You are on page 1of 28

BÀI TẬP TRIẾT

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ARISTOTLE


I. TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP ARISTOTLE
1. Bối cảnh lịch sử
Khoảng 4000 năm trước, ở châu Âu chỉ có những người dân du mục. Từ sông
Danube, một giống dân du mục tiến dần về phương Nam để tìm đồng cỏ xanh tốt hơn
và dừng chân ở bản đảo Greece. Họ lấy tên thủy tổ của họ là Hellene để làm tên gọi.
Người Trung Hoa sau này phiên âm Hellene thành Hy Lạp, và người Việt ta cũng
quen gọi theo lối này. Ngày nay người Hy Lạp cũng dùng tên này để đặt cho nước họ:
Greece, tên chính thức là Cộng hòa Hellenic.
Hy lạp cổ đại không phải một nước thống nhất như ngày nay mà bao gồm nhiều
thành quốc được tổ chức như những quốc gia riêng biệt, gọi là các thị quốc. Mỗi thị
quốc độc lập với nhau và có cách tổ chức chính trị khác nhau. Các thị quốc nổi tiếng
như Athens, Thebes và Sparta. Tuy cùng một chủng tộc nhưng dân thị quốc này lại coi
dân thị quốc khác như thù địch và chém giết lẫn nhau. Sparta và Athens là hai thái cực
đối lập nhau. Người Sparta được huấn luyện sống khắc kỷ từ nhỏ, một đời sống giản
dị và cực kỳ trọng võ. Ngược lại, người Athens sống xa hoa, ưa công nghệ và thương
mại. Về chính trị, các thị quốc Hy Lạp cổ đại đều theo quân chủ. Sau khi vua
Alcmaeon băng hà năm 753 TCN, Athens được tổ chức theo mô hình dân chủ nghị
viện, tức là công dân được quyền bầu cử “Viện Nguyên lão” (một hình thức Nghị
viện), nhưng chức vụ thẩm phán vẫn dành cho giới quý tộc. Đến thế kỷ thứ 5 TCN,
Athens hoàn toàn theo thể chế dân chủ trực tiếp. Mọi công dân đều trực tiếp tham gia
việc nước: nghị luận, bàn cãi, bầu bán, biểu quyết... Do đó, Athens được coi là nơi chế
độ dân chủ đầu tiên trên thế giới, nơi mọi người dân đều được tham gia chính sự.
Với tính chất tự do tư tưởng mà Athens trở thành một môi trường thuận lợi cho các
triết gia như Socrates và sau đó, học trò của ông là Platon đã phát triển học thuật đủ
mọi ngành, hệ tư tưởng triết học và các quan điểm nhận thức thế giới tự nhiên, vật
chất cũng sâu sắc và phong phú. Từ đó, Athens trở thành trung tâm tư tưởng và học
thuật của cả bán đảo Greece; sau này chính là cái nôi văn hóa tư tưởng của Tây
Phương.
2. Tiểu sử Aristotle
Aristotle, cái có nghĩa là “mục đích tốt nhất”, là một nhà triết học và khoa học thời
Hy Lạp cổ đại, đồng thời ông cũng là học trò xuất sắc của triết gia Platon, là thầy dạy
của Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lĩnh vực như vật lý học, siêu
hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học (rhetoric), ngôn ngữ học,
Kinh tế học, chính trị học, đạo đức học, sinh học, và động vật học. Ông được xem là
người đặt nền móng cho môn luận lý học và được mệnh danh là “Cha đẻ của Khoa
học chính trị”. Cùng với Platon và Socrates, Aristotle là một trong ba trụ cột tinh hoa
của văn minh Hy Lạp cổ đại. Những quan điểm và tư tưởng triết học của ông có ảnh
hưởng sâu rộng tới các lĩnh vực của Châu Âu, tiêu biểu là các quan điểm chính trị và
xây dựng một nhà nước dân chủ.
Aristotle sinh tại Stagira thuộc Vương quốc Macedonia
cách thành Athens 200 dặm về phía bắc, tức là ở phía đông
Thessaloniki ngày nay, vào năm 384 TCN. Cha của ông là
bác sĩ riêng, bạn thân của quốc vương Macedonia Amyntas
III (tổ phụ của Alexandros Đại đế). Từ nhỏ Aristoteles sống
với cha mẹ và được cha dạy cho về y khoa. Năm 17 tuổi,
Aristoteles đến thành Athena và theo học nghề thầy thuốc.
Aristoteles đến Athens từ lúc 18 tuổi và trở thành học viên
trong Học viện Platon. Ông học ở đó khoảng 20 năm trước
khi rời Athens vào 348/47 TCN.
Hình 1: Chân dung Aristotle (384-322TCN
Trong khoảng thời gian theo học tại Học viện Platon, Aristotle không chỉ là một
sinh viên mã đã trở thành trợ giản cho Plato. Aristotle chú trọng đặc biệt tới siêu hình
học (metaphysics), môn học nghiên cứu về ý tưởng, những gì bên ngoài và ở bên kia
thực tại, không phụ thuộc vào giác quan, cùng thiên văn học, triết học và chính trị học.
Người ta có thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kì lý tưởng trong
cuộc đời Aristoteles. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn
năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon
lớn hơn Aristoteles gần 43 tuổi, chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông
cảm. Platon công nhận rằng Aristoteles là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu
học vì Aristoteles là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu
tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của Aristoteles
được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có
người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của
Aristoteles.

Hình 2: Platon và Aritotle cùng các môn đệ tại Học viện Palton (tranh: Raphael)
Năm 347 TCN, Palton quan đời ở tuổi 80. Trong thời gian này, có hai sự kiện đánh
dấu bước ngoặt lớn trong đời Aristotle. Thứ nhất, quê hương Stagira của ông bị quân
đội của vua Philip xứ Macedonia tiêu diệt, khiến ông trở thành một người mất nước.
Thứ hai, quan trọng hơn, người kế nhiệm Palton làm Viện trưởng Học viện không
được Aristotle và một số đồng môn khác tâm phục. Hai sự kiện này khiến Aristotle từ
giã Athens, bắt đầu du hành đây đó và đem sở học ra áp dụng trong suốt 12 năm.
Trong cuộc hành trình này, Aristotle cùng Xenocrates, người sau này trở thành Viện
trưởng Học viện Platon, liên lạc với các đồng môn sống rải rác khắp bán đảo Hy Lạp,
nhằm truyền bá học thuật Platon. Trước hết Aristotle và Xenocrates vượt biển Algea
đến Troad nơi có hai người bạn đồng môn là Erastus và Coricus, noi gương thầy, làm
cố vấn chính trị cho Hermias, rằng muốn cai trị lâu dài thì phải cai trị khoan dung và
nhân hậu hơn là độc tài sắt máu. Tại đây, cùng với Aristotle và Xenocrates, họ thành
lập học viện thu hút sự tham dự của học sinh từ các miền lân cận. Aristotle trở thành
bạn thân của vua Hermias được nhà vua gả cháu gái làm vợ. Tại đây, Aristotle cũng
có cơ hội quan sát tận mắt chế độ quân chủ và rút ra được nhiều bài học.
Sau đó, Aristotle dọn sang sống tại đảo Lesbos và được vua Philip xứ Macedonia
mời đến Pella, thủ đô của Macedonia để dạy học cho hoàng tử Alexander từ lúc ông
hoàn này mới 13 tuổi cho đến khi 19 tuổi. Alexander trở thành Đại đế khi 19 tuổi.
Ngoài các môn học về văn chương, chủ yếu là trường ca Odyssey của Homer và triết
học Hy Lạp, Aristotle còn dạy Alexander về khoa học thiên nhiên. Khi Alexander lên
làm vua và bắt đầu chinh chiến, Aristotle ở lại Macedonia một thời gian sau đó quay
trở lại trung tâm văn hóa học thuật Hy Lạp, Athens.
Năm 335 TCN, tại Athens, Aristotle cho mở trường Lyceum. Tuy nhiên Athens
lúc này không phải Athens tự do của 12 năm trước. Alexander đã chiếm toàn cõi Hy
Lạp và đặt Athens làm đất bảo hộ của Macedonia dưới quyền cai trị của Toàn quyền
Antipater thuộc Liên minh Corinth. Trong cương vị Toàn quyền, Antipater ủng hộ
chính trị quả đầu (oligarchy), một chế độ chính trị dựa trên giai cấp có tài sản và quý
tộc nên cai trị Athens theo chiều hướng đó. Một điều ngẫu nhiên, cả Aristotle và
Antipater đã quen nhau trước đó tại Macedonia và vẫn giữu liên lạc, nay họ tái ngộ tại
Athens với hai địa vị khác nhau. Tuy nhiên tình bạn của họ vẫn khăng khít và chính
sách của Antipater đã ảnh hưởng không ít tới những tác phẩm của Aristotle, cụ thể
Aristotle chủ trương xây dựng một thể chế trung dung ủng hộ giai cấp có tài sản.
Năm 328 TCN, một biến cố nghiêm trọng đã ảnh hưởng tới Aristotle và học viên
Lyceum của ông. Callisthenes, học trò và cháu ruột của Aristotle, trước đó là một bộ
trưởng của Alexander, bị Alexander ra lệnh xử tử vì có tham gia vào một âm mưu thí
vua làm phản. Callisthenes bị giết khiến cả Lyceum phẫn nộ và xem xét lại khả năng
trị nước của Alexander.
Năm 324 TCN, Alexander bắt dân Hy Lạp phải vinh danh ông như thần thánh và
cho phép những người Hy Lạp bị lưu đày được trở về. Sau khi Alexander băng hà,
nhân cơ hội này Athens tuyên bố chiến tranh với Macedonia và đòi lại tự do. Tại
Athens, Toàn quyền Antipater đương nhiên trở thành đối tượng của cuộc chiến và
Aristotle là bạn của Antipater, là thầy của Alexander phải bỏ Athens sang tị nạn tại xứ
Chalcis. Sau đó ông cũng qua đời tại đây vào năm 322 TCN.
Sau khi Aristotle qua đời, Demetrius, học trò của Aristotle, lên cai trị Athens và
biến những gì Aristotle đã dạy tại Lyceum thành luật. Ảnh hưởng của Aristotle không
chỉ giới hạn tại Athens, triết lý theo trường pháo Aristotle đã trở thành nền tảng cho
triết học Duy Thực tại Tây Phương. Về phương diện triết lý chính trị, tác phẩm
Politics của ông với việc luận bàn mộ Nhà nước kiểu mẫu trở thành kinh điển cho
khoa học chính trị tại Tây phương cho đến ngày nay.
3. Các quan điểm triết học có ảnh hưởng tới Aristotle
a. Các quan điểm khoa học Hy Lạp trước Aristotle
Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem khoa
học cho nhân loại. Đành rằng trước Socrate và trước Aristote cũng có khoa học và
triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Đã có nhiều cuộc nghiên cứu của người Hy
Lạp để phát triển khoa học nhưng những cuộc nghiên cứu ấy ngày nay không thể xem
là khoa học mà chỉ có thể xem như một loại thần học. Nói một cách khác, dân Cổ Hy
Lạp có khuynh hướng giảng giải tất cả những hiện tượng thiên nhiên như là hành vi
của các thần linh.
Một vài người tiên phong tìm cách đi ra khỏi ngõ bí ấy. Thalès (649 - 550 tTL)
được coi là cha đẻ của triết lý xuất thân là một nhà thiên văn lên tiếng công kích thói
mê tín, xem các tinh tú trên trời như những thần linh. Môn đệ của Thalès là
Anaximandre có công vẽ những vị trí của những tinh tú và đưa ra thuyết táo bạo rằng
vũ trụ trước kia chỉ là một khối loãng, các hành tinh và định tinh từ trong khối ấy mà
ra. Vũ trụ xoay vần theo từng chu kỳ hợp rồi tan, tan rồi hợp. Trái đất nằm trên không
trung nhờ sức hút, tất cả các hành tinh đều có chất lỏng, dần dần chất lỏng ấy bốc hơi
do ảnh hưởng của mặt trời. Đời sống bắt đầu ở dưới biển và lần lần xuất hiện trên mặt
đất vì biển bị bốc hơi. Những con vật không còn nước để sống dần dần tập thở không
khí, đó là thuỷ tổ của những giống vật sống trên đất. Ngay cả loài người cũng phải có
một hình dáng khác bây giờ. Vì nếu loài người quá yếu ớt lúc sơ sinh và đòi hỏi quá
nhiều thời gian để trưởng thành như ngày nay thì không sao có thể tồn tại đến ngày
nay.
Một triết gia khác Anaximènes cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng một khối chất loãng.
Khối ấy dần dần cô đọng lại thành gió, mây, nước, đất và đá. Ba trạng thái của vật là
trạng thái khí, lỏng và đặc là 3 giai đoạn của sự cô đọng. Động đất là do sự cô đọng
chất lỏng trong lòng đất. Đời sống và linh hồn là một sức mạnh tiềm tàng có mặt khắp
nơi. Anaxagoras tìm cách giảng giải nhật thực và nguyệt thực. Ông là thầy học của
danh tướng Periclès. Ông khám phá sự hô hấp của cây cỏ và loài vật. Ông đưa ra giả
thuyết rằng sở dĩ loài người thông minh hơn súc vật là nhờ biết đi 2 chân trong khi
dành 2 tay để làm những việc khác.
Một học giả khác tên là Héraclite đã hy sinh tất cả của cải để hiến mình cho sự
nghiên cứu khoa học. Ông tìm thấy rằng tất cả mọi vật đều thay đổi. Tạo hoá xoay vần
theo từng chu kỳ. Sự đấu tranh là cha đẻ của vạn vật. Một học giả khác đã đưa ra
thuyết tiến hoá: ông cho rằng các bộ phận trong cơ thể của muôn loài đều thay đổi
theo với luật đào thải. Những bộ phận nào đáp ứng với nhu cầu và thích hợp với hoàn
cảnh sẽ được tồn tại trong khi những bộ phận khác không thích hợp sẽ bị đào thãi.
Một vài học giả khác đã đi gần đến thuyết nguyên tử dù một cách rất thô sơ. Họ cho
rằng ngoài thế giới hiện tại còn có vô số thế giới khác. Các hành tinh trong vũ trụ
thường va chạm nhau và làm tan vỡ nhiều thế giới. Trên đây là những điều mà các học
giả Hy Lạp dưới thời Aristote đã tìm thấy. Cần phải công nhận mặc dù với những
dụng cụ thô sơ, công trình phát minh của họ không phải nhỏ. Mặt khác, chính chế độ
nô lệ làm trì hoãn các phát minh khoa học giúp ích đời sống: trong khi các nô lệ làm
tất cả những công việc nặng nhọc thì không ai nghĩ đến việc phát minh máy móc làm
gì. Trái lại phần lớn tư tưởng các học giả hướng về các vấn đề chính trị và xã hội
trong một nước Hy Lạp bị chia rẽ bởi nhiều phe nhóm chống đối nhau gay gắt. Do đó
triết lý và khoa học chính trị có phần phong phú hơn những ngành khoa học khác.
b. Các tư tưởng gia trước Aristotle
 Heraclitus
Heraclitus khoảng 535 TCN – 475 TCN) xuất thân trong một gia đình quý tộc ở
Ionia nhưng ông sống một cuộc đời rất nghèo khổ và cô độc. Về cơ bản, ông là một
nhà triết học duy vật và được coi là ông tổ của phép biện chứng. Những tư tưởng biện
chứng của ông rất sâu sắc, tuy vậy cách thức thể hiện lại rất phức tạp và khó hiểu vì
vậy ông thường được gọi là nhà triết học tối nghĩa. Hiện nay, tài liệu của ông chỉ còn
khoảng 130 đoạn bàn về tự nhiên.
Trong khi Thales cho rằng bản nguyên của thế giới là nước thì Heraclitus lại cho
rằng lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật: “Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa biến
thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”. “Lửa
sống nhờ đất chết, không khí sống nhờ lửa chết, nước sống nhờ không khí chết, đất
sống nhờ nước chết”. Heraclitus cho rằng, vũ trụ không do ai sáng tạo ra, luôn luôn là
lửa, sống động, vĩnh cửu, bùng cháy theo những quy luật của mình: “Thế giới này chỉ
là một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng tạo ra
nó, nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những
cái đang rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi tàn”.
Không những sông mà cả mặt trời cũng thường xuyên và liên tục đổi mới, cũng
như dòng sông, ông cho rằng không có gì ổn định và bất biến hơn mặt trời luôn chiếu
sáng đưa ra chuẩn mực của mọi sự vật đó là logos. Đó là cái chung phổ biến, tính bền
vững một mối liên hệ mang tính xuyên suốt của tiến trình thế giới. Tính khách quan
của logos thể hiện ở chỗ, logos được hiểu như là những quy luật bất biến, vĩnh hằng
của vũ trụ, là cái mang tính quy luật, là giới hạn hay độ mà các sự vật đang biến đổi
phải tuân theo: “logos là cái vĩnh viễn tồn tại…vạn vật ra đời đều dựa vào logos của
nó”. Heraclitus khẳng định logos là quy luật biến đổi phổ biến của vạn vật trong vũ
trụ: sự chuyển của Lửa là đầu tiên thành biển, biển thành đất và thành gió xoáy...đất
lại hóa thành biển và tuân theo logos mà trước kia, biển hóa thành đất đã tuân theo.
Bản thân logos là sự thống nhất của những mặt đối lập. Vũ trụ là một thể thống nhất
nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập
nhau. Những cuộc đấu tranh đó luôn luôn diễn ra trong một sự hài hòa nhất định và bị
quy định bởi logos.
 Democritos
Democritos là một triết gia người Hy Lạp sống trước thời kỳ Socrates. Ông sinh ra
vào khoảng 460 TCN ở thành phố Abdera, một địa điểm trên bờ biển thuộc xứ Thrace
(phần đất thuộc Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Democritus là học trò của
Leucippus và cùng với Leucippus tạo ra thuyết nguyên tử thô sơ. Theo thuyết nguyên
tử của ông, mọi vật chất được tạo thành từ các dạng khác nhau của các phần tử không
chia nhỏ được, không nhìn thấy được, cái mà ông gọi là atoma (nguyên tử). Đó là ý
tưởng độc nhất vô nhị của Democritus, chính vì thế mà từ khi Democritos đưa ra khái
niệm đó cho đến tận sau này khi khoa học đã phát triển người ta mới có những bằng
chứng cụ thể về sự tồn tại của nguyên tử và tiếp tục phát triển lý thuyết về nguyên tử.
Democritos cũng là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp
cổ đại, người mà như V.I.Lênin đã nói, làm nên “đường lối Democritos” trong lịch sử
tư tưởng triết học nhân loại. Không chỉ nổi tiếng với thuyết nguyên tử cổ điển về cấu
tạo vật chất mà dựa vào đó, lần đầu tiên, bức tranh nguyên tử về thế giới đã được con
người hình dung một cách tương đối hoàn chỉnh, Democritos còn được thừa nhận với
tư cách người đã có công lao to lớn trong việc đưa lý luận nhận thức duy vật lên một
bước phát triển mới về chất so với các nhà triết học thuộc trường phái Elê bằng quan
niệm hết sức độc đáo về những “hình ảnh”, “hình tượng” (eiδωλα- Iđôlơ) đặc biệt.
Khi xây dựng học thuyết duy vật về nhận thức, Democritos đã xuất phát từ quan
niệm coi con người vừa là thực thể sinh học, vừa là chủ thể nhận thức. Theo ông, với
tư cách một thực thể sinh học, con người là một sinh vật được cấu thành bởi hai yếu tố
- thể xác và linh hồn, và do vậy, trong con người có cả đời sống tâm lý lẫn hoạt động
ý thức. Còn với tư cách chủ thể nhận thức, con người là một kết cấu phức tạp của các
nguyên tử, là “một Vũ trụ thu nhỏ”. Rằng, “con người - đó là tất cả những gì mà
chúng ta đã nhận biết được”. Giải thích quan niệm này của Democritos về con người
với tư cách chủ thể nhận thức, Aristotle cho rằng, khi Democritos nói “con người - đó
là tất cả những gì mà chúng ta đã nhận biết được” thì điều đó chỉ có nghĩa là, với
Democritos, mọi cái mà con người đã nhận biết được về chính bản thân mình là những
cái mà con người thể hiện ra ở cái vẻ bề ngoài của họ, theo hình dạng của họ và cùng
với hiểu biết đó, nhận thức của con người còn hướng tới những cái chưa rõ ràng, chưa
được bộc lộ ra ở họ, ở con người. Với Democritos, việc nhận thức cái đã trở nên rõ
ràng là cần thiết, song cần thiết hơn vẫn là nhận thức cái còn chưa rõ ràng. Ông viết:
“Con người cần phải hướng nhận thức đến cái chưa rõ ràng, chứ không phải cái tuyệt
đối hiển nhiên”. Khi nói rõ hơn về quan niệm này của mình, Đêmôcrít cho rằng, một
khi cái bản chất vật chất của con người còn chưa được làm sáng tỏ một cách đầy đủ
thì vấn đề con người nhận thức thế giới cũng chưa rõ ràng và do vậy, nhận thức cần
phải hướng tới cái chưa rõ ràng ấy. Với quan niệm này, khi khẳng định khả năng nhận
thức thế giới của con người, Democritos đã chia nhận thức của con người thành hai
dạng - nhận thức mờ tối (nhận thức cảm tính, nhận thức theo “dư luận chung” - υομφ)
và nhận thức chân lý (nhận thức lý tính – έτεή, nhận thức nguyên tử và chân không).
Ông viết: “Nhà thông thái là thước đo của mọi cái hiện tồn. Nhờ cảm giác, ông ta trở
thành thước đo của mọi sự vật cảm tính; còn nhờ lý tính, ông ta là thước đo của các
sự vật lý tính”.
 Socrates
Socrates là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy
vấn. Về năm sinh của ông hiện vẫn chưa có sự thống nhất giữa năm 469 hay 470.
(469–399 TCN), (470–399 TCN). Ông sinh ra tại thành phố Athena, thuộc Hy lạp, và
đã sống vào một giai đoạn thường được gọi là hoàng kim của thành phố này. Thời trẻ,
ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ của các "triết học gia trước
Sokrates", đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta.
Sokrates được coi là nhà hiền triết, một công dân mẫu mực của thành Athena, Hy
Lạp cổ đại. Ông là nhà tư tưởng nằm giữa giai đoạn bóng tối và giai đoạn ánh sáng
của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Sokrates còn được coi là người đặt nền móng cho
thuật hùng biện dựa trên hệ thống những câu hỏi đối thoại. Ông có tư tưởng tiến bộ,
nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: "Hãy tự biết lấy chính mình", "Tôi chỉ biết mỗi
một điều duy nhất là tôi không biết gì cả". Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại
hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành
Athena thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự
tử bằng thuốc độc, mặc dù vậy ông vẫn có thể thoát khỏi án tử hình này nếu như ông
công nhận những cáo trạng và sai lầm của mình, hoặc là rời bỏ Athena. Nhưng với
quan điểm "Thà rằng chịu lỗi, hơn là lại gây ra tội lỗi.", ông kiên quyết ở lại, đối diện
với cái chết một cách hiên ngang. Theo ông sự thật còn quan trọng hơn với cả sự sống.
Có lẽ đóng góp quan trọng nhất của ông cho tư tưởng phương Tây là phương pháp
truy vấn biện chứng, được biết đến dưới tên gọi "phương pháp Sokrates" hay phương
pháp "bác bỏ bằng logic" (elenchus). Ông đã áp dụng phương pháp này chủ yếu cho
việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng về mặt đạo đức như Tốt đẹp và Công
bằng. Platon là người đầu tiên miêu tả phương pháp này với tác phẩm "Các cuộc hội
thoại của Sokrates". Để giải quyết một vấn đề, người ta chia nhỏ nó thành một hệ
thống các câu hỏi, các câu trả lời sẽ dần dần kết tinh ra lời giải mà ta tìm kiếm. Ngày
nay, ảnh hưởng của cách tiếp cận này có thể thấy rõ nhất ở việc sử dụng phương pháp
khoa học, mà bước đầu tiên là đặt ra giả thuyết. Sự phát triển và sử dụng phương pháp
này là một trong những đóng góp bền vững nhất của Sokrates, đó là thành tố chính
trong việc đánh giá ông là cha đẻ của triết học chính trị, luân lý học, và là người khởi
đầu của các xu hướng chính trong triết học phương Tây.
Phương pháp Sokrates có thể được diễn tả như sau; một loạt câu hỏi được đặt ra để
giúp một người hay một nhóm người xác định được niềm tin cơ bản và giới hạn của
kiến thức họ. Phương pháp Sokrates là phương pháp loại bỏ các giả thuyết, theo đó
người ta tìm ra các giả thuyết tốt hơn bằng cách từng bước xác định và loại bỏ các giả
thuyết dẫn tới mâu thuẫn. Nó được thiết kế để người ta buộc phải xem xét lại các niềm
tin của chính mình và tính đúng đắn của các niềm tin đó. Thực tế, Sokrates từng nói,
"Tôi biết anh sẽ không tin tôi, nhưng hình thức cao nhất của tinh túy con người là tự
hỏi và hỏi người khác".
Nếu có một nhận xét tổng quát về niềm tin triết học của Sokrates, thì có thể nói
rằng về mặt đạo đức, tri thức, và chính trị, ông đi ngược lại những người đồng hương
Athena. Khi bị xử vì tội dị giáo và làm lũng đoạn tâm thức của giới trẻ Athena, ông
dùng phương pháp phản bác bằng lôgic của mình để chứng minh cho bồi thẩm đoàn
rằng giá trị đạo đức của họ đã lạc đường. Ông nói với họ rằng chúng liên quan đến gia
đình, nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị của họ trong khi đáng ra họ cần lo lắng về
"hạnh phúc của tâm hồn họ". Niềm tin của Sokrates về sự bất tử của linh hồn và sự tin
tưởng chắc chắn rằng thần linh đã chọn ông làm một phái viên có vẻ như đã làm
những người khác tức giận, nếu không phải là buồn cười hay ít ra là khó chịu.
Sokrates còn chất vấn học thuyết của các học giả đương thời rằng người ta có thể trở
nên đức hạnh nhờ giáo dục. Ông thích quan sát những người cha thành công (chẳng
hạn vị tướng tài Pericles) nhưng không sinh ra những đứa con giỏi giang như mình.
Sokrates lập luận rằng sự ưu tú về đạo đức là một di sản thần thánh hơn là do sự giáo
dục của cha mẹ. Niềm tin đó có thể đã có phần trong việc ông không lo lắng về tương
lai các con trai của mình.
Sokrates thường xuyên nói rằng tư tưởng của ông không phải là của ông mà là của
các thầy ông. Ông đề cập đến một vài người có ảnh hưởng đến ông: nhà hùng biện
Prodicus và nhà khoa học Anaxagoras. Người ta có thể ngạc nhiên về tuyên bố của
Sokrates rằng ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai người phụ nữ ngoài mẹ ông. Ông
nói rằng Diotima, một phù thủy và nữ tu xứ Mantinea dạy ông tất cả những gì ông biết
về tình yêu, và Aspasia, tình nhân của Pericles, đã dạy ông nghệ thuật viết điếu văn.
John Burnet cho rằng người thầy chính của ông là Archelaus (người chịu ảnh hưởng
của Anaxagoras), nhưng tư tưởng của ông thì như Platon miêu tả. Còn Eric A.
Havelock thì coi mối quan hệ của Sokrates với những người theo thuyết Anaxagoras
là căn cứ phân biệt giữa triết học Platon và Sokrates.
 Platon
Platon, khoảng 427-347 TCN, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là
thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại
cùng với Sokrates là thầy ông. Sinh ra ở Athen, ông được hấp thụ một nền giáo dục
tuyệt vời từ gia đình, ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết
học, ngành học mà ông chuyên tâm theo đuổi từ khi gặp Sokrates. Ông đã từng bị bán
làm nô lệ và được giải thoát bởi một người bạn, sau đó, ông đã trở về Athena khoảng
năm 387 TCN và sáng lập ra Akademia (tên lấy theo khu vườn nơi ông ở). Đây có thể
được coi là trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu,
giảng dạy khoa học và triết học. Aristoteles đã theo học tại đây khi 20 tuổi và sau này
lập ra một trường khác là Lyceum.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học
duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan
niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Trong đó thế giới các sự
vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn vì các sự vật không ngừng sinh ra và
mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý
niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật
cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người không phải là phản ánh
các sự vật cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý
niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã
đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất,
cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn
tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Về mặt nhận thức
luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái có trước các sự vật chứ
không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Nhận
thức con người không phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại,
hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được
phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri
thức ý niệm có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri thức nhận được nhờ vào nhận
thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lý. Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm
về nhà nước lý tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý tưởng dựa trên
sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
II. CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC – CHÍNH TRỊ
1. Các quan điểm triết học về nhận thức
Aristotle cho rằng bản chất con người là khát vọng hướng đến tri thức, con người
sinh ra để nhận thức, kẻ nào không nhận thức, kẻ đó không phải là người. Nhận thức
là quá trình xuất phát từ thực tại khách quan, trải qua giai đoạn cảm giác, biểu tượng
đến tư duy, lý luận. Không có sự tác động của đối tượng nhận thức vào giác quan thì
sẽ không có một tri thức nào; nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản
chất sự vật; chỉ có nhận thức lý tính mới khám phá được cái phổ biến, tất yếu, tức cái
bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
bên ngoài vào trong linh hồn, là ghi chép lên linh hồn những dòng chữ tri thức. Để
tránh sai lầm trong quá trình tìm hiểu về bản chất, khám phá quy luật của hiện thực
khách quan, thì linh hồn lý tính phải được trang bị các phương pháp suy nghĩ đúng
đắn, phải tuân thủ những yêu cầu của logic học (luận lý học).
Như vậy, Aristotle phân biệt tri thức với kinh nghiệm và thường kiến. Tri thức
khác với kinh nghiệm, bởi lẽ tri thức có tính phổ biến và tính tất yếu, còn kinh
nghiệm, nhất là thường nghiệm, có tính đơn nhất và tính ngẫu nhiên. Nhưng kinh
nghiệm là khởi điểm của cả tri thức lẫn nghệ thuật. Tri thức khác với thường kiến như
cái xác thực khác với cái xác suất, cái chắc chắn khác với cái phỏng đoán. Sự khác
nhau căn bản giữa Aristotle và Platon trong lý luận nhận thức ở chỗ nếu Platon xuất
phát từ sự tồn tại của tri thức, thì Aristotle xuất phát từ sự tồn tại của đối tượng tri
thức. Nhận thức luận của Aristotle là sự sửa chữa lại nhận thức luận của Platon. Nhận
thức được Aristotle xem xét như một quá trình từ cảm tính đến lý tính, từ nhận thức
cái đơn nhất đến nhận thức các tiểu loại, chủng loại. Platon cũng nói đến điều đó,
nhưng triển khai theo hướng đi xuống: lý tính - giác tính - niềm tin - mô phỏng, trong
đó hai nấc thang đầu thuộc về hoạt động tư duy, hai nấc thang sau - thường kiến. Sự
liên kết bốn nấc thang nhận thức, theo Platon, tạo nên một quá trình nhận thức thống
nhất, mà cơ sở của nó là tồn tại đích thức, thế giới các ý niệm. Bác bỏ Platon, Aristotle
cho rằng, khoa học lấy cái phổ biến làm đối tượng, nhưng cái phổ biến là sự trừu
tượng hóa từ thực tại cụ thể cảm tính, nên trước hết cần nhận thức những cái đơn nhất,
thế giới các sự vật cảm tính.
Nhận thức cảm tính, theo nghĩa đó, là nấc thang đầu tiên, cần thiết của quá trình
nhận thức. Tri thức phổ biến xuất phát từ kinh nghiệm và được trừu tượng hóa ở tư
duy, là sự khái quát tri thức về những cái đơn nhất. Tri thức về cái phổ biến hình thành
trong linh hồn lý tính, thứ linh hồn đặc biệt, chỉ có ở con người, tồn tại không lệ thuộc
vào thân xác. Linh hồn là nguyên nhân và khởi đầu của vơ thể sống, trong đó phần
siêu việt nhất thuộc về lý tính, nhưng ngay ở lý tính lại có phần lý tính siêu việt thuần
túy - siêu việt của những siêu việt. Về phần mình lý tính siêu việt phân thành lý tính
tích cực (năng động) và lý tính thụ động. Aristotle đặt lý tính siêu việt tích cực ở đỉnh
chóp bảng phân tầng linh hồn và xem nó như lý tính sáng tạo. Lý tính ấy trong khi suy
niệm về sự vật cũng đồng thời sắp xếp các sự vật. Lý tính thụ động, thu nhận, là sự đi
tìm những mô thức, hay khả năng đạt tới những mô thức. Tri thức về cái phổ biến
được đặt vào lý tính thụ động dưới dạng khả năng. Để khả năng tri thức trở thành tri
thức thực sự cần có cả lý tính tích cực (diễn đạt theo ngôn ngữ hiện đại: tính tích cực
của ý thức) lẫn sự tác động của thế giới khách quan lên linh hồn.
2. Các tư tưởng chính trị
Các tư tưởng triết học về hình thành một nhà nước và xã hội cũng như quan điểm
chính trị đã được Aristotle tổng hợp trong tác phẩm Chính trị luận, một kinh điển cho
khoa học chính trị Tây phương cho đến ngày nay. Aristotle viết Chính trị luận vào
năm 350 TCN và có ảnh hưởng sâu rộng tới các tư tưởng gia đời sau như Cirero, St.
Augustine, Aquinas và các lý thuyết gia thời Trung cổ. Các lý thyết gia hiện đại như
Machiavelli, Hobbes và các nhà tư tưởng thời Khai Sáng đều dựa trên nền tảng này
mà phê phán lý thuyết và mô hình chính trị kiểu Aristotle, nhờ vậy họ đã phát triển
nên hệ tư tưởng mới.
Aristotle đã sử dụng phương pháp luận lý quy nạp, đi từ đơn vị xã hội nhỏ nhất là
gia đình tới xã hội và cuối cùng là quốc gia để tìm ra những đặc tính thiết yếu mà nhà
nước phải có để trở thành một nhà nước lý tưởng. Đồng thời, Aristotle cũng so sánh
giữa mô hình nhà nước “lý tưởng” và mô hình nhà nước trong thực tế và đưa ra những
nguyên lý xây dựng một nền chính trị mang lại điều tốt nhất cho con người.
a. Lý thuyết về gia đình và nô lệ
Aristotle từng nói “mỗi cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó;
vì hoạt động của con người luôn luôn nhằm đạt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng
nếu tất cả các cộng đồng đều nhắm đến cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị,
cộng đồng cao nhất và bao trùm tất cả các cộng đồng – phải nhắm tới cái tốt đẹp cao
cả hơn mọi cái tốt đẹp khác, và phải là cái tốt ở mức độ cao nhất”. Aristotle đã nhắc
đến vai trò của nô lệ khi phân tích các thành phần tạo nên hộ gia đình. Mối tương
quan trong hộ gia đình gồm có quan hệ giữa chủ nhân và nô lệ, giữa chông và vợ, giữa
cha mẹ và con cái. Lập luận của Aristotle về nô lệ dĩ nhiên không còn phù hợp với
thời đại của chúng ta, như nô lệ là một thành phần không thể thiếu trong xã hội Hy
Lạp cổ đại, thời kỳ mà nền kinh tế dựa vào sức lao động của nô lệ để sản xuất.
Theo Aristotle có 2 loại nô lệ: những kẻ sinh ra đã là nô lệ và những kẻ bị buộc
làm nô lệ. Aristotle đã lập luận như sau: những kẻ nào mà trời sinh ra kém thông
minh, không làm được gì hơn là chỉ làm những việc lao động chân tay, thì những kẻ
ấy trời sinh ra làm nô lệ, đó là những kẻ không đủ trí phán đoán khôn ngoan. Aristotle
còn cho rằng đối với những người như vậy có được chủ nhân là điều tốt cho họ. Ngoài
ra, những kẻ chiến bại là những kẻ bị buộc làm nô lệ, những kẻ chiến bại này chắc
chắn phải kém hơn người chiến thắng chứ nếu không thì thua sao được? Như vậy bị
bắt làm nô lệ cũng hợp với luân lý mà thôi.
Đồng thời, Aristotle cũng lập luận về vai trò của phụ nữ trong hộ gia đình. Ông
quan niệm: “người nam do bản chất tự nhiên, ngoại trừ trường hợp bị tậ bẩm sinh,
thích hợp với vai trò chỉ huy hơn người nữ, cũng tương tự như với tuổi tác và sự chín
chắn thích hợp với vai trò chỉ huy hơn tuổi trẻ thiếu khôn ngoan”. Aristotle không nói
“chỉ huy” cái gì nhưng nhận định thêm rằng vai trò của người chồng đối với vợ cũng
giống như vai trò của nhà lãnh đạo chính trị đối với công dân, và vai trò của người cha
đối với con gái cũng giống như của nhà vua đối với thần dân. Quan niệm của Aristotle
cũng là quan niệm của Tây phương về vai trò phụ nữ là lo việc quản trị gia đình.
Aristotle cũng đưa ra những lập luận để phân tích mối quan hệ giữa con người và
nhà nước. Theo ông, mỗi nhà nước là một hình thức quần tụ nào đó của con người –
một công đồng, và mỗi cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó.
Aristotle đã chứng minh rằng gia đình là sự tụ hội cần thiết và tự nhiên, và nếu làng
mạc là sự tăng trưởng tự nhiên của gia đình, và nhà nước (polis) là sự tăng trưởng của
các làng mạc, thì sự phát triển của nhà nước cũng là sự phát triển tự nhiên. Ông lập
luận khi nhiều làng mạc liên kết lại với nhau thành một cộng đồng duy nhất, một cộng
đồng đủ lớn để có thể tự túc được, thì nhà nước được khai sinh từ những nhu cầu cơ
bản của đời sống và tiếp tục tồn tại cho một đời sống tốt đẹp, nhà nước là một kết quả
cuối cùng của xã hội, và tính tự nhiên của sự vật chính là chung cục của nó. Cũng theo
Aristotle, con người là “một động vật mà do bản tính tự nhiên phải sống trong một nhà
nước. Nếu có kẻ nào đó vì bản tính tự nhiên, không phải vì tai nạn ngẫu nhiên, chọn
sống ngoài cộng đồng chính trị, kẻ đó hoặc chẳng ra gì, hoặc là một siêu nhân hơn
người”. Như vậy, Aristotle coi con người là một sinh vật chính trị, sự phối hợp giữa
các sinh vật có ý thức này tạo nên gia đình và nhà nước.
Tuy nhiên, Aristotle cũng cho rằng nhà nước hiện hữu bởi tự nhiên và có trước các
cá nhân, vì nhà nước là tổng thể, còn cá nhân là cá thể. Mọi cá nhân không thể nào tự
túc được khi sống cô lập, vì mọi cá nhân là vô vàn các cá thể cùng lệ thuộc vào một
cái tổng thể, nhà nước. Aristotle từng nói: “một cá nhân sống biệt lập, hoặc là vì
không thể chia sẻ các phúc lợi do sự quần tụ chính trị đem lại, hoặc không cần chia sẻ
gì hết vì hắn đã đạt được tự túc rồi, thì không còn là một thành phần của nhà nước
nữa, như vậy, phải hoặc là thú, hoặc là thần mà thôi”.
b. Tư tưởng về nhà nước lý tưởng
Aristotle đặt vấn đề, theo ông có ba chọn lựa có thể xảy ra: công dân của một nhà
nước hoặc là có chung mọi thứ, hoặc là không có chung thứ gì hết, hoặc là chỉ có
chung một số điều nào đó mà thôi. Lựa chọn công dân không có chung thứ gì hết hiển
nhiên là điều không thể xảy ra, vì cơ cấu chính trị là một cộng đồng. Nhưng liệu một
nhà nước được cai trị khéo léo sẽ có chung nhau mọi điều hay chỉ có chung nhau một
số điều? Bởi vì như Socrates đã đưa ra mô hình nhà nước được Platon mô tả lại, theo
đó mọi công dân đều có chung của cải vật chất, bao gồm chung cả vợ con. Aristotle đã
phê bình mô hình nhà nước lý tưởng này của Socrates và Platon, một nhà nước được
xây dựng theo kiểu “cộng sản nguyên thủy”. Aristotle cũng phản bác mô hình của các
lý thuyết gia khác như Phaleas, Hippodamus. Ông nhận diện các nhà nước mà theo
ông đã tiến đến gần lý tưởng như Sparta, Crete, Carthage cùng với các khuyết điểm
sâu sắc các nhà nước này mắc phải và đưa đến sự suy vong sau này.
Từ đó, Aristotle đưa ra nhận định chẳng khi nào con người có thể đạt được một
nhà nước lý tưởng, nhưng con người có thể xây dựng được cho mình một chế độ tốt
nhất có thể. Đó là một chế độ Trung dung, ở giữa chế độ Dân chủ (dân chủ trực tiếp,
mọi người dân đều tham gia vào chính trị từ nghị luận việc công đến thi hành pháp
luật) và chế độ Quả đầu (thiểu số cai trị nhưng không phải là quý tộc).
c. Bản chất công dân và các mô hình hiến pháp
Aristotle cho rằng tư cách công dân của một người không được tạo nên chỉ vì
người đó sinh ra và cư trú trên một đất nước nào đó. Tư cách công dân chỉ cần một
tiêu chuẩn để xác định: công dân là người có quyền hạn tham gia chính sự và giữ chức
vụ trong chính quyền. Tuy nhiên có quyền tham chính và giữ chức vụ trong chính
quyền không có nghĩa người dân sẽ trở thành công dân tốt. Aristotle đưa ra một câu
hỏi thiết yếu: “liệu một người tốt có trở thành một công dân tốt”. Theo Aristotle, hai
điều này thuộc phạm trù khác nhau. Ông đưa ra hình ảnh so sánh người dân trong một
nước với những thủy thủ trên một con tàu, mỗi người một nhiệm vụ phải thi hành,
người lo việc lái tàu, người lo việc chèo chống... Mỗi người đều phải làm tốt phần
việc của mình. Tuy nhiên tất cả đều có nhiệm vụ chung là giữ con tàu được an toàn, đi
được tới mục tiêu đã định. Công dân cũng vậy, mục đích tối hậu là giữ cho chế độ
được an toàn, và đó là đức hạnh chung của công dân. Công dân, dù giữ chức vụ lãnh
đạo hay chỉ là dân thường cũng phải có kiến thức và khả năng lãnh đạo cũng như biết
tuân phục. Riêng với nhà lãnh đạo, Aristotle đòi hỏi phải có thêm đức tính nữa mà các
công dân khác không có, đó là sự khôn ngoan chính trị.
Aristotle cũng đã phân tích các chế độ chính trị được thể hiện qua các loại hiến
pháp khác nhau. Vì bản năng tự nhiên của con người là sống quần tụ với nhau hòng
đạt được đời sống tốt đẹp hơn lúc sống đơn lẻ, do đó mục đích tối hậu của mọi chế độ
là tạo dựng và bảo vệ đời sống tốt đẹp cho mọi người. Chế độ nào đtạ được mục đích
này là chế độ đúng đắn, và ngược lại chế độ nào chỉ phục vụ cho giới cầm quyền là
chế độ bất công, vì quốc gia là sự kết hợp của những con người tự do và bình đẳng.
Theo Aristotle, cơ cấu chính trị do hiến pháp đặt ra là cơ cấu tối thượng. Cơ cấu
này có thể do một người, vài người hoặc đa số nắm giữ. Aristotle phân loại các chế độ
chính trị như sau: Quân chủ (một người), Quý tộc (vài người), và Đa số (gồm các
công dân có tài sản). Dù dưới hình thức nào, khi cơ cấu tối thượng này cai trị nhằm
đem lại cái tốt chung cho mọi người, thì nhất thiết nó phải là cơ cấu chính trị đúng đắn
và tốt nhất. Nếu các chế độ trên chỉ lo cho quyền lợi riêng thì chúng đã bị biến thái
thành những chế độ xấu xa, như Bạo chúa thay cho Quân chủ, Quả đầu thay cho Quý
tộc, và Dân chủ thay cho Đa số (Aristotle và người Hy Lap cổ đại cho rằng Dân chủ
chỉ lo cho quyền lợi của dân nghèo). Đối với một đất nước có đa số dân giàu và thiểu
số dân nghèo, Aristotle cho rằng con số nhiều ít chỉ có tính tương đối, và nhấn mạnh
một chế độ được xem là chế độ Quả đầu nếu những người cai trị lo cho quyền lợi của
người giàu (bất kể nhiều hay ít) và một chế độ được xem là Dân chủ nếu do thành
phần dân nghèo cai trị.
Những người theo chế độ Dân chủ cho rằng vì mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng, như vậy trên căn bản công bằng, mọi người đều có quyền ngang nhau.
Những người theo chế độ Quả đầu lại nghĩ khác: nếu mọi người giàu nghèo khác
nhau, thì theo công lý, họ cũng có những quyền khác nhau; những người đóng góp
cho nhà nước một đồng không thể ngang quyền với những người đóng góp một trăm
đồng. Theo Aristotle cả hai lập luận trên đều sai lầm vì cả hai phe đều đưa ra nhận
định và phán xét dựa trên quyền lợi của mình. Ông đã nói: “Mọi người, như một quy
luật, đều là những quan tòa không ngay thẳng khi phán đoán những gì có liên quan
đến quyền lợi riêng tư của mình”. Thêm vào đó, nhận định sai lạc của hai phe nằm ở
chỗ không nắm vững mục tiêu tối hậu của nhà nước. Quốc gia không phải một tập hợp
dân chúng cư ngụ trên cùng một lãnh thổ, hay là noi dân chúng buôn bán, giao dịch dễ
dàng với nhau, hay cùng nhau chống lại các hiểm họa. Tất cả những điều này cần
nhưng chưa đủ, vì chỉ tạo nên đời sống xã hội chứ chưa tạo thành một quốc gia. Mục
đích tối hậu của một quốc gia là hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, và các mối dây ràng
buộc xã hội chỉ là phương tiện để đạt được mục đích này mà thôi. Do đó, những ai
đem tài năng và hành hành động của mình, cống hiến nhiều cho quốc gia thì sẽ hưởng
nhiều vinh dự hơn. Đây là lý thuyết phân bố công lý gọi là bình đẳng theo tỷ lệ và dựa
trên tài năng. Qua đây Aristotle bác bỏ lập luận xây dựng nhà nước dựa trên giai cấp
xã hội.
Aristotle cũng đề cập đến một vấn đề quan trọng cho việc tổ chức quốc gia, đó là
thành phân sẽ nắm quyền tối thượng: dân nghèo, dân giàu, thành phần ưu tú, một
người có tài năng kiệt xuất hay bạo chúa? Nếu thành phần đa số, không kể giàu nghèo,
tịch thu tài sản của thành phần thiểu số để chia cho nhau, thì đất nước sẽ bị tiêu hủy.
Nếu thành phần ưu tú nắm quyền thì đa số còn lại sẽ không có cơ hội để tham chính
và giữ trọng trách trong chính quyền. Nếu chỉ có một người cai trị, thì tuyệt đại đa số
sẽ chẳng bao giờ có cơ hội tham chính. Và Aristotle đưa ra một đề nghị là “Pháp trị”,
tức là để pháp luật, chứ không phải con người có quyền tối thượng, vì con người luôn
luôn để tư lợi và tình cảm xen vào. Aristotle nhận định rằng, có thể có một hoặc một
nhóm người siêu việt và xuất chúng hơn mọi người, chỉ một mực chăm lo cho lợi ích
chung của quốc gia, và theo luận lý tự nhiên người hay nhóm người này sẽ nắm quyền
tối thượng, tuy nhiên cũng lưu ý rằng, những người như vậy là “thần thánh chứ không
phải con người”.
d. Nguyên nhân của Cách mạng và sự thay đổi thể chế
Quan điểm hiện đại về Cách mạng thường mang ý nghĩa tích cực hơn, đổi cái cũ
bằng cái mới tiến bộ hơn. Tuy nhiên cách mạng theo Aristotle thuần túy chỉ là sự thay
đổi chế độ, mang tính khách quan, không tốt và cũng không xấu. Chế độ mới có thể
tốt hơn, nhưng cũng có thể xấu hơn chế độ vừa bị cách mạng. Cũng theo Aristotle,
nguyên nhân của cách mạng do sự diễn dịch khác nhau của các thành phần dân chúng
khác nhau về công lý và bình đẳng. Những người theo Dân chủ quan niệm rằng hễ
những ai bình đẳng trên một phương diện, thì cũng bình đẳng trên mọi phương diện;
những người theo quan niệm Quả đầu lại cho rằng những ai không bình đẳng trên một
phương diện thì tất yếu cũng không bình đẳng trên mọi phương diện; hai quan điểm
này xung đột và dẫn đến tranh chấp và hành vi dấy loạn. Aristotle cho rằng nguyên
nhân sâu xa dẫn đến sự dấy loạn, tranh chấp ở chỗ: động cơ tâm lý: là những cảm xúc
và nhiệt tình với sự bình đẳng, những kẻ thua thiệt đấu tranh và đòi bình đẳng với kẻ
khác, những kẻ khá giả đấu tranh để giữ được địa vị xã hội của mình. Mục tiêu tranh
chấp và điều kiện tranh chấp suy cho cùng là danh và lợi, khi là mục tiêu danh-lợi tạo
sự bất mãn, khi là điều kiện dẫn đến bất mãn.
Trong chế độ Dân chủ, nguyên nhân gây sụp đổ chế độ là những kẻ mị dân, là
những chính khách lợi dụng thành kiến, cảm xúc, sợ hãi, hy vọng và ngay cả lòng ái
quốc để kích động đám đông cho mưu đồ chính trị (tiêu biểu thời hiện đại là Hitler).
Tất cả những kẻ mị dân lên nắm quyền đều trở thành độc tài, bạo ngược. Chế độ Quả
đầu bị sụp đổ vì giai cấp thiểu số thống trị đàn áp và đối xử bất công với đa số bị trị
(các cjees độ độc đảng ngày nay là hình thức rõ rệt nhất của chế độ Quả đầu). Chế độ
Quý tộc bị sụp đổ vì giai cấp cai trị đi chệch hướng nguyên tắc công bằng của chế độ,
nhất là khi chức vụ được sử dụng như phương tiện để mưu lợi cá nhân. Để bảo vệ chế
độ, Aristotle đề nghị phải giáo dục quần chúng sống và hành động theo đúng tinh thần
của hiến pháp tạo dựng ra chế độ.
e. Các phương thức thiết lập chế độ Dân chủ và Quả đầu
Tư tưởng căn bản của dân chủ là tự do, và đó cũng là mục đích chính của chế độ
Dân chủ. Tự do, theo Aristotle gồm hai phần gồm tự do chính trị, nghĩa là mọi người
dân đều có quyền tham chính (qua bầu cử vào các chức vụ trong chính quyền) và ý
kiến của đa số được coi là ý kiến chung, được mọi người công nhận (thiểu số phục
tùng đa số); thứ hai là tự do dân sự, qua đó người dân sống theo ý mà mình thích, bao
hàm ý nghĩa tự do là không bị chính quyền xâm phạm. Các đặc tính của chế độ Dân
chủ gồm: mọi công dân đều có quyền tranh cử vào các chức vụ của chính quyền,
không ai giữ chức vụ trong chính quyền quá 2 lần, mọi chức vụ trong chính quyền đều
được trả lương, và nhiệm kỳ của chức vụ cũng không được kéo dài quá lâu.
Theo Aristotle, chế độ Dân chủ tốt nhất là chế độ mà quần chúng gồm đa số là
nông dân. Ông lý luận rằng vì nông dân là những người không có nhiều tài sản, và
phải bận rộn với đồng áng nên không có thì giờ tham gia vào các cuộc hội nghị. Quần
chúng nông dân cần lợi hơn cần danh, nên họ chỉ cần quyền bầu ra các viên chức
chính quyền và quyền bãi miễn viên chức chính quyền nếu không hoàn thành tránh
vụ. Chế độ dân chủ tốt thứ 2 là gồm những người sống bằng nghề chăn nuôi; chế độ
này tương tự như chế độ gồm đa số nông dân. Hai chế độ dân chủ còn lại do thương
nhân, công nhân hay giới chức lao động tạo nên, theo Aristotle, là những chế độ dân
chủ tệ hại và không bền vững, vì hai giới này sống gần thành thị, thường lai vãng đến
các hội nghị, và tạo ra các xáo trộn chính trị.
Sau chế độ Dân chủ, Aritotle bàn đến việc xây dựng chế độ Quả đầu. Chế độ Quả
đầu tốt nhất là chế độ dung hợp giữa Quản đầu và Dân chủ. Chính quyền được chia
làm hai viện, hạ viện dành cho dân có ít của cải, thượng viện dành cho dân có nhiều
của cải hơn.
f. Lý tưởng chính trị và nguyên tắc giáo dục
Aristotle cũng bàn về các lý tưởng chính trị và bản chất của đời sống hạnh phúc
nhất, tốt đẹp nhất. Với lý luận quy nạp, Aristotle đi từ nhận xét về cá nhân con người,
rồi suy ra đến quốc gia. Theo Aristotle, đời sống con người có ba cái “tốt”: những cái
tốt thuộc về vật chất ngoại tại, tức là những cái tốt thuộc thể chất, và những cái tốt
thuộc tinh thần. Những cái tốt thuộc tinh thần là những điều cao cả nhất, như can đảm,
khôn ngoan, vfa các đức hạnh khác. Aristotle kết luận, “đời sống tốt đẹp nhất cho
quốc gia và cá nhân là đời sống đức hạnh được trang bị bởi những cái tốt vật chất
ngoại tại, và thể chất, những điều kiện cần thiết để con người có thể tham dự vào các
hoạt động đem lại sự tốt lành cho quốc gia”. Tuy nhiên, trong thực tế, đời sống tốt
đẹp nhất của con người, theo Aristotle, gồm hai loại: đời sống thiên về thực tiễn và
đời sống thiên về tư tưởng. Đời sống thực tiễn cao nhất là đời sống chính trị và đời
sống tư tưởng cao nhất là đời sống hợp với triết học.
Aristotle cũng đưa ra những điều kiện lý tưởng cho một quốc gia bao gồm: dân số,
bản chất dân chúng, cấu trúc xã hội, lãnh thổ cùng vị thế địa lý quốc gia. Aristotle đưa
ra công thức cho một dân số lý tưởng “con số lớn nhất – qua kiểm tra dân số (không
phải ước lượng) – cần thiết để nhà nước đạt được mức độ tự túc”. Về lãnh thổ, ông
chọn trung đạo, rộng lớn quá hay nhỏ hẹp quá đều bất cập. Về bản chất dân chúng,
ông cho rằng tâm tính của con người do vị thế địa lý quyết định. Có ba loại người
phân chia theo địa lý như sau: thứ nhất, những người ở vùng lạnh lẽo châu Âu có ý
chia cao nhưng kém khéo léo và thông minh; thứ hai, những người ở châu Á khéo léo,
thông minh nhưng kém ý chí; thứ ba, dân Hy Lạp là giống dân có cả hai đặc tính này.
Về phương diện cấu trúc xã hội, ông cho rằng cần phân biệt hai thành phần trong xã
hội, bao gồm nhóm những công dân tham chính và nhóm “các điều kiện cần thiết”
bao gồm những người lao động cần thiết để cho thành phần công dân tham chính có
thể tham gia sinh hoạt chính trị.
Khi luận bàn về vấn đề giáo dục, theo Aristotle, nền giáo dục quốc dân phải là một
nền giáo dục toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Ông quan niệm rằng, giáo dục ảnh
hưởng tư cách công dân và muốn xây dựng đạo đức công dân thì phải bắt đầu xây
dựng đạo đức cá nhân. Việc hôn nhân cũng là một vấn đề trọng đại trong việc xây
dựng một nhà nước lý tưởng. Về phương diện sinh lý học, Aristotle cho rằng thể chất
của cha mẹ ảnh hưởng đến thể chất của con cái, ông đề nghị tuổi của người chồng nên
lớn hơn vợ từ 17 đến 20 tuổi, và lứa tuổi thích hợp nhất cho việc lập gia đình và sinh
sản là người chông 37 tuổi và vợ 18 tuổi. Khi con cái lớn lên, không nên để chúng
giao lưu và ở gần nô lệ và tuyệt đối cấm không cho nghe những lời tục tĩu và hình ảnh
dâm ô.
Giáo dục là nhiệm vụ của quốc gia và nhà nước phải xây dựng một hệ thống giáo
dục đồng nhất cho mọi công dân. Aristotle đề nghị bốn môn học cho chương trình
giáo dục: đọc – viết, thể dục, âm nhạc và hội họa. Ông cũng đề nghị là dạy cho trẻ em
phát triển thể chất trước khi phát triển tinh thần, vì huấn luyện thể chất sẽ giúp trẻ em
phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác.
3. Luận lý học (logic)
Logic hay luận lý học, từ tiếng Hy Lạp cổ điển λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là
từ ngữ, hoặc điều đã được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đã trở thành có
ý nghĩa là suy nghĩ hoặc lập luận hay lý trí). Logic thường được nhắc đến như là một
ngành nghiên cứu về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của
logic vẫn là vấn đề còn đang được bàn cãi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học
được xác định, nhiệm vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc
phân tích các suy luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt
được luận cứ nào là hợp lý và luận cứ nào có chỗ không hợp lý.
Logic của Aristotle được chấp nhận rộng rãi trong khoa học và toán học và vẫn
còn được sử dụng rộng rãi ở phương Tây đến đầu thế kỷ 19. Hệ thống logic của
Aristotle phù hợp cho việc giới thiệu suy diễn giả định, và logic quy nạp. Ở châu Âu,
trong cuối thời kỳ trung đại, có nhiều nỗ lực nhằm chứng tỏ những tư tưởng của
Aristotle tương thích với niềm tin Cơ Đốc. Trong suốt thời kỳ Trung kỳ Trung cổ,
logic trở thành đề tài chính của các nhà triết học, những người muốn tham gia vào
những cuộc tranh luận triết học về phân tích logic học.
Aristotle là người sáng lập môn logic học hình thức, ông cũng sáng tạo ý niệm về
việc phân loại các khoa học. Đối với ông, có một mối tương quan mật thiết giữa logic
và khoa học. Ông quan niệm logic học như là công cụ để diễn tả các phân tích về khoa
học bằng ngôn ngữ thích hợp. Aristotle không giới hạn sự quan tâm về logic học của
ông vào các tương quan giữa các mệnh đề với nhau hay sự mạch lạc của ngôn ngữ, mà
chủ yếu là ông quan tâm các hình thức chứng minh, vì thế ông đặc biệt chú ý tới
những gì chúng ta có thể phát biểu bằng ngôn từ chính xác về thực tại, sự vật là cái gì
và tại sao chúng là như thế. Khoa học theo Aristotle, bao gồm những phát biểu giải
thích cho chúng ta lý do tại sao các sự vật hoạt động như thế và tại sao chúng phải như
thế. Theo nghĩa này, khoa học chủ yếu là sự nhận thức về sự kiện và lý do tại sao. Nó
bao gồm cả sự quan sát lẫn lý thuyết giải thích cho cái được quan sát. Ngôn ngữ khoa
học phải diễn tả chính xác đến mức cao nhất có thể cái gì tạo nên đối tượng chuyên
biệt của một khoa học, và nó phải mô tả tại sao các sự vật hoạt động đúng theo cách
thức của chúng. Vì vậy, logic học là môn học về ngôn từ, nhưng không theo kiểu của
một nhà ngữ pháp. Logic học của Aristotle là môn học về tư duy mà các từ được dùng
như là những ký hiệu; nó là một cố gắng đạt tới chân lý bằng việc phân tích tư duy
phản ánh sự hiểu hay lãnh hội của chúng ta về bản tính của sự vật.
Mặc dù trước Aristotle đã có nhiều nhà triết học - chẳng hạn Pythagor, Democrite,
Socrate, Platon - sử dụng và nghiên cứu một số kiểu suy luận, một số kiểu phán đoán,
nhưng chính Aristotle mới là người khai sinh ra logic học như là một khoa học.
Aristotle được coi là người khai sinh ra logic học “không phải vì ông là người đầu tiên
đã hệ thống hoá được các thao tác suy luận vốn trước ông chỉ tồn tại riêng rẽ, chưa rõ
ràng, mà chính là vì ông là người đầu tiên đã làm cho các thao tác đó trở thành đối
tượng nghiên cứu, làm thành đối tượng nghiên cứu chính các thao tác suy luận đó, với
tư cách là các chỉnh thể, chứ không chỉ là thành tố này hay thành tố khác của suy
luận”. Nghĩa là ở Aristote các thao tác suy luận đã là các đối tượng nghiên cứu độc
lập, chứ không chỉ được nghiên cứu trong mối quan hệ với các suy luận. Ông đã
nghiên cứu một cách hệ thống về khái niệm, phán đoán, phép chứng minh và bác bỏ,
ông đã nêu lên ba quy luật cơ bản của tư duy. Ông đã xây dựng hoàn chỉnh lý thuyết
tam đoạn luận. Ông cũng là người đầu tiên phân loại các sai lầm logic. Vấn đề trung
tâm trong logic học của Aristotle là vấn đề suy luận diễn dịch, trong đó có các phép
chứng minh, được xây dựng như thế nào. Các vấn đề khác xoay quanh vấn đề này.
Các công trình của ông về logic học về sau được tập hợp lại trong bộ Organon.
Aristotle cũng là nhà triết học đầu tiên đã phân tích phương pháp, nhờ đó có được
một số định đề được suy diễn theo luận lý là đúng, căn cứ vào một số định đề khác đã
được công nhận. Ông cho rằng tiến trình suy diễn luận lý này được đặt trên một hình
thức tranh luận mà ông gọi là Tam đoạn luận (Syllogism). Trong một tam đoạn luận,
một định đề được suy diễn từ hai định đề đứng khác. Diễn dịch tam đoạn luận là suy
luận đi từ hai mệnh đề để tiến đến một kết luận tất yếu đã ngầm chứa trong hai mệnh
đề đó. Tam đoạn luận gồm 3 bộ phận: tiền đề lớn, tiền đề nhỏ, và kết luận. Ví dụ cho
tam đoạn luận: “Mọi người đều phải chết, mà ông Socrates là người. Vậy, ông
Socrates phải chết”. Trong Tam đoạn luận có 3 hạng từ (người, chết, ông Socrates) và
3 mệnh đề. Ông Socrates là chủ từ trong kết luận, vì có ngoại trương nhỏ nhất nên gọi
là tiểu từ. Chết, là hạng từ có vai trò thuộc tính của kết luận, vì có ngoại trương lớn
nhất, nên gọi là đại từ. Người, là hạng từ có ngoại trương trung bình, được gọi là
trung từ. Tam đoạn luận có thể được xét theo 2 phương diện: ngoại trương (hay ngoại
diện) và nội hàm. Theo phương diện ngoại trương Tam đoạn luận có thể được giải
thích rằng loài người thuộc về giống chết, nên cá nhân nào thuộc về loài người, thì cá
nhân đó cũng thuộc về giống chết. Theo phương diện nội hàm, tam đoạn luận có thể
được giải thích rằng tính chất chết gắn liền loài người, mà tính chất người thì gắn liền
với ông Socrates nên tính chất chết cũng gắn với ông Socrates. Kết luận của tam đoạn
luận có giá trị chặt chẽ, khi và vì nó là một kết quả tất yếu, không chối bỏ được một
khi đã thừa nhận tiền đề. Đồng thời, nếu tiền đề đúng thì kết luận phải đúng, ngược lại
nếu tiền đề không đúng thì kết luận không thể đúng, nhưng vẫn ở mức độ có thể hợp
lý. Chính vì vậy, luận lý học phân biệt hai loại chân lý: chân lý nội dung hay chân lý
thực sự, và chân lý hình thức, diễn giải Tam đoạn luận là diễn dịch hình thức. Dù Tam
đoạn luận là hình thức chặt chẽ nhất của suy luận, nhưng một vài triết gia vẫn xem đó
là phương pháp ít giá trị trong cuộc tìm kiếm chân lý, do đó phải hết sức cẩn thận vì
dễ bị rơi vào ngụy biện. Tuy nhiên Tam đoạn luận vẫn có giá trị thực hành, giúp áp
dụng nhận xét tổng quát vào một tình huống cụ thể, như tổng hợp tin tức, bác bỏ một
lập trường.
Tam đoạn luận đã giữu một vai trò quan trọng trong nền triết học sau này do tạo
nên các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristotle đã phân biệt hai
vấn đề, biện chứng (dialectic) và phân tích (analytic). Theo ông, biện chứng chỉ trắc
nghiệm các ý kiến xét theo tính nhất quán về lý luận, còn các công trình phân tích
được suy diễn từ các nguyên tắc dựa trên các kinh nghiệm và quan sát rõ ràng. Đây là
quan điểm trái ngược với Platon, người cho rằng biện chứng là phương pháp duy nhất
phù hợp với triết học và khoa học.
4. Luân lý học – Quan điểm về Đạo đức
Aristotle coi vấn đề Đạo đức là một vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn hơn là ý nghĩa
nghiên cứu nền tảng lý thuyết (theoretical study), tức là đạo đức nhằm vào việc mỗi
người trở nên tốt hơn và làm những điều tốt đẹp sẽ hữu ích hơn việc nghiên cứu đạo
đức chỉ mang tính lý thuyết, và rằng việc hiểu biết về đạo đức một cách lý thuyết sẽ
không đạt những hiệu quả nhất định. Aristotle đã viết một số luận thuyết về Đạo đức,
đáng chú ý nhất là luận thuyết Nicomachean Ethics. Aristotle tin rằng kiến thức về
đạo đức không chỉ là tri thức lý thuyết, mà còn là "kinh nghiệm về các hành động
trong cuộc sống" và đã "mang lại thói quen tốt" để trở nên tốt đẹp hơn (theo
Nicomachean Ethics). Để một người trở nên đạo đức, anh ta không thể chỉ học được
đạo đức là gì, mà phải thực sự làm những điều đạo đức.
Aristotle xây dựng học thuyết về Đạo đức của mình dựa trên tâm lý học. Theo ông,
linh hồn (soul) con người được chia làm 3 phần: lý tính thuần túy, lý tính thực tiễn, và
phần khoái lạc ham muốn. Đức hạnh theo Aristotle là hành vi của đạo đức, nó không
tự nhiên ban cho mỗi con người một cách tự động. Sự thông thái và trí tuệ con người
có được là quá trình học tập, còn đạo đức có được là do giáo dục. Như vậy khác với
Scrates quan niệm đạo đức là do bẩm sinh mà có, Aristotle đức hạnh của con người là
kết quả của một quá trình giáo dục. Aristole đã dạy rằng đức hạnh có liên quan một
cách chính xác tới đến các chức năng của mọi vật. Một con mắt chỉ là một con mắt tốt
trong nhiều con mắt có thể nhìn (An eye is only a good eye in so much as it can see),
vì chức năng thích hợp của mắt là thị giác. Aristotle đã lý luận rằng con người phải có
chức năng cụ thể đối với con người và chức năng này phải là hành vi của psuchē (có
thể hiểu là linh hồn hoặc ý thức) tương thích với lý trí biểu trưng (logos). Aristotle đã
xác định được hành vi tối ưu (optimum activity) của tâm hồn như là mục đích của tất
cả các hành động có chủ ý của con người chính là eudaimonia, thường được hiểu là
hạnh phúc. Tức là mọi hoạt động của con người đều hướng đến một mục đích tối ưu là
hạnh phúc. Đạo đức của Aristotle, hay khoa học nghiên cứu tính cách con người, được
ông xây dựng xung quanh tiền đề rằng con người phải đạt được một đặc tính siêu việt
(một nhân cách đạo đức, "ethikē aretē" trong tiếng Hy Lạp) như một điều kiện tiên
quyết để đạt được hạnh phúc (eudaimonia). Đôi khi nó được so sánh với các lý thuyết
đạo đức sau này như là một "đạo đức dựa trên tính cách". Giống như Plato và
Socrates, ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lý trí vì hạnh phúc của con người,
đồng thời có những lý do hợp lý và tự nhiên để con người hành xử đúng đắn và cố
gắng trở nên đạo đức.
Ngoài ra, Aristotle xem xét đạo đức không chỉ ở hành vi của con người mà còn căn
cứ vào quyền của nó nữa. Ông cũng chỉ ra rằng, một người muốn có được đầy đủ đức
hạnh, người đó phải cố gắng vươn tới sự thông thái, có nghĩa trở thành một nhà triết
học. Theo Aristotle, đức hạnh là khoảng giữa thông thái của hai thái cực, ví dụ hào
phóng là trạng thái giữa của hai thái cực: keo kiệt và hào phóng.
Điều kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển của khả năng suy luận. Đạo đức tuỳ
thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của lòng ham
muốn. đó không phải là những đức tính của những người thường mà là kết quả của sự
tập luyện và kinh nghiệm trong những người hoàn toàn trưởng thành. Con đường đi
đến mục đích đó là ý niệm trung dung. Mỗi một đặc tính có thể xếp thành 3 loại: loại
đầu và loại chót là những đặc tính quá khích, chỉ loại giữa mới là đạo đức . Ví dụ sự
nhút nhát và tánh liều lĩnh thuộc về loại đầu và loại chót, nghĩa là những đặc tính quá
khích. Tánh rộng rãi nằm giữa tánh biển lận và phung phí. Tánh khiêm nhượng nằm
giữa tánh rụt rè và ngạo mạn. Tánh vui vẻ nằm giữa tánh cau có và tánh ba hoa sống
sượng ...
Thuyết trung dung không phải là một thuyết có thể áp dụng một cách máy móc
theo toán học. Điểm trung dung có thể thay đổi tuỳ theo trường hợp và chỉ có thể tìm
thấy bằng sự suy luận trưởng thành. Chính thói quen quy luận đưa người ta đến chỗ
thánh thiện. Một người hành động chính đáng không phải vì lý do họ là một người có
đạo đức nhưng ngược lại chính vì họ có đạo đức do sự huấn luyện suy tư công phu mà
họ hành động chính đáng. Con người có thể được đánh giá bằng những hành động của
họ. Do đó sự thánh thiện không phải là một hành động đơn độc mà chính là một thói
quen. Người ta còn nhớ câu nói bất hủ của Aristotle về vấn đề này: "Một con én
không làm nổi một mùa xuân". Tuổi trẻ là thời kỳ quá khích: nếu một thiếu niên lầm
lỗi thì chắc chắn lỗi lầm đó là do sự quá khích mà ra. Sự khó khăn của tuổi trẻ là làm
sao không đi từ thái cực này đến thái cực khác vì người ta thường có khuynh hướng
sửa sai một cách quá đáng. Những người ở một thái cực có khuynh hướng cho rằng
đạo đức không phải nằm ở điểm trung dung mà nằm ở thái cực kia.
Họ có khuynh hướng sửa mình như một người uốn một khúc tre cong: muốn làm
khúc tre thẳng họ phải uốn cong về chiều ngược lại. Cũng có trường hợp những kẻ
quá khích xem điểm trung dung như một lỗi lầm lớn, người can đảm bị kẻ nhút nhát
xem là liều lĩnh trong khi đó những người liều lĩnh lại xem những người can đảm như
là nhút nhát. Trong lãnh vực chính trị những kẻ ôn hoà bị kẻ quá khích xem là bảo thủ
và bị kẻ bảo thủ xem là quá khích. Thuyết trung dung là một đặc điểm chẳng những
của Aristotle mà còn của nền triết lý Hy Lạp. Platon xem đạo đức là những hành động
điều hoà không quá khích, Socrates xem đạo đức là do sự suy luận mà có, trong đền
thờ Apollon người ta có khắc những chữ meden agan có nghĩa là không làm cái gì quá
trớn. Người Hy Lạp cho rằng sự đam mê tự nó không phải là một điều xấu, nó là
nguyên liệu tạo nên điều xấu hoặc điều tốt tuỳ theo cách sử dụng có chừng mực hoặc
không có chừng mực.
Tuy nhiên thuyết trung dung chưa phải là bí quyết đem đến hạnh phúc. Aristotle
cho rằng những nhu cầu vật chất cũng cần thiết. Sự nghèo túng quá độ làm cho con
người đâm ra biển lận, một tài sản vừa phải đem đến cho con người một đời sống tự
do không tham lam giành giựt quá đáng, đó cũng là một đặc điểm của chế độ quý tộc.
Một yếu tố khác rất cần thiết cho đời sống hạnh phúc là sự kết bạn. Càng được san sẻ,
hạnh phúc càng tăng trưởng. Khái niệm về công bằng không quan trọng trong tình
bằng hữu, khi đã là bạn, người ta không nghĩ đến sự công bằng so đo tính toán trong
việc giao thiệp. Mặt khác, số bạn chân thật không thể có nhiều: kẻ nào có quá nhiều
bạn thật ra không có người bạn nào. Làm bạn với tất cả mọi người là một điều không
thể thực hiện được. Tình bạn chân thật phải được thử thách với thời gian, nó đòi hỏi
sự ổn định trong tánh tình. Một khi tánh tình không ổn định thì sự kết bạn lẽ cố nhiên
cũng bị ảnh hưởng. Bình đẳng là một yếu tố cần thiết trong sự giao thiệp, sự biết ơn
không làm cho sự giao thiệp được lâu dài. Những kẻ thi ơn luôn luôn muốn người
khác chịu ơn mình mãi mãi trong khi những kẻ chịu ơn luôn luôn muốn xa lánh kẻ thi
ơn càng sớm càng tốt. Do đó, sự giao thiệp không thể nào được vững bền.
Mặc dù các tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc, yếu tố chính là sự
sáng suốt của tâm hồn. Những khoái lạc giác quan không phải là chìa khoá của hạnh
phúc. Một đời sống chính trị như làm lãnh tụ một quốc gia hoặc một đảng phái không
thể đi đôi với hạnh phúc. Những người làm chính trị phải chiều theo sở thích của quần
chúng mà không có gì thay đổi bấp bênh bằng sở thích quần chúng. Hạnh phúc phải là
sự khoái lạc của tâm trí. Con người lý tưởng của Aristotle không làm việc nguy hiểm
một cách vô ích nhưng gặp trường hợp cần thiết họ có thể hy sinh tánh mạng vì có
nhiều lúc đời sống thật không còn đáng sống. Họ sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác nhưng
nhận sự giúp đỡ một cách rất dè dặt. Họ không tìm cách phô trương, họ thẳng thắn nói
lên những điều ưa và ghét, hành động một cách chân thật.
Họ không bao giờ khen ai quá đáng vì họ nhận thấy rằng ở trên đời thật sự không
có cái gì đáng khen cả. Họ không thể sống a dua với kẻ khác vì tánh a dua là đặc tính
của kẻ nô lệ. Họ không bao giờ muốn làm hại ai và sẵn lòng tha thứ tất cả những lỗi
lầm của kẻ khác. Họ không muốn nói chuyện nhiều, cũng không muốn được người
khác tâng bốc hoặc chỉ trích người khác. Họ không nói xấu người khác dù đó là kẻ thù
của họ. Họ đi đứng khoan thai, nói năng ôn tồn, không bao giờ hấp tấp vì tâm trí họ
không bị bận rộn bởi những điều phức tạp. Họ không bao giờ hăng hái quá độ vì họ
biết rằng trên đời này không có cái gì quan trọng. Họ chịu đựng những sự bất trắc ở
đời một cách vui vẻ và đoan trang, giống như một tướng lãnh giỏi cầm quân ngoài mặt
trận nắm vững chiến thuật chiến lược. Họ thích sống một mình và không sợ sự cô đơn.
Đó là con người lý tưởng của Aristotle.
5. Siêu hình học và thuyết nguyên nhân
Aristotle cho rằng tồn tại nói chung phải xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản: vật
chất, hình thức, vận động, và mục đích, tỏng đó hình thức và vật chất giữ vai trò quan
trọng nhất (nhị nguyên luận). Tuy nhiên ông cho rằng hình thức có vai trò quyết định
hơn vật chất (tiền đề của nhất nguyên luận duy tâm), bởi vì nếu không có hình thức thì
vật chất chỉ có khả năng thụ động chứ không hiện thực. Hình thức là thực chất của tồn
tại, là bản chất tích cực của sự vật, nhờ tính tích cực của hình thức mà mọi sự vật vận
động được, còn vận động của sự vật là một quá trình khách quan diễn ra theo những
trình tự sắp đặt trước. Như vậy khi chuyển lập trường từ nhị nguyên sang duy tâm,
ông đã rơi vào mục đích luận của Thần học, thuyết Nguyên nhân của ông tiến gần và
thậm chí hòa nhập với thuyết Ý niệm của Platon.
Siêu hình học (tiếng Anh: Metaphysics) ám chỉ những tác phẩm của Aristotle để
đằng sau những tác phẩm nghiên cứu vật chất của ông trong thời cổ đại, là một nhánh
triết học quan tâm đến việc giải thích bản chất của thế giới (Thuyết Nguyên nhân).
Đây là một môn học về sự tồn tại hoặc sự thật. Nó quan tâm đến các câu hỏi như: Bản
chất của sự thật là gì? Đâu là vị trí đầu tiên của con người trong vũ trụ? Màu sắc là
chủ quan hay khách quan? Liệu thế giới có xuất hiện bên ngoài trí óc của chúng ta hay
không? Bản chất của vật thể, sự kiện, không gian là gì?
Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristotle là sự tiếp tục của sinh lý học. Tất cả
mọi vật trong vũ trụ đều tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi một thực thể có thể
được xem như một hình thể do một nguyên thể mà phát sinh ra. Ví dụ con người là
hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát sinh. Đứa trẻ là hình thể do bào thai là nguyên
thể phát sinh. Bào thai là hình thể do noãn châu là nguyên thể phát sinh. Nếu chúng ta
đi lần mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ tìm thấy một ý niệm về nguyên
thể mà không có hình thể (tức là Thiên chúa). Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến
triển đến một cứu cánh, cứu cánh cuối cùng mới là quan trọng. Những sự nhầm lẫn
của tạo hoá là nguyên do của những quái thai. Sự phát triển không phải là một việc
ngẫu nhiên mà chính đã được hướng dẫn từ bên trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu tạo
để thành một con gà chứ không phải một con vịt, hột bồ đề được cấu tạo để thành một
cây bồ đề chứ không phải một cây lau. Do đó theo quan niệm của Aristotle thì quyền
lực của Thiên chúa được thể hiện trong các hiện tượng thiên nhiên.
Aristotle quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động trong
vũ trụ: mọi vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự cử động ấy
là ở đâu? Aristotle cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên chúa, đó là vị chúa tể đã làm cho
các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ hơn được xoay vần cử động
theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này không có hình thể, không thể phân
chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt. Theo Aristotle thì Thiên chúa không
tạo nên vũ trụ, ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động. Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự
vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là toàn thể những diễn tiến sinh lý, là động
lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có thể so sánh được với quan niệm năng
lực của nền khoa học và triết lý hiện đại.
Aristotle còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài
không bao giờ làm gì, không có ý muốn, không có mục đích, không có hành động. Vì
ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ ngài ước muốn, vì không ước muốn nên
không bao giờ ngài hành động.
6. Tâm lý học và bản chất nghệ thuật
Tâm lý học của Aristotle cũng có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Trong của tác
phẩm có nhiều đoạn đáng để ý, chẳng hạn Aristotle là người đầu tiên biết đến mãnh
lực của thói quen và xem đó như thiên chất thứ hai của con người. Đối với vấn đề tự
do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của Aristotle không được đồng nhất, khi
thì ông lý luận theo thuyết định mệnh nghĩa là con người không thể làm khác hơn cái
gì định mệnh đã an bài. Khi thì ông cho rằng con người có tự do định đoạt số phận của
mình bằng cách lựa chọn những bối cảnh của cuộc sống, ví dụ chúng ta có thể tự tạo
nên một nhân cách bằng cách chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và các trò giải
trí. Aristotle không tiên liệu rằng những kẻ theo thuyết định mệnh sẽ cãi lại ông ta
bằng cách nói rằng chính tánh tình của chúng ta ảnh hưởng đến sự chọn lựa bè bạn,
sách báo, nghề nghiệp và trò giải trí của chúng ta. Aristotle còn cho rằng con người
muốn được khen và sợ bị chỉ trích, chính yếu tố này làm cho họ phải chọn lựa và cũng
chứng minh sự tự do chọn lựa của con người. Lý luận này cũng không đứng vững vì
chính sự khen chê định đọat hành vi của con người chứ không phải sự tự do lựa chọn.
Aristotle còn đưa ra một lý thuyết về linh hồn. Theo ông thì linh hồn là sức sống
của mọi sinh vật. Trong cỏ cây thì linh hồn chỉ là khả năng dinh dưỡng và sinh sản,
trong loài động vật linh hồn là khả năng di chuyển và cảm xúc, trong loài người linh
hồn là khả năng lý luận và suy tư. Vì là một khả năng, linh hồn không thể tồn tại ngoài
thể chất. Tuy nhiên trong một đoạn khác bằng một lối lý luận dông dài, Aristotle lại
cho rằng linh hồn có thể tồn tại. Lối lý luận này tỏ ra mâu thuẫn và có nhiều chỗ tối
nghĩa.
Trong một tác phẩm khác, Aristotle bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng
nghệ thuật phát minh do nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ, cảm
giác của mình. Trong bản chất, nghệ thuật là một sự bắt chước và phản ảnh thiên
nhiên giống như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất cả mọi người đều
có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có. Tuy nhiên mục
đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật mà chính là diễn tả ý
nghĩa ở bên trong.
Nghệ thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên một
khoái cảm cao cả nhất cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật phải hướng về sự
đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt chuyện đồng nhất, nghĩa là không được có
những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng nhiệm vụ của nghệ thuật là sự thanh lọc:
những cảm giác chất chứa trong con người do đời sống xã hội tạo nên có thể tìm thấy
ở nghệ thuật một lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động. Những ý nghĩ trên đây
ngày nay vẫn còn có giá trị và mở màn cho những thuyết tân kỳ về sức mạnh của nghệ
thuật.
III. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ARISTOTLE VÀ VỚI HỆ TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC THẾ GIỚI
1. Tư tưởng triết học Aristotle và Triết học Tây phương
Tuy là học trò của Platon, nhưng Aritotle có nhiều quan điểm triêt học trái ngược
với thầy. Platon tin rằng các khái niệm có một hình thức phổ quát, một hình thức lý
tưởng, dẫn đến triết lý lý tưởng của ông. Aristotle tin rằng các hình thức phổ quát
không nhất thiết phải gắn liền với mỗi đối tượng hoặc khái niệm, và mỗi ví dụ của
một đối tượng hoặc một khái niệm phải được phân tích riêng. Quan điểm này dẫn đến
chủ nghĩa kinh nghiệm Aristotle. Đối với Platon, các thí nghiệm tư duy và lý luận sẽ
đủ để "chứng minh" một khái niệm hoặc thiết lập các phẩm chất của một đối tượng,
nhưng Aristotle bác bỏ điều này để ủng hộ quan sát và kinh nghiệm trực tiếp.
Theo logic, Platon có khuynh hướng sử dụng lý luận quy nạp, trong khi Aristotle
sử dụng lý luận suy luận. Các ký hiệu học, một đơn vị cơ bản của logic (nếu A = B, và
B = C, sau đó A = C), được phát triển bởi Aristotle.
Cả Aristotle và Platon tin rằng những tư tưởng cao hơn các giác quan. Tuy nhiên,
trong khi Plato tin rằng các giác quan có thể đánh lừa một người, Aristotle nói rằng
các giác quan là cần thiết để xác định đúng thực tế.
Một ví dụ về sự khác biệt này là câu chuyện ngụ ngôn về hang động do Platon tạo
ra. Đối với ông, thế giới giống như một hang động, và một người sẽ chỉ nhìn thấy
bóng râm từ ánh sáng bên ngoài, vì vậy thực tế duy nhất là suy nghĩ. Theo phương
pháp của Aristotle, giải pháp rõ ràng là đi ra khỏi hang động và trải nghiệm trực tiếp
ánh sáng và bóng tối, thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm gián tiếp hoặc nội bộ.
Mối liên hệ giữa Socrates, Plato và Aristotle rõ ràng nhất khi nói về quan điểm
của họ về đạo đức. Plato đã được Socrates tạo niềm tin của mình rằng kiến thức là đức
hạnh. Điều này có nghĩa là để biết được lợi ích là làm tốt, tức là, biết rằng việc làm
đúng sẽ dẫn đến việc tự làm đúng; điều này ngụ ý rằng đạo đức có thể được giảng dạy
bằng cách giảng dạy một người từ sai lầm, tốt lành từ điều ác. Aristotle nói rằng việc
biết được điều gì là đúng là không đủ, người ta phải chọn cách hành động hợp lý -
thực chất để tạo thói quen làm việc tốt. Định nghĩa này đã đặt đạo đức Aristote lên
trên một mặt phẳng thực tế, chứ không phải là lý thuyết được thực hiện bởi Socrates
và Plato.
Đối với Socrates và Plato, sự khôn ngoan là phẩm chất căn bản và với nó, người ta
có thể thống nhất tất cả các đức tính thành một tổng thể. Aristotle tin tưởng rằng sự
khôn ngoan là đạo đức, nhưng sự thành tựu đạo đức không phải là tự động cũng
không tạo ra sự thống nhất (thu thập) các đức tính khác. Đối với Aristotle, sự khôn
ngoan là một mục đích đạt được chỉ sau khi nỗ lực, và trừ khi một người đã chọn suy
nghĩ và hành động một cách khôn ngoan, các nhân đức khác sẽ vượt khỏi tầm tay.
Socrates tin rằng hạnh phúc có thể đạt được mà không có đức hạnh, nhưng hạnh
phúc này là cơ sở và động vật. Plato nói rằng đức hạnh là đủ cho hạnh phúc, rằng
không có cái gọi là "may mắn đạo đức" để trao phần thưởng. Aristotle tin rằng đức
hạnh là cần thiết cho hạnh phúc, nhưng tự nó không đủ, cần có những cấu trúc xã hội
đầy đủ để giúp một người đạo đức cảm thấy hài lòng và mãn nguyện. Cần lưu ý rằng
quan điểm của Hy Lạp về những vấn đề này đã được hài hòa hơn với quan điểm của
Aristotle so với Plato hay Socrates trong suốt cuộc đời của họ.
2. Tư tưởng triết học Aristotle và Triết học Đông phương
a. Tư tưởng logic của Mặc tử và Aristotle
Mặc gia là một trường phái triết học lớn thời Chiến Quốc do Mặc Tử sáng lập.
Trường phái này đã bàn đến rất nhiều vấn đề như chính trị, tôn giáo, nhận thức... trong
đó, tư tưởng về Logic học được Mặc gia nghiên cứu khá sâu sắc và đã đóng góp to lớn
cho lịch sử Logic học phương Đông nói chung và logic Trung Quốc nói riêng. Khi tìm
hiểu và nghiên cứu Logic học Mặc gia, chúng ta thấy rằng có những tư tưởng về
Logic học trong Mặc gia tương đồng với những tư tưởng Logic học Aristotle. Cụ
thể như quan niệm về danh và cách phân loại danh của Mặc gia giống học thuyết về
khái niệm và mối quan hệ khái niệm giống và khái niệm loài trong Logic học
Aristotle, quan niệm lấy từ để diễn đạt ý của Mặc gia giống với học thuyết phán đoán
của Aristotle. Giống Aristotle, Mặc gia cũng đề cao sự thống nhất của hai phương
pháp: diễn dịch và quy nạp trong suy luận.
Tuy nhiên, do đặc điểm khác biệt giữa hai nền triết học phương Đông và phương
Tây, những tư tưởng về Logic học Mặc gia và Logic học Aristotle có nhiểu điểm khác
biệt. Triết học phương Đông mang tính chất trực quan, kinh nghiệm. Còn triết học
phương Tây mang tính chất duy lý, đề cao tư duy duy lý. Sự khác biệt này thể hiện rõ
những tư tưởng về các vấn đềvũ trụ quan, nhân sinh quan, phương pháp luận của các
nhà tư tưởng phương Đông và phương Tây. Trong Mặc gia những tư tưởng về Logic
học chưa mang tính hệ thống, chỉnh thể như Logic học Aristotle. Còn Logic học
Aristotle đã nghiên cứu và xây dựng một cách toàn diện những vấn đề cơ bản của
Logic học như các hình thức của tư duy, các quy luật của tư duy sau này được các nhà
nghiên cứu tập hợp lại thành tác phẩm "Công cụ luận" (Organon).
Ngoài ra, Logic học Mặc gia không có tính kế thừa và phát triển ở các giai đoạn
tiếp theo như Logic học Aristotle. Logic học Mặc gia không được các nhà tư tưởng
giai đoạn sau kế thừa và phát triển vì nguyên nhân về mặt lịch sử của xã hội Trung
Quốc thời bấy giờ. Đó là khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần thực hiện chính sách
đốt hết sách vở của bách gia chỉ để lại sách bói, sách thuốc và sách trồng cây. Còn
Logic học Aristotle được các nhà tư tưởng kế thừa phát triển thành Logic học hình
thức ngày nay, đồng thời khắc phục những hạn chế của Aristotle, xây dựng lên
những nhánh logicmới như logic lưỡng trị, logic tình thái...
b. Quan điểm Pháp trị của Hàn Phi Tử và Aristotle
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN) là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông
đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng và
phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương
thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng,
Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc
cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh, không
phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật... Với những tư tưởng
đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương”.
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý
thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân đức của
nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”), lý tưởng chính
trị Nghiêu Thuấn là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất
nước. Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác.
Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền
pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường
được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi
cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác(3). Ông viết: “Bọn nhà Nho đời
nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến công
lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình hình của
bọn gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công
lao của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của ta thì có thể
làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng cốt, vị vua có
pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng,
không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”.
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ
thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra
hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ.
Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già
cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm
lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.
Aristotle cũng đề cập đến một vấn đề quan trọng cho việc tổ chức quốc gia, đó là
thành phân sẽ nắm quyền tối thượng: dân nghèo, dân giàu, thành phần ưu tú, một
người có tài năng kiệt xuất hay bạo chúa? Nếu thành phần đa số, không kể giàu nghèo,
tịch thu tài sản của thành phần thiểu số để chia cho nhau, thì đất nước sẽ bị tiêu hủy.
Nếu thành phần ưu tú nắm quyền thì đa số còn lại sẽ không có cơ hội để tham chính
và giữ trọng trách trong chính quyền. Nếu chỉ có một người cai trị, thì tuyệt đại đa số
sẽ chẳng bao giờ có cơ hội tham chính. Và Aristotle đưa ra một đề nghị là “Pháp trị”,
tức là để pháp luật, chứ không phải con người có quyền tối thượng, vì con người luôn
luôn để tư lợi và tình cảm xen vào. Aristotle nhận định rằng, có thể có một hoặc một
nhóm người siêu việt và xuất chúng hơn mọi người, chỉ một mực chăm lo cho lợi ích
chung của quốc gia, và theo luận lý tự nhiên người hay nhóm người này sẽ nắm quyền
tối thượng, tuy nhiên cũng lưu ý rằng, những người như vậy là “thần thánh chứ không
phải con người”.
Về cơ bản, Hàn Phi Tử và Aristotle đề cao vai trò của Pháp luật trong việc quản lý
và điều hành đất nước. Hai nhà hiền triết đều có chung tư tưởng thượng tôn pháp luật,
tức là Pháp luật có quyền lực tối thượng, có như vậy mới duy trì được tính ổn định của
nhà nước. Tư tưởng của hai nhà hiền triết có giá trị đến thực tại, khi phần đông các
quốc gia trên thế giới hiện nay đang cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đặt
pháp luật ở mức cao nhất. Tuy vẫn có những khác biệt về hệ tư tưởng, như Hàn Phi tử
xây dựng nền Pháp trị trong chế độ phong kiến quân chủ, còn Aritotle muốn xây dựng
nền Pháp trị cho một mô hình nhà nước trung dung (kết hợp giữa Dân chủ và Quả
đầu), ta cũng không thể phủ nhận những đóng góp cho hệ tư tưởng triết học nhân loại
và ý nghĩa thực tiến cũng như những nét tương đồng mà hai Triết gia mang lại.
IV. ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ARISTOTLE
1. Ảnh hưởng
Sau khi nhà đại Hiền Triết Aristoteles qua đời, nền triết học của ông được giảng
dạy tại Trường Lyceum do các môn đệ thuộc nhiều thế hệ sau. Một trong các nhà triết
học này là Kritolaos đã qua kinh thành Roma vào năm 155 TCN, nhờ đó người La Mã
được biết tới nền Triết Học Hy Lạp. Vào năm 50 TCN, Andronicus người đảo
Rhodes, đã cho ấn hành nhiều tác phẩm của Aristoteles và nhờ đó mà nhiều học giả đã
học tập và phân tích nền Triết học kể trên, đặc biệt tại thành Alexandria.
Sau khi Đế quốc La Mã suy tàn, kiến thức về nền Triết học của Aristoteles bị hầu
như lãng quên, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 500 SCN tới thế kỷ thứ 9. Sang
thế kỷ 9 này, các học giả người Ả Rập đã dịch các tác phẩm của Aristotle sang ngôn
ngữ của họ và đưa chúng vào thế giới Hồi giáo. Nhà triết học người Tây Ban Nha gốc
Ả Rập tên là Averroes vào thế kỷ 12 là học giả danh tiếng nhất, ông đã nghiên cứu và
nhận xét về Aristoteles. Qua thế kỷ 13, các tác phẩm của Aristote-les lại được quan
tâm bởi các học giả Kitô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, và Thánh Thomas Aquinas,
một trong các nhà triết học gây ảnh hưởng lớn mạnh nhất, đã dùng nền Triết Học của
Aristoteles làm căn bản cho các tư tưởng Thiên Chúa giáo thời đó. Dante Alighieri,
nhà thơ bậc nhất của thời Trung Cổ, đã gọi Aristoteles là "Bậc Thầy của những người
hiểu biết".
Lý thuyết về ngành động vật học của Aristoteles đã không thay đổi và được giảng
dạy tại tất cả các trường học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh,
Charles Darwin, đề cập tới Thuyết tiến hóa vào thế kỷ 19. Học thuyết của Aristoteles
cũng giữ một vai trò quan trọng trong bộ môn Thần học và trước thế kỷ 20, môn Luận
Lý được coi là của Aristoteles.
2. Phê bình
Đối với Aristotle chúng ta khó có những cảm nghĩ khen hoặc chê một cách nồng
nhiệt vì chính Aristotle cũng chủ trương rằng không có cái gì làm chúng ta hăng hái
quá đáng, không có cái gì đáng khen. Aristotle không hăng hái như Platon cũng không
có những tư tưởng độc đáo, trí tưởng tượng cao siêu của Platon. Tuy nhiên, sau khi
thưởng thức những tư tưởng động trời của Platon chúng ta thấy rằng những tư tưởng
của Aristotle không khác gì một cơn gió mát thổi vào một buổi trưa hè.
Chúng ta có thể bất đồng ý kiến với Aristotle về một vài điểm chẳng hạn như
Aristotle cho rằng tam đoạn luận là một lối suy luận thông thường và chính xác trong
khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi rằng tam đoạn luận cũng chỉ là một mánh
lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư tưởng con người đi từ các nguyên đề để
tìm đến kết luận trong khi trên thực tế có rất nhiều trường hợp con người đi tìm kết
luận trước rồi mới cố đặt ra những nguyên đề để chứng minh kết luận của mình.
Những nhận xét của Aristotle về thiên nhiên chứa rất nhiều sai lầm quan trọng.
Ông thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét khoa học. Đây
cũng là một đặc điểm của nền văn hoá Hy Lạp : Các học giả thời ấy thường đi đến kết
luận một cách quá hấp tấp. Trong thế giới hiện nay chúng ta lại gặp một trường hợp
trái ngược : chúng ta có quá nhiều nhận xét đến nỗi chúng ta cảm thấy vô cùng bối rối
khi phải đi đến một kết luận vì các sự kiện, các con số, các nhận xét không ăn khớp
với nhau.
Công trình nghiên cứu của Aristotle về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều của
luận lý học. Kết quả là một công trình quá khô khan không đủ sức thúc đẩy con người
tự cải thiện. Lý tưởng của Aristotle thiên về một đời sống quá bình thản, quá ôn hoà,
một đời sống mà người ta thường gán cho giai cấp thượng lưu ở Anh quốc. Một điểm
đặc biệt là những tác phẩm về đạo đức học của Aristote được 2 trường đại học danh
tiếng tại Anh là Oxford và Cambridge dùng làm sách giáo khoa. Nhiều thế hệ sinh
viên Anh xem tác phẩm của Aristotle như kinh nhật tụng. Tác phẩm nhan đề là "chính
trị" đã góp phần xây dựng tư tưởng của người Anh để đem lại một nền chính trị ôn
hoà và hữu hiệu. Nếu thay vì mến chuộng những tác phẩm của Aristotle, người Anh
lại ham mê và áp dụng những tư tưởng của Platon thì bộ mặt của thế giới có lẽ đã đổi
khác.
Chúng ta cần phải để ý rằng tư tưởng của Aristotle thuộc về một loại riêng biệt và
không có những đặc tính của những tư tưởng thuần tuý Hy Lạp. Khi ông đến thành
Athènes, một thành phố Hy Lạp thì ông đã là một người trưởng thành. Vì lẽ đó ông
không bị ảnh hưởng bởi đặc tính bồng bột của người Hy Lạp, luôn luôn tìm sự mới lạ
trong lãnh vực chính trị, đi từ cải cách này đến cải cách khác cho đến khi sát nhập vào
một chính quyền trung ương. Trái lại Aristotle luôn luôn tìm cách tránh sự quá khích.
Đặc tính ôn hoà của ông làm cho tư tưởng ông một đôi khi có vẻ quá tầm thường. Ông
rất sợ những tình trạng hỗn loạn trong xã hội đến nỗi đã lên tiếng bênh vực chế độ nô
lệ. Ông sợ những sự thay đổi và chủ trương một xã hội trung thành với các tập tục cổ
xưa. Ông quên rằng chế độ cộng sản của Platon chỉ áp dụng đối với giai cấp thống trị,
một giai cấp lý tưởng mà Platon đã coi như hoàn toàn giác ngộ, không còn tham lam
vị kỷ. Mặc dù đả kích Platon, Aristotle cũng đi đến kết luận gần giống như Platon khi
ông chủ trương rằng các tài sản trong xã hội cần phải đem ra sử dụng chung. Ông
bênh vực quyền sở hữu những ông không thấy rằng quyền sở hữu chỉ có ích đối với xã
hội khi vật sở hữu là những món đồ dùng cá nhân không quan trọng . Trái lại khi
quyền sở hữu cá nhân liên quan đến các phương tiện sản xuất rộng lớn nó sẽ đưa đến
sự tập trung quyền hành quá mạnh và sự bất bình đẳng quá lớn trong xã hội.
Tuy nhiên những nhận xét kể trên thật ra hoàn toàn không cần thiết đối với một hệ
thống tư tưởng đã ra đời cách đây 2500 năm. Dù sao đi nữa Aristotle đã nêu cao ngọn
đuốc văn minh cho nhân loại đồng soi chung. Ông đã đặt nền móng cho một hệ thống
tư tưởng vững chắc và giúp cho các thế hệ tương lai dựa vào đó để phát triển sự
nghiên cứu sưu tầm hầu mạnh tiến trên con đường tìm chân lý. Những nền văn minh
kế tiếp đều mang một món nợ tinh thần đối với Aristote. Những tác phẩm của ông lần
lượt được phiên dịch trong suốt quá trình tiến triển của nhân loại nhất là vào thế kỷ
thứ 5, thế kỷ thứ 10, thứ 13 và thứ 15. Đạo quân thánh chiến đã đem về Âu châu nhiều
tác phẩm của Aristotle và các học giả thành Constantinople đã mang theo những tác
phẩm của Aristote như những bảo vật khi họ phải tản cư khỏi thành phố này trước
những đội quân xâm lăng Thổ-nhĩ-kỳ. Các tác phẩm của Aristotle được mến chuộng
nhiều cho đến nỗi các cấp lãnh đạo giáo hội Thiên chúa giáo đem lòng ganh ghét vì sợ
làm lu mờ các điều truyền dạy trong thánh kinh. Năm 1215 việc giảng dạy các tác
phẩm của Aristote bị giáo hoàng cấm, năm 1231 đức giáo hoàng Gregory IX thành lập
một uỷ ban để khai trừ Aristotle, tuy nhiên đến 1260 thì thái độ của giáo hội thiên
chúa giáo đối với Aristote hoàn toàn thay đổi. Việc giảng dạy các tác phẩm của ông
chẳng những không bị cấm mà còn bị bắt buộc trong các trường thiên chúa giáo.
Những thi sĩ như Chaucer và Dante không tiếc lời ca tụng Aristotle. Một số tư tưởng
của ông đã ngự trị trong lịch sử văn minh nhân loại hàng chục thế kỷ trước khi bị lu
mờ bởi những chứng minh khoa học.

You might also like