You are on page 1of 23

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH



BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI:

DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI,
NÂNG CAO ĐỜI SỐNG ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
LỚP DTQ1--- NHÓM 15 --- HK 203

NGÀY NỘP 26/05/2021

Giảng viên hướng dẫn: Đoàn Văn Re

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Ngô Minh Đại 1913008
Trương Tấn Hòa 1952710
Nguyễn Lê Thanh Vy 1953109
Nguyễn Hoàng Như Yến 1952538

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021


MỤC LỤC Trang

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 3

1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................3

2. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................3

3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................4

4. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................4

5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4

6. Kết cấu của đề tài.....................................................................................................4

PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................5

Chương 1: DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.5

1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc ...........................................................5

1.1.1. Khái niệm dân tộc..............................................................................................5

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc.............................................................................5

1.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc..........................................................7

1.2.1. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc...........................................7

1.2.2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin...................................................9

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI,


NÂNG CAO ĐỜI SỐNG ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.................................................................................................................12

2.1. Đặc điểm đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta...........................................12

2.2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng
bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.............................................................13

2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc
thiểu số ở nước ta thời gian qua...................................................................................13

2.2.1.1 Những mặt đạt được và nguyên nhân........................................................13


2.2.1.2 Những hạn chế và nguyên nhân.................................................................15

2.2.2. Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các
dân tộc thiểu số ở nước ta thời gian tới........................................................................17

3. KẾT LUẬN............................................................................................................. 21

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................22


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội
khoa học, đối với dân tộc ta, sự nghiệp dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của dân
tộc trong trường kỳ lịch sử suốt mấy nghìn năm. Dân tộc còn là vấn đề quan trọng, có
ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Theo nghĩa
rộng, dân tộc là các quốc gia-dân tộc trên thế giới. Theo nghĩa hẹp, dân tộc là các tộc
người trong cùng một quốc gia (tộc người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài). Trong
thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, tồn tại đan xen các yếu tố của xã hội mới và
những yếu tố của xã hội cũ, về vấn đề dân tộc tồn tại những cách thức tiến hành sản
xuất – kĩ thuật, đến những vấn đề về văn hóa, tư tưởng ...
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước luôn coi khối đại đoàn kết dân tộc là đường lối
chiến lược cách mạng Việt Nam, là nguồn sức manh, động lực chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do
đó, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước,
tiêu biểu là về việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các dân
tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng giải quyết tốt
vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các phương diện
kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Cụ thể những kết quả đó là
tỷ lệ hộ nghèo giảm; hạ tầng kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó
khăn hoàn thiện; dân trí, nhận thực được nâng cao cũng như đổi mới hình thức sản
xuất. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại
một số hạn chế, bất cập. Đó là một số kết cấu hạ tầng còn thiếu và chưa đạt hiệu quả;
một số chính sách thiếu thực tế; việc áp dụng khoa học- kĩ thuật và những chính sách
hỗ trợ vào sản xuất nông nghiệp vẫn còn hạn chế; tỷ lệ hộ tái nghèo còn cao; giáo dục-
y tế vẫn còn hạn chế. Cùng với đó, qua quá trình nghiên cứu, chúng em đề xuất 6 giải
pháp để khắc phục những mặt hạn chế đã nêu trên để bảo đảm sự ổn định chính trị và
gia tăng nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước trong thời gian tới.

2. Đối tượng nghiên cứu


Thứ nhất, dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời
sống đồng bài các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Thứ nhất, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng
bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thời gian qua.

Thứ ba, đề xuất giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào
các dân tộc thiểu số ở Việt nam thời gian tới.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là các
phương pháp: phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp lịch sử-logic,...

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:

Chương 1: Dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc

1.1.1. Khái niệm dân tộc

Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó
có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:

Nghĩa rộng: dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, có quốc gia, có nên kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức
về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, có
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước. Ở đây, dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia
– dân tộc.

Nghĩa hẹp: dân tộc chỉ cộng đồng người cụ thể, có mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung, có nét đặc thù trong sinh hoạt
văn hóa so với những cộng đồng khác, xuất hiện sau bộ lạc, kế thừa và phát triển hơn
những nhân tố tộc người ở bộ lạc và thể hiện rằng dân tộc là một bộ phận của quốc gia,
là các tộc người.

Dưới góc độ môn chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ
nhất. Tuy nhiên, chỉ khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mối quan hệ với nghĩa
thứ hai thì sắc thái nội dung của nó mới được bộc lộ đầy đủ.1

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc

Dân tộc thường được nhận biết thông qua 4 đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là dân tộc có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế:
Một dân tộc trong tập thể của nhân loại muốn tồn tại cần có mối quan hệ với
nhau về mặt kinh tế, tức là có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc
trưng quan trọng nhất của dân tộc. Bởi các mối quan hệ kinh tế là cơ sở để liên kết các

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội Khoa học, NXB: Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.104,105,106.
bộ phận, các thành viên của dân tộc, nhằm tạo nên nền tảng vững chắc cho cộng đồng
dân tộc.
Hai là mỗi dân tộc có một lãnh thổ riêng cho mình:
Lãnh thổ là điều kiện bắt buộc cho sự xuất hiện của bất kì một tộc người nào.
Mỗi dân tộc luôn luôn có sự thăng trầm trong lịch sử. Các dân tộc mạnh thì luôn có
khái niệm phải mở rộng lãnh thổ để nâng cao sức mạnh, các dân tộc yếu và nhỏ thì
luôn cố gắng bảo vệ lãnh thổ của mình. Dân tộc có thể cư trú tập trung trên một vùng
lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em khác. Dân tộc
một phần rất quan trọng trong việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
Ba là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng biệt:
Ngôn ngữ là công cụ cơ bản cho sự giao tiếp của các cá nhân bao gồm một tộc
người phù hợp, phân định họ với đại bộ phận các tộc người khác. Nói cách khác, ngôn
ngữ là dấu hiệu để người ta phân biệt các dân tộc khác nhau.
Như một qui tắc, tất cả thành viên gắn bó với nhau trong một tộc người thì cùng
nói một thứ tiếng gọi là tiếng mẹ đẻ. Nhưng điều đó không có nghĩa là trên thế giới có
bao nhiêu tộc người thì có bấy nhiêu ngôn ngữ.
Thực tế, có nhiều ngôn ngữ của tộc người khác lại được sử dụng với tư cách là
ngôn ngữ tộc người. Có một số ngôn ngữ được nhiều bộ phận cư dân sử dụng với tư
cách là ngôn ngữ tộc người mặc dù họ là những tộc người riêng biệt và sống ở các
quốc gia khác nhau, bên cạnh đó cũng có các dân tộc mà các nhóm riêng biệt của họ
lại nói những thứ tiếng khác nhau.
Mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng và cũng có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn
ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực.
Bốn là mỗi dân tộc có một nền văn hóa, tâm lý riêng:
Nét tâm lý dân tộc biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân tộc (thể hiện qua lối
sống, phong trào, tập quán, tín ngưỡng..) và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân
tộc, gắn bó với nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng
trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó với nhau, đồng thời mỗi đặc
trưng có một vị trí xác định, làm cho những nhân tố tộc người đan kết, hòa quyện vào
các nhân tố xã hội.
1.2. Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc

1.2.1. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc C.Mác, Ph.Ăngghen

Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân
tộc:
Xu hướng thứ nhất: Các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia
dân tộc độc lập từ sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc. Trong thực tế, xu
hướng này đã biểu hiện thành phong trào dấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập
các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiểu
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín. Xu hướng này phát
huy tác động nổi bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực
lượng sản xuất khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư
bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối
liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần
nhau.

Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều trở
ngại khi sự vận động của hai xu hướng này bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, vì nguyện
vọng của các dân tộc được sống độc lập tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế
quốc xóa bỏ. Chủ nghĩa đế quốc lập ra các khối liên hiệp với sự áp đặt.

Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng: chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội
hai xu hướng sẽ phát huy tác dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ nhau, biểu hiện qua quan hệ
dân tộc, khi chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức, đô
hộ các dân tộc khác mới bị xóa bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của sự phát
triển dân tộc mới có điều kiện được thể hiện đầy đủ.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin đang phát huy tác
dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất đa dạng và phong phú.
Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và
đến tất cả các mối quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng giữa các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh bởi vì: nó sẽ tạo điều kiện
cho dân tộc đó có thêm điều kiện vật chất, tinh thần để hợp tác chặt chẽ hơn với các
dân tộc anh em, đồng thời cho phép mỗi dân tộc không chỉ sử dụng tiềm năng của dân
tộc mình mà còn sử dụng gắn kết với tiềm năng của các dân tộc anh em trong một
nước để tiến lên phía trước. Sự xích lại gần nhau của các dân tộc trong cùng một quốc
gia có nghĩa là những tinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó thâm nhập vào nhau,
bổ sung cho nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành những giá trị chung. Tuy nhiên, sự
hòa quyện đó không xóa bỏ bản sắc của từng dân tộc, không xóa bỏ những đặc thù dân
tộc, ngược lại, nó bảo lưu, gìn giữ và phát huy những tinh hoa, bản sắc của từng dân
tộc. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng trên đều loại trừ các tư tưởng và
hành vi kì thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti dân tộc, dân tộc hẹp hòi, xung đột dân tộc.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: “Sự phát
triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với củng cố, phát triển của cộng đồng các dân
tộc ở nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp thức
qui luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính
đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc”1. Mọi sự vi phạm quan hệ biện
chứng giữa hai xu hướng khách quan nêu trên đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan được
thể hiện nổi bật:
Thời đại hiện nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xóa bỏ ách đô hộ
của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình,
bao gồm quyền tự chọn chế độ chính trị và con đường phát triển dân tộc, quyền được
bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của
thời đại - mục tiêu độc lâp dân tộc - là xu hướng khách quan, là chân lí thời đại, là sức
mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển của mỗi nền dân tộc, làm tiêu tan tất cả
những gì cản trở nó.

1
Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. (1986). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB: Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.45.
Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau để trở lại hợp
nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình thành trong lịch
sử. Xu hướng đó tạo nên sức mạnh hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành
trên cơ sở lợi ích chung nhất định. Các dân tộc có những lợi ích mang tính khu vực,
dựa trên những yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về một số giá trị văn hóa, trùng
hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung bên ngoài.
Nhận thức rõ điều này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính sách độc
lập tự chủ để mở cửa hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại đồng thời phải
tìm được giải pháp hữu hiệu để gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc mình.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phòng trào dân tộc trong thời
đại hiện nay, Đảng ta đã khẳng định: “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp
tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”1. là nguyên tắc thống nhất
của đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.

1.2.2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin

Dựa trên cơ sở:

Một là tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc.


Hai là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và
cách mạng Nga.
Ba là phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền
với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của
với nội dung sau:

Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

Đó là quyền thiêng liêng của các dân tộc (kể cả cá cộng đồng bộ tộc) trong mối
quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc dù
lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay
thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc

1
Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. NXB: Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.55
quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật pháp mỗi nước và luật pháp
quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do
lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, chống sự kì thị dân tộc, chống sự tự ti dân tộc, nêu cao lòng tự
hào dân tộc, chống sự áp bức, bóc lột của nước tư bản chủ nghĩa đối với các nước kém
phát triển. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền
dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.

Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết

Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Thực chất quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ mỗi dân tộc, quyết định đối với
vận mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị,
tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của dân tộc và cũng bao gồm
quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, để có
đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia dân tộc.

Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân, có quan điểm biện chứng, ủng hộ những phong trào dân tộc
tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc và
phản động can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động
dân tộc chủ nghĩa đàn áp lực lượng tiến bộ, đòi li khai và đòi đi vào quỹ đạo của chủ
nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba, liên hiệp công nhân các dân tộc lại
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, là tư tưởng chủ đạo, nội dung cơ bản trong cương
lĩnh dân tộc của Lênin: Nó phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phản
ánh mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, phản ánh sự thống nhất giữa
sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong
trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng đến, đường lối,
phương pháp, xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân
tộc. Đồng thời là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp
bức chiến thắng kẻ thù của mình. Liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc
để đoàn kết các tầng lớp nông dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong công cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. C.Mác và
Ăngghen đã khẳng định rằng: Xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này đi
áp bức dân tộc khác sẽ không còn nữa, khi mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
không còn nữa thì sự thù địch trong các dân tộc cũng theo đó mất đi.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lê-nin là một bộ phận trong cương lĩnh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc
của Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Đây là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương của các
Đảng Cộng sản và nhà nước Xã hội Chủ nghĩa.
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI,
NÂNG CAO ĐỜI SỐNG CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1 Đặc điểm đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Người Kinh
chiếm 85,4% dân số Việt Nam, với 78,32 triệu người. 53 dân tộc thiểu số còn lại chỉ
chiếm 14,6% dân số cả nước (Vietnam, 2020)1
Mặc dù Việt Nam ủng hộ Tuyên bố về quyền của người bản địa, Chính phủ
không đồng nhất khái niệm người dân tộc thiểu số với người bản địa. Thay vào đó,
Chính phủ dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” để chỉ chung cho những người không
thuộc dân tộc Kinh, thể hiện chủ trương “thống nhất trong đa dạng” của Chính phủ.
Giữa các dân tộc thiểu số cũng có rất nhiều khác biệt. Trong số đó, người Hoa
(dân tộc Hán) có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, và họ
cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, người Hoa thường
không được ghi nhận là một “dân tộc thiểu số” ở Việt Nam. Các dân tộc khác, ví dụ
như dân tộc H’Mông và dân tộc Nùng chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và duy trì đời
sống văn hóa gắn liền với những khu rừng. Các dân tộc thiểu số cũng được phân chia
theo hệ ngôn ngữ. Ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam được chia làm 8 nhóm: Việt –
Mường, Tày – Thái, Môn – Khmer, Mông – Dao, Ka đai, Nam đào, Hán và Tạng 96%
các dân tộc thiểu số nói tiếng mẹ đẻ của họ. (Vietnam, 2020)1
Đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu
vùng xa, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh
và nhập cư. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực thành thị thường sung túc hơn
các dân tộc thiểu số sống ở khu vực nông thôn. Nhiều làng, xã có tới 3-4 dân tộc thiểu
số khác nhau cùng sinh sống. Vị trí địa lý đóng một vai trò quan trọng trong các tập
tục văn hóa của các dân tộc thiểu số, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong
việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục.

2.2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng
bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay
1
Dân tộc thiểu số ở Việt Nam (30/06/2020), OpenDevelopmentVietnam (ODV). Truy cập từ:
https://vietnam.opendevelopmentmekong.net/vi/topics/ethnic-minorities-and-indigenous-people/?
fbclid=IwAR2p4bv875sVaSBh3Ria6MwmqvGNozcqb6yI6dBcPBDuhcD1Jm_BZKdYjPM
2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các dân
tộc thiểu số ở nước ta trong thời gian qua

2.2.1.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân

Dân tộc là vấn đề vừa có tính lịch sử vừa có tính thời sự đối với đất nước ta hiện
nay. Đối với một quốc gia đa dân tộc, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
đang trong quá trình hội nhập và phát triển, vấn đề này càng được quan tâm hơn bao
giờ hết. Nhà nước ta luôn đặt mối quan tâm về vấn đề dân tộc lên hàng đầu, đặc biệt là
vùng tộc người thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi; vì chỉ khi làm tốt công tác
dân tộc, mới có thể giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các dân tộc từ đó mới tập hợp
được sức mạnh toàn dân và phát huy tối đa tinh thần của toàn dân tộc.

Từ những điều trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, chính
sách chặt chẽ từ khâu hoạch định đến việc thực thi đều phải xuất phát từ thực tiễn tình
hình dân tộc trong nước, phải trên cơ sở đặc thù, từ đặc điểm cơ bản của các vùng thiểu
số, đồng bào dân tộc ít người ở Việt Nam.

Hầu hết các kỳ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt các văn kiện Đảng
trong thời kỳ đổi mới đã đề cao, coi trọng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc. Trong
văn kiện Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định: “Sự phát triển về mọi mặt của từng dân
tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự
tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính
cộng đồng, tính thống nhất ấy không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc
đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc”.1

Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra nhiều chương trình mục
tiêu quốc gia nhằm bảo đảm chính sách dân tộc như: các chương trình trồng rừng 327,
PAM, các chương trình xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn; chương
trình 135, chương trình xóa mù chữ phổ cập tiểu học… Nhờ có những chính sách đúng
đắn nên sau 8 năm thực hiện Nghị quyết số 24 NQ/TW “về công tác dân tộc” trong hội

1
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (28/01/2021). Nâng cao đời sống vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nang-cao-doi-song-vung-dong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-
573761.html
nghị lần thứ 7 ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) các vùng dân tộc ở nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng: 

Một là, tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số giảm nhanh. Theo thống kê, tính
đến cuối năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 3,75%, bình quân trong 4 năm giảm
1,53%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước từ
1-1,5%/năm. Ước đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn khoảng 2,75%,
tỷ lệ hộ cận nghèo cả nước còn khoảng 4%. Trong những năm qua, Nhà nước ta tập
trung trợ giúp đồng bào nghèo khó, các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, giải quyết
kịp thời những bức xúc về tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm
bợ không chắc chắn. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, tư liệu sản xuất và
vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây
Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khmer ở Tây Nam Bộ. Xây dựng và thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới. Tất cả công việc này đều được xây
dựng trên nguyên tắc đoàn kết dân tộc.1

Hai là, hạ tầng kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
ngày càng hoàn thiện. Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ về phát triển kinh tế các vùng đặc biệt khó khăn, các Bộ, ngành và
địa phương đã triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách về phát triển các vùng
khó khăn theo những lĩnh vực thuộc sự quản lý của mình. Khu vực miền núi, vùng sâu,
vùng xa và hải đảo cũng đã từng bước thay đổi, nhất là hạ tầng kinh tế - xã hội đã
được đầu tư đáng kể. Sản xuất một số vùng đã có bước phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa. Giao thông, nước cho sinh hoạt và sản xuất, điện, thông tin liên lạc, trạm xá,
các thiết chế văn hóa, y tế, trường, lớp học đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn
vùng dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi. Đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, người nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và được
hưởng chính sách bảo hiểm y tế đúng quy định. Mạng lưới thông tin văn hóa, thể thao
nông thôn có sự phát triển nhanh, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào. Những điều trên được chứng minh bởi những con số cụ thể như sau: 98% xã

1
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (28/01/2021). Nâng cao đời sống vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nang-cao-doi-song-vung-dong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-
573761.html
có đường ô tô đến trung tâm, 98,5 xã có trạm y tế, 100% xã có điện, 94% xã có điện
lưới quốc gia, 90% xã được phủ sóng phát thanh - truyền hình, 100% xã có trường
mầm non, tiểu học và THCS.1

Ba là, từng bước nâng cao dân trí, nhận thức cũng như đổi mới hình thức
sản xuất. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và
miền núi có chuyển biến tốt, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người dân.
Công tác vận động nhân dân, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng được
chú trọng. Bình đẳng giới từng bước được tạo lập giúp người phụ nữ nâng cao nhận
thức, vươn lên phát huy vai trò của bản thân trong gia đình và xã hội. Đồng thời, đã
thực hiện tốt việc đào tạo nghề, hướng dẫn, hỗ trợ người dân áp dụng khoa học - công
nghệ vào sản xuất; nhiều mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật đã được duy trì và phát triển rộng rãi trong sản xuất như: Thâm canh lúa,
sắn, ngô, cao su; mô hình nhân giống và sản xuất các loại hoa, nuôi cá trên lòng hồ
thủy điện… đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn và bảo vệ môi
trường, tạo việc làm, tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, tạo chuyển biến
căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

2.2.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân 

Hiện nay, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn nhiều
khó khăn, nhất là ở các thôn đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
mà Đảng và nhà nước đã đạt được thì việc xây dựng chính sách dân tộc và giải quyết
vấn đề dân tộc, nhất là với đồng bằng dân tộc thiểu số vẫn còn có một số hạn chế:

Một là, kết cấu hạ tầng tuy được chú trọng đầu tư nhưng còn thiếu và chưa
đạt hiệu quả cao do những hạn chế về mặt thi hành các chính sách; nhu cầu về nhà
ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, việc sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, nhất là khu
vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Ngoài ra, việc ban hành nhiều chính
sách còn mang tính chất hỗ trợ và việc bố trí nguồn lực, ngân sách để bảo đảm tổ chức
thực hiện chính sách còn thấp hơn rất nhiều so với thực tế, thời gian thực hiện ngắn,
chưa đáp ứng được các yêu cầu cơ bản, và chưa thực sự bền vững. Do chúng ta không
1
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (28/01/2021). Nâng cao đời sống vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nang-cao-doi-song-vung-dong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-
573761.html
tính toán kỹ chi tiết về nguồn lực có thể vận động nên các chính sách đặt ra mục tiêu
rất cao nhưng không có nguồn lực bảo đảm. Ví dụ, điển hình như các chính sách hỗ trợ
về đất ở và đất sản xuất đã không tính toán đầy đủ giữa nhu cầu cần hỗ trợ và tình hình
quỹ đất có trên thực tế, dẫn đến không thể giải quyết được nhu cầu về đất cho số hộ
như mục tiêu của chính sách đã đề ra. Có những chính sách còn không bố trí được
nguồn vốn, như: chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội, chính sách bảo vệ
rừng… 

Ngoài ra, việc xây dựng một số chính sách thiếu thực tế, chưa phù hợp với địa
bàn vùng dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém, phân
công chủ trì chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa hợp lý; việc phối hợp giữa các bộ, ngành
có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ đạo có mặt còn chồng chéo. Việc lồng ghép các chính
sách trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi còn nhiều khó khăn, bất cập. Công tác kiểm
tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách còn nhiều sai sót, hạn chế. Chỉ đạo,
thực hiện chính sách ở một số địa phương còn lúng túng. Công tác lập kế hoạch, rà soát
đối tượng thụ hưởng trong việc thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế,...

Hai là, kinh tế tập trung vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, tuy
nhiên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật và những chính sách hỗ trợ vào sản xuất
nông nghiệp vẫn còn hạn chế; người dân chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh là
vùng có rừng và đất rừng để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống; việc làm, lao động
còn mang tính thời vụ, thu nhập thực tế thấp; Ngoài ra chúng ta có chính sách hỗ trợ
đất sản xuất nhưng lại không quy định chất lượng đất cấp cho đồng bào dân tộc thiểu
số, nên có nơi người ta lấy rừng nghèo, đất trống đồi trọc để cấp cho đồng bào dân tộc
thiểu số, đất đó không có nước tưới, ở cách xa kết cấu hạ tầng giao thông nên có đồng
bào không nhận đất hoặc nhận đất nhưng không sản xuất. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động chuyển dịch chậm. Mức đô ̣ thương phẩm hóa của nông sản còn thấp; sản phẩm
sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp.

Ba là, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, tỷ lệ hộ tái nghèo còn cao;
việc triển khai thực hiện một số chương trình, chính sách dân tộc giai đoạn 2016-2020
còn có những khó khăn, bất cập; chuyển biến về nhận thức, tư tưởng của một bộ phận
đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm. Mặc dù tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm nhanh
trong những năm qua, nhưng bên cạnh đó, vẫn còn bộ phận khá lớn hộ nghèo, đặc biệt
ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Các giải pháp giảm nghèo những năm qua
đã thu được kết quả quan trọng, tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chủ yếu dựa trên cơ sở
những thành tích trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hiệu quả thực tế của các
chương trình giảm nghèo vẫn chưa được như mong muốn. Công tác dân tộc đang có
những thách thức chủ yếu là: Khoảng cách giàu - nghèo, chênh lệch phát triển giữa các
vùng, miền, giữa các nhóm dân tộc ngày càng lớn; tỷ lệ nghèo ở các vùng dân tộc và
miền núi cao hơn 2,5 lần so với tỷ lê ̣ bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, là những
khó khăn, thiếu thốn ở các “vùng lõi” của đói nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân
tộc và miền núi từ các tỉnh phía Bắc đến các tỉnh phía Nam.

Bốn là, chất lượng giáo dục - y tế vẫn còn nhiều hạn chế. 21% số người trong
độ tuổi đi học không biết đọc, viết chữ phổ thông; số người trong độ tuổi lao động
chưa qua đào tạo chiếm 89,5%, riêng số người trong đô ̣ tuổi lao đô ̣ng là người dân tộc
thiểu số chưa qua đào tạo chiếm 94,2% (tỷ lê ̣ này ở đồng bào dân tộc Mông là 98,7%;
Khmer: 97,7%; Thái: 94,6%; Mường: 93,3%); chất lượng đào tạo nghề thấp. Đội ngũ
cán bộ y tế vùng dân tộc và miền núi còn thiếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn
thấp, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, trang thiết bị y tế thiếu và lạc
hậu, phần lớn người nghèo vùng dân tộc và miền núi không có điều kiện tiếp cận với
các dịch vụ y tế chất lượng tốt.1

2.2.2. Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào
các dân tộc thiểu số ở nước ta thời gian tới

Một là, tiếp tục phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc, nhất là đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Từ xưa đến nay, có thể thấy Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có ý nghĩa chiến lược rất
quan trọng, quyết định thành công của cách mạng Việt Nam. Vì vậy cần tăng cường
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho Nhân dân các dân
tộc thiểu số về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại, qua đó góp phần làm thay đổi nếp nghĩ, cách
1
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (28/01/2021). Nâng cao đời sống vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nang-cao-doi-song-vung-dong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-
573761.html
làm của đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát
nghèo bền vững. Trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc phải kiên trì, kiên quyết
thực hiện các nguyên tắc lớn là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp
đỡ nhau cùng phát triển; chăm lo phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cả hệ
thống chính trị” .

Hai là, tập trung triển khai đồng bộ và huy động tối đa các nguồn lực đầu tư
để lồng ghép thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Theo Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Lê Văn
Thanh, để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo đòi hỏi phải có nguồn
lực lớn để tập trung giải quyết. Nhà nước cần nhanh chóng huy động và phân bổ
nguồn ngân sách để kịp thời triển khai các chính sách dân tộc đã đề ra. Đồng thời, tiếp
tục tập trung thực có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục
tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021-2030… Giải quyết tốt vấn đề về đất đai và môi trường, đảm bảo 100% hộ
đồng bào dân tộc thiểu số có đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường;
có giải pháp thu hút đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi liên kết, tiêu thụ sản phẩm; khuyến
khích, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới
vào sản xuất…

Ba là, đẩy mạnh giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và đồng bào miền núi.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, chuyển đổi số phát
triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra nhiều cơ hội nâng cao năng suất,
tiêu thụ sản phẩm, tạo ra thu nhập cao hơn để thoát nghèo nhưng cũng có nhiều thách
thức đối với người nghèo trong tiếp cận các cơ hội học tập, đào tạo kỹ năng nghề, tìm
kiếm việc làm, cạnh tranh trên thị trường lao động. Tiếp tục huy động nguồn lực đầu
tư hoàn thiện cơ sở vật chất về giáo dục; hoàn thiện cơ cấu hệ thống và mạng lưới cơ
sở giáo dục, đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy học; từng bước nâng cao chất lượng
giáo dục, thực hiện linh hoạt các chương trình giáo dục phù hợp với điều kiện học tập
của người học; gắn giáo dục với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa
của địa phương; phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục đảm bảo đủ về số lượng, chuẩn về nghề nghiệp, hợp lý về cơ cấu; thực hiện đầy đủ
chính sách cho người dạy và người học; tăng cường đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất
cho giáo dục dân tộc; thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn
lực xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục; chính sách về dạy nghề cho lao động nông
thôn, nhất lao động là người dân tộc thiểu số. Quan tâm đào tạo và cung ứng lao động
dân tộc thiểu số làm việc trong các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, tại
các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động.

Bốn là, tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức
khỏe Nhân dân tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Củng cố mạng lưới y tế, xây
dựng, nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở khám chữa bệnh, trang thiết bị y tế. Tăng
cường công tác tuyên truyền nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, như tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; tục lệ
phạt vạ, giết trâu, mổ bò nhân các dịp lễ, tết gây tốn kém…; tuyên truyền phòng chống
HIV/AIDS. Thực hiện chương trình dân số, chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc
thiểu số sinh con đúng chính sách, chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản
(kiêm thêm nhiệm vụ cô đỡ thôn, bản) đã được triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần
phát huy vai trò cầu nối giữa y tế xã với người dân. Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự
phòng trong nhân dân.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”. Hoàn thiện cơ bản các thiết chế văn hóa cơ sở, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; trong đó, tập trung bảo tồn các
nghề truyền thống, nhà rông, văn hóa cồng chiêng,.... Xây dựng các hình thức hoạt
động thể dục thể thao quần chúng ở cấp cơ sở phù hợp với từng dân tộc, đối tượng và
điều kiện cụ thể. Quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hệ thống viễn thông,
phát thanh, truyền hình đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân, đặc biệt là
người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.

Sáu là, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn xã hội. Xây dựng khối đại đoàn kết trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phát
động sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong vùng dân tộc và miền
núi. Chủ động ngăn chặn các hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo để lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số, phá hoại khối đại
đoàn kết các dân tộc. Thực hiện có hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm, ngăn
chặn các tệ nạn xã hội và hoạt động tôn giáo trái pháp luật, phát hiện, đấu tranh, ngăn
chặn, không để các đạo lạ, tà đạo xâm nhập vào địa bàn.

  
PHẦN KẾT LUẬN

Vấn đề dân tộc là mối quan tâm và một trong những vấn đề quan trọng xuyên
suốt lịch sử mấy nghìn năm dựng nước của nước ta nói riêng và mọi quốc gia trên thế
giới nói chung.

Thứ nhất, bài nghiêng cứu chỉ ra các khái niệm dân tộc cơ bản: dân tộc của một
quốc gia (nghĩa rộng) và dân tộc-tộc người (nghĩa hẹp) cùng với 4 đặc trưng cơ bản
(chung phương thức sinah hoạt kinh tế, lãnh thổ, ngôn ngữ riêng biệt và nền văn hóa).
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, có 2 xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc: xu
hướng thứ đến từ sự thức tỉnh biểu hiện thành phòng trào đấu tranh chống áp bức dân
tộc; xu hướng thứ hai đến từ việc các dân tộc ở một quốc gia hay nhiều quốc gia muốn
liên hiệp lại với nhau. Hai xu hướng khách quang này đang phát huy tác dụng trong
thời đại ngày nay với những biểu hiện đa dạng và phong phú xét trên phạm vi các quốc
gia Xã Hội Chủ Nghĩa có nhiều dân tộc và phạm vi trên toàn thế giới. Bên cạnh đó,
chủ nghĩa Mác-Leenin đề ra cương lĩnh dân tộc dựa trên 3 cơ sở (tư tưởng về vấn đề
dân tộc, sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh và phân tích 2 xu hướng khách quan) cho
ra 3 cương lĩnh, đó là: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự
quyết và liên hiệp công nhân các dân tộc lại.

Thứ hai, bài nghiên cứu tập trung vào các thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống của các dân tộc thiểu số nước ta hiện nay. Từ với những
khái quát về đặc điểm dân tộc ở nước ta và các tài liệu , chúng ta có thể dễ dàng nhận
ra những mặt đạt được và hạn chế để đề ra các chính sách phù hợp để khắc phục. Có 3
mặt đạt được trong thời gian qua, đó là tỷ lệ hộ nghèo, hạ tầng kinh tế- xã hội và dân
trí được cải thiện. Và có những hạn chế về tỉ lệ tái nghèo, áp dụng khoa học kĩ thuật
vào sản xuất, cơ sở hạ tầng và giáo dục- y tế. Qua những đặc điểm nêu trên, nhóm
chúng em đề ra 6 giải pháp để khắc phục: phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc, tập
trung triển khai và huy động tối đa nguồn lực, đẩy mạnh giáo dục, nâng cao chất lượng
y tế, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và ổn định
chính trị - quốc phòng an ninh- trật tự an toàn xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB:
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (28/01/2021). Nâng cao đời sống vùng đông
đồng bào dân tộc thiểu số. Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/xay-dung-
dang/nang-cao-doi-song-vung-dong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-573761.html

3. Vũ Dương Châu (01/02/2019). Một số vấn đề trong chính sách dân tộc ở Việt Nam.
Truy cập từ: http://tapchimattran.vn/dai-doan-ket/mot-so-van-de-trong-chinh-sach-
dan-toc-o-viet-nam-20974.html

4. Nguyễn Văn Chúc (29/08/2018). Thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: Lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn trên thế giới một thế kỷ qua. Truy cập từ:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-
mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-ly-luan-cua-
chu-nghia-mac-lenin-va-thuc-tien-tren-the-gioi-mot-the-3424
5. Lê Văn Lợi (27/03/2019). Giải quyết vấn đề dân tộcở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Truy cập từ: https://tcnn.vn/news/detail/42655/Giai-quyet-van-de-dan-toc-
o-Viet-Nam-trong-giai-doan-hien-nay.html
6. Văn Toán và Anh Tuấn (30/01/2021). Phỏng vấn các Đại biểu dự Đại hội XIII của
Đảng – Nâng cao đời sống đồng bào vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Truy cập từ:
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/-nang-cao-doi-song-dong-bao-vung-dan-toc-
thieu-so-mien-nui-633507/
7. Dân tộc thiểu số ở Việt Nam (30/06/2020), OpenDevelopmentVietnam (ODV).
Truy cập từ: https://vietnam.opendevelopmentmekong.net/vi/topics/ethnic-
minorities-and-indigenous-people/?
fbclid=IwAR2p4bv875sVaSBh3Ria6MwmqvGNozcqb6yI6dBcPBDuhcD1Jm_BZ
KdYjPM

You might also like