You are on page 1of 50

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ NỤ

ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA


TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ NỤ

ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA


TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC


Mã số : 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học:


PGS.TS.NGUYỄN THANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

NGUYỄN THỊ NỤ
MỤC LỤC

trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ................... 8
1.1. LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ ĐẶC TRƢNG CƠ
BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM ............................. 8
1.1.1. Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................. 8
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam ........................................................................................... 16
1.2. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH
HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ........................................................... 23
1.2.1. Lý luận về kinh tế thị trƣờng ................................................... 23
1.2.2. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và
những đặc trƣng cơ bản của nó ......................................................... 27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH HẢI DƢƠNG.............................. 50
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG ĐẶC
ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH HẢI
DƢƠNG HIỆN NAY ...................................................................................................... 50
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội tỉnh
Hải Dƣơng hiện nay .......................................................................... 50
2.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay ...................................................... 58
2.2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY ................................... 64

2.2.1. Thực trạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá
trình phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh
Hải Dƣơng hiện nay .......................................................................... 64
2.2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hải Dƣơng hiện
nay ..................................................................................................... 80
KẾT LUẬN ................................................................................................. 107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 110


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm
rất thấp: là một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến với nền nông nghiệp lạc
hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đời sống nhân dân vô cùng khó
khăn. Vì vậy, đổi mới để phát triển là một lựa chọn sáng suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của quần chúng
nhân dân và phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xã hội. Vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ điều
kiện thực tiễn của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ, đổi
mới trƣớc hết và trọng điểm là đổi mới tƣ duy kinh tế để đƣa đất nƣớc
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, để hƣớng đến nguyện vọng thiêng liêng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
đƣợc học hành. Vì vậy, từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (diễn ra
từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trƣơng: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, phát triển nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhƣ vậy, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trƣởng, ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững.
Cùng với sự phát triển chung của đất nƣớc, tỉnh Hải Dƣơng ngày
hôm nay cũng đang nỗ lực thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng theo
chủ trƣơng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Hải Dƣơng là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng và trong khu
kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh của miền Bắc Việt
2

Nam với diện tích tự nhiên gần 1.652 km2 và dân số trên 1,7 triệu ngƣời. Là
một tỉnh có vị trí chiến lƣợc quan trọng cho sự phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng, Hải Dƣơng đƣợc xác định là: vùng
động lực phát triển kinh tế, công nghiệp, dịch vụ tập trung trên trục kinh tế
giữa đô thị hạt nhân thành phố Hà Nội với thành phố Hải Phòng và thành
phố Hạ Long, trong đó, đô thị Hải Dƣơng đóng vai trò trung tâm cấp vùng,
phát triển công nghiệp nhẹ, kỹ thuật cao và hỗ trợ phát triển các loại công
nghiệp chế biến của vùng đồng bằng phía Nam, Đông Nam đồng bằng sông
Hồng. Trong những năm qua, Hải Dƣơng thực sự đã trở thành điểm sáng về
sự năng động trong phát triển kinh tế - xã hội. Hải Dƣơng đang nỗ lực
không ngừng để vƣơn lên hòa nhịp cùng với sự đổi thay từng ngày, từng giờ
của đất nƣớc.
Chính vì vậy, việc phân tích thực trạng, để trên cơ sở đó đƣa ra
những giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đƣa Hải Dƣơng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu là một vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện nay. Với lý do đó tôi chọn đề tài:
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hải Dương hiện
nay” để làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của Việt Nam là một tất yếu khách quan, là nhu cầu đòi hỏi của mỗi
ngƣời dân Việt Nam nên đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đề tài
này, có thể khái quát thành các hƣớng nghiên cứu sau:
Hƣớng nghiên cứu thứ nhất, các tác giả tập trung làm sáng tỏ lý luận
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể với các công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau đây:
3

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam – lý luận và thực tiễn, do
GS.TS.Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS.Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS.Đặng
Hữu Toàn chủ biên (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002). Cuốn sách tập
hợp những nghiên cứu khá sâu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mối quan
hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển con ngƣời và đào tạo
nguồn nhân lực, với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, với phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Những quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và đặc điểm, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, của
TS. Nguyễn Thanh, PGS.TS. Vũ Anh Tuấn, TS. Nguyễn Văn Hà,
(Nxb. Thống Kê, 2004). Ở đó, các tác giả đã trình bày những quan
điểm khác nhau về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các giai đoạn của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đồng thời trình
bày đặc điểm, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay.
Công nghiệp nông thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp, của
TS. Nguyễn Văn Phúc (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004). Trong
đó tác giả trình bày thực trạng phát triển công nghiệp nông thôn Việt
Nam và đƣa ra một số giải pháp phát triển công nghiệp nông thôn Việt
Nam trong thời gian tới.
Triết học với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của
PGS.TS.Nguyễn Thế Nghĩa (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997). Trong
đó tác giả phân tích giá trị thế giới quan và phƣơng pháp luận của triết học
trong việc nhận thức và hoạch định chiến lƣợc, chính sách và phƣơng pháp
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, tác giả còn phân tích
sâu sắc vai trò nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đánh
4

giá thực trạng nguồn lực và đề xuất những giải pháp đào tạo, bồi dƣỡng và
sử dụng nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Hƣớng nghiên cứu thứ hai, các tác giả tập trung làm sáng tỏ về vai trò
và tầm quan trọng của nguồn nhân lực; đồng thời phân tích thực trạng và
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể với các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau
đây:
Đề tài: Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân
lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tỉnh Hải Dương, của tác giả Lƣơng Đức Trụ. Đã đánh giá thực trạng và đƣa
ra giải pháp sử dụng nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dƣơng.
Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, của tác giả TS. Vũ Bá Thể
(Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội, 2005). Trong đó tác giả đã nêu lên một số
vấn đề về lý luận và kinh nghiệm một số nƣớc trong việc phát huy nguồn
lực con ngƣời để phát triển kinh tế, thực trạng nguồn lực ở nƣớc ta trong
những năm qua. Từ đó nên lên những giải pháp phát huy nguồn lực con
ngƣời phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Phát triển nguồn nhân lực – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước
ta, của PGS.TS. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996). Tác giả đã giới thiệu khái quát về nguồn lực ở một số nƣớc trên
thế giới dƣới tác động của giáo dục và đào tạo, qua đó nêu lên vai trò của
giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, của TS.Nguyễn Thanh (NxB. Chính trị Quốc gia, tái bản
năm 2007). Tác giả đã trình bày và phân tích các quan niệm về nguồn nhân
5

lực, phát triển nguồn nhân lực; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai trò
của giáo dục đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Nâng cao chất lượng nguồn lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, do PGS.TS. Mai Quốc Chánh chủ biên (Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1999). Tác giả đã phân tích vai trò của nguồn lực và
sự cần thiết nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đồng thời đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực ở nƣớc ta đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra còn rất nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, về kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
đƣợc đăng trên các tạp chí, các kỷ yếu Hội thảo khoa học của những nhà
khoa học, những nhà quản lý. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có công
trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề:
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hải Dương hiện
nay”. Song, tác giả vẫn xem những công trình nghiên cứu, những cuốn
sách, những bài báo khoa học đó là những tƣ liệu quý giá để tác giả tiếp thu,
kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích và làm rõ đặc điểm, thực chất công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam, luận văn đi sâu phân tích quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa ở tỉnh Hải Dƣơng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
6

Để thực hiện đƣợc mục đích đã nêu trên, luận văn phải hoàn thành
những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, phân tích thực trạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở tỉnh Hải Dƣơng trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa trong những năm tới ở tỉnh Hải Dƣơng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phƣơng
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhƣ: phƣơng pháp logic - lịch sử;
phƣơng pháp phân tích – tổng hợp; thống kê; so sánh và khái quát hóa…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận
7

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy về vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hải
Dƣơng nói riêng.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng,
chính quyền, các ngành của tỉnh Hải Dƣơng trong việc hoạch định các chủ
trƣơng, chính sách đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình
phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hải Dƣơng
hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đƣợc kết cấu gồm 2 chƣơng, 4 tiết và 8 tiểu tiết.
8

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.1. LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ ĐẶC TRƢNG
CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1.1.1. Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi thực hiện thành công cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc là nguyện vọng tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng nhƣ toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong quan niệm của Ngƣời,
chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội không còn ngƣời bóc lột ngƣời,
không còn áp bức; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi
ngƣời dân ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc và ai ai cũng đƣợc học hành.
Nhƣng để đạt đƣợc đến mục tiêu, lý tƣởng ấy thì chúng ta phải bắt tay vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết là đi từ việc xây dựng nền tảng vật
chất - kỹ thuật. Một xã hội chỉ thực sự là tốt đẹp nếu mọi ngƣời dân không
còn đói khổ, không còn bị áp bức bất công và tiến tới sự công bằng, bình
đẳng. Nhƣ vậy có nghĩa là, với một đất nƣớc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội với xuất phát điểm rất thấp, kinh tế tiểu nông lạc hậu, chiến tranh tàn
phá nặng nề…thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá
trình phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một đỏi
hỏi khách quan và tất yếu. Muốn dân giàu nƣớc mạnh không còn con đƣờng
nào khác là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá
trình phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa đƣợc thừa nhận là một quá trình tất yếu, mang tính
quy luật đối với tất cả các nƣớc từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên
9

nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới
kinh tế, chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nến kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực chất là
nhằm bắt kịp vào tiến trình phát triển hiện đại và thực hiện một bƣớc phát
triển mới về chất. Đổi mới kinh tế là một sự phát triển hợp quy luật.
Nhƣ chúng ta đã biết, phát triển kinh tế là một khái niệm đặc thù của
lĩnh vực kinh tế - xã hội, dùng để chỉ bƣớc chuyển cách mạng từ một nền
kinh tế còn thấp kém lên một nền kinh tế cao hơn, có năng suất lao động
cao hơn. Phát triển là sự chuyển biến về chất trong sự vận động không
ngừng của thế giới.
C.Mác cho rằng: “Đối với việc đánh giá những thời đại kinh tế đã
biến mất, những di vật của tƣ liệu lao động cũng có một tầm quan trọng
giống nhƣ là sự cấu tạo của những xƣơng hóa thạch đối với việc tìm hiểu tổ
chức của những loài động vật đã tiêu vong. Những thời đại kinh tế khác
nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào, với những công cụ lao động nào. Các công cụ lao động
không những là thƣớc đo sự phát triển của sức lao động của con ngƣời, mà
còn là chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động đƣợc tiến hành”
[49; tr.269]. Từ đó cho thấy, muốn tạo ra đƣợc sự phát triển về chất trong
lĩnh vực kinh tế, trƣớc hết và trên hết là phải thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Thực chất của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay ra sao? Đây là câu hỏi
mà Đảng, Nhà nƣớc và các nhà nghiên cứu rất quan tâm và đã đƣa ra rất
nhiều cách hiểu khác nhau về các khái niệm này.
10

Trong lý luận công nghiệp hóa Xô viết, công nghiệp hóa là quá
trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho phƣơng thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa, do đó là vấn đề tạo ra một năng suất nhờ đó chủ nghĩa xã hội
đánh bật chủ nghĩa tƣ bản, do đó công nghiệp hóa đƣợc xem là một quy
luật bắt buộc.
Ta biết rằng, công nghiệp hóa là một cuộc cách mạng trong cấu trúc
kinh tế và trong phƣơng thức sản xuất của nền kinh tế xã hội, do đó là một
cuộc cách mạng chủ yếu về kinh tế, trong nội dung vật chất của nền sản
xuất xã hội. Mặt khác, ở một ý nghĩa nhất định, thực chất của công nghiệp
hóa là một cuộc cách mạng trong sức sản xuất của lao động, hình thành nên
một sức sản xuất nhờ đó xã hội chuyển từ kinh tế nông nghiệp mang tính tất
yếu tự nhiên sang kinh tế công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trên thế giới không chỉ là một
cuộc cách mạng bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp mà là đối với
toàn bộ nền sản xuất xã hội. Máy móc xâm nhập vào tiểu thủ công nghiệp,
giao thông vận tải, nông nghiệp. Nhƣ vậy, nét đặc trƣng cơ bản xuyên suốt
quá trình công nghiệp hóa là quá trình cách mạng kỹ thuật chuyển nền sản
xuất từ kỹ thuật thủ công sang kỹ thuật máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật
thay kỹ thuật thủ công bằng kỹ thuật máy móc có một ý nghĩa đặc biệt là
thay đổi tính chất trong phƣơng thức sản xuất, đem lại cho phƣơng thức sản
xuất công nghiệp tính chất mới.
Cách mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng máy móc, kỹ
thuật đại công nghiệp trở thành một nội dung cơ bản và quyết định của công
nghiệp hóa.
Thứ nhất, hình thành nên nhu cầu và cơ sở cho việc áp dụng khoa học
vào quá trình sản xuất và qua đó biến khoa học thành lực lƣợng sản xuất
trực tiếp.
11

Thứ hai, đem lại cho phƣơng thức sản xuất công nghiệp tính chất
cách mạng.
Còn hiện đại hóa là gì? Theo PGS.TS. Nguyễn Thanh: “hiện đại hóa
là làm cho một cái gì đó mang tính chất của thời đại ngày nay. Hiện đại hóa
nền kinh tế quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng nhƣ
cơ cấu kinh tế đạt đƣợc trình độ tiên tiến của thời đại, đây chính là khía
cạnh kinh tế - kỹ thuật của hiện đại hóa. Ngoài ra, hiện đại hóa còn bao hàm
cả phƣơng diện kinh tế - xã hội. Nghĩa là hiện đại hóa là khái niệm có nội
dung rộng lớn, là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành xã hội hiện
đại, có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở nền kinh tế phát
triển với nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung tính theo đầu ngƣời, mà còn ở
đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, tạo ra những điều kiện hiện
thực để đƣa xã hội lên trình độ hiện đại và góp phần thực hiện triệt để
những giá trị nhân loại chung vào cuộc sống" [72; tr.116-117].
Nhƣ vậy, hiện đại hóa có nội dung rộng lớn, là quá trình cải biến một
xã hội truyền thống thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn,
thể hiện không chỉ ở nền kinh tế phát triển, mà còn cả trong lĩnh vực chính
trị, văn hóa, tinh thần của xã hội. Nó tạo ra những điều kiện thực tế để đƣa
xã hội lên trình độ hiện đại và góp phần thực hiện những giá trị phát triển
cao của nhân loại vào cuộc sống.
Thực tế cho thấy, hiện đại hóa ở các nƣớc đang phát triển thực chất là
thay đổi cơ cấu công nghiệp dựa trên các ngành công nghệ cao, trong đó
những công nghệ cũ tiêu hao nhiều tài nguyên và lao động dựa trên nền
tảng điện – cơ khí bị thay thế bởi những ngành công nghệ cao cấp dựa trên
nền tảng cơ – điện tử, giảm suất tiêu hao các nguồn lực tính trên một đơn vị
sản phẩm.
12

Có thể nói rằng, phổ biến rộng rãi công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, cách
quản lý kinh doanh hiện đại vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đó
chính là nội dung của hiện đại hóa ngày hôm nay.
Nhƣ vậy, công nghiệp hóa là sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng
công nghiệp cuối thế kỷ XVIII, hiện đại hóa là sản phẩm tất yếu của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật giữa thế kỷ XX. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nấc thang đánh dấu trình độ phát triển của nhân loại, là một quá trình
mang tính quy luật đối với tất cả các nƣớc từ nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu tiến lên nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Trong lịch sử, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nguyên là hai quá trình
tiếp nối, đan xen nhau, tác động qua lại. Nhƣng trong giai đoạn hiện nay,
chúng ta có thể hiểu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhƣ một quá trình thống
nhất. Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
Đối với Việt Nam hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ
là quá trình mang tính tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức thiết.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, khi nhận thức đƣợc vai trò của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tiến trình phát triển của đất nƣớc, Đại hội III
của Đảng đã nêu rõ: “Muốn cải tiến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay
của nƣớc ta, đƣa nƣớc ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn
chủ nghĩa xã hội, chúng ta không còn con đƣờng nào khác ngoài con đƣờng
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” [23; tr.545]. Vì vậy công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nƣớc ta. Chủ
trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó là Đảng Lao động Việt Nam)
về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc là: “Xây dựng một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp với nông nghiệp và lấy
công nghiệp nặng làm nền tảng, ƣu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
13

nhằm biến nƣớc ta từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu thành một nƣớc có
công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại” [23; tr.546]. Nhƣ vậy có thể
nói, ngay từ Đại hội III Đảng ta đã có chủ trƣơng công nghiệp hóa toàn diện,
không chỉ hƣớng đến sự phát triển công nghiệp mà còn hƣớng tới sự phát
triển nền nông nghiệp hiện đại.
Quan điểm này tiếp tục đƣợc nêu lên ở các Đại hội sau. Tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1976) đã
chỉ rõ: “Điều có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, tạo ra một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp hiện đại…ƣu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ” [24; tr.514].
Từ sau Đại hội VI (1986), cùng với quá trình thực hiện đƣờng lối đổi
mới, nhận thức mới, cách làm mới đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Lần đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, về thực chất,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao”[19, tr.42].
Có thể nói, định nghĩa này đã phản ánh đƣợc phạm vi rộng lớn của
quá trình công nghiệp hóa, chỉ ra đƣợc cái cốt lõi của nó là quá trình cải
biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân để đạt đƣợc năng suất lao động xã hội cao. Là quá
trình con ngƣời tạo ra và sử dụng những thành tựu khoa học – công nghệ
hiện đại, cùng với những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để
14

mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển về chất, xác định rõ
vai trò của công nghiệp và khoa học – công nghệ trong quá trình tiến hành
công nghiệp hóa. Nói cách khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
cải biến cách mạng từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sau 10 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới toàn diện, đất nƣớc ta đã
vƣợt qua đƣợc giai đoạn thử thách và thu đƣợc những thành tựu có ý nghĩa
to lớn và vô cùng quan trọng. Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan,
khoa học những thành tựu to lớn đã đạt đƣợc trong những năm đổi mới, Đại
hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (6/1996)
là Đại hội mở đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã khẳng
định, đất nƣớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bƣớc vào giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng nƣớc ta thành một nƣớc công nghiệp có cơ sở
vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh kế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nƣớc mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” [21, tr.80].
Một lần nữa đƣờng lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại
đƣợc Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo cơ chế thị trƣờng và mở rộng hợp tác
liên doanh với nƣớc ngoài càng đòi hỏi phải áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đổi mới công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế. Sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới
cũng đòi hỏi phải phát triển các ngành công nghệ cao, đó là những công
nghệ dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại nhƣ công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học…
15

Thế kỷ XXI là thế kỷ của giao lƣu, hội nhập, cạnh tranh và liên kết
kinh tế quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát
triển nhƣ “vũ bão” đã cuốn hút các nƣớc vào cuộc chạy đua về tri thức, trí
tuệ và trình độ hội nhập cũng nhƣ là phát triển của mình. Chính cuộc chạy
đua về trí tuệ và trình độ hội nhập này đã làm thay đổi cách nghĩ, cách làm,
cách đào tạo, phƣơng pháp quản lý…Ý thức rõ điều đó, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa khẳng định:
“công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ…Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với hội nhập
kinh tế quốc tế” [22; tr.91-92].
Nhƣ vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày hôm nay phải đi liền
với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập tự chủ
không có nghĩa là tự cấp, tự túc mà là một nền kinh tế độc lập tự chủ trong
hội nhập quốc tế, có mở rộng, giao lƣu hợp tác với nƣớc ngoài, vừa giữ
vững đƣợc tính định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đòi hỏi phải tạo ra những điều
kiện vật chất và tinh thần để phát triển trí tuệ, văn hóa, nghệ thuật, kích
thích tự do sáng tạo của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cả cộng đồng, sử dụng
hiệu quả những thành tựu của văn hóa vào xây dựng đất nƣớc. Mục đích
cuối cùng của sự phát triển kinh tế là chăm lo phát triển toàn diện con ngƣời,
vì vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn là tạo ra những điều kiện vật chất
để phát triển văn hóa, nghệ thuật và sự hoàn thiện của cá nhân con ngƣời
với tƣ cách là chủ thể của xã hội.
Nhƣ vậy, nhìn về chiều sâu của sự phát triển xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa còn là quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó phát
triển con ngƣời và nguồn lực con ngƣời, gia tăng giá trị và vai trò của nhân
tố con ngƣời là nội dung cốt lõi, bao trùm.
16

Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm của PGS.TS. Nguyễn
Thanh: “Nói một cách ngắn gọn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
cải biến xã hội Việt Nam “truyền thống” thành xã hội hiện đại, phát triển
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa” [72; tr.136].
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam
Công nghiệp hóa ở nƣớc ta có nội dung rất toàn diện, phong phú, và
là một quá trình rộng lớn và phức tạp, nó đƣợc triển khai đồng thời với quá
trình hiện đại hóa. Hơn nữa, nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ tiếp tục phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và đời
sống xã hội. Những điều kiện thuận lợi này cho phép chúng ta áp dụng khoa
học, kỹ thuật hiện đại, tranh thủ những công nghệ tiên tiến của thế giới, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Công nghệ truyền
thống kết hợp với công nghệ hiện đại, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa là con đƣờng quyết định đƣa nƣớc ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu,
nghèo nàn, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhƣ vậy, sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay có thể
khái quát ở những đặc trƣng chính sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hóa đƣợc triển khai đồng thời với hiện đại hóa
và luôn luôn gắn bó với hiện đại hóa để tạo nên một quá trình thống nhất
thúc đẩy đất nƣớc phát triển.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang làm thay
đổi về chất công nghệ sản xuất, kỹ thuật sản xuất, nghệ thuật quản lý. Trên
thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn
hóa ngày càng sâu rộng. Mở cửa, hội nhập và phát triển là một yêu cầu sống
17

còn của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong điều
kiện này chúng ta không thể chờ thực hiện xong công nghiệp hóa, sau đó
mới triển khai hiện đại hóa, mà nhất thiết phải triển khai đồng thời hai quá
trình này. Thực chất của quá trình hiện đại hóa nền kinh tế là không ngừng
nâng cao trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất theo tiến trình phát triển
của khoa học và công nghệ trên thế giới. Mặt khác, trong điều kiện thiếu
vốn, dƣ thừa lao động, mặt hàng có chất lƣợng còn thấp nhƣ ở nƣớc ta hiện
nay chúng ta không thể đi ngay vào trình độ cao nhất của kỹ thuật và công
nghệ trên quy mô toàn xã hội. Nhƣng đối với những ngành mũi nhọn,
những lĩnh vực cần ƣu tiên phát triển, những công đoạn quan trọng mà điều
kiện cho phép, thì cần áp dụng ngay trình độ hiện đại, thực hiện “đi tắt, đón
đầu” để tạo ra bƣớc nhảy vọt trong tiến trình phát triển lực lƣợng sản xuất.
Trong quá trình lựa chọn công nghệ để hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta
phải xem xét toàn diện các yêu cầu, tính hiện đại của công nghệ, hiệu quả
kinh tế - xã hội và yếu tố an toàn sinh thái, phát triển bền vững và bảo vệ
môi trƣờng. Chỉ có cách làm nhƣ vậy mới có thể đẩy lùi đƣợc nguy cơ tụt
hậu và nhanh chóng đƣa đất nƣớc ta tiến kịp các nƣớc trong khu vực, dần
hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là quá trình kinh tế - kỹ
thuật, vừa là quá trình kinh tế xã hội, văn hóa, nó tác động một cách tổng hợp,
đa diện, đa cấp đến mọi ngƣời, mọi gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hay có thể nói, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân,
của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo.
Là một sự nghiệp của toàn dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội, đòi hỏi phải đầu tƣ rất nhiều trí tuệ, sức ngƣời, sức của. Chỉ có huy
động sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân, dƣới sự lãnh đạo
18

đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu lực và hiệu quả của Nhà
nƣớc Việt Nam thì mới đảm bảo thắng lợi.
Xuất phát từ lợi ích của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nƣớc ta. Tuy nhiên, trƣớc đây trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa chúng ta chƣa có cơ chế, chính sách phù hợp để nhân dân
phát huy tốt vai trò của mình với tƣ cách là ngƣời chủ thực sự của sự nghiệp
công nghiệp hóa.
Nhƣ chúng ta đã biết, tin vào nơi dân và biết dựa vào sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân là một nét đẹp truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc
Việt Nam. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, đất nƣớc lâm nguy thì sức mạnh
của của nhân dân đã làm nên kỳ tích. Nhƣ vậy, trong điều kiện đất nƣớc còn
nghèo nàn, lạc hậu, đối diện với những thách thức của toàn cầu hóa, vấn đề
sống còn là hội nhập để phát triển, tranh thủ những tiến bộ khoa học công
nghệ mới trên thế giới vào sự pháp triển của kinh tế - xã hội của đất nƣớc;
thì một lần nữa chúng ta phải biết khơi nguồn sức mạnh từ chính trong nhân
dân, biết dựa vào sức mạnh của dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian sớm nhất. Và những
chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa xuất phát từ lợi ích của dân và phục vụ nhân
dân chắc chắn sẽ nhận đƣợc sự đồng tình ủng hộ của nhân dân để thực hiện
hiện thắng lợi.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân thể hiện ở
chỗ. Trƣớc hết, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng của nhân dân bằng việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sau là, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa do chính nhân dân thực hiện bằng sức lao động, tài năng, năng lực
19

sáng tạo, tài sản của dân. Nhân dân dốc hết sức lực và trí tuệ của mình vào
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc làm cho ngƣời ngƣời, nhà
nhà đều trở nên giàu có. Hơn nữa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ là sự
nghiệp của toàn dân khi Đảng và Nhà nƣớc thực hiện tốt cơ chế chính sách
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để cho nhân dân tham
gia góp ý vào đƣờng lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Có thể nói tin vào dân, dựa vào dân và phát huy sức mạnh nội lực từ chính
nhân dân là nhân tố hàng đầu đảm bảo sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với quá trình xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế về các mặt kinh tế - xã hội, khoa học – công nghệ, văn hóa…
Bài học lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
cách mạng và công cuộc đổi mới là luôn luôn kết hợp sức mạnh trong nƣớc
với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tranh thủ
thời cơ, vƣợt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng
bộ, phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu khách quan và bức thiết của
cách mạng nƣớc ta. Hiện nay hòa bình, hợp tác để phát triển là xu thế lớn.
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội để phát triển nhƣng cũng gây khó khăn,
thách thức cho các nƣớc nghèo đang phát triển. Các mâu thuẫn lớn của thời
đại vẫn đang diễn ra gay gắt. Mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế là một sự đổi
mới mang tính bƣớc ngoặt trong tƣ duy và quan điểm phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nƣớc ta. Đó là sự thay đổi quan điểm về độc lập, tự chủ trong
kinh tế; tự chủ không có nghĩa là “tự túc, khép kín”, mà là chỉ có nền kinh
tế phát triển vững mạnh mới có khả năng độc lập, tự chủ, đồng thời đó cũng
là tiền đề đảm bảo vững chắc cho sự độc lập tự chủ ấy. Đẩy mạnh sự giao lƣu,
hợp tác và phát triển giữa các địa phƣơng, vùng miền, các thành phần kinh tế
20

trong nƣớc và kết hợp sự giao lƣu kinh tế quốc tế. Đây chính là điều kiện để
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự phát triển của Việt
Nam. Quan điểm này đƣợc thể hiện rất rõ trong Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi
với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phƣơng hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Dựa vào nguồn lực trong nƣớc là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực
bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới”[21;
tr.84]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải nhất thiết gắn liền với việc xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” [22; tr.91-92].
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ từ trong chủ trƣơng, chính sách
của đảng, sự quản lý của nhà nƣớc và thực hiện của toàn dân. Xây dựng nền
kinh tế trên cơ sở phát triển các quan hệ hợp tác đa phƣơng, đa hình thức,
hƣớng mạnh vào xuất khẩu thay thế cho nhập khẩu những sản phẩm trong
nƣớc có thế mạnh, thúc đẩy sản xuất trong nƣớc có hiệu quả. Trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tranh thủ thu hút nguồn vốn từ nƣớc
ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho việc đổi
mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lƣợng sản phẩm, tạo điều kiện
đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ tư, khoa học và công nghệ đƣợc xác định là nền tảng và động lực
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về thực chất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến lao
động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến,
hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội. Nói đến công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là nói đến việc áp dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
21

Vậy làm thế nào để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và
động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải gắn hoạt động nghiên
cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn, tăng cƣờng đầu tƣ cho hoạt động
khoa học và công nghệ đúng với nghĩa “khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu”. Vấn đề đặt ra là chính sách khoa học và công nghệ không chỉ
giới hạn ở việc xử lý các vấn đề công nghệ và kỹ thuật trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn phải khai thác có hiệu quả các tiến bộ khoa
học và công nghệ, quan tâm xây dựng và phát huy tốt lực lƣợng nghiên cứu
và ứng dụng khoa học công nghệ.
Thực tế chỉ ra rằng, hiện nay ở Việt Nam chúng ta đã có sự đầu tƣ tốt
cho sự phát triển khoa học và công nghệ, nhƣng chỉ mới dừng lại ở việc tiếp
thu và sử dụng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trên thế giới
áp dụng vào đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam mà chƣa thực sự có
những phát minh khoa học đặc biệt của riêng mình và có giá trị thực tiễn
cao. Việc đầu tƣ và quan tâm hơn nữa cho vấn đề phát triển khoa học - công
nghệ ở Việt Nam chúng ta là rất quan trọng, góp phần thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Thứ năm, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề quan trọng đặc biệt, là bƣớc
phát triển tất yếu đối với nƣớc ta, nhất là trong điều kiện hiện nay khi điều
kiện kinh tế còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ
bé, kết cấu kinh tế - xã hội yếu kém. Kinh tế tuy có bƣớc phát triển khá
trong những năm gần đây nhƣng năng suất, chất lƣợng và hiệu quả còn thấp,
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn quá thấp so với các nƣớc trong khu
vực và trên thế giới. Cho nên, chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới là
con đƣờng cơ bản khắc phục đƣợc những yếu kém của nền kinh tế nƣớc ta,
22

đƣa nƣớc ta thoát ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đảm bảo định hƣớng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình lâu dài và phức tạp.
Quá trình đó trƣớc hết phải tuân theo quy luật và tính quy luật của quan hệ
cung – cầu trên thị trƣờng, giá cả thị trƣờng và cạnh tranh trên thị trƣờng.
Điều đó có nghĩa là cơ chế thị trƣờng và cạnh tranh trên thị trƣờng sẽ quyết
định quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quyết định các phƣơng án
phát triển, quyết định lựa chọn phƣơng án đầu tƣ, quyết định việc lựa chọn
các phƣơng tiện, công nghệ, phƣơng pháp công nghiệp hiện đại có hiệu quả.
Phải xuất phát từ nhu cầu hàng hóa trên thị trƣờng, dịch vụ trên thị trƣờng
mà quyết định các yếu tố đầu vào nhƣ phƣơng tiện, công nghệ, phƣơng
pháp sản xuất và quản lý tiên tiến, hiện đại cho phù hợp.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đƣợc thực hiện theo cơ chế thị trƣờng
trƣớc hết là phải tuân thủ các quy luật của nền kinh tế thị trƣờng, nhƣ giá trị,
cung cầu, cạnh tranh. Thị trƣờng là nơi phản ánh nhu cầu xã hội, có tiếng
nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất và kinh doanh.
Cơ chế thị trƣờng tạo ra cơ hội và điều kiện thuận lợi cho con ngƣời tham
gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa là một đặc điểm quan trọng và riêng có của Việt
Nam. Chúng ta thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng. Việc đổi mới để phát triển, thừa
nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau tƣơng ứng với nó là các thành phần
kinh tế cùng phát triển ở Việt Nam để thúc đẩy nền kinh tế đất nƣớc phát
triển là một sự đổi mới hợp quy luật. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
quá trình thay đổi sử dụng những công cụ, phƣơng tiện hiện đại cùng những
thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
23

hội trƣớc hết là trên lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế cùng phát triển.
Thứ sáu, công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nƣớc ta hiện nay, về thực
chất, là quá trình sử dụng những công cụ, phƣơng tiện hiện đại cùng những
thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm lịch sử để
đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nói một cách
ngắn gon, “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến xã hội Việt
Nam “truyền thống” thành xã hội hiện đại, phát triển theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa” [72; tr.136].
1.2. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.2.1. Lý luận về kinh tế thị trƣờng
Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống của nhân loại đã và đang
trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực
lƣợng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn
nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung – tự cấp, và thời đại
kinh tế hàng hóa, mà giai đoạn cao của nó đƣợc gọi là kinh tế thị trƣờng.
Sở dĩ kinh tế thị trƣờng là tiền đề bao trùm quyết định sự phát triển
và của cách mạng công nghiệp vì kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trƣờng và
công nghiệp có mối quan hệ biện chứng và chính tiến trình kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trƣờng đã dẫn tới cách mạng công nghiệp. Thực tế lịch sử đã
chứng minh rằng, hầu hết các nƣớc phát triển trên thế giới đều phải trải qua
quá trình phát triển nền kinh tế thị trƣờng, đó là một tất yếu khách quan của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam muốn phát triển, thì tất yếu phải
thực hiện kinh tế thị trƣờng.
Rõ ràng kinh tế thị trƣờng là kinh tế dựa trên nền sản xuất hàng hóa,
trong đó sản phẩm mang hình thái hàng hóa, tức sản phẩm sản xuất ra nhằm
24

trao đổi, hay để bán và quan hệ hàng hóa – tiền tệ là quan hệ cơ bản, trên đó
kinh tế thị trƣờng đƣợc thiết lập và vận động.
Ở trình độ kinh tế hàng hóa giản đơn thì chỉ một phần sản phẩm
mang hình thái hàng hóa. Điều này hàm nghĩa, trong kinh tế hàng hóa giản
đơn, kinh tế còn chủ yếu là kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc và do vậy kinh tế
hàng hóa giản đơn chỉ là kinh tế phụ, lệ thuộc vào kinh tế tự nhiên. Kinh tế
tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại. Kinh tế tự
nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con ngƣời và tự nhiên, mà tiêu biểu giữa
lao động và đất đai làm nền tảng.
Dùng khái niệm kinh tế thị trƣờng để chỉ kinh tế hàng hóa đạt tới
trình độ mà trong đó thị trƣờng là cái quyết định những vấn đề cơ bản của
nền kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa giản đơn ra đời khi
chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự
phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác
nhau về tƣ liệu sản xuất. Do đó, kinh tế thị trƣờng, kinh tế hàng hóa không
chỉ có trong chủ nghĩa tƣ bản, mà còn tồn tại trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội và cũng tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trƣờng là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn
chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trƣờng. Giai đoạn thứ
hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trƣờng tự do. Đặc trƣng cơ bản trong
giai đoạn này là Nhà nƣớc không can thiệp và kinh tế. Giai đoạn thứ ba là
giai đoạn kinh tế thị trƣờng hiện đại. Đặc trƣng của giai đoạn này là Nhà
nƣớc can thiệp vào kinh tế thị trƣờng và mở rộng giao lƣu kinh tế với nƣớc
ngoài. Sự can thiệp của nhà nƣớc vào nền kinh tế thị trƣờng thông qua việc
xây dựng các hình thức sở hữu Nhà nƣớc, các chƣơng trình khuyến khích
25

đầu tƣ và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế nhƣ tài chính,
tín dụng, tiền tệ…để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô.
Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa là
một bƣớc chuyển quan trọng của thời đại, chuyển từ thời đại lạc hậu, kém
phát triển sang thời đại kinh tế phát triển và văn minh.
Mặc dù sự phát triển của kinh tế thị trƣờng trong lịch sử diễn ra đồng
thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tƣ bản, nhƣng kinh tế thị
trƣờng không phải là là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trƣờng là
hình thức và phƣơng pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trƣờng chi
phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất bao
nhiêu và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát
triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lƣợng sản xuất. Nó
là phƣơng thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ
chế thị trƣờng theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất kinh doanh
không ngừng đổi mới , ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng
suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất. Quá trình hình
thành và phát triển của kinh tế thị trƣờng là quá trình mở rộng phân công
lao động xã hội, phát triển khoa học công nghệ mới và ứng dụng chúng vào
thực tế sản xuất.
Cũng cần phải phân biệt kinh tế thị trƣờng và cơ chế thị trƣờng. Cơ
chế thị trƣờng là guồng máy vận hành của nền kinh tế thị trƣờng. Kinh tế thị
trƣờng là một kiểu tổ chức kinh tế, là phƣơng thức thức tổ chức, vận hành
nền kinh tế, là phƣơng tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ chế thị trƣờng là cơ
sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa ngƣời với
ngƣời; là kiểu tổ chức kinh tế khách quan do trình độ phát triển của lực
lƣợng sản xuất và tính chất của quan hệ sản xuất quyết định. Cơ chế thị
trƣờng, tuy phụ thuộc vào tính chất và yêu cầu khách quan của kinh tế thị
26

trƣờng, song nó còn bao hàm yếu tố chủ quan. Đó là sự vận dụng của con
ngƣời bằng việc tổ chức ra guồng máy kinh tế tự do hay có điều tiết của
Nhà nƣớc theo yêu cầu vận động khác nhau của nền kinh tế thị trƣờng trong
giai đoạn phát triển khác nhau của nó.
Nhƣ chúng ta đã biết, trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
C.Mác đã khắc họa quy luật vận động của lịch sử nhân loại, sự phát triển
của loài ngƣời sẽ tiến tới xã hội cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là xã hội
chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị
trƣờng. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số
nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội, sự phát triển đó là sự phát triển xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế thị trƣờng,
với mục tiêu đem lại sự phồn vinh, hạnh phúc, giàu có cho nhân dân.
Kinh tế thị trƣờng chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ
không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trƣờng không phải
là đặc trƣng bản chất của chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu
chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị trƣờng tồn tại và phát triển ở
nhiều phƣơng thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trƣờng vừa có liên hệ
với chế độ tƣ hữu, vừa có liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho
chúng. Vì vậy, kinh tế thị trƣờng tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Vậy kinh tế thị trƣờng là gì?
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông
qua thị trường.
Kinh tế thị trƣờng là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trƣớc đến nay nó tồn tại chủ
yếu dƣới chủ nghĩa tƣ bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển
27

của chủ nghĩa tƣ bản. Chủ nghĩa tƣ bản đã biết lợi dụng tối đa ƣu thế của
kinh tế thị trƣờng để phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình, thúc đẩy
lực lƣợng sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, kinh tế thị
trƣờng tƣ bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó
cũng còn những khuyết tật và mặt trái của nó do chế độ sở hữu tƣ nhân tƣ
bản chủ nghĩa chi phối.
Có thể nói, phát triển kinh tế là nhiệm vụ, là mục tiêu số một của
toàn Đảng, toàn dân ta trong quá trình đƣa đất nƣớc phát triển đi lên thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia
tăng về lƣợng (tăng trƣởng kinh tế) còn bao hàm cả sự thay đổi về chất
(những biến đổi về mặt xã hội). Phát triển chính là nâng cao phúc lợi của
nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khỏe và bình
đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm
các quyền chính trị và công dân là mục tiêu phát triển rộng hơn.
1.2.2. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
và những đặc trƣng cơ bản của nó
Cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam
vẫn chủ yếu là sản xuất nhỏ, thủ công, manh mún, trạng thái kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc còn chiếm ƣu thế. Xã hội Việt Nam dựa trên nền tảng
của văn minh nông nghiệp lúa nƣớc, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam
vẫn là nƣớc nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Mô hình kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp tỏ ra thiếu sức sống và khả năng phát triển.
Kinh tế thị trƣờng đƣợc nhìn nhận nhƣ là một thành quả của văn minh nhân
loại, nó đƣợc sử dụng phục vụ cho sự phát triển và thịnh vƣợng của mọi dân
tộc mà không phải là tài sản riêng có của chủ nghĩa tƣ bản. Qua tổng kết
thực tiễn 20 năm đổi mới và trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất
yếu của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc Việt Nam lựa chọn con
28

đƣờng phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là quyết
định vừa phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự
tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nƣớc và những yếu tố tích cực trong
quá trình phát triển.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tƣởng của toàn thể dân tộc Việt
Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Trên cơ
sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng cộng sản Việt Nam (12 - 1986) đã đề ra đƣờng lối đổi mới toàn diện
đất nƣớc nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội: “đổi mới tƣ duy, trƣớc hết là tƣ duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới
đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo” [19; tr.56]. Đại hội đƣa ra
những quan niệm mới về con đƣờng, phƣơng pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất
hàng hóa và thị trƣờng. Phƣơng hƣớng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã
đƣợc khẳng định là “xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế
kinh tế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền
kinh tế”[19; tr.56], trong đó xác định rõ “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần là một đặc trƣng của thời kỳ quá độ” [19; tr.56]. Đại hội chủ trƣơng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; coi trọng việc kết hợp lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con
ngƣời. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng Cộng sản Việt Nam
là cột mốc đánh dấu bƣớc chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
29

Hội nghị Trung ƣơng lần thứ Sáu (tháng 3-1989), khóa VI, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã phát triển thêm một bƣớc, đƣa ra quan điểm phát
triển nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã
hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lƣợc lâu dài,
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), Đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trƣơng này và khẳng định đây là
chủ trƣơng chiến lƣợc, là con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta là cơ chế thị trƣờng
có sự quản lý của nhà nƣớc; nhà nƣớc quản lý kinh tế bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị
kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh
hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trƣờng có vai trò trực tiếp
hƣớng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phƣơng án tổ
chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả; Nhà nƣớc quản lý kinh tế để định
hƣớng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi và môi
trƣờng cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trƣờng, kiểm soát và xử lý
các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế
với phát triển xã hội.
Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
30

của nền kinh tế, bình đẳng trƣớc pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh” [27; tr.17].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 6-1996) đƣa ra một số kết luận quan trọng: “Sản xuất hàng hóa
không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã đƣợc xây dựng” [21; tr.97]. Đến
đây chúng ta cũng mới chỉ nói đến khái niệm kinh tế hàng hóa, cơ chế thị
trƣờng mà thôi.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng Cộng sản Việt
Nam (tháng 4-2001), Đảng ta mới chính thức đƣa ra khái niệm “kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là đƣờng lối chiến lƣợc nhất quán,
là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam “thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý
của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa” [22; tr.86]. Đây chính là
kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bƣớc
phát triển mới về tƣ duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đại hội chỉ rõ: “ Đƣờng lối kinh tế của Đảng ta là: đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đƣa nƣớc ta
trở thành một nƣớc công nghiệp” [22; tr.91-92].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006), Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục chủ trƣơng: “ Đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát
triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; thực hiện nền dân chủ xã hội chủ
31

nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” [25; tr.69]. Đại hội X tiếp tục
làm rõ hơn những vấn đế lý luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản:
Thứ nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa ở nƣớc ta là nhằm thực hiện: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển
sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo,
khuyến khích mọi ngƣời vƣơn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ ngƣời khác
thoát nghèo và từng bƣớc khá giả hơn. Mục tiêu này thể hiện mục đích phát
triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là vì con ngƣời, con
ngƣời đƣợc chú trọng và đƣợc đặt vào trung tâm của sự phát triển. Trên cơ
sở giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lƣợng sản xuất, làm cho mọi
ngƣời đều đƣợc hƣởng thành quả của sự phát triển.
Thứ hai, về phƣơng hƣớng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ
vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nƣớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nƣớc phải nắm đƣợc những vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ
công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh chứ không phải dựa vào bao cấp
hay độc quyền kinh doanh.
Thứ ba, về định hƣớng xã hội chủ nghĩa và phân phối: Phải thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bƣớc đi và từng chính sách
phát triển; tăng trƣởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát
triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
32

mục tiêu phát triển con ngƣời. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo sự phát triển bền
vững và thể hiện rõ tính định hƣớng phát triển của nền kinh tế nƣớc nhà.
Thể hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bƣớc phát triển, thể
hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển toàn diện con ngƣời.
Thứ tư, định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý: Phát huy
quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dƣới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, ngƣời lao động là ngƣời chủ xã hội.
Mục đích của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lƣợng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lƣợng sản
xuất gắn liền với quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý và phân phối. Các thành phần kinh tế khác nhau hợp thành nền kinh tế
quốc dân thống nhất, vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau để cùng phát triển.
Trong đó, cái đảm bảo định hƣớng xã hội chủ nghĩa về mặt kinh tế là vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc với nhiều hình thức tổ chức phù hợp. Ở đây,
tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, chính sách. Đồng thời sử
dụng cơ chế kinh tế thị trƣờng, áp dụng các hình thức kinh tế và phƣơng
pháp quản lý của kinh tế thị trƣờng để kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh
tế thị trƣờng, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Nhƣ vậy, định hƣớng xã
33

hội chủ nghĩa là định hƣớng chính trị căn bản cho sự phát triển nền kinh tế
thị trƣờng.
Định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu và là một sự lựa chọn
phù hợp với thời đại ngày nay. Định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta là
nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện trong
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trƣớc khi tìm hiểu khái niệm kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta phải làm rõ thế nào là “định hƣớng xã hội chủ nghĩa”.
Khái niệm định hƣớng xã hội chủ nghĩa vốn nói lên mặt tích cực của nhân
tố chủ quan trong sự xác định nấc thang, trình độ phát triển của xã hội ta
trong giai đoạn hiện nay. Từ sau Đại hội VII, khái niệm định hƣớng xã hội
chủ nghĩa đƣợc sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, Nhà nƣớc và
các tổ chức chính trị - xã hội, trong các công trình khoa học ở nƣớc ta. Theo
văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, định hƣớng
xã hội chủ nghĩa có nghĩa là phấn đấu hiện thực hóa 6 đặc trƣng của chủ
nghĩa xã hội mà đại hội VII đã thông qua. Nói cách khác, định hƣớng xã hội
chủ nghĩa là khái niệm dùng để chỉ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
cần đạt tới cùng với những phƣơng hƣớng cơ bản để từng bƣớc hƣớng tới
mục tiêu đó. Giữ vững định hƣớng xã hội chủ nghĩa là: Thứ nhất, dứt khoát
đi theo con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội, không lựa chọn con đƣờng phát
triển tƣ bản chủ nghĩa hay con đƣờng khác. Thứ hai, chúng ta không có đủ
điều kiện thực hiện sự quá độ trực tiếp. Trong điều kiện đó, chúng ta sẽ phải
sử dụng một số nhân tố của kinh tế thị trƣờng, kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần với đa loại hình sở hữu…do bản chất khách quan của nó, nếu chúng ta
không kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì rất dễ đi chệch hƣớng con
đƣờng chúng ta đã chọn. Ba là, ngay trong giai đoạn này chúng ta không thể
34

thực hiện cùng một lúc tất cả những đặc trƣng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà phải thực hiện từng bƣớc các đặc trƣng đó.
Nhƣ vậy, kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một
kiểu kinh tế thị trƣờng mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trƣờng.
Nói đến kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không
phải là kinh tế thị trƣờng tự do theo kiểu tƣ bản chủ nghĩa, cũng không phải
là kinh tế quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp; cũng chƣa hoàn
toàn là kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa và Việt Nam chúng ta mới đang
ở thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thôi. Nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa có bản chất khác với nền kinh tế thị trƣờng tƣ bản
chủ nghĩa. Bản chất đó đƣợc quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nƣớc giữ
vai trò chủ đạo. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa quản lý kinh tế bằng chiến
lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, sức mạnh của kinh tế Nhà
nƣớc đồng thời sử dụng cơ chế thị trƣờng, áp dụng các hình thức kinh tế và
phƣơng pháp quản lý để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát
huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trƣờng,
bảo vệ lợi ích của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là
một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến
của một nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn
hƣớng tới chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trƣờng có tổ chức,
có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của Nhà nƣớc xã hội chủ
35

nghĩa, đƣợc định hƣớng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật
của tính tự phát thị trƣờng, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân
dân và sự phát triển bền vững của đất nƣớc.
Lựa chọn mô hinh kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
không phải đơn giản là sự trở về với phƣơng thức chuyển nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, điều quan trọng có ý nghĩa quyết định
là chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh. Điều đó quyết định công cụ,
phƣơng tiện, động lực của nền kinh tế và con đƣờng đạt đến mục tiêu là sử
dụng kinh tế thị trƣờng nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đƣa Việt Nam trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại.
Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của
kinh tế thị trƣờng, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội, có sự quản lý của nhà nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy,
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản
tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân
tố của kinh tế thị trƣờng và nhóm nhân tố của xu hƣớng đang vận động,
đang phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Tính định hƣớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc
ta thể hiện trƣớc hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lƣợc phát
triển kinh tế thị trƣờng và đặc trƣng xã hội của nền kinh tế thị trƣờng. Mục
tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta đƣợc xác định là giải
phóng và phát triển lực lƣợng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên
mọi nguồn lực trong nƣớc và ngoài nƣớc để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của
nền kinh tế, trên cơ sở đó cải thiện từng bƣớc đời sống của nhân dân, thực
36

hiện công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc
phục đƣợc tình trạng tự cấp, tự túc của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao
động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho ngƣời lao
động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng
năng suất lao động xã hội. Phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi ngƣời
lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao
của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao và bền vững. Đƣa đất
nƣớc thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, kém phát triển, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể nói, phát
triển kinh tế thị trƣờng chính là đòn bẩy để phát triển kinh tế nhanh và bền
vững, là phƣơng tiện để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc.
Nói tóm lại, kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một
kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ
một nƣớc nông nghiệp , kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức kinh tế
này nhằm nhanh chóng đƣa nƣớc ta đạt đến mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế
Nhà nƣớc và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo, ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế đều vận động
theo định hƣớng chung và theo khuôn khổ pháp luật của Nhà nƣớc. Trong
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trƣờng đƣợc
vận dụng linh hoạt, đầy đủ để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn
lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân, đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Phát huy quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức
37

kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trƣờng, vừa
dựa trên những nguyên tắc và bản chất xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là kiểu
tổ chức nền kinh tế đặc biệt - nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Do đó, nó vừa tuân theo những nguyên
tắc và quy luật của nền kinh tế thị trƣờng nói chung, đồng thời vừa bị chi
phối bởi các nguyên tắc và quy luật riêng phản ánh bản chất của xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Vì vậy, có thể khái quát những đặc trƣng của kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những nội dung chủ yếu sau:
Một là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam phải được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu với
nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó vai trò chủ đạo là thành phần
kinh tế Nhà nước.
Có thể nói, sự tồn tại của một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu là
vấn đề tất yếu khách quan, lâu dài do lực lƣợng sản xuất càng phát triển,
mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong sản xuất ngày càng đa dạng, phong
phú. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa rất quan trọng để
huy động mọi nguồn lực, mọi thế mạnh để phát triển kinh tế đất nƣớc. Đại
hội XI xác định hiện nay nƣớc ta có bốn thành phần kinh tế là : thành phần
kinh tế Nhà nƣớc, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tƣ nhân và
thành phần kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài; các thành phần kinh tế cùng
hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Mỗi thành phần kinh tế là một
hình thức sở hữu khác nhau dựa trên quan hệ sản xuất tƣơng ứng.Các thành
phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác để cùng nhau phát triển. Trong đó,
xây dựng thành phần kinh tế nhà nƣớc và thành phần kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
38

Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa
nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà
nƣớc và kinh tế tập thể để có khả năng hƣớng dẫn các thành phần kinh tế
khác phát triển theo đúng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nƣớc
phải đƣợc củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các
lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng nhƣ an ninh - quốc phòng. Xác lập,
củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của ngƣời lao động trong nền sản xuất
xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Hai là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng trên nguyên tắc tự do cạnh tranh, tôn trọng và thừa nhận tính độc lập,
tự chủ của các chủ thể kinh tế.
Tự do cạnh tranh, tự do kinh tế là môi trƣờng tồn tại và hoạt động của
nền kinh tế thị trƣờng. Không có tự do cạnh tranh thì không thể có nền kinh
tế thị trƣờng. Tự do cạnh tranh tạo áp lực bắt buộc và khuyến khích nhà
kinh doanh thƣờng xuyên cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, nâng
cao năng suất lao động, từ đó thúc đẩy lực lƣợng sản xuất phát triển mạnh
mẽ, xã hội ngày càng phát triển và văn minh hơn.
Nội dung của nguyên tắc tự do cạnh tranh thể hiện thông qua tự do
hoạt động kinh doanh, tự do đầu tƣ sản xuất những mặt hàng mà nhà nƣớc
không cấm; tự do hình thành giá cả theo quy luật cung - cầu trên thị trƣờng;
tự do cạnh tranh theo pháp luật của nhà nƣớc. Nhƣ vậy, tự do kinh tế ở Việt
Nam không phải là tự do vô nguyên tắc, vô điều kiện mà là tự do theo quy
định của Chính phủ và luật pháp của Nhà nƣớc Việt Nam. Phải phát triển
đồng bộ các loại thị trƣờng, bao gồm cả thị trƣờng yếu tố sản xuất cũng nhƣ
39

thị trƣờng sản phẩm tiêu dùng dịch vụ, cả thị trƣờng ở thành thị cũng nhƣ
thị trƣờng ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, cả thị trƣờng trong
nƣớc và thị trƣờng quốc tế. Vấn đề ở đây là làm thế nào để cho hàng hóa tƣ
nhân đều đƣợc chi phối bởi quy luật cung - cầu tự do trên thị trƣờng.
Tôn trọng tính độc lập, tự chủ của các chủ thể kinh tế là hết sức quan
trọng, tạo nên sự kích thích mạnh mẽ và động lực để phát triển kinh tế thị
trƣờng. Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế thể hiện trong sở hữu, trong sản
xuất, trong các quan hệ giao dịch thƣơng mại. Ngƣời sản xuất đƣợc tự chủ
trong sản xuất, có quyền lựa chọn cơ cấu sản phẩm, tổ chức sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm làm sao cho có hiệu quả. Quan trọng hơn là họ có quyền sở
hữu về tài sản, và có quyền khai thác, sử dụng các nguồn lực sản xuất sao
cho hợp lý.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sự
điều tiết, quản lý của Nhà nước phải tuân theo những nguyên tắc phù hợp
với quy luật kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trƣờng có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhƣ:
Trƣớc hết, kinh tế thị trƣờng kích thích phát triển kinh tế - xã hội. Nó
chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết trong
việc xây dựng và phát triển đất nƣớc theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa. Ý
nghĩa của quá trình chuyển sang kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở nƣớc ta trong thời gian qua là ở chỗ nó góp phần to lớn trong việc
giải phóng sức sản xuất của xã hội, tăng năng suất lao động, tạo tiền đề vật
chất để nâng cao đời sống của nhân dân, mang lại niềm vui và hạnh phúc
cho nhân dân. Kinh tế thị trƣờng kích thích tính tích cực và tiềm năng sáng
tạo của con ngƣời, hình thành một cách phổ biến các nhân cách độc lập,
phát triển tính tự chủ của cá nhân. Kinh tế thị trƣờng với sự tác động mạnh
mẽ của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... là yếu tố kích thích con ngƣời
40

không ngừng vƣơn lên để tự khẳng định mình; là tác nhân mạnh mẽ buộc
các chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, thƣờng xuyên chú ý cải tiến và
đổi mới kỹ thuật để đạt hiệu quả cao. Đồng thời, kinh tế thị trƣờng xóa bỏ
chủ nghĩa bình quân, thực hiện phân phối theo lao động, tạo cơ sở khách
quan để thực hiện tự do, bình đẳng và xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, kinh tế thị trƣờng cũng bộc lộ những khiếm
khuyết và hạn chế nhất định nhƣ: Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra gay gắt,
cạnh tranh khốc liệt, đồng tiền lên ngôi khiến ngƣời ta không từ một thủ
đoạn nào trong sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cho mình khiến cho
chất lƣợng sản phẩm không đảm bảo, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trƣờng sinh thái, đạo đức xã hội băng hoại, cái tôi và lợi ích cá nhân đƣợc
đề cao quá mức…Chính vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp, điều tiết,
quản lý của nhà nƣớc. Đại lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Nhà nƣớc tôn
trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trƣờng, tạo điều
kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động
tiêu cực của thị trƣờng”[22; tr.193].
Vai trò của Nhà nƣớc có ý nghĩa quyết định cho tính định hƣớng xã
hội chủ nghĩa. Sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam có đúng hƣớng hay chệch hƣớng xã hội chủ nghĩa là
phụ thuộc và vai trò định hƣớng của Nhà nƣớc Việt Nam, dƣới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, sự quản lý của Nhà nƣớc cũng
phải tuân theo nguyên tắc tƣơng hợp với thị trƣờng. Nhà nƣớc quản lý, điều
tiết nền kinh tế thị trƣờng không phải bằng sự duy ý chí của mình, mà phải
tuân theo quy luật của kinh tế thị trƣờng, cụ thể nhƣ sau:
Nhà nƣớc thông qua hệ thống pháp luật đảm bảo môi trƣờng pháp lý
an toàn và ổn định trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp và các cá nhân và ngƣời dân tham gia vào sản xuất kinh doanh; tạo
41

điều kiện cũng nhƣ hỗ trợ cho họ khi họ gặp khó khăn. Đồng thời hệ thống
pháp luật của Nhà nƣớc phải hƣớng vào đảm bảo môi trƣờng sinh thái cho
sự phát triển bền vững của đất nƣớc.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế
thì trƣờng, vai trò điều tiết của Nhà nƣớc nhằm mục đích:
Làm cho thị trƣờng vận động một cách ổn định, hạn chế tối đa thị
trƣờng tự phát, từ đó gây ra các lãng phí trong sử dụng các nguồn lực nhƣ
tài nguyên, đất đai, sức lao động, vốn, cơ sở vật chất…để phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế.
Hạn chế tối đa các tác động xấu, các khuyết tật của kinh tế thị trƣờng
nhƣ suy thoái, khủng hoảng kinh tế, xung đột xã hội, bất công, thất nghiệp.
Bảo đảm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của đất
nƣớc, bảo về quyền lợi của ngƣời lao động và nhân dân.
Nhà nƣớc điều tiết vĩ mô nền kinh tế dựa vào các công cụ quản lý chủ
yếu nhƣ sau:
Thực hiện các quy hoạch, các kế hoạch định hƣớng dài hạn, trung
hạn, ngắn hạn, xây dựng cơ cấu kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng, tăng
trƣởng kinh tế, thu nhập quốc dân.
Triển khai xây dựng các chƣơng trình, mục tiêu phát triển ngành,
vùng, lĩnh vực, tiến bộ khoa học công nghệ.
Thực hiện tốt các chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh
tế theo đúng pháp luật. Nghiêm trị các tệ nạn buôn lậu, gian lận, trốn thuế,
tham nhũng.
Thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô sử dụng các yếu tố thị trƣờng
để điều tiết kinh tế nhƣ chính sách tài chính, chính sách đầu tƣ, giá cả, tiền
lƣơng và thu nhập, chính sách việc làm, chính sách xuất nhập khẩu, chính
sách chống độc quyền, chính sách thuế, chính sách bảo hiểm…
42

Tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động một cách an
toàn và ổn định bằng một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh.
Bốn là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo
cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi tổ chức dân cư, mỗi gia đình, mỗi
người dân được hưởng công bằng xã hội.
Đây là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa; là tiêu chí quan trọng bậc nhất để khẳng định sự khác biệt về
chất của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, xây dựng đất nƣớc theo con đƣờng xã hội chủ
nghĩa là sự lựa chọn sáng suốt, là nguyện vọng thiết tha của nhân dân ta với
khát vọng xóa bỏ bất bình đẳng giữa ngƣời với ngƣời, không còn áp bức,
bóc lột và bất công, con ngƣời đƣợc chăm lo và tạo điều kiện phát triển toàn
diện. Đi tới đảm bảo sự công bằng xã hội là mục tiêu mang tính tính định
hƣớng trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Trƣớc hết, chúng ta hiểu nhƣ thế nào là công bằng xã hội?
Trong lĩnh vực kinh tế, công bằng thƣờng gắn với hình thức phân
phối. Công bằng trong phân phối thu nhập là sự phân phối một cách hợp lý,
phản ánh đúng tƣơng quan giữa cống hiến và hƣởng thụ, giữa trách nhiệm
và lợi ích, giữa vị thế cá nhân trong cộng đồng. Tuy nhiên, mỗi xã hội đều
có những chuẩn mực riêng về công bằng xã hội do hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của mỗi xã hội đó quy định. Phân phối công bằng không có nghĩa là bình
đẳng vì bình đẳng là sự ngang nhau về địa vị và quyền lợi, ở thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội chúng ta chƣa làm đƣợc điều đó. Vì vậy, dƣới xã hội
chủ nghĩa, nguyên tắc phân phối đảm bảo tính công bằng là phân phối theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
43

các nguồn lực khác, và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “có khi vật tƣ hàng hóa không
thiếu, mà phân phối không đúng thì gây ra căng thẳng không cần thiết.
Trong công tác lƣu thông phân phối có hai điều quan trọng luôn phải nhớ:
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên” [50; tr.185].
Nhƣ vậy, theo Hồ Chí Minh thì “công bằng không có nghĩa là cào
bằng, bình quân chủ nghĩa. Không có tình trạng ngƣời giỏi, ngƣời kém, việc
khó việc dễ cũng cùng điểm nhƣ nhau" [50; tr.143].
Ngƣời nhấn mạnh, công bằng xã hội chỉ có trong xã hội mới, dƣới chế
độ dân chủ cộng hòa "Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi" [52; tr.
219]; "Nhà nƣớc ta ngày nay là của tất cả những ngƣời lao động...Nhân dân
lao động là những ngƣời chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn
hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ" [52; tr.310].
Phân phối công bằng theo Ngƣời là: Làm nhiều hƣởng nhiều, làm ít
hƣởng ít, không làm thì không đƣợc hƣởng. Đây là nguyên tắc phân phối
công bằng trong điều kiện nƣớc ta hiện nay.
Ngƣời nhấn mạnh: "công bằng xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân
hàng v.v... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai
không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những ngƣời già cả, đau yếu và trẻ
em. Thế ta đã đến đấy chƣa? chƣa đến. Chủ nghĩa xã hội không thể làm
mau đƣợc mà phải làm dần dần" [53; tr.219]. Ngƣời kiên quyết chống lại
chủ nghĩa bình quân, "đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có,
nhƣng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là
gì? là ai cũng nhƣ ai, bằng hết. Bình quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã
hội, thế là không đúng" [53; tr.386].
44

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến lợi ích cá nhân nhằm
động viên mỗi ngƣời không ngừng phấn đấu, cống hiến nhiều nhất cho xã hội,
đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, chính chủ
nghĩa cá nhân là căn nguyên gây ra trăm thứ bệnh nhƣ quan liêu, mệnh lệnh,
bè phái, tham ô, lãng phí, chủ quan v.v... mang tính cá nhân, không nghĩ tới
lợi ích giai cấp, dân tộc. Tuy nhiên cũng cần phân biệt rằng chủ nghĩa cá
nhân khác lợi ích cá nhân, nếu chống chủ nghĩa cá nhân mà lại vi phạm lợi
ích chính đáng của cá nhân thì sẽ dẫn tới sai lầm, Ngƣời khẳng định rằng "lợi
ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể.
Lợi ích chung của tập thể đƣợc đảm bảo thì lợi ích riêng của cá nhân mới có
điều kiện để đƣợc thỏa mãn" [54; tr.291]. Việc đảm bảo lợi ích chung tức là
bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi ích của mỗi cá nhân, (tức là biện pháp nhằm
đảm bảo công bằng xã hội). Tƣ tƣởng "mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì
mình" là thể hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân với cá nhân, cá nhân với
tập thể và cộng đồng.
Công bằng xã hội phải đƣợc thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết
quan hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, giải quyết
hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi ngƣời. Công bằng xã hội là
trách nhiệm chung của Nhà nƣớc, của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo
vệ quyền lợi của nhân dân và tạo ra điều kiện thuận lợi để nhân dân hoàn
thành nghĩa vụ, quyền lợi của mình đối với nhà nƣớc và xã hội.
Công bằng xã hội phải đảm bảo tính thống nhất và hợp lý giữa quyền
lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hƣởng thụ của các thành viên trong xã
hội. Cống hiến nhiều thì hƣởng nhiều, cống hiến ít thì hƣởng ít, cống hiến
khác nhau thì hƣởng thụ khác nhau, tránh tình trạng cào bằng bình quân chủ
nghĩa. Công bằng xã hội phải giải quyết hợp lý quan hệ giữa kinh tế và vấn đề
xã hội, đảm bảo mọi tầng lớp xã hội đƣợc hƣởng các quyền lợi xã hội nhƣ giáo
45

dục, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề nghiệp, trợ cấp lúc khó khăn hoạn nạn,
đảm bảo các chính sách ƣu tiên, ƣu đãi của xã hội đối với các gia đình chính
sách nhƣ gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thƣơng bệnh binh,
ngƣời có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, ngƣời nghèo, vùng
căn cứ cách mạng, ngƣời cơ nhỡ, ngƣời ốm đau tàn tật không nơi nƣơng tựa.
Công bằng xã hội đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng
nâng cao mức sống và tự khẳng định mình.
Công bằng xã hội đòi hỏi phải xóa bỏ những bất công trong xã hội,
chống đặc quyền, đặc lợi, đặc biệt là phải xóa bỏ những bất công, đi ngƣợc
với lợi ích của sự phát triển của xã hội, vi phạm nguyên tắc công bằng xã hội.
Công bằng xã hội còn thể hiện ở việc tạo ra cho tất cả mọi ngƣời cơ
hội và điều kiện để học tập, phát huy trình độ, lao động sản xuất, tự do
sáng tạo…
Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay, công bằng xã hội đƣợc thể hiện trên các lĩnh vực: phân phối, chính
sách đối với các thành phần kinh tế, điều tiết thu nhập hợp lý, chống buôn lậu,
độc quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp
pháp, chống thu nhập không chính đáng, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi
ngƣời tiếp cận đƣợc cơ hội và mọi ngƣời đều bình đẳng trong nền kinh tế.
Công bằng xã hội chính là quá trình mở rộng cơ hội cho mọi ngƣời
dân trong việc đƣợc thụ hƣởng đầy đủ các thành quả của phát kinh tế và tiến
bộ xã hội. Công bằng xã hội đem đến các cơ hội về việc làm, thu nhập, cơ
hội tham gia vào quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) với cƣơng lĩnh xây
dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì vấn đề công bằng
xã hội đƣợc Đảng ta xác định đây là một nội dung của chính sách xã hội và
là điều kiện và động lực của tăng trƣởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thời

You might also like