luận:......................................................................................................... 7
7. Kết cấu của đề tài: .............................................................................................................. 8
Chương 1 ........................................................................................................................... 8
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG
TOÀN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. ....................... 8
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự:.............................................................................. 8
1.1.1. Định nghĩa: ..................................................................................................... 8
1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh: ..................................... 9
1.1.3. Tư tưởng quân sự thể hiện: .......................................................................... 10
1.2. Vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện đổi mới và hội nhập
quốc
tế:…...
…………………………………………………………………………………………………………………………………………..
16
1.2.1. Định nghĩa: ................................................................................................... 16
1.2.2. Đặc trưng: .................................................................................................... 17
1.2.3. Nội dung xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân: ........................................ 18
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 22
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

- Lí do về mặt lí luận:
Như chúng ta đã biết, Việt Nam ta ngay cả trong thời chiến lẫn thời bình đều
phải xây dựng và giữ vững được lực lượng quân sự và nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh của mình. Trong chiến tranh, khi nhắc đến vấn đề quân sự và quốc
phòng, người ta sẽ nghĩ đến ngay đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước khỏi ách đô hộ, xiền xích của đế quốc, thực dân. Trong thời bình,
nhiệm vụ của vấn đề quân sự và quốc phòng không còn là sự nghiệp “đấu tranh”
nữa, mà là sự nghiệp “bảo vệ đất nước” và “cảnh giác cao độ” giúp đất nước tránh
khỏi những âm mưu xâm lược, các lực lượng phản động, diễn biến hòa bình; giữ
vững nền độc lập, tự do của dân tộc. Ý thức được điều đó, ngay từ những ngày đầu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc và cho đến nay, Đảng ta luôn tiếp nối và phát huy
những giá trị quý báu trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề quân sự
và quốc phòng toàn dân.
- Lí do thực tiễn:
Ngày nay, khi được sinh ra trong thời bình và một thế giới phát triển với tốc
độ không ngừng, một bộ phận giới trẻ Việt Nam đang bị cuốn vào dòng xoáy của
những thành tựu khoa học công nghệ và dần trở nên thờ ơ với những vấn đề liên
quan đến lợi ích của đất nước,dân tộc và các vấn đề xã hội trên thế giới trong đó
có các vấn đề liên quan đến quân sự và nền quốc phòng toàn dân. Điều đó dễ dẫn
đến sự lệch lạc trong nhận thức và suy nghĩ, dễ bị các tác động tiêu cực làm ảnh
hưởng dẫn đến những hành vi sai trái gây ảnh hưởng đến tương lai của bản thân và
vận mệnh của đất nước.Vì vậy, hơn bao giờ hết, việc nâng cao nhận thức trong bộ
phận giới trẻ nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng về vấn đề quân sự, quốc
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 4

phòng toàn dân trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế là một điều vô cùng
cấp thiết.

- Kết luận: Từ những lí do lí luận và thực tiễn nêu trên, việc lựa chọn đề tài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự và nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện
đổi mới và hội nhập quốc tế” là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Việc tìm hiểu và
phân tích đề tài sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ và đúng đắn hơn từ đó nâng cao ý
thức bảo vệ Tổ quốc, dân tộc. Đồng thời tuyên truyền sâu rộng hơn về một trong
những giá trị tư tưởng quý báu mà chủ tịch Hồ Chí Minh để lại.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài:
* Ngoài nước:
- Thế giới ngày càng phát triển, kéo theo là những hệ lụy mà chính sự phát
triển ấy đem đến. Đầu tiên phải kể đến những vấn đề xã hội nhức nhói như: gia
tăng dân số; thiên tai; dịch bệnh; ô nhiễm môi trường; cạn kiệt tài nguyên; xung
đột tôn giáo, sắc tộc; chiến tranh, nội chiến ở một số quốc gia; khủng hoạn nhân
đạo…Đáng kể nhất là sự xuất hiện của rất nhiều nhóm vũ trang, nhà nước tự xưng,
các băng đảng khủng bố…đang hoành hành ở rất nhiều nơi, gây ra các vụ xung
đột, thảm xác, khủng bố…làm thiệt hại to lớn về người và của. Cùng với nó là sự
chạy đua vũ trang giữa các nước, càng làm căng thẳng thêm những mối quan hệ
quốc tế. Và phải kể đến việc tranh chấp lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi, trong đó Việt
Nam cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng. Tất cả những yếu tố trên rất có thể sẽ châm
ngòi cho một cuộc chiến tranh thế giới ba. Vì vậy, xây dựng một biện pháp ngoại
giao khéo léo và lực lượng quân sự, quốc phòng, đặc biệt là quốc phòng toàn dân
một cách vững mạnh và sâu rộng là vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia.
* Trong nước:
-Đất nước đang trong thời kì hội hập, bên cạnh việc giao lưu phát triển kinh tế,
văn hóa…vẫn phải đối mặt với vấn đề các thế lực thù địch,phản động trong và
ngoài nước lợi dụng sự mở cửa hội nhập, yếu tố đa dân tộc và sự hiểu biết thấp của
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 5

một số bộ phận người dân, để xúi dục bạo động, tuyên truyền sai trái về các chính
sách, đường lối của Đảng nhầm phá hoại an ninh, quốc phòng của đất nước. Ngoài
ra, nước ta còn phải đối mặt với tham vọng “Bành trướng lãnh thổ” đã nhen nhóm
từ ngàn năm nay của quốc gia láng giềng Trung Quốc với các hành động sử dụng
vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trên
đất liền, biên giới Tây Nam luôn phải đề cao cảnh giác với các hành động xung
đột, nhổ cột mốc biên giới của một số nhóm người quá khích từ Campuchia và phải
luôn có những chính sách quyết liệt trong việc lợi dụng yếu tố đa dân tộc, tôn giáo
để xúi dục chia rẻ, bạo động của các thế lực thù địch nước ngoài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
-Trên cơ sở các vấn đề lí luận và thực tiễn của thế giới và đất nước, việc tìm
hiểu, nghiên cứu và phổ biến “tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng
nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế” là vô cùng
quan trọng đối với từng người dân. Nhầm hiểu biết một cách chính xác về tình hình
của thế giới và đất nước trong thời đại mới và không hiểu sai lệch về các chính
sách đường lối của Đảng, Nhà nước, tránh bị kẻ xấu xúi dục, kích động gây mất
an ninh, trị an của quốc gia. Xây dựng tinh thần “Mỗi người dân là một chiến sĩ”
góp phần xây dựng quốc phòng quốc gia vững mạnh trong thời kì đổi mới và hội
nhập quốc tế.

-Cần phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về tình
hình trị an của đất nước. Tổ chức các phong trào học tập, nghiên cứu về “Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh” trong toàn thể nhân dân, đặc biệt là bộ phận cán bộ Nhà
nước, Đảng viên, học sinh, sinh viên để hiểu đúng và vận dụng đúng nếu cần.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 6

-Việc nghiên cứu vấn đề nhầm mục đích làm sáng tỏ tư tưởng của chủ tịch Hồ
Chí Minh trong lĩnh vực quân sự đối với toàn thể nhân dân. Xây dựng nền tảng lí luận
vững chắc về an ninh quốc phòng trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế.
-Phát hiện các thực trạng xã hội đang diễn ra trên thế giới và trong nước đã
được đề cập để có phương hướng giải quyết thỏa đáng, thích hợp.Đề xuất các
phương hướng giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến an ninh quốc gia như:
Nâng cao dân trí; tuyên truyền,giáo dục sâu rộng về các biện pháp bảo vệ an
ninh,trật tự; tổ chức thi đu, phong trào tìm hiểu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh; có những biện pháp quyết liệt cụ thể trong việc bảo vệ lãnh thổ quốc gia…
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Khách thể nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu của đề tài là những vấn đề được
nêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự và các vấn đề liên quan đến an ninh,
quốc phòng, các biện pháp giữ gìn an ninh quốc phòng góp phần bảo vệ và thúc
đẩy sự phát triển của đất nước.
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính là những lí luận được đưa
ra trong tư tưởng Hồ Chí Minh, biện pháp đưa những lí luận, nhận thức đúng đắn
vào trong quần chúng nhân dân.
* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu:
-Phạm vi về nội dung: Dưới góc độ khoa học học tập môn lý luận chính trị, tiểu
luận tập trung nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng
nền quốc phòng toàn dân.
-Phạm vi khảo sát điều tra: Chỉ nghiên cứu về “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”,
nghiên cứu về thực trạng xã hội hiện tại để rút ra những biện pháp,phương hướng
thực hiện đúng đắn trong việc giáo dục toàn dân hướng đến bảo vệ an ninh Tổ quốc
góp phần giữ vững độc lập và phát triển đất nước trong quá trình hội nhập, đổi mới.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:


* Phương pháp luận nghiên cứu:
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 7

-Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam; nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấp về giáo dục - đào tạo và quản lý
giáo dục - đào tạo. Đề tài sử dụng cách tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ thống -
cấu trúc; lịch sử - lôgíc; quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích những vấn đề
liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
-Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin từ các giáo trình, tài liệu trên
mạng internet,... sau đó tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống
hoá, mô hình hoá thành các vấn đề chính, khái quát hoá những tư liệu đã tìm được
từ một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Bộ Giáo dục - đào tạo, Luật Giáo dục; các giáo
trình, sách tham khảo,..; các báo khoa học có liên quan đến đề tài như báo điện tử
Đảng cộng sản Việt Nam, báo nhân dân,.. và hay các bài viết đăng tải trên các tạp
chí như tạp chí cộng sản, tạp chí quốc phòng toàn dân, báo mới,...
6. Ý nghĩa của tiểu luận:
-Tư tưởng quân sự Hồ Chính Minh và vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn
dân trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với sinh viên, người tri thức tương lai của nước nhà. Thông qua học tập và nghiên
cứu đề tài sẽ giúp sinh viên vận dụng vào cuộc sống, bồi dưỡng và rèn luyện bản
thân hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, củng cố cho sinh viên, thanh niên những
lập trường, quan điểm cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, tích cực, năng động, chủ động đấu tranh trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng góp công sức xây dựng tương lai đất nước.
Biết vận dụng tư tưởng vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Tiểu luận
của nhóm còn giúp giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và toàn dân biết sống hợp lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái ác, cái xấu.
Nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng sản, về Tổ quốc Việt Nam.
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 8

7. Kết cấu của đề tài:


Tiểu luận có kết cấu bao gồm: Mục lục, phần mở đầu, nội dung tiểu luận, danh
mục tài liệu tham khảo.

Chương 1

TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN


QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỔI MỚI VÀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ.

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự:


1.1.1. Định nghĩa:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm về lí thuyết của Hồ Chí Minh về việc xây
dựng nền quốc phòng, lực lượng vũ trang, về những vấn đề có tính quy luật của
khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về chính trị và quân sự của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, kết hợp truyền thông quân sự, nghệ thuật
binh pháp cổ truyền của dận tộc Việt Nam, tiếp thu khoa học quân sự cổ kim của
nhân loại.

1.1.2.Bối cảnh lịch sử:

Những năm đầu của thế kỉ XX ách thống trị của thực dân phong kiến còn đè
nặng. Các cuộc khởi nghĩa nổi lên đều bị dìm trong biển máu. Trước tình cảnh đó,
cùng với lòng yêu nước Bác quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Người đi khắp
bốn biển năm châu lao động, học tập, tìm tòi, hòa mình vào cuộc đấu tranh của
những người bạn cùng chung cảnh ngộ. Chính tình cảm cách mạng cao cả ấy đã
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 9

làm cho người thanh niên Nguyễn Ái Quốc sung sướng đón chào tiếng súng rền
vang của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Bác đã vui mừng đến phát khóc
trước bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa
“của Lênin. Bác đã đến với chủ nghĩa Lênin vì ở đây bác đã tìm ra “ cái cần thiết
nhất cho chúng ta “: “ muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản “ bởi vì “ chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Từ đó , chủ nghĩa Mác-Lênin
đã trở thành cơ sở lý luận của toàn bộ tư tưởng và hành động của Bác, của con
Đường cách mệnh Việt Nam do Bác đề ra. Và cũng từ đó, chủ nghĩa Mác-Lênin
đã trở thành cơ sở lý luận của toàn bộ tư tưởng quân sự của Bác.

1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh:

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã được hình thành trên những cơ sở lý luận
và thực tiễn quan trọng.

-Đó là di sản quân sự rất phong phú của dân tộc ta trải qua các cuộc khởi nghĩa,
chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tố quốc mang tính nhân dân sâu rộng,
trong trường kỳ lịch sử từ đầu công nguyên cho đến sau này.

-Đó là tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng bạo lực, về khởi
nghĩa, về chiến tranh đã được đề ra cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động
trong cuộc đấu tranh để giành và giữ chính quyền, nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

-Đó là những tinh hoa quân sự cổ kim của cả phương Đông và phương Tây,
kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh của nhiều nước, đặc biệt là của Trung
Quốc và Liên Xô.

-Đó là thực tiễn đất nước và con người Việt Nam, thực tiễn đấu tranh cách
mạng lâu dài, kiên cường và đầy sáng tạo của cả dân tộc ta từ khi có Đảng Cộng
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 10

sản Việt Nam, đặc biệt là thực tiễn của hơn 30 năm chống lại hai đế quốc lớn,nhằm
giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh không phải chỉ được thể hiện trong các bài nói,
bài viết của Người về quân sự, mà còn được thể hiện trong những hoạt động hết
sức phong phú và sáng tạo của những người học trò gần gũi của Người, của quân
dân cả nước trong cuộc chiến đấu vô cùng oanh liệt chống thù trong giặc ngoài
trong suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua. Đây chính là lý luận quân sự hiện đại của dân
tộc ta, một bộ phận quan trọng của lý luận cách mạng Việt Nam nhằm giải phóng
dân tộc khỏi sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, để bước vào một thời đại
mới – thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

1.1.3. Tư tưởng quân sự thể hiện:


1.1.3.1. Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng:

Đường lối quân sự của Đảng là kết quả của quá trình tìm tòi, vận dụng sáng
tạo học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, là sự kế thừa một cách sáng tạo truyền thống dựng nước và giữ nước của ông
cha ta trong lịch sử.

Từ sau yêu sách 8 điểm: gởi đến hội nghị Vecxay bị bác bỏ cho thấy được bản
chất xấu xa của chế độ thực dân. Do đó nhân dân ta muốn giải phóng dân tộc chỉ
có thể dựa vào chính mình “Cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản
cách mạng “. Chính vì thế trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản về vấn đề bạo lực cách
mạng có nói: Cách mạng xã hội có thể diển ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng dù dưới hình thức nào, cách mạng cũng không thể đạt tới thành công nếu
không sử dụng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là hành động cách mạng
của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi giới hạn
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 11

pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác lập
nhà nước của giai cấp cách mạng.

Tư tưởng dùng bạo lực cách mạng là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng
của chúng ta. Tùy theo bối cảnh từng giai đoạn và thời cơ mà cách huy động lực
lượng, hình thức tổ chức quân sự cũng khác, đảm bảo tuyệt đối sự thành công cho
các cuộc bạo động cách mạng, đó là cái hay trong tư tưởng dùng bạo lực cách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng.

Tiến hành kháng chiến: dựa vào tính chất đặc điểm của các phe đối lập, ta chia
làm hai thể loại kháng chiến, người khẳng định: “kiên quyết không ngừng thế tiến
công”. Trong binh phải lấy Phương thức tiến hành : đi từ đấu tranh chính trị sang
đấu tranh quân sự , kết hợp dân làm gốc do đó cách vận binh của Người còn mang
lại hiệu quả ở những lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.

1.1.3.2. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân đạo
và hòa bình:

Từ Hịch tướng sĩ và Di chúc Canh Tý đến Bình Ngô đại cáo, một học
thuyết quân sự Việt Nam đã hình thành và phát triển : “ lấy đại nghĩa để thắng hung
tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Với lòng yêu nước, thương dân, quý trọng
sinh mệnh con người Người luôn dùng cách đấu tranh ít đổ máu nhất để giành và
giữ chính quyền. Người từng nói : “ nghĩ cho cùng mọi vấn đề… là vấn đề ở đời
và làm người. Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại
bị áp bức”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng
nhân đạo và hòa bình.

Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, bọn chúng không
cam chịu thất bại mà tìm mọi cách lật đổ chính quyền ta. Thực dân Pháp theo gót
chân Anh nổ súng đánh ta ở Nam Bộ vào ngày 23/9/1945. Trước tình hình đó, Bác
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 12

đã kêu gọi cả đồng bào đứng lên cầm, vũ khí, mặt khác chủ trương đàm phán để
cứu vãn binh, tạm hòa hoãn. Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ ta kí với Pháp
Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946. Ngày 31/6/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm
Pháp với tư cách là thượng khách của chính phủ Pháp, nhưng thực chất là dẫn dắt
phái đoàn ta tham dự cuộc hội nghị này. Hội nghị này nhằm giải quyết mối quan
hệ giữa Việt Nam và Pháp. Do thái độ ngoan cố của Pháp nên Bác phải kí bản tạm
ước với Pháp những điều khoản chung tạm thời có lợi cho đôi bên. Nhưng chúng
lại dẫm đạp lên những điều khoản đó bằng những hành động khiêu khích ngày
càng trắng trợn. Do đã dự đoán trước được nên đã lãnh đạo toàn dân tranh thủ thời
gian chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó.

Khi chúng gởi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí, lòng căm phẫn của nhân dân
ta đã lên tới tột độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi tất cả đồng bào cùng nhau
đứng dậy. Mặc dù chiến tranh xảy ra, Người vẫn tìm mọi cách cứu vãn hòa bình.
Người đã gửi thư cho Pháp, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân các
nước khác, một mặt tố cáo tội ác do bọn thực dân hiếu chiến phản động gây ra, mặt
khác kêu gọi trở lại đàm phán hòa bình giữa hai bên Pháp- Việt. Người nêu rõ lập
trường của chính phủ và nhân dân Việt Nam: “Chúng tôi mong đợi ở chính phủ và
nhân dân Pháp”.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã dìm miền
Nam trong bể máu, buộc đồng bào ta một lần nữa phải đứng lên cầm vũ khí chiến
đấu. Trong những năm chống Mỹ, Người nhiểu lần gửi thông điệp cho các nhà
cầm quyền Mỹ để sớm kết thúc chiến tranh nhưng họ đáp lại bằng việc tăng cường
chiến tranh hơn nữa.Người kêu gọi toàn dân quyết tâm đánh giặc cho đến thắng lợi
cuối cùng, thực hiện mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Tư tưởng nhân đạo và hòa bình của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc yêu
quý các thanh niên Pháp, Mỹ cũng như thanh niên Việt Nam những người chết
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 13

uổng trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc, thực dân. Đối với tù binh,
Người luôn nhắc nhở quần chúng phải đối xử tử tế với tinh thần nhân đạo. Đối với
những người lầm đường lạc lối, biết hối cải, Người khoan dung, độ lượng, giúp họ
cải tà quy chính, trở về trong lòng dân tộc, làm những việc có ích cho xã hội.

1.1.3.3. Về xây dựng lực lượng vũ trang:

Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng phải bắt đầu từ việc xây dựng lực
lượng chính trị quần chúng, trên cơ sở đó xây dựng và phát triển lực lượng quân
sự, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích.

Chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là cơ sở, là nền tảng để
xây dựng quân đội, trong đó vấn đề cốt lõi là tăng cường bản chất giai cấp công
nhân, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho
quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với mục tiêu lý tưởng cách mạng. Quan
tâm xây dựng tinh thần dân chủ, kỷ luật, đoàn kết cho bộ đội; xây dựng quân đội
thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân. Lấy việc bồi dưỡng xây dựng con
người là chính, Người luôn nhắc cán bộ, chiến sĩ ra sức phấn đấu để có phẩm chất
và năng lực toàn diện. Đề cao vai trò con người kết hợp với coi trọng, nâng cao
trình độ vũ khí trang bị. Yêu cầu các cấp, các ngành chăm lo, nuôi dưỡng, bảo đảm
đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ, coi đó là khâu then chốt của việc nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội, nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm, thái độ của cán bộ đối
với chiến sĩ, với nhân dân và kẻ địch.

1.1.3.4. Về xây dựng nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự cách
mạng Việt Nam:
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, quân đội phải thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân
sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trong chiến đấu, ý chí quyết đánh là điều
kiện hàng đầu, nhưng biết đánh, biết thắng mới là yếu tố quan trọng làm nên thắng
lợi. Người chỉ ra cách đánh thắng địch bằng mưu, kế, thế, thời; lấy ít thắng nhiều,
lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, trong trường hợp cần thiết tập trung ưu
thế đánh những đòn quyết định. Vận dụng linh hoạt nghệ thuật tác chiến, thực hiện
tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía đông, đánh phía tây; thực hiện mình yên
đánh quân thù động, mình khỏe đánh quân thù mệt; bao giờ cũng phải giữ thế công,
phải đánh chắc, tiến chắc, tuyệt đối không được chủ quan khinh địch, xác định
đúng cách đánh, phát huy sức mạnh của ta, giành thắng lợi từng bước, càng đánh
càng thắng, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Sức mạnh của lực lượng vũ trang
gắn liền với sức mạnh lãnh đạo của Đảng, sức mạnh vô địch của quần chúng nhân
dân sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Nghệ thuật tư tưởng chiến lược tiến công đi đôi với giành thế chủ động trong
chiến tranh, chỉ có tiến công kiên quyết và liên tục mới phát huy được sức mạnh
tổng hợp của chiến tranh nhân dân, có tiến công mới giành được quyền chủ động
và có nắm được quyền chủ động mới bảo đảm phát triển không ngừng thế tiến
công. Nắm vững tư tưởng tiến công nhưng không phiêu lưu mạo hiểm mà phải biết
tiến công, tiến công bằng mọi lực lượng, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, ở mọi
lúc, mọi nơi và đặc biệt phải biết tiến công vào nơi hiểm yếu của quân thù, những
nơi địch mỏng, yếu, có nhiều sơ hở, nơi địch không phát huy được sở trường của
chúng, nơi ta phát huy được ưu thế của mình.

Nghệ thuật tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng. Từ đặc
điểm chiến tranh cách mạng Việt Nam thường lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch
nhiều, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phát động toàn dân đánh giặc, đánh
giặc bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí, mọi cách đánh; kết hợp đấu tranh quân
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 15

sự với đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả lực lượng vũ trang và lực lượng chính
trị của quần chúng; tiến công cả trước mặt và sau lưng địch, kết hợp đánh du kích
và đánh chính quy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược; kết hợp đánh lớn, đánh
vừa, đánh nhỏ, tiêu hao tiêu diệt địch gắn với làm tan rã hàng ngũ địch, đập tan ý
chí xâm lược của chúng. Đấu tranh vũ trang là cuộc đấu tranh của toàn dân tự giác
đứng lên chiến đấu. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh nhân
dân, toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy.

Nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu và phát huy các nhân tố thiên
thời, địa lợi, nhân hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp lực, thế,
thời, mưu để giành chiến thắng, nắm vững và vận dụng tài tình quy luật về thế và
lực trong chiến tranh, coi trọng vấn đề thời cơ và nhấn mạnh phải có quyết tâm
tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi.

Nghệ thuật kết hợp chặt chẽ giữa đánh và đàm, giữa đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị ngoại giao. Phương châm hành động là cứng rắn về nguyên tắc,
mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân
sự, chính trị và ngoại giao. Trong đàm phán sẵn sàng nhân nhượng, nhưng là sự
nhân nhượng có nguyên tắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đàm phán thực chất
là điều chỉnh lợi ích của mỗi bên, biết cụ thể hóa mục tiêu của mình, biết nhân
nhượng khi cần thiết, nhưng bao giờ cũng giữ mục tiêu xuyên suốt nhằm tạo thế,
tạo lực, nhằm tăng thêm thực lực cách mạng; thực hiện sáng tạo nghệ thuật đánh
và đàm, đánh để đàm, đàm để đánh, vừa đàm vừa đánh để giành thắng lợi cho cách
mạng bằng con đường ít tốn xương máu nhất.

Nghệ thuật khởi đầu và kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi từng bước tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định con đường đi đến độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải trải qua một quá trình lâu dài, gồm nhiều
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 16

chặng đường đấu tranh gian khổ, phức tạp. Trong khởi nghĩa vũ trang, phải đi từ
khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở cơ sở về tay nhân dân, tiến lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trong chiến tranh cách mạng, biết chủ
động tiến công địch từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn cục, tiến tới giành thắng lợi
cuối cùng. Phải biết khởi đầu và kết thúc chiến tranh một cách có lợi nhất; mở đầu
chiến tranh vào lúc nào, như thế nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng đến
cục diện, kết cục cuối cùng của chiến tranh. Hết sức kiềm chế, tìm mọi cách để trì
hoãn, tránh chiến tranh, nhưng khi không thể nhân nhượng hơn được nữa thì kiên
quyết kháng chiến.

1.2. Vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện đổi mới
và hội nhập quốc tế:

Dựng nước đi đôi với giữ nước là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc
Việt Nam. Quy luật đó được phát huy trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân và trở thành một chiến lược quan trọng của Đảng ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1.2.1. Định nghĩa:

-Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây
dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện,
độc lập, tự chủ, tự cường.

Như vậy hiểu quốc phòng, xây dựng nền QPTD là hoạt động của cả nước, trên
mọi lĩnh vực, lấy lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt. Quốc phòng không
đồng nghĩa với quân sự, với chiến tranh, nó được thực hiện trong thời bình nhằm
mục đích tự vệ, phòng thủ đất nước, nhưng không thụ động phải chủ động ngăn
chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng khi chiến
tranh xảy ra. Chiến lược quốc phòng tối ưu là chiến lược giữ nước mà không phải
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 17

tiến hành chiến tranh, là chiến lược giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa kinh tế
với quốc phòng và các mặt hoạt động khác của xã hội. Như Nghị quyết Ðại hội X
của Ðảng đã xác định rõ: "Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã
hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất
nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù
địch, không để bị động, bất ngờ".

1.2.2. Đặc trưng:

-Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự
vệ chính đáng: Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh
là để tự vệ, chống lại thù trong giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc của nhân dân.

-Đó là nền quốc phòng toàn dân, an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân
dân tiến hành: Cho phép mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng đều thực hiện xây
dựng nền quốc phòng, an ninh và đấu tranh quốc phòng, an ninh.

-Đó là nền quốc phòng an ninh có sự tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành: Như
chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học, quân sự, an ninh,...cả ở trong nước,
ngoài nước, của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong của dân
tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề và là biện pháp để nhân dân đánh thắng
kẻ thù xâm lược.
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 18

-Nền quốc phòng, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước
hiện đại: Xây dựng nền quốc phòng, an ninh toàn diện phải đi đôi với xây dựng
nền quốc phòng, an ninh hiện đại là một tất yếu khách quan. Xây dựng quân đội
nhân dân, công an nhân dân từng bước hiện đại. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh
tế xã hội với tăng cười quốc phòng, an ninh.

-Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân: Kết hợp chặt
chẽ giữa quốc phòng và an ninh phải thường xuyên tiến hành đồng bộ, thống nhất
từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả nước cũng
như từng vùng, miền, địa phương, mọi ngành, mọi cấp.

1.2.3. Nội dung xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng của đất nước được hình
thành ngay từ sau khi nhân dân ta giành được nền độc lập, dựng lên chế độ dân chủ
cộng hòa và có bước phát triển mới khi miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng,
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong mối quan hệ gắn bó khăng khít với
nhiệm vụ chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tư tưởng đó thể
hiện trong câu nói nổi tiếng của Người: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân có phạm vi rộng
lớn, nhưng cũng rất cụ thể, nó không giới hạn ở lĩnh vực đấu tranh quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc mà còn phát huy tác dụng trên mặt trận kinh tế, xây dựng đất nước,
làm cho tất cả các mặt ấy kết hợp với nhau tạo thành tiềm lực quốc phòng, sức
mạnh giữ nước trong thời bình và biến thành tiềm lực quân sự trong thời chiến.
Chúng ta cần nhận thức đúng thực chất nội hàm của tiềm lực quốc phòng, nhất là
những nội dung cốt lõi; trên cơ sở đó, cụ thể hóa cho từng nội dung của tiềm lực,
làm cơ sở để các cấp, ngành, lực lượng và địa phương triển khai thực hiện.

Về xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần – là nhân tố cơ bản, quan trọng nhất
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 19

của tiềm lực quốc phòng, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các
tiềm lực khác. Việc xây dựng tiềm lực quan trọng này đòi hỏi vừa phải kế thừa
những giá trị đã đạt được trong thời gian qua; đồng thời, có sự vận dụng, phát triển
phù hợp trong điều kiện mới. Đó là phát huy các giá trị về lòng yêu nước, ý chí,
niềm tin, truyền thống lịch sử, văn hóa,… trong bối cảnh tình hình thế giới, khu
vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng;
các thế lực thù địch thường xuyên chống phá; điều kiện thế và lực của đất nước
được tăng cường, v.v. Trong đó, trọng tâm là xây dựng lòng tin của các tầng lớp
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, tạo sự đồng thuận, chung
sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng.

Muốn vậy, phải tập trung xây dựng các tổ chức đảng, chính quyền các cấp
trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,
năng lực quản lý, điều hành, bảo đảm thực sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết và tổ
chức thực hiện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình hiện
nay, cùng với đổi mới phong cách, phương thức lãnh đạo, Đảng phải kiên quyết,
kiên trì đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức,
lối sống, nhất là tệ tham nhũng, quan liêu trong hệ thống chính trị; đồng thời, đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ ở cơ sở; tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; chú trọng phát huy, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống,
tạo nền tảng tinh thần xã hội, sức mạnh nội sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Về xây dựng tiềm lực kinh tế là khả năng về kinh tế của đất nước có thể khai
khác, huy động nhằm phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Cụ thể là: Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Kết hợp
chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển công
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 20

nghiệp quốc phòng, trang bị kĩ thuật hiện đại cho quân đội và công an. Kết hợp
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cơ sở hạ tầng quốc phòng; không ngừng cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Có kế hoạch
chuyển nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến, duy trì phát triển của nền kinh tế.

Đối với tiềm lực khoa học - công nghệ, là tạo nên khả năng về khoa học, công
nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động phục vụ cho quốc phòng, an ninh.
Do đó, phải huy động tổng lực các khoa học, công nghệ quốc gia, trong đó khoa
học quân sự, an ninh làm nòng cốt đề nghiên cứu các vấn đề về quân sự, an ninh,
về sữa chữa, cải tiến, sản xuất các loại vũ khí trang bị. Đồng thời phát hiện tốt công
tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, kĩ thuật.

Về xây dựng tiềm lực quân sự - là nhân tố nòng cốt, cốt lõi của tiềm lực quốc
phòng - cần bảo đảm tính toàn diện, vững chắc, có chiều sâu, ngay từ thời bình,
nhằm chuyển hóa nhanh nhất, kịp thời nhất thành thực lực quốc phòng trong mọi
tình huống. Tiềm lực quân sự, an ninh được xây dựng trên nền tảng của các tiềm
lực chính trị, tinh thần, kinh tế, cần tập trung vào: Xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân vững mạnh toàn diện. Gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước với quá trình tăng cường vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân;
Xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Bố trí lực lượng luôn nghiên cứu đáp ứng
yêu cầu chuẩn bị cho đất nước về mọi mặt, sẵn sàng động viên thời chiến; Tăng
cường nghiên cứu khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay và nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó chúng
ta không được lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 21

– an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ.

KẾT LUẬN

Vấn đề xây dựng một nền quốc phòng toàn dân với lực lượng dân quân tự vệ
vững mạnh của nước ta trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng và cần thiết.
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo vấn đề tổ chức lực lượng trong khởi
nghĩa và chiến tranh cách mạng với phương châm “vũ trang toàn dân đi đôi với
xây dựng Quân đội nhân dân”, đồng thời giải quyết tốt vấn đề về hậu phương chiến
lược và lực lượng đồng minh chiến lược của cách mạng. Từ những kinh nghiệm
và những bài học xương máu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, và yêu cầu
đòi hỏi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc hiện nay mà ta có thể khẳng định rằng xây
dựng nền quốc phòng toàn dân với lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, là nhiệm
vụ chiến lược và thường xuyên lâu dài,vừa khẩn trương cấp bách trong cục diện
đất nước ngày nay, đó là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân ta. Xuất phát từ mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, xây dựng Tổ Quốc luôn đi đôi với bảo
vệ Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Vì thế những quốc gia dân tộc khi giành được
chính quyền, giành được độc lập tự do thì phải luôn chú trọng, quan tâm giải quyết
mối quan hệ này. Xây dựng Tổ Quốc và bảo vệ Tổ Quốc là hai vấn đề khác nhau
nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, hữu cơ tác động qua lại
lẫn nhau. Xây dựng Tổ Quốc là làm cho đất nước từng bước phát triển về mọi mặt
kinh tế, chính trị xã hội, quân sự, khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên chỉ xây dựng Tổ
Quốc không thôi thì chưa đủ, cùng với xây dựng ta còn phải phối kết hợp với việc
bảo vệ Tổ Quốc, có như vậy xây dựng mới có cơ sở, nền tảng vững chắc để tiếp
tục phát triển và huy động được mọi tiềm năng vốn có. Bảo vệ Tổ Quốc là để chống
lại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù nhằm chống phá ta về mọi mặt, trên cơ sở đó
bảo vệ mọi thành tựu xây dựng đất nước của mọi thế hệ những người Việt Nam
chúng ta. An ninh chính trị, trật tự xã hội ổn định là điều kiện cho đất nước phát
triển về mọi mặt, do đó những quốc gia đã có độc lập chủ quyền phải chăm lo đến
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 22

việc xây dựng và bảo vệ.Mối quan hệ hữu cơ đó là điều kiện tiền đề để thúc đẩy
đất nước phát triển, xây dựng Tổ Quốc giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Xuất phát từ đặc điểm, tình hình thực tiễn của đất nước ta hiện nay, đặc biệt là từ
những năm đổi mới, chúng ta đã thu dược những kết quả to lớn trong nhiều lĩnh
vực song vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kì hoà bình, đang thực hiện những đường lối của Đảng về phát triển kinh
tế -xã hội sau những năm đổi mới, đẩy lùi lạm phát, đưa kinh tế nhanh chóng phát
triển, trật tự an ninh được giữ vững. Nhân dân tin tưởng vào đường lối lãnh đạo
của Đảng , phấn khởi hăng hái khắc phục những khó khăn chống tệ nạn xã hội.
Bên cạnh đó ta còn vấp phải một số khó khăn như nền kinh tế còn mất cân đối về
cơ cấu, tệ nạn xã hội còn nhiều do đó an ninh chính trị chưa thật vững chắc. Xuất
phát từ kinh nghiệm trong lịch sử truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc,
xây dựng đất nước vững mạnh luôn luôn làm cơ sở cho việc bảo vệ Tổ Quốc.Thực
hiện việc kết hợp xây dựng kinh tế để củng cố quốc phòng. Truyền thống động
viên sức người, sức của tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn trước những tình huống
khi chiến tranh xâm lược xảy ra. Từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, ta có thể
rút ra kết luận vấn đề xây dựng một nền quốc phòng toàn dân với lực lượng dân
quân tự vệ vững mạnh của nước ta trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng
và cần thiết.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

-Tham khảo sách:

1.Bộ công thương Trường Đại học Công Nghiệp tp.HCM, Giáo dục quốc
phòng.

2.Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (xuất bản lần thứ
10), Nxb Chính trị Quốc gia - sự thật, Hà Nội – 2017.
GVHD Th.S Lê Hoài Nam 23

3.Đảng Cộng sản Việt Nam – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ, Nxb Chính trị Quốc gia – sự thật, Hà Nội – 1991.

4. Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân
dân, 1975.

5.Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo Tổng
kết lý luận. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới
(1986-2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2005.

-Tham khảo bài viết từ internet:

1.http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-

Traodoi/2016/38472/Tu-tuong-quan-su-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh.aspx

2.http://loigiaihay.com/co-so-hinh-thanh-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quan-su-
c124a20306.html

3.http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/quan-diem-cua-
dang-ta-ve-xay-dung-tiem-luc-quoc-phong-trong-tinh-hinh-moi/9267.html

You might also like