You are on page 1of 6

BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ_ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

STT69. Phạm Ngọc Như Ý_ SPTA K42A

Bài làm

Phần 1:

1. C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp cận vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc với tư cách là một bộ
phận chung của cách mạng vô sản, tức là vấn đề lợi ích của giai cấp công nhân gắn với lợi
ích của dân tộc và của cách mạng thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc bị áp bức, xét
đến cùng là việc giải quyết mâu thuẫn của các giai cấp bị áp bức với các giai cấp đi áp
bức, bóc lột.
Đối với Việt Nam, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, đến đầu thế kỷ XX xã hội bị
phân hóa sâu sắc. Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản lần lượt ra đời, các mâu thuẫn của
xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa nửa phong kiến, ngày càng diễn ra gay gắt; trong đó,
chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Sau gần
một thập kỷ khảo nghiệm, tìm kiếm, đến năm 1920 Người đã tiếp cận được chân lý - chủ
nghĩa Mác-Lênin và rút ra kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác cách mạng vô sản, vì “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”

2.B. “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ chí minh vừa là chỉ con người Việt Nam cụ thể vừa
là tập hợp gắn kết đa số người khác nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng, địa vị,...
trong xã hội nhưng thống nhất thành một cộng đồng chung.

3.Theo Đại hội 2021 nêu ra công tác đối ngoại trong những năm tới sẽ diễn ra trong bối cảnh
chiến lược mới. Văn kiện chỉ ra: Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất
nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, cả thách thức và cơ hội đều đan xen, trong đó thách thức
lớn hơn. Những chuyển biến của cục diện thế giới và khu vực tác động nhiều mặt tới Việt
Nam do chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Nhiệm vụ đối ngoại
do đó cũng càng trở nên quan trọng và nặng nề, vừa nhằm thích ứng và ứng phó với bối cảnh
thế giới và khu vực biến động mạnh, vừa phục vụ những mục tiêu phát triển chiến lược của
đất nước giai đoạn tới.

Trong bối cảnh đó, Đại hội đã khẳng định rõ Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng
hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, xuyên
suốt trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới. Độc lập, tự chủ vừa là mục tiêu,
vừa là nền tảng của đối ngoại Việt Nam. Chỉ có độc lập, tự chủ, chúng ta mới có thể hội
nhập quốc tế thành công, phát huy đầy đủ thế mạnh, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, xử
lý được các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong môi trường đầy bất định, khó lường với
nhiều cơ hội và thách thức đan xen như hiện nay.

4.Điều 2, hiến pháp 2013 ghi “ ... tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.Điều này là
vận dụng khía cạnh nhà nước của nhân dân trong tư tưởng hồ chí minh về nhà nước dân chủ.
Vì theo quan điểm nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả mọi quyền lực trong nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân , nhà nước của dân tức là “dân chủ” và nguyên lí
“dân là chủ” là khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền luẹc là nhân dân.

5. Ví dụ nhưng trong tình hình dịch bệnh hoành hành, nhà nước hạn chế các hoạt động trong
xã hội dẫu biết sẽ khiến kinh tế có phần sụt giảm nhưng vì sức khỏe toàn dân và trợ cấp một
số tiền cho số lượng thất nghiệp và ảnh hưởng bởi dịch bệnh dù không nhiều nhưng nhà
nước cx góp phần cùng nhân dân vượt qua khó khăn.

6.Giống nhau ở cả hai quan điểm chữ “ cần” đều là cần cù chăm chỉ siêng năng

Khác: ở nho giáo “ cần” là chú tâm vào làm việc vì chế độ phong kiến mà không có cần biết
hiệu quả ra sao hay có thực sự vì lợi ích của nhân dân không.

Đối với Hồ Chí Minh “ cần “ là siêng năng có kế hoạch sắp xếp chú trọng năng suất vì lợi
ích toàn dân

Tình trạng sinh viên đi chơi hay nghĩ học tới lúc thi thì mất ăn mất ngủ không thuuwjc hiện
chữ “ cần” theo tư tưởng hồ chí minh vì không có kế hoạch vô kỉ luật

Phần 2

Thứ nhất, CNXH vẫn là tương lai của xã hội loài người.

Hiện nay, bàn về tương lai của xã hội loài người, nhiều học giả đã luận giải theo những chiều
cạnh khác nhau, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố chế độ xã hội mà con người hướng tới. Chế độ
xã hội tương lai phải vì con người, vì sự tồn tại và phát triển của thế giới theo hướng tích cực.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nêu rõ: "Chúng ta cần một xã hội mà trong
đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên
phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,
chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã
hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải
cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.
Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong
lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu
dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không
phải chỉ cho một thiểu số giàu có".
Vây chủ nghĩa tư bản (CNTB) hay CNXH đáp ứng được khát vọng, nguyện vọng đó của nhân
loại?

CNTB chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ.
Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít
các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Từ giữa thập kỷ 70 thế kỷ trước, nhất là từ
sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, CNTB thế giới đã ra sức tự điều chỉnh,
thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu (và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng
phát triển). Tuy nhiên, CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của
nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 - 2009 chúng ta đã chứng
kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra
các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà
nước tư sản đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các
tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.
Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị,
kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư
bản chủ nghĩa (TBCN): đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp
gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung
đột giữa các sắc tộc. Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa
hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội. Sự thật cho
thấy, bản thân thị trường tự do của CNTB không thể giúp giải quyết được những khó khăn, trong
nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm
mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những
thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình
phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu
dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội.
Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng TBCN. Các
cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã
hội và môi trường sinh thái của nó. Một bộ phận rất nhỏ dân số nhưng lại chiếm giữ phần lớn của
cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại
chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong
trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản.
Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các
quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, không thực chất. Như vậy, CNTB không phải
là tương lai của xã hội loài người.
Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội TBCN: đời
sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu
- nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.

CNXH sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ lâm vào thoái trào, song có những biến đổi,
đột phá trong giai đoạn hiện nay. Các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn lại đã tiến hành đổi
mới, kiên trì con đường đi lên CNXH với những chủ trương, chính sách rộng mở, phù hợp với xu
thế toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Đời sống của nhân dân ở các
nước XHCN không ngừng được nâng lên, niềm tin vào chế độ được giữ vững, củng cố vững
chắc. Đảng Cộng sản ở mỗi nước luôn được xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao phẩm chất, trình độ
năng lực đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Các nước XHCN cũng tích cực tham gia giải quyết có
hiệu quả các vấn đề mang tính toàn cầu, thể hiện được bản chất ưu việt của chế độ XHCN trong
xây dựng, bảo vệ con người, môi trường sống lành mạnh. Ngay cả các học giả tư sản khi bàn về
tương lai của xã hội loài người cũng khẳng định CNTB không phải là chế độ cuối cùng của lịch
sử. Tuy không trực tiếp khẳng định đó là CNXH, chủ nghĩa cộng sản nhưng những dự đoán, mô
hình, tiêu chí của xã hội hậu tư bản mà họ đưa ra chứa đầy những yếu tố của CNXH, đó là sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, là một xã hội quan tâm đến cuộc sống của con
người, là xu thế sống hài hòa với môi trường sống…. Những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin,
kể cả về mặt khoa học lẫn thực tiễn với lịch sử phát triển của xã hội loài người đều được các
nước nghiên cứu thấu đáo, được trân trọng và khẳng định như những cống hiến vĩ đại với loài
người. Cuộc đấu tranh của người lao động diễn ra rộng khắp để phản đối những khủng hoảng, bất
cập, hệ lụy của CNTB mang lại cho thế giới, cho con người. Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng cũng nhấn mạnh: "Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều
nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế
chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà
phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống
quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư
bản lớn".

Như vậy, tương lai của xã hội loài người không phải là CNTB hay xã hội nào khác mà chính là
CNXH với bản chất tốt đẹp: tất cả vì con người, vì sự phát triển hài hòa giữa con người và môi
trường sống. Việt Nam đi lên CNXH là phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử.

Thứ hai, đi lên CNXH vẫn là ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Ước mơ, khát vọng ngàn đời của người Việt Nam là: Tổ quốc độc lập, hòa bình, thống nhất, phát
triển, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: "nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài,
khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để
bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân
dân", "Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam".

Trong giai đoạn hiện nay, ý chí, khát vọng của người dân Việt Nam vẫn là độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH; bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng, phát triển đất
nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các nước trên thế giới, có vị thế xứng đáng
trên bản đồ thế giới, có trách nhiệm cao trong giải quyết các vấn đề toàn cầu trên tinh thần tôn
trọng, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành
công rất tốt đẹp ở nhiều phương diện, trong đó có sự quan tâm, đóng góp, ủng hộ của toàn xã hội.
Các mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp đến năm 2025, 2030, 2045 mà Văn kiện Đại hội xác định nhận
được sự đánh giá cao và đồng tình của người dân. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại
biểu Hội đồng nhân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 được dư luận đánh giá cao, đặc biệt là sự tham
gia trên 99% của cử tri, có nơi đạt 100% cử tri đi bầu. Các đại biểu trúng cử cơ bản tập trung,
đúng người có tài, có đức, số phiếu tín nhiệm rất cao. Trong cuộc chiến chống "giặc" COVID-19,
cả thế giới đều ghi nhận nước ta là số ít quốc gia kiểm soát và chống dịch hiệu quả nhất, trong đó
có sự ủng hộ, đồng tình tuyệt đối, tham gia của các cấp, các ngành và toàn dân... Thực tế đó đã
chứng minh, người dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới, vào con đường đi lên CNXH- con đường mà Đảng, Bác Hồ, các thế hệ
cha anh đã lựa chọn và đổ biết bao mồ hôi xương máu mới giành được. Đi lên CNXHvẫn là ý
chí, nguyện vọng của người dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, không có tổ chức nào có thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước trong
giai đoạn hiện nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng chỉ có một mục đích: xây dựng nước Việt
Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người,
thực hiện thành công CNXHvà cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Chỉ có Đảng mới có nền tảng tư
tưởng tiến bộ, phù hợp với văn hóa, truyền thống Việt Nam. Chỉ có Đảng mới tuyên truyền, giác
ngộ, tập hợp, phát huy cao nhất lòng yêu nước, trí tuệ, đoàn kết của nhân dân ta trong sự nghiệp
cách mạng. Chỉ có những đảng viên kiên trung mới chịu đựng được mọi gian lao, thử thách, sẵn
sàng hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, vì sự tiến bộ của loài người, trở
thành tấm gương sáng cho nhân dân noi theo. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
đều vì dân, đại diện và hiện thực hóa ý chí, nguyện vọng, khát vọng của nhân dân, làm cho "dân
giàu", dân "thụ hưởng" nhiều hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, với quan điểm xuyên suốt:
"phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và
trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ
phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và
công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều
phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền
vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu
có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa".

Hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên lãnh đạo, điều hành đất nước đều có trình độ cao, có kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Như vậy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ tâm, tầm, tài đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lẫn trong các quan hệ quốc tế. Chỉ có Đảng
lãnh đạo mới làm cho đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam được nhân
loại tiến bộ, ưa chuộng hòa bình trên thế giới biết đến, tôn trọng và yêu quý, ngưỡng mộ.Đảng ta
được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của
giai cấp và cả dân tộc Việt Nam.

You might also like