Professional Documents
Culture Documents
Lượng nước vào: Mất nước qua mồ hôi: lượng nước bị mất qua quá
Lượng nước vào: Mất nước qua mồ hôi: lượng nước bị mất qua quá
khoảng 300-
chất là vô cùng cần thiết cho chuyển hóa của cơ thể. 400ml/ngày và hoàn toàn khác biệt với việc đổ mồ hôi,
Do dó việc rối loạn hệ thống điều hòa dịch cơ thể đã nó hiện diện ngay ở những người không có tuyến mồ
đặt ra nhiều vấn đề mà các nhà lâm sàng cần giải hôi bẩm sinh. Lớp sừng ở da với đặc tính không thấm
quyết. Ở chương này cũng như những chương sau về nước là một hàng rào hạn chế việc thoát nước ở trên,
thận, chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận về việc điều hòa chính vì vậy ở những người bị bỏng, khi mà lớp sừng
dịch trong cơ thể, thành phần dịch ngoại bào, cân bằng của da bị tổn thương mất chức năng của nó, việc mất
acid- base và sự trao đổi dịch giữa trong và ngoài tế nước qua da có thể tăng lên gấp 10 lần, tức là 3-4
bào l/ngày.Do đó với những bệnh nhân bị bỏng, việc bù
dịch với số lượng lớn, thường qua đường tĩnh mạch là
vô cùng quan trọng
Sự mất nước kiểu này còn diễn ra qua đường hô
Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục
được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với hấp, số lượng 300-400ml/ngày.Khi hít thở, không khí
đi vào hệ thống hô hấp, trở nên bão hòa nước, với áp
các bộ phận khác trong cơ thể. Ví dụ, lượng dịch vào
lực 47mm Hg, trước khi chúng được đưa ra ngoài. Bởi
có thể rất khác nhau tùy từng thời điểm nhưng nó luôn
vì áp lực hơi nước trong không khí khi đi vào phổi
luôn tương xứng với lượng dịch thải ra, để tránh tình
luôn nhỏ hơn 47 mm Hg , cho nên luôn có một lượng
trạnh thiếu hay thừa dịch
nhất định hơi nước bị mất đi khi không khí bão hòa
được đẩy ra, chính điều này làm mất nước cơ thể. Khi
Lượng nước vào thời tiết lạnh, hanh khô, áp lực hơi nước trong không
khí gần như bằng 0 thì một lượng lớn nước bị mất mỗi
Nước cung cấp cho cơ thể từ 2 nguồn chính : (1) lần hít thở. Đó là lí do vì sao khi trời lạnh, chúng ta lại
Nước được cung cấp qua đường tiêu hóa dưới dạng cảm thấy khô họng.
chất lỏng hay từ các thức ăn hàng ngày, số lượng
khoảng 2100 ml một ngày ; (2) Nước được tổng hợp từ Mất nước qua mồ hôi: lượng nước bị mất qua quá
quá trình oxi hóa cacborhydrat trong cơ thể, cung cấp trình bài tiết mồ hôi rất khác nhau tùy từng thời điểm,
khoảng 200ml mỗi ngày. Hai con đường này cung cấp nhiệt độ, thời tiết cũng như hoạt dộng hàng ngày của
cho cơ thể 2300 ml nước/ ngày . Tuy nhiên số lượng cơ thể. Trung bình lượng nước mất qua mồ hôi là
trên không hằng định, nó khác nhau giữa từng cá thể, 100ml/ ngày nhưng khi trời nóng hay khi hoạt động
từng ngày, phụ thuộc vào thời tiết, thói quen và hoạt thể lực, lượng nước có thể mất tới 1-2 l/ giờ, làm thiếu
dộng của cơ thể trong ngày hụt trầm trọng dịch cơ thể nếu không được bổ sung kịp
thời
Lượng nước thải ra Mất nước qua phân: chỉ một lượng nhỏ nước bị mất
qua phân, khoảng 100ml/ngày, nhưng với những bệnh
“Insensible water loss”: mỗi ngày, trong điều kiện nhân ỉa chảy, có thể lên tới hàng lít. Chính vì thế,
bình thường,khi cơ thể hoạt động sẽ liên tục thải nước những bệnh nhân ỉa chảy nếu không được bù dịch sẽ
ra ngoài thông qua hệ thống hô hấp, qua da, với số rất nguy hiểm.
lượng khoảng 700 ml/ngày. Sự đào thải này gọi là
“insensible water loss” bởi vì nó diễn ra liên tục một Nước thải qua thận: lượng nước đào thải hàng ngày
cách tự nhiên và chúng ta không hề nhận thức được. còn được bài tiết qua thận, nơi có nhiều cơ chế giúp nó
có khả năng đào thải nước. Và trên thực tế, điều quan Có một số lượng dịch nhỏ khác, được gọi là “ dịch
trọng nhất là việc cân bằng giữa lượng nước vào và ra, xuyên bào”. Chúng nằm trong các bao hoạt dịch,
hay sự cân bằng trong việc trao đổi ion , được thực khoang phúc mạc, màng ngoài tim, cũng như trong
hiện chủ yếu ở thận. Chẳng hạn, thận có thể chỉ bài tiết dịch não tủy; được xem như là một dạng đặc biệt của
0,5 L/ngày hay thậm chí 20L/ngày ở những người dịch ngoại bào, mặc dù đôi lúc lại di chuyển vào trong
uống nhiều nước. tế bào hay vào lòng mạch.Số lượng của loại dịch này
khoảng 1-2 L.
Ở người trưởng thành, tổng lượng dịch trong cơ thể
khoảng 42L, chiếm 60% trọng lượng. Tỉ lệ này còn
phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính và thể trạng từng
người. Người càng già thì lượng dịch trong cơ thể càng
giảm. Đó là do càng lớn tuổi thì lượng mỡ càng nhiều,
nên lượng nước sẽ giảm.
Ở phụ nữ, lượng mỡ nhiều hơn đàn ông, nên lượng
nước trong cơ thể sẽ thấp , chiếm khoảng 50% trọng
lượng; ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, thì lượng này khoảng
70-75 % trọng lượng. Do đó,điều quan trọng cần nhớ
là lượng nước trong cơ thể khác nhau tùy từng độ tuổi,
giới tính, và thể trạng từng người.
Đo thể tích dịch ngoại bào : thể tích dịch ngoài bào
được đo bằng cách sử những những chất chỉ thị mà
chúng chỉ đi vào trong huyết tương và dịch gian bào
chứ không đi vào trong dịch nội bào, bao gồm Na
phóng xạ, Clo phóng xạ, Iot phóng xạ, thiosulfate,
inulin mặc dù có một số chất như Na phóng xạ hay
inulin vẫn đi vào trong tế bào một lượng nhỏ.
Đo thể tích dịch nội bào :dịch nội bào không được
đo trực tiếp mà được đo bằng cách lấy tổng lượng dịch
trong cơ thể trừ đi lượng dịch ngoại bào.
Đo thể tích huyết tương: để đo thể tích huyết tương,
chất chỉ thị không được đi qua các lỗ trên thành mao
mạch nhưng phải được giữ lại trong máu. Chất thường
Ở hình 25-4 , một lượng nhỏ thuốc nhuộm hay bất kì hay được dùng nhất là albumin huyết tương kết hợp
chất chỉ thị nào được bơm vào bình, đợi cho đến khi với Iot phóng xạ ( 125I-albumin) , ngoài ra có thể dùng
nó hòa tan đều trong bình, sau đó lấy một lượng nhỏ đi T-1824, một chất gắn với protein huyết tương.
định lượng nồng độ bằng phương phấp hóa học hay Đo thể tích dịch gian bào : được đo gián tiếp bằng
quang điện. Giả sử không có sự thất thoát trong quá cách lấy dịch ngoại bào trừ đi dịch huyết tương.
trình thực hiện thì tổng lượng chất chỉ thị trong bình Đo thể tích máu: khi đã biết được thể tích huyết
( Thể tích bình B x nồng độ chất B)sẽ cân bằng với tương, ta có thể tính được thể tích máu thông qua
lượng chất chỉ thị đưa vào ( thể tích A x nồng độ A). hematocrit bằng công thức
Khi đó
Thể tích B = (Thể tích A x nồng độ A) / Nồng độ B
Ví dụ 10ml chất chỉ thị có nồng độ 10mg/ml được
hòa tan vào bình B được dung dịch có nồng độ 0,01 Một cách khác là tiêm vào máu khối hồng cầu có gắn
mg/ml, khi đó thể tích bình B sẽ là đồng vị phóng xạ, thường là 51Cr, đợi sau khi khối
1ml x 10mg/ml / 0,01mg/ml = 1000ml hồng cầu này hòa tan hoàn toàn trong máu, ta có thể
Bảng 25-3 cho biết một số chất chỉ thị được dùng để tính được thể tích máu thông qua nguyên tắc pha loãng
đo thể tích từng loại dịch trong cơ thể . bên trên.
Phù là tình trạng thừa dịch trong mô cơ thể. Nó Tổng kết các nguyên nhân gây phù ngoại
thường liên quan đến dịch ngoại bào nhưng cũng có bào
thể liên quan tới dịch nội bào.
Có rất nhiều nguyên nhân gây phù ngoại bào, có thể
Phù nội bào chia làm 2 nhóm là tăng lọc qua mao mạch hay cản trở
sự lưu thông hệ bạch huyết
3 nguyên nhân có thể gây phù nội bào là : 1. Hạ Na I, Tăng áp lực lọc mao mạch:
máu; 2. Gián đoạn sự chuyển hóa của mô; 3. Thiếu A, Tăng giữ muối và nước ở thận
chất dinh dưỡng nuôi tế bào. Ví dụ, khi máu tới không 1, Suy thận cấp hay mạn
đủ cung cấp cho tế bào sẽ làm ảnh hưởng tới chức 2, Cường vỏ thượng thận
năng các bơm trên màng tế bào, làm tế bào không bơm B, Tăng áp lực và co tĩnh mạch
được Na ra ngoài, khiến nồng độ thẩm thấu trong tế 1, Suy tim
bào tăng lên, kéo nước vào trong gây phù tế bào. Sự 2, Tắc tĩnh mạch
phù tế bào này có thể làm thể tích mô tăng 2-3 lần, hậu 3, Suy giảm lưu thông tĩnh mạch
quả là chết tế bào. - Liệt cơ
Ngoài ra phù nội bào còn do viêm nhiễm, gây tăng - Bất động lâu ngày
tính thấm màng tế bào với các ion , gây ra sự di - Suy van tĩnh mạch
chuyển ion vào trong tế bào. C, Giảm sức cản động mạch
1, Tăng nhiệt độ cơ thể
Phù ngoại bào 2, Thuốc giãn mạch
II, Giảm protein huyết tương
Phù ngoại bào do 2 nguyên nhân: 1. Sự di chuyển A, Mất protein qua nước tiểu: hội chứng thận hư
quá mức từ huyết tương ra gian bào qua mao mạch, 2. B, Mất protein qua da
Cản trở sự dẫn truyền hệ bạch huyết từ gian bào về 1, Bỏng
huyết tương. 2, Vết thương
Các yếu tố làm tăng sự thoát dịch từ huyết tương C, Suy giảm khả năng tổng hợp protein
ra gian bào: 1, Suy gan
Tốc độ lọc được tính théo công thức : 2, Suy dinh dưỡng
III, Tăng tính thấm thành mạch
A, Phản ứng tự miễn gây tiết histamin và các chất
Trong đó Kf là hệ số lọc, Pc là áp lực thủy tĩnh của
miễn dịch khác
mao mạch, Pif là áp lực thủy tĩnh gian bào, là áp lực
B, Nhiễm độc
keo cảu mao mạch, là áp lực keo của gian bào. Từ C, Nhiễm khuẩn
công thức trên ta có thể thấy những nguyên nhân thay D, Thiếu vitamin kéo dài, đặc biệt là vitamin C
đổi tốc độ lọc : E, Thiếu máu kéo dài
- Tăng hệ số lọc F, Bỏng
- Tăng áp lực thủy tĩnh mao mạch IV, Cản trở sự lưu thông bạch huyết
- Giảm áp lực keo huyết tương A, Ung thư
B, Phẫu thuật
Phù lympho: cản tở khả năng dẫn dịch và C, Nhiễm trùng
protein từ gian bào về huyết tương D, Bất thường hệ lympho bẩm sinh.
Khi hệ bạch huyết bị cản trở sẽ gây ra sự tăng cấp Phù do suy tim: là một trong những nguyên nhân
tính protein ở dịch ngoại bào, làm tăng áp lực keo gian quan trọng nhất. Trong suy tim, tim mất khả năng bơm
bào, dẫn đến kéo dịch từ huyết tương vào gian bào. máu, gây tăng áp lực thủy tĩnh do đó gây tăng tốc độ
Sự tắc nghẽn hệ bạch huyết có thể gặp trong tình lọc. Hơn nữa, huyết áp giảm làm giảm khả năng bài
trạng viêm nhiễm cấp tính chẳng hạn như khi nhiễm tiết muối và nước ở thận, làm kích thích thận tiết renin,
giun chỉ Wuchereria bancrofti. Chúng sống ở hệ gây tăng bài tiết anginotensin II gây tăng giữ nước và
muối ở thận, càng làm phù nhiều hơn.
Ở những bệnh nhân có suy tim trái nhưng tim phải khoảng gian bào gây tăng thể tích gian bào đáng kể,
vẫn bình thường, máu được đẩy lên phổi nhưng không gọi là phù mềm
được tim trái tống đi, do đó làm tăng áp lực các mao
mạch phổi. Đến một lúc nào đó sẽ gây thoát dịch vào
trong phổi, gọi là phù phổi cấp, nếu không giải quyết
kịp thời có thể tử vong.
Phù do giảm bài tiết muối và nước ở thận: hầu hết
lượng Na đưa vào cơ thể được tích trữ ở ngoại bào, vì
thế khi thận mất khả năng đào thải Na thì lượng lơn Na
và nước sẽ lưu lại tại dịch ngoại bào. Chẳng hạn như
trong viêm cầu thận cấp, khi cầu thận bị tổn thương
không có khả năng lọc thì Na sẽ bị giữ lại ở dịch ngoại
bào gây phù ngoại bào, đi cùng với đó là tình trạng
tăng huyết áp cấp tính.
Phù do giảm protein huyết tương: giảm protein
hay thoát protein ra khỏi huyết tương làm giảm áp lực
keo huyết tương, gây phù ngoại bào
Nguyên nhân quan trọng nhất gây giảm protein
huyết tương là mất protein qua thận trong hội chứng
thận hư, do nhiều yếu tố tác động tới cầu thận làm tăng
tính thấm cảu màng lọc cầu thận với protein, gây mất
protein qua nước tiểu. Khi protein huyết tương giảm
xuống dưới 2,5 g/100 ml thì sẽ gây phù.
Xơ gan cũng là một nguyên nhân khác gây phù.
Trong xơ gan, các tế bào gan bị thay thế bởi các xơ
sợi, làm giảm khả năng tổng hợp protein của gan, giảm
áp lực keo, gây phù. Ngoài ra còn do tình trạng tăng áp
lực thủy tĩnh, tăng tính thấm thành mạch trong xơ gan.
Các yếu tố ngăn cản tình trạng phù Proteoglycan còn có tác dụng ngăn cản sự di chuyển
vị trí của dịch ngay trong khoảng gian bào. Khi phù
gian bào, sự ngăn cản này mất, nước có thể di chuyển
từ cao xuống thấp trong khoảng gian bào. Vì thế kê
cao chân ở những bệnh nhân phù chân có thể giảm phù
Tăng sự dẫn lưu của hệ bạch huyết: cũng là một
Như ta đã biết, trong hầu hết các mô liên kết, áp lực cơ chế để chống lại tình trạng phù. Hệ bạch huyết có
thủy tĩnh nhỏ hơn không, thường ở mức -3mmHg, điều thể tăng sự lưu thông lên đến 10-50 lần, giúp mang
này giúp cho mô liên kết dính với nhau. Người ta thấy lượng lớn nước và protein trở về lại huyết tương.\
rằng khi áp lực thủy tĩnh ở gian bào âm thì sự thay đổi Tăng sự dẫn lưu protein : một cơ chế nữa là khi
áp lực chỉ gây sự một sự thay đổi không đáng kể về thể phù ngoại bào thì do hệ bạch huyết có tính thấm đáng
tích.Do đó -3mm Hg đến 0 mmHg là khoảng giới hạn kể với protein hơn thành mao mạch nên khi có sự tăng
để cơ chế chống lại tình trạng phù này phát huy tác dẫn lưu bạch huyết thì một lượng đáng kể protein cũng
dụng. Khi áp lực gian bào lớn hơn 0 thì chỉ cần một sự được dẫn lưu về trở lại mạch máu.
thay đổi nhỏ áp lực cũng sẽ gây nên sự thay đổi thể
tích lớn.( Hình 25-8)
Đó là do ở áp lực âm, dịch trong khoang gian bào sẽ
ở trạng thái gel do nó kêt hợp với proteoglycan, chúng
tạo thành một mạng lưới và ngăn cản không do dịch
tự do có chỗ trong trong khoang gian bào, gọi là tình Dịch được trao đổi giữa mao mạch và các khoang
trạng phù cứng. Trái lại khi áp lực gian bào trở nên tiềm tàng của cơ thể : do màng các khoang cho phép
dương thì trạng thái gel này không còn, khi đó dịch tự các ion dễ dàng qua nên ở những khoang gần mao
do có thể tích tụ trong mạch thì luôn có sự trao đổi dịch, ion giữa mao mạch
và khoang.
Hệ thống lympho dẫn lưu protein từ các khoang
về mạch máu
Sự tích tụ dịch trong các khoang được gọi là sự
tràn dịch: khi dịch tích tụ ở khoang phúc mạc thì
được gọi là báng bụng. Một số khoang khác như
khoang màng phổi, màng tim, bao khớp, khi có tình
tràng phù thì sẽ biểu hiện sưng. Khi viêm nhiễm, gây
tắc hệ thống bạch huyết, cũng có thể gây phù các
khoang và lâm sàng biểu hiện sưng.
Áp lực của các khoang trong trạng thái bình thường,
cũng giống như ở mô liên kết lỏng lẻo, là áp lực âm.
Chẳng hạn khoang màng phổi : -7 mmHg, bao khớp -5
mmHg, màng ngoài tim : -6 mmHg.