Professional Documents
Culture Documents
DNXH Full Final
DNXH Full Final
PHẦN 3. MỘT SỐ ĐIỂN HÌNH DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI...................................89
Doanh nghiệp xã hội Ansim.................................................................................................................................................. 90
Doanh nghiệp xã hội Bayani Brew..................................................................................................................................... 93
Doanh nghiệp xã hội Nhà hàng 18 đầu bếp................................................................................................................. 99
Doanh nghiệp xã hội Phát triển hợp tác xã và dịch vụ cộng đồng Hackney (HCD)..............................102
Doanh nghiệp xã hội Xà phòng tái chế (Soap Cycling).........................................................................................109
Tổ chức phát triển kinh doanh sử dụng vốn xã hội (SCVD).................................................................................117
Công ty TNHH Một thành viên du lịch Sapa O’Chau Sapa O’Chau
Trung tâm phát triển doanh nghiệp nông thôn Việt VietED
Trung tâm phát triển doanh nghiệp xã hội Tia Sáng SPARK
2. Vai trò của DNXH trong phát triển kinh tế - xã hội ở một số quốc gia trên
thế giới
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy DNXH đang chứng tỏ là một trong các phương thức giải quyết các
vấn đề xã hội một cách bền vững, nhất là trong bối cảnh nguồn lực của Nhà nước để giải quyết
các vấn đề xã hội hạn hẹp. Xuất phát từ mục tiêu vì cộng đồng, vì xã hội, các DNXH đồng hành và
góp phần bổ sung cho Nhà nước trong giải quyết các vấn đề xã hội như hỗ trợ và nâng cao năng
lực cho nhóm người yếu thế, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho phụ nữ, người dân tộc
thiểu số, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường, v.v.
2.1. DNXH tại Vương quốc Anh
Thực tế cho thấy DNXH có lịch sử phát triển lâu đời, bắt đầu từ thế kỷ 17 ở Vương quốc Anh. Trong
hơn ba thế kỷ, rất nhiều mô hình DNXH đã được thực hiện như: nhà ở xã hội, nhóm tự lực, dạy nghề
và tạo việc làm, thương mại công bằng, hay như các hoạt động tạo thu nhập cho các tổ chức từ
thiện, tài chính vi mô, và cung cấp dịch vụ công qua các hợp đồng với chính quyền, v.v. DNXH ở
Vương quốc Anh cũng hoạt động dưới rất nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý đa dạng, bao
gồm: các công ty vì lợi ích cộng đồng, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, quỹ tín dụng,
nhánh kinh doanh của các tổ chức từ thiện phi lợi nhuận, doanh nghiệp do người làm thuê tự chủ,
hợp tác xã, quỹ phát triển, liên hiệp nhà ở, công ty xã hội và các quỹ ủy thác, v.v. Theo một điều
tra của Cơ quan doanh nghiệp xã hội Vương quốc Anh năm 20153, hiện có khoảng 70.000 DNXH
3. Hệ sinh thái và chính sách hỗ trợ phát triển DNXH trên thế giới
Trong bối cảnh phong trào DNXH phát triển mạnh mẽ đã thúc đẩy một số nước xây dựng hệ sinh
thái hỗ trợ phát triển DNXH. Ủy ban Châu Âu (2014) cho rằng hệ sinh thái cho DNXH bao gồm các
cấu phần tạo môi trường hỗ trợ cho DNXH, trong đó có khả năng giải quyết các vấn đề và thách
thức chính mà DNXH gặp phải. Các cấu phần quan trọng của hệ sinh thái DNXH theo quan điểm của
Uỷ ban châu Âu bao gồm khung pháp lý, thị trường đầu tư xã hội, khung chính sách chung, dịch vụ
phát triển hỗ trợ kinh doanh, hệ thống báo cáo và đo lường tác động và các mạng lưới, cơ chế hỗ
trợ (Hình 1).
4 http://www.innov8social.com/2015/01/social-enterprise-in-south-korea-5-facts
Khung
pháp lý
Dịch vụ
phát triển và Hệ thống
hỗ trợ chứng chỉ,
kinh doanh nhãn mác
chuyên biệt
Khung
chính sách
cho DNXH
Thị trường
Các cơ chế
đầu tư
hỗ trợ và
tác động
mạng lưới
xã hội
Hệ thống
báo cáo và
đo lường
tác động
Chiến lược phát triển Doanh nghiệp xã hội 2002 (Vương quốc
Ban hành các văn bản
Anh); Luật giá trị xã hội 2012 (Vương Quốc Anh); Luật phát triển
pháp quy/chiến lược phát
DNXH 2007 (Hàn Quốc); Luật nền kinh tế xã hội 2011 (Tây Ban
triển DNXH
Nha); Luật kinh doanh xã hội (Slovenia); Luật hợp tác xã hội (Ý)
EU thành lập các Quỹ phát triển kinh tế - xã hội địa phương, trong
Thành lập Quỹ hỗ trợ
đó DNXH được nhận các khoản thanh toán/tài trợ từ Quỹ khi tham
DNXH
gia vào hoạt động hỗ trợ cung cấp các dịch vụ xã hội.
Các DNXH được ưu tiên tham gia đấu thầu cung cấp hàng hóa và
Mua sắm công
dịch vụ công.
Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, thuế đất đai và bất
Ưu đãi thuế
động sản.
Thành lập cơ quan hỗ trợ phát triển DNXH; xây dựng hệ thống dữ
Hỗ trợ về thể chế
liệu thông tin; đối thoại chính sách, hỗ trợ thủ tục hành chính, v.v.
II. Tổng quan về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam và triển vọng
phát triển
1. Thực trạng phát triển DNXH ở Việt Nam
Khảo sát sơ bộ tại ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy
doanh nghiệp xã hội hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý khác nhau như: Trung
tâm (hình thức hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ), công ty cổ phần, công ty TNHH, Hội, câu
lạc bộ, Hợp tác xã, v.v. Ước tính hiện nay có khoảng 1000 DNXH.
DNXH tại Việt Nam cũng hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như giáo dục đào tạo, chăm sóc sức
khỏe, thủ công mỹ nghệ, truyền thông cộng đồng, nông nghiệp, bảo vệ môi trường, v.v. Theo kết
quả điều tra DNXH (2011)5, 68% số doanh nghiệp xã hội hướng tới xóa đói giảm nghèo, ổn định
cuộc sống và nâng cao thu nhập cho nhóm người yếu thế thông qua giáo dục, đào tạo nghề, tăng
cường kỹ năng, thiết bị và kiến thức.
Khác với doanh nghiệp thông thường, rất khó đánh giá hiệu quả hoạt động của một DNXH và tác
động đến cộng đồng, nhất là đánh giá hiệu quả xã hội của các DNXH mang lại. Đơn cử như việc
DNXH giúp hàng trăm hộ nông dân thoát nghèo bằng các hoạt động sinh kế bền vững thì không dễ
lượng hóa đơn thuần bằng giá trị tiền tệ. Tuy nhiên, theo cuộc khảo sát nêu trên, thì số lượng người
được hưởng lợi do các hoạt động của DNXH cao hơn so với các doanh nghiệp thông thường (xem
Bảng 2).
3. Tiềm năng phát triển DNXH ở Việt Nam và một số đề xuất, kiến nghị
Hiện nay, trên thế giới phong trào DNXH phát triển mạnh mẽ và lan tỏa trên nhiều lĩnh vực. Ở Việt
Nam, DNXH đang tiếp tục phát triển, mở rộng, được xã hội biết tới và tôn vinh. Trong thời gian tới
cũng có nhiều cơ hội để DNXH phát triển. Thứ nhất, nhu cầu sử dụng dịch vụ phúc lợi cho người
dân ngày càng tăng, do đó cần DNXH đóng vai trò hỗ trợ Nhà nước cung cấp các dịch vụ này cho
các nhóm đối tượng khác nhau. Thứ hai, Chính phủ luôn đặt trọng tâm cải thiện môi trường kinh
doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, theo đó khung pháp lý cho hoạt động của DNXH cũng sẽ
được hoàn thiện. Thứ ba, hội nhập kinh tế sâu rộng với thế giới tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội
trong nước có nhiều cơ hội hợp tác phát triển, thu hút đầu tư xã hội trong các lĩnh vực xã hội, môi
trường. Thứ tư, trong quá trình cải cách hành chính, một trong những nhiệm vụ quan trọng là cải
cách khu vực sự nghiệp công lập, chuyển đổi hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, tự chủ quản
lý, tự chịu trách nhiệm, tách bạch sự nghiệp với hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu
quả sử dụng vốn. Theo đó, mô hình DNXH có thể xem là mô hình phù hợp đối với việc chuyển đổi
các đơn vị sự nghiệp công lập. Thứ năm, xu hướng cho thấy cần thiết chuyển đổi vai trò của Nhà
nước từ người trực tiếp cung cấp dịch vụ phúc lợi sang vai trò người mua dịch vụ phúc lợi từ các
tổ chức, doanh nghiệp. Điều này tạo cơ hội cho các chủ thể xã hội khác ngoài Nhà nước (các tổ
chức xã hội, khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp, cộng đồng, v.v.) tham gia cung ứng các dịch
vụ công cho người dân.
Từ thực tiễn DNXH ở Việt Nam và trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, để khu vực này tiếp tục phát triển
đòi hỏi phải triển khai đồng bộ và hiệu quả một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông dưới nhiều hình thức khác nhau để truyền tải, phổ biến và giải
thích về mô hình DNXH và vai trò của DNXH trong phát triển bền vững.
Thứ hai, để phát triển DNXH thì vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Thực tiễn trên thế giới cho
thấy, khi Nhà nước chuyển dần vai trò từ người cung cấp trực tiếp dịch vụ công sang vai trò là đảm
bảo cung cấp dịch vụ công đến người dân một cách công bằng và hiệu quả, khắc phục thất bại thị
trường thì khu vực DNXH mới thực sự được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ. Theo đó, Nhà nước
6 ghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 nhằm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể
N
thao; Nghị định 69/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ ban hành một nội dung chính sách ưu đãi cơ sở
xã hội hóa.
Lợi nhuận
• 2011: 16,7 tỷ đồng
• 2012: 21,6 tỷ đồng
• 2013: 23,8 tỷ đồng
• 2014: 23,4 tỷ đồng
• 2015: 16,8 tỷ đồng
• 2016 (chưa qua kiểm toán): 31,9 tỷ đồng
(VND22,000=US$1)
Nhân viên KOTO tại Lễ khởi động KOTO Dream Ride tại
Hà Nội (Tháng 11 năm 2015)
Sứ mệnh
Trang bị cho trẻ em thiệt thòi và dễ bị tổn thương
các kỹ năng sống, đào tạo nghề và cung cấp
các cơ hội để các em có thể tiếp tục tự xây
dựng tương lai
Giá trị
Công bằng | Cộng đồng | Tôn trọng | Phối hợp | Hiệu quả
Nguồn vốn
KOTO tổ chức hai sự kiện gây quỹ hàng năm: KOTO Dream Ride, được tổ chức tại Hà Nội từ năm
2002 và Gala KOTO ONE tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014. Các cá nhân, gia đình, và tổ chức
hảo tâm có thể tham gia một cách liên tục vào chương trình Dream Makers (những người tạo ra
giấc mơ) bằng cách tài trợ cho mỗi thực tập sinh 150 đô la Mỹ/tháng trong suốt 24 tháng đào tạo
và học tập ở KOTO.
Hợp tác song phương UNICEF, UN Women, UNESCO, UNDP, UNIS Hanoi
AusCham, BBGV, CanCham, EuroCham, AmCham, Nordcham, Singapore
Các phòng công nghiệp
Business Group HCM
Fujitsu, Cook Medical, Australian Business Group, Unilever, PwC,
GroupM, Family Medical Practice, International SOS, HSBC, Starbucks,
Vodafone, Warehouse, Joy Water, Lavazza, Coca Cola, Medusa,Rice
Creative, Kingsmen, Red Brand Builders, KOTO Catering, Word Vietnam,
Các doanh nghiệp
AsiaLIFE, Vietnam Oi, Saigoneer, Cathay Pacific, ThaoLe Entertainment,
Kumho Asiana Plaza, Colliers International, Meatworks, PEB Steel, B+H
Architects, Indochine Engineering, Work Room Four, SyncNamArt,
Creative Tribe, Officine, Red Apron, The Warehouse, Da Loc
EMpower, Dự án Happy Feet, Babonanum, GRM International, Donaco
International, Quỹ học bổng Việt – Mỹ (VASF), Trung tâm khuyến khích
Các nhà tài trợ
tự lập (CESR), Câu lạc bộ Phụ nữ quốc tế Hà Nội, Câu lạc bộ phụ nữ
quốc tế Việt Nam
Học viện Box Hill, Đại học Hoa Sen, Đại học Macquarie, Le Cordon
Các đối tác đào tạo Bleu Australia, Đại học RMIT Vietnam, Đại học La Trobe, The Northern
Sydney Institute, New South Wales AMES
Quỹ Wise, Quỹ One, Quỹ Henley, Quỹ Michael Matthews, Quỹ The
Intrepid (TIF), Quỹ Kadoorie Charitable, Quỹ The Body Shop Foundation,
Các quỹ từ thiện
Quỹ La Fondation Juniclair, Quỹ Swiss Philanthropy, Quỹ VinaCapital,
Fondation Albatros
Trung tâm LIN, Trung tâm sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP), HATCH!,
Các tổ chức phi lợi
Eaves for Women, Child Wise, Education for Development, Trung tâm
nhuận, tổ chức phi
phát triển sức khỏe gia đình và cộng đồng (CEFACOM), H2H, Mekong
chính phủ
Plus, VUFO-NGO Resource Centre, Saigon Children’s Charity CIO
Tình nguyện viên phát triển quốc tế tại Australia (VIDA), Tình nguyện
viên Australia cho sứ mệnh phát triển thế giới (AVID), Tình nguyện viên
quốc tế Australia (AVI), Đại sử trẻ Australia (YAAD), Chương trình Tham
Các tổ chức tình nguyện
gia Cộng đồng Đại học Macquarie (PACE), Dịch vụ tình nguyện nước
ngoài (VSO), Little Rose and Green Bamboo Children’s Shelters, Hội
doanh nghiệp từ thiện Australia(ABV)
Đây chỉ là một phần danh sách các nhà tài trợ, đối tác, hỗ trợ mà KOTO đã và đang hợp tác. Danh
sách này chưa liệt kê đầy đủ, cho thấy tính đa dạng trong quan hệ đối tác, hỗ trợ, cả bằng vật chất
lẫn tinh thần mà KOTO đã nhận được từ năm 1999. KOTO vẫn đã và đang tiếp tục nhận được đóng
góp từ nhiều cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức khác (do không gian có hạn nên không thể tiếp tục
kể tên ở đây).
4 Cuối năm 2015, một nhà tài trợ đã quyên góp đất cho KOTO ở tỉnh Đồng Nai để xây dựng trung tâm đào tạo và khu
nhà ở cho thực tập sinh KOTO phía Nam.
Đặng Thị Hương tại trường Đại học Công nghệ Swinburne, thành phố Melbourne, Úc năm 2015
Ảnh do nhân vật cung cấp
Hương sinh năm 1986 trong một gia đình làm nghề nông. Cha qua đời từ khi cô còn rất nhỏ. Mẹ phải
làm việc rất vất để kiếm sống. Thu nhập chính của gia đình chỉ đến từ vài sào ruộng mỗi năm. Năm
Hương 12 tuổi, mẹ cô ốm rất nặng. Khi Hương đến tuổi 13, cô lên Hà Nội một mình, hi vọng rằng có
thể kiếm chút tiền để đỡ đần mẹ và cho các em tiếp tục đến trường. Hương đã phải làm việc cật
lực. Cô phải chăm sóc các em và dậy từ hai giờ sáng mỗi ngày để nấu xôi và làm bánh chuối để đi
bán. Cô đã phải đối mặt với rất nhiều mối nguy hiểm trong cuộc sống. Ngay trong khu vực cô ở có
rất nhiều những kẻ buôn bán thuốc phiện và hàng ngày cô phải ngủ ở dưới gầm cầu thang.
Cho dù cuộc sống khó khăn là vậy, Hương chưa bao giờ từ bỏ khao khát dành cho học tập. Cô đăng
ký vào một lớp học buổi tối ở Trung tâm giáo dục thường xuyên. Sau đó, cô biết đến KOTO qua một
người bạn. Năm 2006, cô chính thức trở thành thực tập sinh tại KOTO. Năm 2007, cô được tuyển
dụng vào vị trí phục vụ tại Khách sạn Intercontinental Hanoi Tây Hồ.
Hai năm sau, Hương quay trở lại làm việc tại KOTO. Ở đây, cô đã đảm nhiệm nhiều vị trí như là Lễ tân,
Điều phối hoạt động, Giám sát chuỗi cửa hàng café và cuối cùng là Giám đốc Marketing và Quan hệ
công chúng. Năm 2011, Hương hoàn tất khóa học tiếng Anh IELTS và không lâu sau đó nhận được
học bổng của Học viện Box Hill, Melbourne, Úc
Năm 2012, Hương bắt đầu học tập để lấy bằng Quản trị kinh doanh tại Melbourne. Cô cũng trở
thành tình nguyện viên Marketing và Quan hệ công chúng cho KOTO Quốc tế và làm việc bán thời
gian tại khách sạn Sofitel ở Melbourne.
Tháng 3 năm 2013, cô được chọn làm Đại sứ sinh viên quốc tế của Học viện Box Hill, đại diện cho
Việt Nam. Cùng lúc đó, Học viện Box Hill cũng trao cho Hương một học bổng chương trình học
chuyển tiếp ngành Thương mại. Tháng 11 năm 2013, Hương được vinh danh bởi Hệ giáo dục tiên
tiến Victoria của Đại học Melbourne và nhận giải thưởng cao quý của Thủ tướng Úc dành cho Sinh
viên quốc tế ưu tú, đồng thời, cô được nhận học bổng trị giá 20.000 đô la Úc.
Tháng hai năm 2015, Hương bắt đầu học bằng Thạc sĩ về Đổi mới và Khởi sự doanh nghiệp tại Đại
học Công nghệ Swinburne. Cuối năm 2015, Hương được bổ nhiệm trở thành Lãnh đạo trẻ của Liên
minh Á - Âu và phụ trách mảng phát triển nhân sự của dự án Back to School.
Chính nhờ lòng đam mê cùng với sự giúp đỡ hết mình của KOTO và Học viện Box Hill, cuộc sống
của Hương và gia đình đã hoàn toàn thay đổi. Hương chính là một tấm gương tiêu biểu cho các
thực tập sinh tại KOTO noi theo và nhận ra rằng: Tất cả ước mơ của bạn đều có thể thành hiện thực
nếu bạn dám hi vọng và vươn tới thử thách.
—Nội dung bài viết do nhân vật cung cấp—
Anh Jimmy Phạm và học viên tại Trung tâm huấn luyện KOTO tại Hà Nội (2015).
5 Cara Nolan (2015) Mở rộng những chân trời: Đo lường tác động xã hội của KOTO, Hà Nội, Việt Nam
6 eter Keyon (2009) Các quan hệ đối tác trong việc sử dụng lao động trẻ: một số sáng kiến dựa vào cộng đồng tiêu
P
biểu, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Khu vực tạo việc làm, Báo cáo nghiên cứu về việc làm số 33, Chương trình tạo
việc làm cho người trẻ, Geneva, Thụy Sĩ.
Cánh cửa đã mở
“Cùng bao giờ cũng tắc thông” - chân lý này
thật may mắn đã xảy ra với Kym Việt. Vào tháng
3 năm 2015, có sự hỗ trợ vay vốn của anh Lê
Quốc Vinh - Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của Tập
đoàn Lê Brothers, Kym Việt có vốn để tiếp tục
kinh doanh. Cuối năm 2015, PGS. TS. Trương Thị
Nam Thắng, giảng viên của trường Đại học Kinh
tế Quốc dân, người đồng thời là trưởng Mạng
lưới học giả doanh nghiệp xã hội Việt Nam gia
nhập Kym Việt với sự đồng cảm và mong muốn
góp phần tạo dựng một doanh nghiệp xã hội
nói: “Tôi thực sự đồng cảm với các bạn ở đây,
và muốn chia sẻ những kinh nghiệm của mình
về quản trị điều hành với họ”. Thứ bảy hàng
tuần, chị Thắng lại đến công ty kiểm tra hoạt
động kế toán, lên kế hoạch cho tuần tiếp theo.
Đầu tháng 10 năm 2015, dưới sự tư vấn của chị
Thắng, Kym Việt bắt đầu tái cơ cấu mạnh mẽ.
Công ty chính thức mời anh Lê Quốc Vinh, chị
Thắng, và hai chuyên gia thiết kế là Kiều Tuấn và
Nguyễn Dũng - hai người cũng có công ty riêng
Chủ tịch
Hội đồng Quản trị
Ban cố vấn
Bộ phận hỗ trợ (Kế toán, Hành chính, Nhân sự, Truyền thông)
Liên kết với các tổ chức phi chính phủ Việt Nam
Ngoài bà Trần Diễm Phượng làm giám đốc và ông Bernard Kervyn làm cố vấn, ban giám đốc của
Mekong Plus còn có đại diện của hai tổ chức phi chính phủ (NGO) Việt Nam là Thiện Chí1 và Ánh
Dương2. Đây là hai tổ chức phát triển cộng đồng, hoạt động chủ yếu trên địa bàn các tỉnh phía nam
là Bình Thuận và Hậu Giang. Cả ba (Mekong Plus, Thiện Chí, Ánh Dương) cùng có trách nhiệm gây
vốn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng riêng Thiện Chí và Ánh Dương đặc trách phần
tổ chức sản xuất ở cộng đồng. Mỗi nhóm sản xuất thường gồm từ 10-30 người ở gần nhau. Ông
Kervyn lý giải cho mô hình liên kết này:
“Chỗ sản xuất thường nằm rất sâu và xa, trong khi các cửa hàng lại tập trung ở thành
phố lớn. Nếu chúng tôi làm hết từ khâu sản xuất thì chúng tôi không thể nào đủ lực, cả
về tài chính lẫn quản lý, để giám sát được từng nhóm sản xuất trong cộng đồng. Ánh
Dương và Thiện Chí rất hiểu biết các hội ở địa phương như hội phụ nữ, hội nông dân,…
và có nhiều chương trình cộng đồng rất mạnh. Nếu không có Ánh Dương và Thiện Chí,
thì sẽ không có Mekong Quilts.”
“Tình trạng người lao động mâu thuẫn với nhóm trưởng, các vấn đề trong sản xuất là
những việc thường xuyên xảy ra. Những việc như vậy phải có Ánh Dương và Thiện Chí
kiểm soát chứ chúng tôi không thể nào bao quát hết được.”
Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là tại sao có mặt hàng đẹp, chất lượng cao; hệ thống quản trị vững
vàng và nhịp nhàng3; mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân;… nhưng Mekong Plus phải giảm bớt
cửa hàng và số lượng lao động giảm từ 400 năm 2012 xuống chỉ còn 213 năm 2016? Đâu là những
khó khăn mà Mekong Plus đang phải đối mặt?
1 http://www.thienchi.org/
2 http://www.anhduonghg.org/
3 Xem thêm nội quy lao động của công ty: http://www.mekongplus.org/images/doc_pdf/doc_interne/MPquilt/Noi_
quy_MQ_62015.pdf
Số lượng bán
Mặt hàng
2013 2014 2015
Chăn người lớn Bình cắm hoa - Sản phẩm giấy báo
Chăn trẻ em
Giỏ lục bình đã đoạt giải “Thiết kế đẹp tại Nhật Bản”
Chuyện của bé Ly
Một buổi tối mùa đông lạnh buốt cuối năm 2010, Tần Thị Shu lang thang ra khu nhà thờ ở trung tâm
thị trấn du lịch Sa Pa. Đó là nơi chỉ vài năm trước, Shu – nay đã là một người nổi tiếng khi được tạp
chí Forbes Việt Nam vinh danh là một trong 30 doanh nhân trẻ tiêu biểu dưới 30 tuổi của Việt Nam
năm 2016– từng lang thang bán đồ lưu niệm cho khách du lịch để kiếm tiền sinh sống. Shu bỗng
nhận ra một bóng người nhỏ nhoi, cô độc đang nép vào hiên nhà để tránh những cơn gió lạnh thấu
xương. Đó là cô bé Hạng Thị Ly, 16 tuổi, dáng người gày gò, bé xíu trong bộ quần áo bạc màu, làm
nghề bán dạo kiếm sống như Shu thủa nào.
Sau cuộc gặp ngắn ngủi trong đêm mưa rét hôm đó, ngay sáng hôm sau, Shu đã về nhà Ly ở làng
Tả Vang, cách làng Shu ba ki-lô-mét. Đó là căn nhà cũ kỹ của người dân tộc Mông, nơi ba chị em Ly
đang sống cùng mẹ. Bố Ly đã mất không lâu trước đó. Để giúp mẹ và các em, Ly không còn cách
nào khác là bỏ học để đi bán hàng rong trong thị trấn. Suốt buổi sáng hôm đó, Shu thuyết phục Ly và
mẹ phải cho Ly quay trở lại trường học. Đó là cuộc nói chuyện nặng nề. “Cả Ly và mẹ đều khóc. Mẹ
Ly nói nếu Ly tiếp tục đi học thì gia đình sẽ đói. Ly cũng khóc, vì không biết làm thế nào”, Shu nhớ lại.
Thật may mắn, Shu đã thành công sau gần một ngày ở nhà Ly. Cô bé đã quay trở lại trường học nhờ
sự ủng hộ vật chất của Shu. “Em nó học hành cần mẫn lắm, rất cố gắng”, Shu nhận xét. Năm ngoái,
Ly và một người em ruột đã tốt nghiệp Trung tâm giáo dục thường xuyên Sa Pa. Tiếng Anh, tiếng
Việt của Ly nay đã thạo để được tuyển dụng làm hướng dẫn viên du lịch, nghề cho em mức lương
năm-sáu triệu đồng mỗi tháng. “Ly là tấm gương rất tốt vươn lên từ nghèo khó”, Shu nói.
Hướng dẫn viên người dân tộc của Sapa O’Chau và khách du lịch
1 4h (12/11/2012), Bếp năng lượng mặt trời: Lãng phí cả... làng, http://www.24h.com.vn/tin-da-nang/bep-nang-luong-
2
mat-troi-lang-phi-ca-lang-c498a497705.html
Vietnam Halography - triển lãm sáng tạo lớn nhất Một nghệ sĩ trong sự kiện Graffiti festival 2016
Việt Nam
Không thể nhắc đến HNCC mà không nhắc đến Khu chín với tên tiếng Anh là Zone 9, nằm trong
khuôn viên của nhà máy dược bỏ hoang gần công viên Yersin (Hà Nội) vào đầu năm 2013, chỉ trong
nửa năm tồn tại, Zone 9 đã trở thành biểu tượng của tinh thần sáng tạo - cả về nghệ thuật lẫn kinh
doanh - của những cửa hàng, dự án có mặt nơi đây. Sau khi buộc phải đóng cửa với lý do chính
thức là an toàn lao động không đảm bảo, Zone 9 tưởng chừng như rơi vào quên lãng cho đến khi
ra đời HNCC sau đó hơn một năm.
KTS Đoàn Kỳ Thanh, một trong những người tham gia thành lập Zone 9 và nay là một trong các cổ
đông của HNCC, không chấp nhận thực tế rằng cả Hà Nội gần chục triệu dân mà không có một
tổ hợp nghệ thuật, sáng tạo nào. Sau khi Zone 9 đóng cửa, anh cùng nhóm bạn cùng chí hướng
tiếp tục đi tìm kiếm, khám phá các cơ hội khác và cuối cùng đã có thể khai trương HNCC vào ngày
5/9/2015. HNCC là sự hoà hợp của ba mô hình:
• Trung tâm nghệ thuật và giải trí: Phong cách giải trí phá cách với không gian nghệ thuật mở rộng.
• Quận sản xuất sáng tạo: Tạo môi trường sáng tạo, nghệ thuật đến với cộng đồng lớn (không
chuyên) một cách tự nhiên. Đồng thời có sự giao thoa giữa nghệ thuật và thương mại.
• Quận trung tâm (Downtown district): Một điểm nhấn văn hóa của Thành phố Hà Nội.
HNCC có tầm nhìn trở thành một quần thể sáng tạo và quận nghệ thuật đầu tiên trong nước, góp
phần định vị ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam; đồng thời mở ra cơ hội cho các nghệ sĩ tự
do để thể hiện và khẳng định sản phẩm của mình trong một môi trường tôn trọng sáng tạo và nghệ
thuật. Khi đặt ra tầm nhìn đó, HNCC xác định sứ mệnh của mình gồm:
• Hỗ trợ phát triển các ý tưởng sáng tạo mới mẻ và công việc kinh doanh sáng tạo, bằng các dịch
vụ, đào tạo, sự kiện.
• Thúc đẩy kết nối đa ngành và kết nối với cộng đồng, tạo mối liên kết các nguồn lực trong và
ngoài nước với nền kinh tế, góp phần tác động tích cực vào sự phát triển của đất nước dựa trên
nền tảng của kinh tế sáng tạo nghệ thuật.
• Nhận định và tôn vinh các tài năng sáng tạo trẻ, đem lại các trải nghiệm mới, chấp nhận mạo
hiểm để đưa ra những sáng kiến mới.
• Truyền cảm hứng cũng như góp phần giáo dục và phát triển khả năng sáng tạo và cảm nhận
nghệ thuật của thế hệ trẻ Việt Nam.
Ngài Giles Lever Đại sứ vương quốc Anh tại Việt Nam tham gia triển lãm SHAKESPEARE LIVES IN VIETNAM tại HNCC
Tổng kết hoạt động Dự án Bếp Thế Hệ Xanh trong khuôn khổ Quỹ Thách Thức Doanh Nghiệp Việt Nam (VBCF)
2 “5 không” gồm không đói nghèo; không vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội; không có bạo lực gia đình; không sinh con
thứ ba trở lên; và không có trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học. “3 sạch” gồm sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ.
Tòhe không “tham” về thời trang mà chỉ tập trung ở một số mặt hàng như áo thun dài tay hay áo
khoác hè.
Phong phú nhất là nhóm phụ kiện, đồ dùng văn phòng với vô vàn các loại túi đeo/túi đựng to nhỏ
khác nhau, sổ sách, hộp đựng kính mắt hay điện thoại, ba-lô trẻ em, v.v...Mỗi sản phẩm lại có một
hình vẽ do chính các em nhỏ hồn nhiên sáng tác như chiếc túi đựng máy tính bảng này:
Dịch vụ
Ngoài việc bán lẻ, Tòhe cũng có nhiều đơn hàng của các công ty, tập thể. Ví dụ như túi vải gấp cho
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), túi vải đeo vai cho phòng khám Family Medical Practice
Hanoi, túi đựng giày cho khách sạn Sofitel Plaza Hanoi, túi đựng laptop cho UNDP Việt Nam, v.v..
1 http://spark.org.vn/
Đến “Mạng lưới các tổ chức trách nhiệm xã hội và các dự án vì cộng đồng”-
VietED Group
Sau khi nhận bằng cử nhân tài chính kế toán của trường Đại học Kinh tế Quốc dân (Hà Nội), rồi
thạc sỹ quản trị kinh doanh chuyên ngành tài chính ngân hàng của trường Đại học Leizip, Đức, chị
Tuyết đã có cơ duyên làm việc trong làng các tổ chức phát triển (khối INGO tại Việt Nam). Một trong
những phương châm của chị là “Suy nghĩ, Thực hành và Chia sẻ”2, chị quan niệm lý thuyết luôn phải
được vận dụng và trải nghiệm thực tế.
1 Mạng lưới VietED bao gồm: VietED Center - VietED Foundation - D&T Plus Lĩnh vực hoạt động: Tài chính vi mô - Chuỗi
giá trị nông nghiệp - Doanh nghiệp cộng đồng
2 Thinking - Doing - Sharing: Luôn suy nghĩ và biến những suy nghĩ đó thành hành động, trải nghiệm nó và chia sẻ với
mọi người cùng áp dụng.
Hướng đi chính
Các hoạt động của VietED đều hướng đến các hộ gia đình thu nhập thấp, các doanh nghiệp vi mô
vươn lên thoát nghèo, phát triển kinh tế bền vững. VietED dựa trên ba chiến lược tựa thế chân
kiềng phát triển (“kết nối tài chính-kiến thức-thị trường”) của mình thông qua ba tổ chức thành viên
Trung tâm VietED, Quỹ VietED và D&TPlus.
Chiến lược kết nối tài chính: Hoạt động tài
chính vi mô (VietED MFI) và Cổng thông tin
gọi nguồn (VietGiving), do Quỹ VietED đảm
nhiệm.3 VietGiving (http://vietgiving.org.vn/)
là cổng thông tin gọi nguồn từ cộng đồng
(crowdfunding), được khởi nguồn từ hoạt động
tạo nguồn offline truyền thống mang tên “Chung
sức giảm nghèo” ra đời ngày 07/03/2012. Vai
trò của VietGiving là cầu nối giữa nhóm các cá
nhân, các nhà đầu tư xã hội là người Việt trên
toàn thế giới với các khoản tiền nhỏ tối thiểu là
50.000 đồng để giúp đỡ người nghèo có việc
làm, cải thiện đời sống và phát triển sinh kế bền
vững. 100% số tiền huy động được sẽ dành cho Các tổ chức
phi chính phủ quốc tế
đối tác và người hưởng lợi, VietGiving không 7%
cắt giảm, cũng không tính lãi trên số tiền đó.
Chiến lược kết nối kiến thức: Chương trình Doanh nghiệp
(nguồn vốn góp
VietLuck-Đào4 tạo thực hành và Đào tạo đồng Cung cấp dịch vụ của D&T và
TCVM (MF4SR)
thương hiệu MFCoB, do Trung tâm VietED 22%
VietED Center)
23%
triển khai.
VietLuck5 (Living University for miCro-finance
và business sKills) là chương trình đào tạo thực
hành về Tài chính Vi mô (TCVM) và Phát triển Kỹ Cá nhân
(VietGiving)
năng Kinh doanh (BDS) của Trung tâm VietED. 48%
VietLuck cung cấp các khóa đào tạo tới các
nhóm đối tượng mục tiêu bao gồm: Khách hàng
Nội bộ của VietED Group như khách hàng của
VietED MFI và công ty D&T Plus; Khách hàng
bên ngoài bao gồm các Cá nhân (Sinh viên và
Nhân viên văn phòng) và các Tổ chức (Tổ chức
tài chính và Doanh nghiệp xã hội).
Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu VietED tiêu biểu của một tổ chức phi lợi nhuận, tổng số cán bộ là 25 người.
• Hội đồng Thành viên với năm người có nhiệm vụ đưa ra định hướng chiến lược;
• Hội đồng tư vấn gồm ba thành viên đóng vai trò hỗ trợ Hội đồng Thành viên và Ban giám đốc
trong quá trình hoạch định chiến lược, xây dựng quan hệ đối tác và khai thác các nguồn lực tài
chính và phi tài chính;
• Ban kiểm soát có trách nhiệm hỗ trợ Hội đồng Thành viên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các
nguyên tắc tài chính, quy trình hoạt động của tổ chức;
• Ban giám đốc với ba thành viên;
• Bốn bộ phận chức năng: Bộ phận Hoạt động và Dự án; Bộ phận Nhân sự-Hành Chính; Bộ phận
Tài chính-Kế toán; và Bộ phận IT-Truyền thông
Hội nghị khách hàng, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ tổ chức.
Câu chuyện hỗ trợ vùng nguyên liệu dứa tại Nghệ An đối phó với biến đổi khí
hậu
Các hiện tượng bất thường của thời tiết ảnh hưởng đến phát triển kinh tế các vùng nông thôn, ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất của các khu vực vùng đồi núi bán sơn địa tại Nghệ An – Việt Nam
trong đó có vùng nguyên liệu dứa Cayen tại huyện Quỳnh Lưu. Biến đổi khí hậu tạo nên những
6 tra cứu thêm tại www.dtplus.com.vn
7 Website: www//VietHarvest79.vn; Facebook: https://www.facebook.com/SevenNineRestaurant/
Sự ra đời của Bayani Brew tại Nông Trại Kì Thú Gawad Kalinga (GK)
Nông Trại Kì Thú Gawad Kalinga, vốn là “một bệ
phóng cho các doanh nghiệp xã hội, có mục
tiêu trợ giúp người nông dân địa phương và
đem đến cuộc sống no đủ cho nông thôn Phi-
líp-pin”2, đang giúp ươm tạo nhiều doanh nghiệp
xã hội sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, có
thể kể tên các mặt hàng như bơ lạc, pho mai,
kem, các loại nấm, sô cô la, đồ chơi bằng vải và
nhiều sản phẩm khác. Với tham vọng trở thành
“Thung lũng Silicon của các doanh nghiệp xã
hội”, Nông Trại luôn khuyến khích những người
đồng nghiệp của mình phát huy tối đa tính sáng
tạo và kết hợp các giải pháp kinh doanh trong
việc xóa bỏ đói nghèo tại Phi-líp-pin.
Trước khi thương hiệu Bayani Brew ra đời, một
loại nước uống truyền thống được giới thiệu
bởi nanay (một người mẹ - theo tiếng Philipines) Linda Maningas, người đã phục vụ món trà “tsaang
bukid” (một loại trà truyền thống của Philipines) nóng bỏng tay cho các tình nguyện viên GK. Công
thức của các loại đồ uống có từ xa xưa này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng ít
ai biết rằng, món đồ uống lâu đời này đã được tổ tiên người dân Phi-líp-pin sử dụng để chống lại
các loại bệnh tật và nâng cao tuổi thọ, giờ đây được nghiên cứu để trở thành một loại đồ uống độc
đáo, mới lạ.
Antonio “Tony” Meloto, nhà sáng lập của Gawad Kalinga, người nhận được giải thưởng Skoll dành
cho chủ doanh nghiệp xã hội, đã nhìn thấy tiềm năng lớn lao của món nước trà truyền thống khi nó
trở thành một nhãn hiệu đồ uống đóng chai. Ông cho rằng việc này sẽ đem lại sức sống mới cho
ngành công nghiệp giải khát đã bão hòa của Phi-líp-pin, trong khi vẫn lưu giữ và phát triển, nâng cao
đời sống vùng nông thôn và giúp nông dân thoát cảnh đói nghèo.
Trong nỗ lực biến tầm nhìn trên thành hiện thực, vào tháng Mười 2012, Ron Dizon, Shanon Khadka
và Xilca Alvarez chính thức tham gia và đồng sáng lập nên Bayani Brew. Được dẫn đường bởi mục
tiêu giảm bớt gánh nặng nghèo đói cho quốc gia, đồng thời đứng trước cơ hội lớn rằng hầu như
tất cả các dòng nguyên liệu sản xuất nước trà đóng chai đều được nhập khẩu từ Trung Quốc hoặc
Đài Loan, những thành viên của “Biệt đội Đồ uống” - Brew Crew bắt tay vào làm việc. Những thiếu
hụt về kinh nghiệm trong ngàng hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) của cả nhóm được khỏa lấp bằng
sự nhiệt tình và lòng quyết tâm - để cho ra đời loại nước giải khát của đất nước Phi-líp-pin, loại đồ
uống có thể thực sự cạnh tranh trên thị trường thế giới.
1 Tư liệu từ Habaradas, R. B., & Aure, P. H. (2016). Quản lí các doanh nghiệp xã hội tại Phi-líp-pin: Thách thức và chiến
lược. Bản viết tay được gửi đăng tại Đại học De La Salle, Metro Manila, Phi-líp-pin”.
2 www.gk1world.com/gkenchantedfarm
3 h ttp://www.ourawesomeplanet.com/awesome/2012/11/bayani-brew.html
4 (http://www.rappler.com/business/economy-watch/60822-filipino-consumers-social-consciousness;http://www.rap-
pler.com/business/35823-corporate-social-responsibility-filipino-consumers-nielsen-survey
Benny không chỉ có một mà ba cửa hàng, cung cấp một loạt các lựa chọn thức ăn sáng tạo và ngon
miệng, khách hàng có thể trộn hoặc ghép các món và các loại nước sốt với nhau. Benny còn cho
phép khách hàng được “phá hoại một cách hợp pháp” không gian của quán. Khách hàng luôn có
thể chứng kiến các tiếng ồn chói tai hoặc nói chuyện lớn từ đám đông khách hàng trẻ tuổi.
Nhà hàng 18 đầu bếp của Benny không phải là một cửa hàng thông thường. Benny cũng không
phải là một doanh nhân và đầu bếp thông thường. Thực tế Benny là một người đàn ông đã từng
sống vội, người đã lãng phí nhiều năm của tuổi trẻ đằng sau song sắt nhà tù. Giữa những năm 1983
và 1993, Benny đã ra vào tù bốn lần vì nghiện ma túy. Công việc đầu tiên của Benny trong ngành
đồ ăn uống là đầu bếp cho một cán bộ cai ngục. “Đó thực sự là một công việc cao cấp ở thời đó,
vì tôi không phải ăn thức ăn của tù nhân”, Benny nói.
Đứng vững ở tuổi 52, Benny là người tiên phong trong phong trào doanh nghiệp xã hội ở Xin-ga-po.
Nếu niềm đam mê giúp Benny bắt đầu kinh doanh, thì chỉ có sự kiên trì mới giúp Benny tiếp tục con
đường của mình. Benny đã không đầu hàng mặc dù đã có nhiều dự án kinh doanh bị đổ vỡ trong
đó có cả một doanh nghiệp về thư tín sử dụng cựu phạm nhân. Với quyết tâm tuyệt đối, Benny đã
thành lập nhà hàng 18 đầu bếp vào năm 2007, sau thời gian làm việc ở Luân đôn, nơi Benny trở
thành người Châu Á đầu tiên được đào tạo trong nhà hàng của Jamie Oliver, nhà hàng Mười lăm.
Một cuộc sống mới
Từ ngày đầu mở cửa hàng ở Eastpoint, Benny đã cam kết tạo cơ hội có một cuộc sống mới cho
các cựu tội phạm, cung cấp cho họ các kỹ năng nấu ăn và một sự nghiệp trong ngành thực phẩm.
Với thành công ban đầu của mình, Benny đã có thể thu hút các nhà đầu tư hiểu biết, những người
đã nhìn thấy tiềm năng của mô hình kinh doanh này. Điều này dẫn đến việc mở ra hai nhà hàng nữa
ở Tiong Bahru Plaza và Fusionopolis, một cửa hàng thứ tư được mở trong năm 2014. Benny không
chịu ngủ yên cùng vòng nguyệt quế. Benny luôn tìm kiếm các địa điểm phù hợp ở Xin-ga-po và cả
cơ hội nhượng quyền kinh doanh ở Ma-lai-xi-a.
Một xưởng vẽ thuê lại mặt bằng tại nhà văn hóa Dalston
Quá trình hình thành Doanh nghiệp xã hội xà phòng tái chế (Soap Cycling)
Soap Cycling là một doanh nghiệp xã hội tại Hồng Kông chuyên thu gom và tái chế xà phòng đã
qua sử dụng, giúp nâng cao vệ sinh và sức khỏe cho trẻ em tại những khu vực kém phát triển.
David Bishop, giảng viên luật tại Đại học Hồng Kông, đã cùng một nhóm sinh viên thành lập nên
Soap Cycling vào năm 2012. Ý tưởng ban đầu hình thành nên Soap Cycling là tạo ra một nơi mà
sinh viên có thể trải nghiệm chân thực nhất việc quản lí một tổ chức. Doanh nghiệp xã hội này cũng
được truyền cảm hứng khá nhiều từ một tổ chức của Hoa kỳ có tên gọi ‘Global Soap Project’ (Dự
án Xà bông Toàn cầu), với mục đích thu thập và tái chế xà phòng thải ra từ các khách sạn (Global
Soap, 2013). Ông Bishop nhớ lại, “Tôi lớn lên tại Atlanta (Mỹ), nơi tôi được nghe kể về dự án tái chế
xà phòng Global Soap Project, mặc dù khi đó tôi chưa thực sự nghĩ rằng có một ngày chính tay tôi
sẽ tái chế xà phòng”. Quyết định xây dựng Soap Cycling không được lên kế hoạch từ trước mà nảy
sinh từ một lần cùng sinh viên thảo luận, trong số đó có một sinh viên khá am hiểu về lĩnh vực sản
xuất xà phòng (effectuation approach; Sarasvathy, 2001; Chandra, 2016). Bishop không có bất kì
kinh nghiệm kinh doanh trước đó nào nhưng bù lại, vị giáo sư này lại có “kỹ năng giải quyết vấn đề
sáng tạo” vốn được tích lũy trong những năm làm việc tại các công ty luật ở Hoa Kỳ, Xin-ga-po và
Hồng Kông.
Ý tưởng nguyên bản của ông Bishop về Soap Cycling được miêu tả khá rõ nét từ những bộc bạch
dưới đây của chính nhà sáng lập:
“Các sinh viên (tại Hồng Kông và nhiều nơi khác) cần được trải nghiệm thực tế trước
khi ra trường…Các em cần được biết cách mà xã hội vận hành, những thế mạnh cũng
như điểm yếu của mình...và cách lắng nghe người lãnh đạo của mình chia sẻ để tự cải
thiện bản thân. Những bạn trẻ này cũng cần học cách giải quyết những khó khăn trong
cuộc sống. Bạn không thể học được những điều này trong lớp học… Sinh viên cần
một bàn tay giúp họ học hỏi, tích lũy những kinh nghiệm qua việc quản lí một doanh
nghiệp thật sự... Vì thế các bạn trẻ có thể học được rất nhiều điều khi tự mình điều hành
Soap Cycling (hơn là cố gắng để có một vị trí trong một ngân hàng nổi tiếng)...Tại Soap
Cycling họ sẽ được học cách để trở thành một doanh nhân toàn diện.”
Soap Cycling có 3 sứ mệnh. Nhiệm vụ đầu tiên của Soap Cycling là việc trao quyền lãnh đạo cho
các bạn trẻ. Những sinh viên tại Hồng Kông thường tốt nghiệp với rất ít kinh nghiệm làm việc thực
tế. David Bishop muốn thay đổi thực trạng này, đem đến kinh nghiệm quản lí, lãnh đạo quý giá cho
sinh viên của ông (Soap Cycling, 2015). Thứ hai, doanh nghiệp xã hội này muốn giúp bảo vệ môi
trường chung thông qua việc chế những bánh xà bông qua sử dụng. Thứ ba, Soap Cycling muốn
tăng sự hiểu biết của chính những hộ dân sử dụng loại xà phòng tái chế này, giúp họ hiểu rõ tầm
quan trọng của các phương pháp vệ sinh thân thể và cách sử dụng xà phòng để rửa tay, loại bỏ
mầm bệnh cho trẻ em.
Quỹ từ thiện
(vd. Quỹ từ thiện
Chow Tal Fook)
Hình 3
Kinh nghiệm từ Soap Cycling cho phép Bishop và các cộng sự của mình nhìn ra thêm nhiều cơ hội
mới mẻ hơn. Khi Soap Cycling đã ổn định về mặt vận hành và quản lí, ông Bishop liền bắt tay vào
các dự án doanh nghiệp xã hội được khởi tạo bởi sinh viên. Trong năm 2016, ông đã cùng ba nhà
đồng sáng lập khác thành lập Fair Employment Agency, một doanh nghiệp xã hội có mục tiêu giúp
đỡ những người giúp việc tránh được các khoản vay nặng lãi bằng cách loại bỏ chi phí trung gian
môi giới (Karacs, 2016). Vào tháng Tám 2016, Fair Employment Agency đã xây dựng được một mô
hình hoạt động vững chắc, và tương tự như hầu hết các doanh nghiệp xã hội khác, công ty lấy
nguồn thu từ khách hàng và tái đầu tư lợi nhuận để có thể phục vụ xã hội tốt hơn.
4 Melissa Gail, « Sứ mệnh Nước sạch của Christopher Wilson , » Phát triển doanh nghiệp xử dụng nguồn vốn xã hội, 26
tháng Ba, 2012, http://socialcapitalventure.net/article-on-background-and-progress-of-scv-since-inception/, được sử
dụng vào tháng Mười Một năm 2012.
5 Oanda.com, tỉ giá trung bình tháng Hai 2011, SGD1=USD0.7741, thông tin được truy cập vào tháng Hai 2014.
PHỤ LỤC 2: Hình ảnh về giải pháp làm sạch nguồn nước tại Cam-pu-chia
Hệ thống lọc nước của SCVD tại sảnh bệnh viện, được sử dụng cho bệnh nhân, người nhà và bác sĩ.
Tranh hoạt họa được sử dụng trong cuốn sổ tay giáo dục “Những bàn tay hạnh phúc” của SCVD, miêu
tả lợi ích của việc rửa tay thường xuyên, cũng như việc đảm bảo vệ sinh thân thể.