Professional Documents
Culture Documents
Tổng hợp Luật TMQT
Tổng hợp Luật TMQT
HCM
KHOA KINH TẾ
TIỂU LUẬN
HIỆP ĐỊNH VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
ĐIỂM
ST
Từ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
T
Đầu tư trực tiếp nước
1 FDI Foreign Direct Investment
ngoài
General Agreement Hiệp định chung về
2 GATS
on Trade in Services Thương mại Dịch vụ
Tổ chức Thương mại Thế
3 WTO World Trade Organization
giới
1.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA GATS VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ.......4
2.2.5. Nguyên tắc liên quan đến các quy tắc trong nước..............................................6
CHƯƠNG 3: CÁC PHƯƠNG THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ THEO QUY ĐỊNH
CỦA GATS.......................................................................................................................9
3.5. Sự khác nhau giữa các phương thức cung cấp dịch vụ...........................................10
3.6. Khung pháp lý tại Việt Nam dành cho các phương thức cung ứng dịch vụ............11
1
dịch vụ bằng việc làm thuận lợi hoá hoạt động thương mại, làm thay đổi về điều kiện,
trạng thái của cá nhân hay hàng hóa thuộc sở hữu của bên đó.
Thứ hai, trong thương mại dịch vụ, do dịch vụ không đồng nhất và thường được thay
đổi cho phù hợp với từng khách hàng hoặc từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nên việc duy
trì tính ổn định về chất lượng của việc cung ứng dịch vụ thương mại là khó khăn hơn so
với việc cung cấp hàng hóa. Thước đo để đánh giá chất lượng dịch vụ là mức độ “hài
lòng” của bên nhận cung ứng dịch vụ về quá trình thực hiện công việc của bên cung ứng
dịch vụ.
Thứ ba, khác với thương mại hàng hóa thường có sự tách rời giữa khâu sản xuất và
tiêu thụ, quá trình tạo ra và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời và trực tiếp giữa người
cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Do đặc điểm này nên quá trình cung ứng
dịch vụ đòi hỏi một sự tương tác mạnh mẽ giữa các bên, trong đó bên nhận sử dụng dịch
vụ phải đóng một vai trò tích cực. Sự tương tác này sẽ quyết định chất lượng và hiệu quả
của việc cung ứng và sử dụng dịch vụ.
Thứ tư, việc tiêu dùng dịch vụ không đem lại hiệu quả tức thời cho người sử dụng dịch
vụ mà nó thường đòi hỏi cả một quá trình. Quá trình này đôi khi còn có sự hỗ trợ của các
phương tiện kỹ thuật mà sự thay đổi chúng có thể dẫn đến chi phí rất lớn. Chính vì yếu tố
này nên giữa người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ thương mại thường thiết
lập mối quan hệ kinh doanh lâu dài hơn so với việc cung cấp hàng hóa.
2
cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của nền kinh tế
quốc dân, thu hút đông đảo người tham gia với trình độ cũng rất khác nhau, từ lao động
đơn giản như giúp việc gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du lịch đến lao động chất
xám có trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyên gia giáo dục,… do đó đây là một
lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều công ăn việc làm, rất có ý nghĩa về
kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác dụng trực
tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối với sản xuất và thương mại
hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các ngành
của nền kinh tế quốc dân, do đó tác dụng của thương mại dịch vụ là rất lớn. Người ta tính
rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích của nó còn cao hơn thương mại
hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được khi tự do hóa thương mại hàng hóa
hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp và hàng hóa công nghiệp.
Thứ tư, thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới gắn với từng con người cụ thể,
chịu tác động bởi tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cá tính của người
cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ, điều này khác với thương mại hàng hóa – sản phẩm
là vật vô tri vô giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng không phức tạp như kiểm soát
con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà thương mại dịch vụ phải đối mặt nhiều
hơn với những hàng rào thương mại so với thương mại hàng hóa. Các cuộc thương lượng
để đạt được tự do hóa thương mại dịch vụ thường gặp nhiều khó khăn hơn tự do hóa
thương mại hàng hóa, nó còn phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa
của cả nước cung cấp và nước tiếp nhận dịch vụ đó.
3
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA GATS VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
4
‒ Hạn chế tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng dịch vụ đầu ra tính theo số
lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế.
‒ Hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể
hoặc một nhà cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết hoặc trực tiếp liên
quan tới việc cung cấp một dịch vụ cụ thể dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về
nhu cầu kinh tế.
‒ Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể hoặc liên doanh
thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ.
‒ Hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài bằng việc quy định tỷ lệ phần trăm tối đa
cổ phần của bên nước ngoài hoặc tổng trị giá đầu tư nước ngoài tính đơn hoặc tính
gộp.
‒ Theo hướng dẫn của WTO và thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ GATS
chỉ những biện pháp được áp dụng nằm trong 6 hạn chế này đồng thời không phù hợp
với Biểu cam kết của Thành viên mới bị xem là vi phạm nguyên tắc tiếp cận thị
trường.
5
2.2.3. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cũng được quy định tại Điều XVII nhằm đảm bảo rằng
dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của Thành viên khác có các điều kiện cạnh tranh bình đẳng
với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ trong nước. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia yêu cầu mỗi
Thành viên, liên quan tới tất cả các biện pháp có tác động đến việc cung cấp dịch vụ, phải
dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đối xử
không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp
dịch vụ của mình, trừ các điều kiện và tiêu chuẩn được quy định trong Biểu cam kết của
mình.
Sự đối xử tương tự hoặc khác biệt về hình thức được coi là kém thuận lợi hơn nếu nó
làm thay đổi điều kiện cạnh tranh có lợi cho dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ của Thành
viên đó so với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ Thành viên nào
khác. Các biện pháp được xem xét trong nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ bao gồm những
biện pháp áp dụng đối với những lĩnh vực dịch vụ đã cam kết.
6
2.2.5. Nguyên tắc liên quan đến các quy tắc trong nước
Nguyên tắc liên quan đến các quy tắc trong nước sự cân bằng nhạy cảm giữa tự do hóa
thương mại dịch vụ và việc thực hiện chủ quyền quốc gia của mỗi thành viên WTO. Nếu
như nguyên tắc tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia tập trung vào nội dung của các quy
định cụ thể của pháp luật trong nước thì nguyên tắc liên quan đến quy tắc trong nước điều
chỉnh tập trung hơn vào việc áp dụng và thực thi các quy định. Nguyên tắc liên quan đến
các quy tắc trong nước được ghi nhận tại Điều VI. Theo đó, nguyên tắc này yêu cầu các
Thành viên phải:
‒ Đảm bảo rằng tất cả các biện pháp áp dụng chung tác động đến thương mại dịch vụ
được quản lý một cách hợp lý, khách quan và bình đẳng.
‒ Duy trì hoặc thành lập các tòa án tư pháp, trọng tài hoặc tòa án hành chính hoặc thủ
tục để xem xét nhanh chóng và đưa ra các biện pháp khắc phục đối với các quyết định
hành chính có tác động đến thương mại dịch vụ theo yêu cầu của nhà cung cấp dịch vụ
chịu tác động.
‒ Thông báo cho người nộp đơn về quyết định của mình trong khoảng thời gian hợp lý
sau khi nhận được đơn xin cấp phép được coi là đầy đủ theo quy định của pháp luật
trong nước. Nếu người nộp đơn có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đó
sẽ phải cung cấp không chậm trễ thông tin về hiện trạng của đơn xin phép.
‒ Không được tạo ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại dịch vụ thông qua
các biện pháp liên quan tới yêu cầu chuyên môn, thủ tục, tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu
cầu cấp phép.
‒ Không được áp dụng các yêu cầu về cấp phép và chuyên môn và các tiêu chuẩn kỹ
thuật trong lĩnh vực có cam kết cụ thể làm vô hiệu hoặc giảm bớt mức cam kết đó.
‒ Phải quy định những thủ tục phù hợp để kiểm tra năng lực chuyên môn của người
cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp của các Thành viên khác trong những lĩnh vực có các
cam kết cụ thể liên quan đến dịch vụ nghề nghiệp. Tương tự, quy tắc này cũng chỉ áp
dụng cho những dịch vụ trong Biểu cam kết và đáp ứng được tiêu chuẩn phù hợp.
Như vậy, khi xem xét một biện pháp có ảnh hưởng tiêu cực đến dịch vụ, nhà cung cấp
7
dịch vụ của Thành viên khác, thì biện pháp đó phải được kiểm tra qua năm nguyên tắc cơ
bản trên để kết luận được việc áp dụng biện pháp đó có hay không vi phạm nghĩa vụ cơ
bản của GATS. Thực tiễn cho thấy, tất cả những biện pháp bị tranh chấp được đưa ra đều
do vi phạm ít nhất một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của GATS.
Tuy nhiên, GATS không điều chỉnh mọi biện pháp tác động đến thương mại dịch vụ,
mà chỉ điều chỉnh những biện pháp tác động tới thương mại dịch vụ được áp dụng bởi:
‒ Chính quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương.
‒ Các cơ quan phi chính phủ trong việc thực thi quyền hạn được chính quyền trung
ương, khu vực hoặc địa phương gia cho.
8
CHƯƠNG 3: CÁC PHƯƠNG THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ THEO QUY ĐỊNH
CỦA GATS
Các phương thức cung ứng dịch vụ là một trong những trụ cột của GATS và được
phân biệt phụ thuộc vào quy chế pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ dựa trên sự dịch
chuyển của người tiêu dùng hoặc người cung ứng dịch vụ. Theo đó, trong khoản 2 Điều 1
của Hiệp định, GATS đã đưa ra bốn phương thức cung ứng dịch vụ: Cung ứng dịch vụ
qua biên giới, Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, Hiện diện thương mại và Hiện diện thể
nhân.
9
Có thể lấy ví dụ về Ngân hàng Australia and New Zealand Banking Group Limited
(ANZ) – một trong ba ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép thành lập tại
Việt Nam. Đây chính là việc cung ứng dịch vụ ngân hàng thông qua hiện diện thương
mại.
Trong bốn phương thức trên thì phương thức số 1 – Hiện diện thương mại có vị trí qua
trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại dịch vụ, đây là hình thức họat động thông
qua liên doanh, chi nhánh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài (FDI) để cung cấp dịch vụ
trong nước (ngoại trừ dịch vụ du lịch và vận chuyển), tiếp đến là phương thức số 2 –
Cung ứng dịch vụ qua biên giới. Phương thức số 3 – Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài có vị
trí quan trọng đối với du lịch quốc tế. Phương thức số 4 – Hiện diện thể nhân có tỷ trọng
không đáng kể trong thương mại dịch vụ, nhưng đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam thì có vai trò rất quan trọng trong việc xuất khẩu lao động và thuê chuyên gia
nước ngoài.
3.5. Sự khác nhau giữa các phương thức cung cấp dịch vụ
Một dịch vụ tương tự có thể được cam kết và đối xử khác nhau phụ thuộc vào phương
thức mà nó cung ứng. Có thể thấy trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập
WTO, phương thức Hiện diện thể nhân đều “chưa cam kết, ngoại trừ các cam kết chung”.
Như vậy, cùng cung ứng một loại dịch vụ, nhưng nếu sử dụng phương thức Cung ứng qua
10
biên giới hoặc Tiêu dùng ở nước ngoài, việc cung ứng sẽ rất tự do; còn nếu sử dụng cách
thức cung ứng qua Hiện diện thể nhân, vấn đề có thể sẽ trở nên khó khăn hơn.
Trong thương mại dịch vụ hay thương mại hàng hóa đều cần có sự lưu thông. Nếu
trong thương mại hàng hóa, hàng hóa là đối tượng dịch chuyển, thì đối tượng dịch chuyển
của thương mại dịch vụ lại tùy từng phương thức. Hay nói cách khác, dựa trên đối tượng
dịch chuyển mà GATS đã phân ra bốn phương thức cung ứng dịch vụ.
‒ Trong phương thức số 1 – Cung ứng dịch vụ qua biên giới, đối tượng dịch chuyển ở
đây chính là dịch vụ được cung ứng. Trong ví dụ về E-learning, rõ ràng dịch vụ được
cung cấp là việc giảng dạy đã “chạy” từ nước này qua nước kia thông qua internet.
‒ Ở phương thức số 2 – Tiêu dùng ở nước ngoài, đối tượng dịch chuyển của phương
thức lại là người sử dụng dịch vụ. Với phương thức này, nhà cung cấp dịch vụ chỉ cần
ở nước của họ vì người sử dụng dịch vụ sẽ dùng dịch vụ tại nơi có nhà cung cấp.
‒ Đối với phương thức số 3 – Hiện diện thương mại và phương thức số 4 – Hiện diện
thể nhân, đối tượng dịch chuyển đều là nhà cung ứng dịch vụ. Do đó, để phân biệt hai
phương thức cung ứng này ta có thể dựa trên quy chế pháp lý của nhà cung ứng dịch
vụ: pháp nhân hoặc thể nhân. Như vậy trong phương thức Hiện diện thương mại, nhà
cung ứng dịch vụ là pháp nhân, còn trong phương thức Hiện diện thể nhân, người
cung ứng là thể nhân.
3.6. Khung pháp lý tại Việt Nam dành cho các phương thức cung ứng dịch vụ
Có thể thấy phương thức số 1 và phương thức số 2 đều không bị hạn chế tiếp cận thị
trường hay hạn chế đối xử quốc gia trong biểu cam kết của Việt Nam. Hai phương thức
này, trên thực tế không dễ kiểm soát. Đối với phương thức số 1, đối tượng dịch chuyển là
dịch vụ – một loại hàng hóa vô hình, còn ở phương thức số 2, đối tượng lại là khách hàng,
họ tự do đi lại và sử dụng dịch vụ mà họ muốn. Xét từ góc độ điều chỉnh ở tầm vĩ mô,
hành lang pháp lý dành cho hai phương thức cung ứng dịch vụ này rất thông thoáng. Nhà
cung ứng dịch vụ có thể chọn một trong hai phương thức này để cung ứng dịch vụ của
mình thì có thể không cần dè chừng nhiều như hai phương thức cung ứng số 3 và số 4.
Đối với phương thức Hiện diện thương mại, Việt Nam khi cam kết cũng đã để cho
11
phương thức cung ứng này một khung pháp lý tương đối thoải mái. Chỉ là tương đối thoải
mái, bởi vì khi tham gia cung ứng dịch vụ tại Việt Nam, các pháp nhân nước ngoài cần
phải tránh rất nhiều quy định mà Việt Nam không cho phép, ví dụ như việc thành lập văn
phòng đại diện, trong biểu cam kết của Việt Nam có quy định: “Các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng các văn phòng
đại diện không được tham gia vào các hoạt động sinh lợi trực tiếp”.
Còn với riêng phương thức Hiện diện thể nhân, Việt Nam chưa có cam kết cụ thể, tuy
nhiên có đưa ra một số trường hợp ngoại lệ. Theo đó, các thể nhân được quy định đều
phải có liên quan đến các pháp nhân có sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam
hoặc liên quan đến các tổ chức. Tùy vào từng nhiệm vụ cụ thể của mình, thể nhân đó sẽ
được xem xét về thời hạn lưu trú trên lãnh thổ Việt Nam.
12
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ LĨNH VỰC ĐẶC TRƯNG CỦA WTO
Dịch vụ đượcc Tổ chức Thương mại Thế giới WTO phân loại theo GATS – một hiệp
định đa phương đầu tiên điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ quốc tế hiện nay. Theo
đó dịch vụ được phân vào 12 ngành chính và 155 phân ngành. Cụ thể bao gồm các ngành
và phân ngành như sau:
13
4. Các dịch vụ phân phối
‒ Tất cả các dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo hiểm
‒ Các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (không kể bảo hiểm)
‒ Các dịch vụ tài chính khác
14
9. Các dịch vụ du lịch và lữ hành
‒ Các dịch vụ vận tải đường biển, vận tải đường thuỷ nội địa
‒ Các dịch vụ vận tải đường hàng không, vận tải vũ trụ
‒ Các dịch vụ vận tải đường sắt
‒ Các dịch vụ vận tải đường bộ, vận tải theo đường ống dẫn
‒ Các dịch vụ phụ trợ cho tất cả các loại vận tải
‒ Các dịch vụ vận tải khác
Trong mỗi ngành đều có mục Các dịch vụ khác. Các dịch vụ khác là những dịch vụ có
thể đã hoặc chưa tồn tại và chưa có giá trị thương mại. Có thể thấy rằng, tiến hành liệt kê
tất cả các loại hình dịch vụ có khả năng tham gia vào thương mại quốc tế là điều rất khó
bởi sự đa dạng, phong phú và tính chất phức tạp của dịch vụ. Việc đưa ra các mục nói trên
giúp cho việc sắp xếp, phân loại dịch vụ vào các ngành và phân ngành dược dễ dàng,
đồng thời tạo được tính “mở” cho danh mục phân loại của WTO.
15
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17