Professional Documents
Culture Documents
MỤC TIÊU
Phân biệt được các khái niệm về Y tế công cộng Y học cộng đồng, Sức khoẻ cộng đồng, Y
học gia đình
---0---
Ta gọi là vấn đề: một tình trạng hay điều kiện xấu của SK cần phải giải quyết đối với
một cá nhân hay một quần thể. Ở đây ta chỉ đề cập đến quần thể.
Vấn đề cũng có thể là một tình trạng hiện có nhưng tiềm ẩn, tuy chưa phải là bệnh
tật, nhưng nếu không giải quyết nó có thể đưa đến bệnh tật trong tương lai gần hay
xa, TD
nguồn nước bị ô nhiễm nếu không giải quyết sẽ đưa đến tiêu chảy tăng cao
trong cộng đồng,
bệnh nhân lao không được phát hiện điều trị sẽ đưa đến tỉ lệ bệnh lao cao.
Trong ngành y tế: tỉ lệ bệnh tật cao, thiếu cán bộ y tế, thiếu thuốc…
Ngoài ngành y tế: ô nhiễm môi trường, giao thông trở ngại…
Trong ngành y tế, ta phát hiện trước tiên các vấn đề qua các chỉ số về tỉ lệ bệnh tật tử
vong cao. Nhưng biết rằng nguyên nhân của vấn đề là hậu quả của một chuổi các vấn
đề khác, do đó để giải quyết một vấn đề SK ta cần giải quyết đầy đủ các loại vấn đề
nêu trên:
Vấn đề hiện có và các vấn đề tiềm ẩn,
Vấn đề bên trong và bên ngoài ngành y tế.
Vấn đề ở đây là “Tỉ lệ tiêu chảy cao”. Muốn giải quyết vấn đề này phải vừa điều trị
hết các ca tiêu chảy, vừa làm sạch nguồn nước và diệt ruồi.
Năm 1956 : Edward G. McGavran (khoa YTCC ĐH Bắc Carolina) phân biệt 4 thời kỳ
của khoa học về SK
1. Cho đến 1850 : Thời kỳ kinh nghiệm
Tập trung vào chẩn đoán và điều trị các triệu chứng, các biểu hiện ở BN
Y học nhận thức được mối quan hệ giữa con người với môi trường xung quanh: có những
vùng dân cư có tỉ lệ sốt rét cao, nơi khác thì tỉ lệ nhiễm ký sinh trùng đường ruột cao,
việc chẩn đoán bệnh mở rộng ra những quần thể, bên cạnh chẩn đoán điều trị cho từng
bệnh nhân.
Từ đó người ta thấy sự cần thiết phải nghiên cứu về CỘNG ĐỒNG, những kỹ thuật phát
triển CĐ. Muốn thế phải vừa phối hợp nhiều chuyên khoa y học vừa phối hợp với các
KHXH như tâm lý học, khoa học hành vi...
YTCC đã đạt được những thành quả to lớn như tiêm chủng, giải quyết bệnh sốt rét cho
những vùng dân cư rộng lớn v.v. Nhưng bên cạnh nhữnh thành quả giải quyết bệnh tật,
Mặt khác :
- Thủy lợi, đắp đập làm thay đổi môi sinh
- Sử dụng các sản phẩm hóa học trong nông nghiệp, thực phẩm
- Công nghiệp hóa gây ô nhiễm.
Càng ngày người ta càng thấy SK một CĐ không thể tốt nếu
- chỉ chú ý đến những cá thể
- chỉ được giải quyết đơn giản bằng việc thanh toán bệnh tật.
Nguồn gốc của bệnh tật không chỉ đơn thuần là vi khuẩn, côn trùng… mà còn tùy
thuộc những yếu tố kinh tế xã hội: sự nghèo khổ, điều kiện nhà ở, trình độ học vấn,
môi trường.
YTCC là khoa học bảo vệ và nâng cao sức khoẻ mà đối tượng là quần thể nhân dân,
khác với y học lâm sàng là khoa học tập trung chăm sóc cá nhân khi họ bị bệnh.
Khác và rộng hơn so với dịch vụ lâm sàng, vai trò của YTCC là bảo đảm những điều kiện
cần thiết cho người dân có cuộc sống khỏe mạnh, qua những chương trình bảo vệ và đề
phòng rộng rãi.
YTCC phục vụ quần thể và cá nhân thông qua những dịch vụ thiết yếu, trong đó có
những dịch vụ mà quần chúng không thấy được. Người dân chỉ thấy cần đến dịch vụ
YTCC khi nào có một vấn đề, td khi xảy ra dịch.
CÁN BỘ YTCC: có những hoạt động khác với các thực hành y khoa thông thường:
a. Giám sát quán ăn:
- Phòng chống sinh vật truyền bệnh
- Kiểm tra an toàn thực phẩm, nước.
b. Theo dõi dịch tễ: xu hướng bệnh tật; phát hiện dịch.
c. Đề xuất luật lệ; qui định.
d. NCKH về phương pháp phòng bệnh, điều trị
Tóm lại, YTCC bao gồm những biện pháp tiếp cận tổng thể về SK, bảo đảm cho mỗi thành viên
của quần thể một cuộc sống trong đó SK được duy trì và nâng cao qua những hoạt động có phối
hợp giữa ngành y tế và những ngành khác.
Chú ý: YTCC rất quan tâm đến phòng bệnh, nhưng YTCC không có nghĩa là chỉ đơn thuần
phòng bệnh. Trong một hệ thống YTCC, hệ thống bệnh viện được tổ chức để chăm sóc SK cho
người dân khi đau ốm.
CỘNG ĐỒNG
Trong lĩnh vực y tế, danh từ cộng đồng được nói đến nhiều trong những năm gần đây.
Tuyên ngôn Alma Ata 1978 về CSSKBĐ nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ cộng đồng, vì
cộng đồng là tuyến đầu trong một hệ thống y tế, là nơi triển khai thực hiện những hoạt
động CSSKBĐ.
Theo Tuyên ngôn Alma Ata, CỘNG ĐỒNG (community, communauté) là nhóm
người sống chung nhau
trong điều kiện chuyên biệt về tổ chức, liên kết xã hội
liên hệ nhau về các đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, lợi ích,
chia xẻ những nguyện vọng chung, trong đó có SK.
Các cộng đồng rất khác biệt nhau về tầm vóc và đặc điểm kinh tế xã hội, đó có thể
là những cụm thôn bản cách biệt, cho đến những làng xóm, thị trấn quận huyện.
Một nghiên cứu tại Mỹ (2001) nhằm trả lời câu hỏi CỘNG ĐỒNG LÀ GÌ, đã cho kết quả
“Cộng đồng là một nhóm người với những đặc điểm khác nhau,
- liên kết nhau bằng những gắn bó xã hội,
- chia xẻ những viễn cảnh chung,
- và cùng nhau tham gia vào hành động chung trong những khung cảnh hay vị
trí địa lý.”
Dù với định nghĩa nào, những người trong cùng một cộng đồng là những người cảm thấy
họ giống nhau.
Giữa những người trong cộng đồng có sự kết gắn với nhau, cảm thấy gần nhau, cùng
ngôn ngữ, dễ nói với nhau, dễ làm với nhau.
Lịch sử phát triển y học như trên cho thấy khái niệm SKCĐ xuất phát từ yêu cầu CSSK:
- cho những nhóm dân cư
- SK và bệnh tật được nhìn trong bối cảnh kinh tế xã hội
- sự phối hợp liên ngành
- ngoài kiến thức kỹ năng y học, cần có những kiến thức về DTH, quản lý, tâm lý
học, xã hội học, GDSK.
Đi vào cộng đồng, người cán bộ y tế cần thấu cảm sâu sắc (đặt mình vào vị trí của cộng
đồng), cùng nhận ra và cùng bàn bạc giải quyết những vấn đề SK.
THƯ MỤC
1. WHO. UNICEF. Alma Ata 1978 PRIMARY HEALTH CARE. World Health Organization.
Geneva 1978.
2. Desrosiers G. Evolution des concepts et pratiques modernes en santé publique: 1945-
1992. Ruptures 1996 ; 3(1) :18-28.
3. Starfield B. Basic concepts in population health and health care.J Epidemiol Community
Health 2001;55:452-454 ( July )