You are on page 1of 12

BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

__________
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_______________________________________

Số: /BC-BCT Hà Nội, ngày tháng năm 2021

BÁO CÁO
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
VÀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI THÁNG 7 VÀ 7 THÁNG NĂM 2021

Trong 7 tháng năm 2021, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến
rất nhanh, phức tạp và khó lường, yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen. Diễn
biến phức tạp của đại dịch Covid-19 tiếp tục ảnh hưởng khá nặng nề đến mọi
mặt đời sống kinh tế - xã hội, nhất là đợt bùng phát dịch vào cuối tháng 4 đến
nay do biến chủng mới lây lan nhanh khiến cho số trường hợp nhiễm mới gia
tăng nhanh chóng đã tác động tiêu cực đến các ngành, lĩnh vực, địa bàn quan
trọng, có đóng góp lớn đối với phát triển kinh tế. Sự bùng phát mạnh của dịch
Covid-19 cùng với việc áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội nhằm kiểm soát
tốc độ lây lan của dịch bệnh tại nhiều tỉnh, thành phố như Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và 16 tỉnh, thành phía Nam đã ảnh hưởng
tới lưu thông hàng hóa, kéo theo sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng và tác
động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tình hình cụ thể sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại trong
tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2021 như sau:
I. Hoạt động sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Chỉ số sản
xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7/2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng
trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất trong 7
tháng qua (trừ tháng 02 có số ngày làm việc ít nhất) 1. Trong đó ngành khai
khoáng tháng 7 giảm 8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,9%; sản xuất và phân
phối điện tăng 6,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước
thải tăng 4,4% so với cùng kỳ.
Tính chung 7 tháng năm 2021, IIP ước tính tăng 7,9% so với cùng kỳ năm
trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 2,6% của cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn
mức tăng 9,4% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng
9,9% (cùng kỳ năm 2020 tăng 4,2%), đóng góp 8,1 điểm phần trăm vào mức tăng
chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,2%, đóng góp 0,7 điểm phần
trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng

1
Chỉ số sản xuất công nghiệp các tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước là: Tháng 01 tăng 23,7%; tháng 02
giảm 8,3% (do Tết Nguyên đán Tân Sửu tập trung vào tháng 02); tháng 3 tăng 3,6%; tháng 4 tăng 22,2%;
tháng 5 tăng 11,9%; tháng 6 tăng 4,9%; tháng 7 tăng 2,2%.

1
5,6%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6,3%, làm
giảm 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành
công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất kim loại tăng
34,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 30,6%; sản xuất da và các sản phẩm có liên
quan tăng 14,2%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 13%.
Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: Khai thác dầu thô
và khí đốt tự nhiên giảm 10,4%; khai thác than cứng và than non giảm 2,9%; sửa
chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 1,1%; Công nghiệp chế biến,
chế tạo khác giảm 15,8%.
Chỉ số sản xuất tháng 7/2021 so với cùng kỳ năm trước của 19 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương ở phía Nam thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị
số 16/CT-TTg để phòng chống dịch Covid-19 như sau: 7 địa phương có chỉ số
IIP tháng 7 giảm và 12 địa phương tăng. Cụ thể, Thành phố Hồ Chí Minh giảm
19,4%; Long An giảm 14,6%; Cà Mau giảm 13,7%; Đồng Tháp giảm 5,7%; Trà
Vinh giảm 5,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 1,9%; Bến Tre giảm 0,2%. Tuy
nhiên, một số địa phương có chỉ số IIP 2 tăng do một số Khu công nghiệp quyết
tâm không để đứt gãy chuỗi cung ứng, đảm bảo yêu cầu phòng chống dịch bệnh
với phương án 3 tại chỗ nên được phép hoạt động để tiếp tục thực hiện các đơn
hàng sản xuất đã ký kết hợp đồng trước đó: (1) Bạc Liêu tăng 13,7% do sản xuất
điện tăng 137,6% (bổ sung Nhà máy điện gió Đông Hải 1 hòa lưới điện tháng
2/2021, Nhà máy điện gió Công Lý, Nhà máy điện gió Hòa Bình hòa lưới điện
tháng 3/2021); (2) Bình Phước tăng 12,2% do sản xuất, chế biến thực phẩm tăng
29,5%; (3) Hậu Giang tăng 10,1% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,3%;
sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 27,2%; sản xuất đồ uống tăng
76,4%; (4) Kiên Giang tăng 8,8% do sản xuất khoáng phi kim loại khác tăng
6,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 69,5%; sản xuất điện tăng
14%; (5) Cần Thơ tăng 8,1% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 20,2%; sản
xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 42,7%; sản xuất thuốc lá tăng 3,9%;
sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 30,6%; sản xuất mô tô, xe máy tăng
52%; (6) Sóc Trăng tăng 7,6% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,6%; sản
xuất đồ uống tăng 67,4%; (7) An Giang tăng 6% do ngành dệt tăng 20,2%; sản
xuất trang phục tăng 0,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng
10,1%; sản xuất khoáng phi kim loại khác tăng 14,6%.
Tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, cơ bản đã khống chế, kiểm soát được dịch
bệnh, hoạt động sản xuất trong các khu công nghiệp dần hồi phục. Tốc độ tăng
chỉ số IIP các tháng 5, tháng 6 và tháng 7 so với cùng kỳ năm trước của hai tỉnh
Bắc Giang và Bắc Ninh lần lượt là: Bắc Giang tháng 5 giảm 26,7%; tháng 6
giảm 49,8% và tháng 7 giảm 15,3%; Bắc Ninh tăng 23,9%; giảm 8,6% và tăng
1,1%.

2
IIP tháng 7/2020 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương tăng thấp hoặc giảm: TP. Hồ Chí Minh
giảm 3,8%; Tiền Giang giảm 1,4%; Cần Thơ giảm 4,8%; Vĩnh Long giảm 8,8%; Đồng Tháp tăng 4,3%; An
Giang tăng 5,5%; Hậu Giang tăng 8,3%; Sóc Trăng tăng 7,2%; Bạc Liêu tăng 7,6%; Kiên Giang tăng 8,6%.

2
Thành phố Hà Nội bắt đầu thực hiện giãn cách xã hội từ ngày 24 tháng 7
năm 2021, chỉ số IIP tháng 7/2021 tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 7 tháng năm 2021 tăng so cao với
cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 55,9%; linh kiện điện thoại tăng 40%; ô tô
tăng 39,6%; giày, dép da tăng 19,3%; sắt, thép thô tăng 16,2%; phân hỗn hợp
NPK tăng 15,4%; điện thoại di động tăng 14,1%; vải dệt từ sợi nhân tạo và sợi
tự nhiên cùng tăng 10,6%; quần áo mặc thường tăng 9,5%.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên
dạng khí giảm 13,4%; tivi các loại giảm 10,3%; phân u rê giảm 5,2%; dầu thô
giảm 5,9%; than sạch giảm 2,8%.
II. Hoạt động xuất nhập khẩu
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 tiếp tục có những diễn biến phức
tạp, lan rộng ra nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, đặc biệt là tại Thành phố Hồ
Chí Minh - đầu tàu kinh tế của cả nước và nhiều tỉnh thành khác tại khu vực
phía Nam, hoạt động xuất nhập khẩu trong tháng 7 đang có phần chững lại.
Tuy nhiên, tính chung 7 tháng đầu năm 2021, xuất nhập khẩu vẫn duy trì tốc độ
tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 7/2021 ước tính đạt
55,7 tỷ USD, tăng 1,5% so với tháng trước. Tuy nhiên, tính chung 7 tháng năm
2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính vẫn đạt ở mức cao,
đạt 373,36 tỷ USD, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu
đạt 185,33 tỷ USD, tăng 25,5%; nhập khẩu đạt 188,03 tỷ USD, tăng 35,3%3.
Cụ thể:
2.1. Xuất khẩu hàng hoá
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 7/2021 ước tính đạt 27 tỷ USD,
giảm 0,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,49 tỷ
USD, giảm 3,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 19,51 tỷ
USD, tăng 0,2%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 7 tăng
8,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 2,2%, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 11%.
Tính chung 7 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt
185,33 tỷ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế
trong nước đạt 48,52 tỷ USD, tăng 14,6%, chiếm 26,2% tổng kim ngạch xuất
khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 136,81 tỷ USD, tăng
29,9%, chiếm 73,8%.
Trong 7 tháng đầu năm 2021 có 27 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỷ USD, chiếm 90,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng xuất khẩu
trên 10 tỷ USD, chiếm 57,8%), trong đó điện thoại và linh kiện có kim ngạch
3
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2020 đạt 286,66 tỷ USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 147,67 tỷ USD, tăng 1,5%; nhập khẩu đạt 138,99 tỷ USD, giảm 3,2%.

3
xuất khẩu lớn nhất, đạt 29,4 tỷ USD, chiếm 15,8% tổng kim ngạch xuất khẩu,
tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27,4 tỷ
USD, tăng 16,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 19,7 tỷ USD, tăng
55,4%; hàng dệt và may mặc đạt 18,6 tỷ USD, tăng 14,1%; giày dép đạt 12,1 tỷ
USD, tăng 27,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 9,5 tỷ USD, tăng 53,7%; phương tiện
vận tải và phụ tùng đạt 6,5 tỷ USD, tăng 48,5%...
Về xuất khẩu các nhóm hàng
Trong 7 tháng đầu năm 2021, cả 3 nhóm hàng công nghiệp chế biến,
nhóm hàng nông, thủy sản và nhóm nhiên liệu khoáng sản đều có kim ngạch
xuất khẩu tăng trưởng dương so với cùng kỳ.
- Kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản: Kim ngạch xuất khẩu
tháng 07/2021 ước đạt 2,38 tỷ USD, giảm 5,6% so với tháng 6/2021 và tăng
15,2% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung 7 tháng đầu năm, kim ngạch xuất
khẩu nhóm hàng này ước đạt 15,78 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm
2020, chiếm 8,52% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhìn chung hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm nông, thủy sản đều ghi
nhận sự tăng trưởng trong 7 tháng đầu năm nay. Trong đó, cao su là mặt hàng
tăng trưởng mạnh nhất trong 7 tháng đầu năm 2021 với mức tăng lên tới 33,6%
về lượng và tăng 73,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, đạt 914 nghìn tấn,
trị giá 1,5 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn, hạt tiêu và
nhân điều lần lượt tăng trưởng 24,1%; 49,8% và 14% so với cùng kỳ năm 2020.
Tương tự, hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong nhóm này là thủy
sản và hàng rau quả cũng tăng lần lượt là 12,0% và 15% so với cùng kỳ năm
2020.
Trong khi đó, xuất khẩu mặt hàng gạo đạt 1,9 tỷ USD, giảm 0,6% (lượng
giảm 10,6%); cà phê đạt 1,8 tỷ USD, giảm 1,7% (lượng giảm 9,3%); chè đạt 113
triệu USD, giảm 0,3% (lượng giảm 4,5%).
- Kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu và khoáng sản: Kim ngạch xuất
khẩu tháng 07/2021 giảm 55,1% so với tháng 06/2021 và giảm 5% so với cùng
kỳ năm 2020. Tuy nhiên, tính chung 7 tháng, nhóm hàng này đã có mức tăng
trưởng dương với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,78 tỷ USD, tăng nhẹ 1,7% so với
cùng kỳ năm trước, chiếm 0,96% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhóm hàng này ghi
nhận sự tăng trưởng cao ở mặt hàng than đá và xăng dầu các loại với mức tăng
lần lượt là 138,4% và 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, mặt hàng
dầu thô xuất khẩu giảm 10,9% và quặng và khoáng sản khác giảm 8,1%.
- Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến:
Trong tháng 7/2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này ước đạt 23,15
tỷ USD, chỉ tăng 0,9% so với tháng 6/2021 và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm
2020. Tính chung 7 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công
nghiệp chế biến vẫn duy trì mức tăng trưởng cao 27,9% so với cùng kỳ năm
2020, ước đạt 159,12 tỷ USD, chiếm 85,85% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước.
4
Đà tăng trưởng này đến từ hầu hết các mặt hàng chủ chốt của nhóm như:
Điện thoại các loại và linh kiện tăng 11,9%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và
linh kiện tăng 16,5%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 55,4%; gỗ và
sản phẩm gỗ tăng 53,7%... Xuất khẩu hàng dệt may và giày dép tiếp tục duy trì
đà phục hồi trở lại với mức tăng trưởng hơn hai con số: hàng dệt và may mặc
tăng 14,1%; giày dép các loại tăng 27,7%; vải mành, vải kỹ thuật khác tăng
86,7%; xơ, sợi dệt các loại tăng 62,8% so với 7 tháng năm 2020.
Về thị trường xuất khẩu: 7 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 53,7 tỷ USD, tăng 37,7% so
với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 28,8 tỷ USD, tăng 24,6%.
Thị trường EU đạt 22,6 tỷ USD, tăng 15,6%. Thị trường ASEAN đạt 16,2 tỷ
USD, tăng 25,8%. Hàn Quốc đạt 11,9 tỷ USD, tăng 10,3%. Nhật Bản đạt 11,8 tỷ
USD, tăng 8,9%.
2.2. Về nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 7/2021 ước tính đạt 28,7 tỷ USD,
tăng 3,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 10,3 tỷ
USD, tăng 3,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,4 tỷ USD, tăng 4%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 7 tăng
29,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 26,3%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 32,1%.
Tính chung 7 tháng năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính
đạt 188,03 tỷ USD, tăng 35,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 66,31 tỷ USD, tăng 29,8%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 121,72 tỷ USD, tăng 38,5%.
Về nhóm hàng nhập khẩu
- Nhóm hàng cần nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu tháng 7 ước đạt 24,97
tỷ USD, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm 2020. 7 tháng đầu năm 2021 đạt 165,36
tỷ USD, tăng 34,5%, chiếm 87,9% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng trong nhóm này trong 7 tháng
đều tăng so với cùng kỳ năm 2020 như: Máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
tăng 20,3%, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 36,8%, điện thoại các loại
và linh kiện tăng 48,5%; thép các loại tăng 41,7%; nguyên phụ liệu dệt may, da
giày tăng 33,8%; vải các loại tăng 32,9%; bông các loại tăng 27,3%; xăng dầu
các loại tăng 17,1%...
- Nhóm hàng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu: Trong 7 tháng đầu
năm 2021, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần kiểm soát đạt 12,2 tỷ USD,
tăng 42,1% so với cùng kỳ năm 2020. Trong nhóm hàng này, kim ngạch nhập
khẩu rau quả tăng 14,6%, bánh kẹo và sản phẩm ngũ cốc tăng 35,1%, ô tô
nguyên chiếc dưới 9 chỗ tăng 91,5% về kim ngạch.
Về thị trường nhập khẩu: 7 tháng đầu năm nay, Trung Quốc là thị trường
nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 62,4 tỷ USD, tăng 48,8%

5
so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 29,8 tỷ USD,
tăng 20,6%. Thị trường ASEAN đạt 24,9 tỷ USD, tăng 49,6%. Nhật Bản đạt
12,6 tỷ USD, tăng 14,5%. Thị trường EU đạt 9,76 tỷ USD, tăng 20,8%. Hoa Kỳ
đạt 8,97 tỷ USD, tăng 10,6%.
2.3. Cán cân thương mại
Cán cân thương mại hàng hóa tháng 7 ước tính nhập siêu 1,7 tỷ USD.
Tính chung 7 tháng năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu 2,7 tỷ
USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 8,69 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong
nước nhập siêu 17,8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô)
xuất siêu 15,1 tỷ USD.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu của hầu hết mặt hàng, nhóm hàng 7
tháng đầu năm đầu đạt mức tăng trưởng tích cực. Tuy nhiên đà tăng trưởng này
đang có phần chậm lại do dịch Covid-19 đang ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt
động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thời gian tới, tăng
trưởng xuất nhập khẩu sẽ phụ thuộc rất lớn vào tình hình kiểm soát dịch bệnh
cũng như việc đẩy nhanh quá trình tiêm chủng vắc xin trong nước.
Dự báo nhu cầu hàng hóa xuất khẩu vẫn đang khá cao, việc các nước
đang triển khai mạnh mẽ tiêm vắc xin và mở cửa trở lại đã làm tăng nhu cầu đối
với các sản phẩm dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử của Việt Nam. Cùng với đó,
một số nền kinh tế tiếp tục triển khai các gói kích cầu, thông qua hỗ trợ trực tiếp
cho người dân, qua đó thúc đẩy tiêu dùng các mặt hàng, trong đó có mặt hàng
nhập khẩu từ Việt Nam. Trong thông báo được đưa ra ngày 21 tháng 7 năm
2021, Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) ước tính tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong
năm 2021 sẽ ở mức 6%, tương đương với mức dự báo được đưa ra trong tháng
4/2021. Còn theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của Ngân hàng Thế giới
(WB) được công bố ngày 8 tháng 6 năm 2021, kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng
5,6% thay vì 4,1% được dự báo hồi đầu tháng 1/2021. WB cho rằng chương
trình tiêm phòng Covid-19 và các biện pháp kích thích kinh tế ở các nước lớn sẽ
thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu.
Đồng thời, các hiệp định thương mại tự do đang dần được thực thi một
cách toàn diện hơn, hiệu quả hơn, được kỳ vọng sẽ tiếp tục thúc đẩy các ngành
xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện để hàng hóa của Việt Nam thâm nhập
vào các thị trường đối tác với thuế quan ưu đãi, thông qua đó thúc đẩy xuất khẩu
tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Giá hàng hóa xuất khẩu cũng đang có xu
hướng tăng, nhất là các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam sẽ là động lực quan
trọng để gia tăng giá trị xuất khẩu.
Theo chu kỳ nhập khẩu hàng hóa nguyên liệu sản xuất thường tăng vào
đầu năm và giảm giai đoạn nửa cuối năm trong khi xuất khẩu đạt đỉnh điểm vào
nửa cuối năm. Nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục
tăng cao trong nửa cuối năm 2021, đặc biệt là đối với ngành điện tử, máy móc
thiết bị, đồ gỗ, hàng dệt may và thủy sản… Vì vậy cán cân thương mại được dự
báo sẽ cải thiện trong thời gian tới.

6
Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu có thể bị ảnh hưởng tiêu cực do trên
thế giới khu vực Đông Nam Á tiếp tục là tâm điểm với số ca nhiễm Covid-19
mới gia tăng nhanh chóng tại các quốc gia như Indonesia hay Thái Lan… Trong
nước, dịch Covid-19 bùng phát ở nhiều địa phương là khu vực sản xuất hàng
hóa lớn, có quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu đứng đầu của cả nước. Một số
tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội theo nguyên tắc Chỉ thị 16/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ khiến cho gián đoạn quá trình lưu thông, vận chuyển
hàng hóa; việc thiếu container rỗng và giá cước vận chuyển tăng cao cũng là trở
ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong những tháng cuối năm nay.
Đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo như điện tử, dệt may và da giày,
cùng với đà hồi phục nhu cầu tiêu dùng của các thị trường lớn như Mỹ và châu
Âu, cùng với xu thế dịch chuyển chuỗi sản xuất toàn cầu sau dịch bệnh, các
doanh nghiệp có thể có thêm các đơn hàng xuất khẩu mới. Tuy nhiên, trước tình
hình dịch bệnh phức tạp, các doanh nghiệp đã và đang phải cố gắng duy trì sản
xuất cùng với nguy cơ rủi ro rất lớn là khách hàng quốc tế sẽ dừng, huỷ đơn
hàng để chuyển sang nước khác, đến khi dịch được kiểm soát, việc nối lại các
mối quan hệ kinh doanh sẽ rất khó khăn và cần phải có quá trình.
III. Về phát triển thị trường trong nước
Dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên cả nước làm ảnh hưởng
tiêu cực tới hoạt động thương mại, dịch vụ khi nhiều tỉnh, thành phố phía Nam
và Hà Nội thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 ước
tính đạt 339,4 nghìn tỷ đồng, giảm 8,3% so với tháng trước và giảm 19,8% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 291,8 nghìn tỷ
đồng, giảm 5,5% và giảm 11,4%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 21,2
nghìn tỷ đồng, giảm 22,4% và giảm 53,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 133 tỷ
đồng, giảm 4,8% và giảm 92,6%; doanh thu dịch vụ khác đạt 26,3 nghìn tỷ
đồng, giảm 22,4% và giảm 43%.
Tính chung 7 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đạt 2.791,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm
trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 0,5%), nếu loại trừ yếu tố giá giảm 0,74% (cùng
kỳ năm 2020 giảm 5,20%).
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 7 tháng năm 2021
ước tính đạt 2.269,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 81,3% tổng mức và tăng 3,2% so với
cùng kỳ năm trước. Đây là ngành duy nhất có mức tăng trưởng dương trong 7
tháng đầu năm 2021. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm 2021 ước
tính đạt 243,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,7% tổng mức và giảm 11,8% so với cùng
kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 18,9%). Doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng
năm 2021 ước tính đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng mức và giảm 58,8% so
với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 273,5 nghìn tỷ đồng,
chiếm 9,8% tổng mức và giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2020.

7
Thời gian vừa qua, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công
Thương đã thường xuyên phối hợp với các bộ ngành, các địa phương chỉ đạo,
hướng dẫn về các vấn đề có liên quan đến lưu thông hàng hóa thiết yếu, nhằm mục
tiêu trong mọi hoàn cảnh không để bị đứt, gãy chuỗi sản xuất, cung ứng hàng hóa
thiết yếu phục vụ người dân, nhất là người dân trong vùng dịch.
Theo đó, ngay từ khi làn sóng dịch thứ tư bùng phát ở Bắc Giang, Bắc Ninh,
đặc biệt Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, Bộ Công Thương đã cùng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bàn kế hoạch hợp tác trong sản xuất, cung
ứng hàng hóa. Khi dịch bệnh diễn biến phức tạp tại thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh phía Nam, Bộ đã khẩn trương thành lập Ban Chỉ đạo cung ứng hàng hóa, dịch
vụ thiết yếu cho Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam; Thành lập “Tổ
công tác đặc biệt” và Tổ Công tác tiền phương phòng, chống dịch Covid-19, phối
hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị có liên quan tại phía
Nam để xử lý kịp thời các vấn đề nóng, vướng mắc, khó khăn trong công tác đảm
bảo nguồn cung hàng hóa thiết yếu cho các tỉnh, thành phố phía Nam; gấp rút xây
dựng phương án và triển khai quyết liệt 3 nhiệm vụ chính: Một là phối hợp cùng
chính quyền, Sở Công Thương các địa phương đánh giá khả năng cung ứng tại
chỗ, xác định nhu cầu hàng hóa cần cung ứng trong tình huống phải thực hiện
theo Chỉ thị 15 và Chỉ thị 16; Hai là khẩn trương kết nối cung cầu giữa các địa
phương, các nhà sản xuất, nhà phân phối theo cơ chế thị trường; Ba là sẵn sàng
làm nhiệm vụ điều phối hàng hóa cho các địa phương thiếu cục bộ. Phối hợp với
cơ quan chức năng, các địa phương và các sàn thương mại điện tử lớn tại Việt
Nam lên phương án tháo gỡ khó khăn trong vận chuyển hàng hóa thiết yếu, triển
khai các chương trình, hoạt động đẩy mạnh bán các sản phẩm tiêu dùng thiết
yếu, cung ứng kịp thời cho người dân. Do đó, đến nay tình hình cung ứng, lưu
thông, phân phối hàng hóa thiết yếu được cải thiện, cơ bản không còn hiện
tượng thiếu hàng, người dân xô đi mua hàng tích trữ, giá cả tương đối ổn định
Tuy nhiên, khi một số tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội theo
Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách
phòng, chống dịch Covid-19, đã xuất hiện tình trạng một số địa phương còn
lúng túng và thực hiện thiếu thống nhất trong việc cho phép lưu thông hàng hóa
khi thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị. Do cách hiểu cũng như tổ chức triển
khai thực hiện các văn bản nêu trên tại một số địa phương có khác nhau nên xảy
ra tình trạng một số hàng hóa là nguyên liệu đầu vào của sản xuất hoặc phục vụ
nhu cầu thiết yếu cho đời sống của người dân nhưng còn gặp khó khăn, thậm chí
ách tắc khi lưu thông trên địa bàn, địa phương hoặc giữa các địa phương với
nhau.
Để tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, Bộ Công Thương đã có văn bản
kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép lưu thông như trong điều kiện bình
thường các hàng hóa cần vận chuyển với điều kiện bảo đảm phòng, chống dịch
Covid-19, ngoại trừ những hàng hóa cấm kinh doanh hoặc hàng hóa hạn chế
kinh doanh theo quy định tại Phụ lục I, Phần A về Danh mục hàng hóa, dịch vụ
cấm kinh doanh và Phụ lục II, Phần A về Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế

8
kinh doanh ban hành kèm theo Văn bản số 19/VBHN-BCT ngày 09 tháng 5 năm
2014 do Bộ Công Thương ban hành hợp nhất Nghị định số 59/2006/NĐ-CP
ngày 12 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Thương mại
về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều
kiện và các Nghị định sửa đổi Nghị định số 59/2006/NĐ-CP (trừ những hàng
hóa được Thủ tướng Chính phủ cho phép).
IV. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM TRONG 5 THÁNG
CUỐI NĂM 2021
Kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên rủi ro, thách
thức vẫn còn đến từ: (i) các biến chủng mới của dịch Covid-19; (ii) lạm phát, giá
cả có khả năng tăng cao đến hết năm 2021; (iii) chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, căng
thẳng chính trị, thương mại giữa các quốc gia lớn.
Trong nước, khó khăn, thách thức, rủi ro còn nhiều, nhất là khi tình hình
dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp ở các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long. Mùa du lịch đã qua, ảnh hưởng tới các Chương trình kích cầu tiêu dùng.
Nhiệm vụ đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 2021 rất thách thức, đòi hỏi các cấp,
các ngành cần phải nỗ lực và có giải pháp phù hợp.
Các doanh nghiệp, các Sở Công Thương và các đơn vị trực thuộc tập
trung triển khai nghiêm túc Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm
2021 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; Nghị quyết
số 02/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021; Chương trình hành động của ngành
Công Thương thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP
được ban hành tại Quyết định số 163/QĐ-BCT; Quyết định số 164/QĐ-BCT
ngày 19 tháng 01 năm 2021; trong thời gian tới tiếp tục tập trung vào một số nội
dung chính sau:
1. Quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm, đầy đủ các biện pháp
phòng, chống dịch bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế; thực hiện nghiêm yêu cầu
5K, đặc biệt là việc đeo khẩu trang; kiên quyết xử lý nghiêm đối với các tổ chức,
cá nhân vi phạm công tác phòng, chống dịch bệnh. Chủ động xây dựng các
phương án chống dịch bệnh, sẵn sàng đáp ứng với mọi tình huống dịch bệnh có
thể xảy ra.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ trực tiếp chỉ đạo thực hiện công
tác phòng, chống dịch bệnh tại cơ quan, đơn vị, tăng cường kiểm tra, giám sát
các hoạt động phòng, chống dịch bệnh thuộc phạm vi của cơ quan, đơn vị.
2. Tập trung triển khai thực hiện Quyết định số 1612/QĐ-BCT ngày 23
tháng 6 năm 2021 về Chương trình hành động của ngành Công Thương thực
hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ về

9
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nỗ lực cao nhất để
hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho ngành Công Thương trong năm
2021.
3. Theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu để có
biện pháp điều tiết kịp thời, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng
miền, ổn định cung cầu - giá cả và lưu thông hàng hóa trên địa bàn cả nước. Đẩy
mạnh công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái,
hàng kém chất lượng góp phần bảo vệ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong
nước.
Đối với mặt hàng xăng dầu: tiếp tục theo dõi sát diễn biến của giá dầu thế
giới do tác động của dịch bệnh để tham mưu điều hành giá mặt hàng xăng dầu
phù hợp với diễn biến của giá thành phẩm xăng dầu thế giới và tình hình kinh tế
xã hội trong nước (bảo đảm tính thị trường), giảm thiểu sự tác động đến đời
sống của người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt
trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp.
4. Tham mưu, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai các biện
pháp hỗ trợ lưu thông hàng hóa, đảm bảo các phương tiện vận chuyển hàng hóa
phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của nhân dân được lưu thông thông suốt
theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 16/CT-TTg
ngày 31 tháng 3 năm 2020 của về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng,
chống dịch Covid-19, hạn chế tối đa việc tồn ứ hàng hóa nói chung, các mặt
hàng nông sản nói riêng trong khâu lưu thông.
Phối hợp với Sở Công Thương các địa phương để theo dõi sát diễn biến
thị trường, có biện pháp xử lý hoặc kiến nghị hướng xử lý các bất ổn của thị
trường, đặc biệt là một số mặt hàng nông sản, thực phẩm thiết yếu và điều phối
giữa các địa phương khi cần.
5. Tăng cường các hoạt động xúc tiến, kết nối giữa nhà sản xuất, cung ứng
với các nhà phân phối, các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước ở các địa
phương. Chủ động phối hợp, hỗ trợ và hướng dẫn các địa phương đối với hoạt
động quảng bá, kết nối tiêu thụ nông sản trên môi trường số (trong điều kiện
giãn cách xã hội). Hỗ trợ và đôn đốc các Hiệp hội, ngành hàng, các doanh
nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, thực hiện hiệu quả các hoạt động xúc tiến
thương mại, quảng bá sản phẩm, ngành hàng, tìm kiếm mở rộng thị trường trong
nước, để nhanh chóng đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng nông sản có sản lượng
lớn đã vào vụ hoặc sắp thu hoạch ở các địa phương.
Chỉ đạo, đôn đốc hướng dẫn các địa phương khẩn trương thực hiện quyết
định số 194/QĐ-TTg ngày 09 tháng 2 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn
2021-2025 định hướng đếm năm 2030”.

10
6. Hướng dẫn các sàn giao dịch thương mại điện tử tạo điều kiện cho
người bán, thương nhân kinh doanh nông sản tham gia sàn, đào tạo kỹ năng và
vận hành hoạt động kinh doanh trực tuyến; hỗ trợ vận chuyển; thanh toán trực
tuyến; hỗ trợ và ưu tiên các thương nhân kinh doanh nông sản tham gia các
Chương trình ngày mua sắm trực tuyến; Gian hàng Việt trực tuyến quốc gia…
Đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông sản trên các kênh thương mại điện tử, hỗ trợ
các địa phương thúc đẩy tiêu thụ lượng nông sản lớn (đã, đang và sẽ vào vụ thu
hoạch) ở các địa phương trên các sàn giao dịch thương mại điện tử uy tín.
7. Chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường tại các địa phương tập trung triển
khai các kế hoạch kiểm tra, giám sát thị trường, kế hoạch cao điểm; kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá, các hành vi đầu cơ,
găm hàng và lợi dụng dịch bệnh để thu lợi bất chính; kinh doanh hàng nông sản
nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, không bảo đảm an toàn thực phẩm, an
toàn dịch bệnh và các hành vi gian lận thương mại khác.
8. Thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Tổ chức khai thác, tận dụng
cơ hội từ các FTA để tìm giải pháp phát triển thị trường và tháo gỡ rào cản để
thâm nhập các thị trường mới. Tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến của đại dịch
Covid-19 trên thế giới để có các biện pháp ứng phó kịp thời. Củng cố và mở
rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự
do (FTA) đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu; Đa dạng
hoá cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất
khẩu, phát triển thương hiệu.
9. Bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh cung ứng điện; vận hành hệ
thống điện quốc gia bảo đảm hiệu quả, an toàn, công khai, minh bạch, hài hòa
lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Khẩn trương hoàn thiện và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem
xét, phê duyệt Quy hoạch điện VIII; Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược phát triển năng lượng
quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Xây dựng cơ chế đấu
thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện các dự án điện mặt trời; Xây dựng cơ chế
khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà áp dụng giai đoạn sau 2020…
10. Các đơn vị thuộc Bộ tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính,
đặc biệt là công tác cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh
doanh theo hướng rà soát thủ tục, quy trình cấp phép, thực hiện tối đa việc cấp
phép trực tuyến đảm bảo đơn giản, công khai, minh bạch; đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, thực hiện kết nối liên thông các hệ thống thông tin, cơ sở
dữ liệu phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Toàn ngành bám sát kịch bản tăng trưởng và các chỉ tiêu kế hoạch của
ngành Công Thương được Quốc hội và Chính phủ giao năm 2021, tập trung
triển khai các nhiệm vụ theo đúng tiến độ tại Chương trình công tác, Chương
trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Chương trình hành động thực hiện

11
các Nghị quyết của Chính phủ, tổ chức thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm
hoàn thành tất cả các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao./.

12

You might also like